Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Thái độ của học sinh trung học phổ thông đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 140 trang )

1
ĐA
̣
I HO
̣
C QUÔ
́
C GIA HA
̀

̣
I
TRƢƠ
̀
NG ĐA
̣
I HO
̣
C KHOA HO
̣
C XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ KIM ANH



THÁI ĐỘ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG ĐỐI VỚI PHƢƠNG PHÁP TỔ CHỨC


GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC GIỚI TÍNH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Tâ
m lý học
Mã số : 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Đặng T
hanh Nga
Hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Thanh Nga



Hà Ni – 2015


ĐA
̣
I HO
̣
C QUÔ
́
C GIA HA
̀

̣
I
TRƢƠ
̀
NG ĐA

̣
I HO
̣
C KHOA HO
̣
C XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ KIM ANH


THÁI ĐỘ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG ĐỐI VỚI PHƢƠNG PHÁP TỔ CHỨC
GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC GIỚI TÍNH HIỆN NAY


Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01
Mã số : 61 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Đặng T
hwowhjhjhhhhhhẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Thanh Nga
Người hướng dẫn: PGS.TS. Đặng Thanh Nga



Hà Ni - 2015



LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô
PGS.TS. Đặng Thanh Nga đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết báo
cáo luận văn
Em chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Tâm lý học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã tận tình truyền đạt kiến thức trong
những năm em học tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học là
nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận.
Em chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường trung học phổ thông
Nam Đàn I đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình em thực
hiện luận văn.


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là do tôi thực hiện. Các trích dẫn và tài
liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao trong
độ hiểu biết của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà nội. Ngày tháng năm 2015
Người cam đoan


Nguyễn Thị Kim Anh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÁI ĐỘ CỦA HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG ĐỐI VỚI PHƢƠNG PHÁP TỔ CHỨC GIẢNG
DẠY MÔN GIÁO DỤC GIỚI TÍNH 7
1.1 Tình hình nghiên cứu về thái độ của học sinh trung học phổ thông đối với
phương pháp tổ chức giảng dạy môn học giáo dục giới tính 7
1.1.1. Những nghiên cứu về thái độ 7
1.1.2. Khái quát những nghiên cứu về thái độ của học sinh trung học phổ
thông đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính. 11
1.2. Một số khái niệm cơ bản 13
1.2.1. Khái niệm thái độ 13
1.2.2. Khái niệm học sinh trung học phổ thông 19
1.2.3. Khái niệm giới tính và phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục
giới tính 22
1.2.4. Thái độ của học sinh đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo
dục giới tính. 25
1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của học sinh trung học phổ thông
đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính 29
1.3.1. Các yếu tố chủ quan 29
1.3.2. Các yếu tố khách quan 30
Tiểu kết chƣơng 1 33
Chƣơng 2. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34
2.1. Nghiên cứu lý luận 34
2.1.1. Mục đích nghiên cứu lý luận 34
2.1.2. Nội dung nghiên cứu lý luận 34
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu 35


2.2. Nghiên cứu thực tiễn 35

2.2.1. Giai đoạn thiết kế bảng hỏi 35
2.2.2. Giai đoạn điều tra thử 37
2.2.3. Giai đoạn điều tra chính thức 38
2.2.4. Giai đoạn xử lý kết quả 41
Tiểu kết chương 2 43
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THÁI ĐỘ CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐỐI VỚI PHƢƠNG PHÁP TỔ CHỨC
GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC GIỚI TÍNH 44
3.1. Thái độ của học sinh trung học phổ thông đối với phương pháp tổ chức
giảng dạy môn giáo dục giới tính thể hiện ở mặt nhận thức 44
3.1.1. Nhận thức của học sinh trung học phổ thông đối với kiến thức môn giáo
dục giới tính 44
3.1.2. Nhận thức của học sinh trung học phổ thông đối với phương pháp tổ
chức giảng dạy môn giáo dục giới tính hiện nay 52
3.2. Thái độ của học sinh đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo
dục giới tính biểu hiện ở mặt xúc cảm – tình cảm 55
3.3. Thái độ của học sinh đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo
dục giới tính biểu hiện ở mặt hành vi 59
3.4. Tổng hợp các mặt biểu hiện thái độ của học sinh đối với phương pháp tổ
chức giảng dạy môn giáo dục giới tính. 64
3.5. Một số yếu tố ảnh hưởng tới thái độ của học sinh trung học phổ thông đối
với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính. 65
3.5.1. Sự khác biệt giới tính trong thể hiện thái độ của học sinh trung học phổ
thông đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính. 65
3.5.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của học sinh đối với phương
pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính 67


Tiểu kết chƣơng 3 71
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
PHỤ LỤC 76


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Giáo dục giới tính
GDGT
Trung học phổ thông
THPT
Học sinh
HS
Giáo viên
GV



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Đặc điểm của khách thể nghiên cứu 39
Bảng 2.2. Quy ước tính điểm cho thang đo 39
Bảng 2.3. Cách tính mức độ của thang đo 40
Bảng 3.1. Mức độ nhận thức về nội dung của môn học giáo dục giới tính 47
Bảng 3.2. Vai trò của giáo dục giới tính 49
Bảng 3.3. Mong muốn về hình thức học tập 54
Bảng 3.4. Mức độ biểu hiện tình cảm của học sinh đối với hình thức học tập
những kiến thức về giáo dục giới tính 56
Bảng 3.5. Mức độ hài lòng khi tham gia vào các buổi học giáo dục giới tính 58
Bảng 3.6. Mức độ chủ động của bản thân khi tham gia vào những buổi học về
giáo dục giới tính 60

Bảng 3.7. Mức độ thường xuyên thực hiện các hành động trao đổi với giáo
viên trong các buổi học 62
Bảng 3.8. Tổng hợp thái độ của học sinh đối với phương pháp giảng dạy môn
giáo dục giới tính 64
Bảng 3.9. Sự khác biệt trong thể hiện thái độ giữa học sinh nam và nữ 65
Bảng 3.10. Lý do tham gia vào môn học giáo dục giới tính 67
Bảng 3.11. Các yếu tố ảnh hưởng tới thái độ của học sinh 68


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1: Mức độ cần thiết của việc giáo dục giới tính cho học sinh 44
Biểu đồ 3.2. Các mặt biểu hiện của thái độ 64



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Không chỉ trước đây, mà ngày nay vấn đề học tập ngày càng có vai trò
quan trọng quyết định đến sự phát triển đất nước. Mục đích của giáo dục là
giúp người học tự trang bị cho mình những kiến thức khoa học, kiến thức xã
hội nhằm có những định hướng đúng trong tương lai. Việc hình thành thái độ
cho người học là nhiệm vụ cần thiết trên cả việc cung cấp những tri thức và
rèn luyện các kỹ năng. Bởi thái độ của người học quyết định đến kết quả nhận
thức của người đó về vấn đề mình được đào tạo, được truyền dạy. Có thể thấy
thái độ là nhân tố chủ quan quy định hiệu quả của hoạt động học tập, nó là
mục đích và là điều kiện của hoạt động học tập trên tất cả các môn học, các
lĩnh vực khoa học.
Từ lâu giáo dục giới tính là môn học được quan tâm nhiều ở một số

nước trên thế giới. Chương trình giáo dục giới tính chuyên biệt đã được thực
hiện từ rất sớm ở nhiều quốc gia. Tại các nước như Australia, Mỹ, Anh cha
mẹ có buổi nói chuyện với con về chủ đề này, cởi mở trong quan hệ giao tiếp.
Ngay từ khi còn học tiểu học trẻ đã có những chương trình đề cập đến vấn đề
cơ bản, như quan hệ tình dục, tránh thai, sức khỏe sinh sản, nhu cầu và bản
năng tình dục theo lứa tuổi. Ở Hà Lan, Anh, Mỹ, trẻ em được trang bị khá đầy
đủ về kiến thức có liên quan đến giới tính, tình dục. Gần hơn là Philippines
việc trẻ em biết về cấu tạo cơ thể mình từ lúc mẫu giáo, biết cách ứng xử với
bạn khác giới, biết cả vùng cấm trên cơ thể mà người lạ không được xâm
phạm. Và đương nhiên, chuyện về quan hệ nam nữ cũng được biết từ tiểu học.
[42]
Trong khi đó ở châu Á mọi người vẫn cho rằng giáo dục giới tính là
vấn đề tế nhị và riêng tư. Với văn hóa truyền thống Á Đông, nhiều bậc phụ
huynh khá e ngại khi con hỏi đến giới tính. Nhưng cuộc sống hiện đại,


2
Internet phủ sóng khắp nơi, những đứa trẻ luôn kè kè smartphone thì độ rủi ro
càng cao.
Ở Việt Nam với nhiều dự án VIE, từ những năm 1990 trở lại đây, một
số chương trình giáo dục giới tính dành cho học sinh đã được thử nghiệm.
Thay vì học tiết sinh học như bình thường thì giáo viên có thể lồng ghép để
học sinh hiểu về vấn đề giới tính một cách khoa học, hướng dẫn những biện
pháp bảo vệ sức khỏe cho bản thân để tránh những bệnh lây qua đường tình
dục. Do chưa phải là một môn học chính thức nên phương pháp giảng dạy
môn này vẫn đang còn nhiều bất cập. Chính phương pháp tổ chức giảng dạy
chưa phù hợp, chưa khoa học nên các em học sinh khi tiếp thu kiến thức của
môn học vẫn đang còn mang nhiều thiếu sót. Đó chính là nguyên nhân dẫn
đến nhiều hậu quả đau lòng, đáng tiếc xẩy ra. [42]
Chúng ta đã biết tuổi vị thành niên nói chung, học sinh phổ thông trung

học nói riêng rất cần có nhận thức đúng đắn về giới tính, tình yêu và hơn hết
rất cần được trang bị những kiến thức về giới, tình dục cũng như các biện
pháp tránh thai. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường là sự xuất hiện của nhiều thứ văn hóa phẩm không lành
mạnh có ảnh hưởng rất lớn đến trẻ ở lứa tuổi vị thành niên. Theo số liệu cuộc
tổng điều tra dân số năm 1999 ở nước ta vị thành niên chiếm 22.7% dân số và
hiện nay vấn đề vị thành niên có thai ngoài ý muốn, nạo phá thai, nhiễm
HIV/AIDS và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục ngày càng tăng, đặc
biệt là các vùng đang phát triển và các thành phố lớn.
Tại Việt Nam, tỷ lệ nạo hút thai trong vị thành niên - thanh niên và
nguy cơ lây nhiễm HIV cùng các bệnh lây truyền qua đường tình dục có xu
hướng ngày càng gia tăng. Theo thống kê mới của hội Kế hoạch hóa gia đình
thì Việt Nam là 1 trong 3 nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới. Tỷ lệ
nạo phá thai trung bình ở nước ta: 1,2 – 1,6 ca triệu/năm; là 1 trong 5 nước


3
dẫn đầu thế giới, đáng chú ý là tỷ lệ các ca nạo hút thai ở độ tuổi từ 15- 19,
trong đó 60 - 70% là học sinh, sinh viên. Theo thống kê của bệnh viện Phụ
Sản Trung ương cung cấp, tính trong năm 2009, bệnh viện đã giải quyết 5000
trường hợp thai nhi từ 5 - 12 tuần tuổi bằng phương pháp hút chân không.
Trong đó 28% là số ca bệnh nhân dưới 24 tuổi, bác sĩ cho biết thêm có tới 3%
số ca vị thành niên có tiền sử từ 2 lần. Cũng trong năm 2009, Bệnh Viện Phụ
Sản Hà Nội đã giải quyết 17.241 trường hợp, trong đó có 31, 3% bệnh nhân
dưới 24 tuổi với 5403 ca. Chỉ tính riêng trong 3 tháng đầu năm 2010 ở đây đã
tiến hành thủ thuật cho 60/1730 ca dưới 19 tuổi. Tuy nhiên theo một số bác sĩ
tư vấn và theo dõi, con số này thực tế còn có thể lớn hơn vì các em thường đội
tuổi lên để không phải nhờ người bảo lãnh. Theo số liệu chính thức về điều tra
quốc gia về thanh niên và vị thành niên thì có tới 7,6 % số vị thành niên –
thanh niên có quan hệ tình dục trước hôn nhân. Tuổi quan hệ tình dục trung

bình đầu tiên của thanh niên Việt Nam là 19,6 tuổi và có tới 66,7% con trai
chấp nhận quan hệ tình dục trước hôn nhân. Năm 2009, báo cáo tình hình
nhiễm HIV/AIDS có tới 144.483 người nhiễm HIV. Số người nhiễm HIV chủ
yếu ở 2 thành phố: Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Số tuổi nhiễm
HIV/AIDS ở Hà Nội ngày càng trẻ hóa: 75% tổng số người có tuổi đời dưới
30 tuổi mà con đường lây nhiễm chủ yếu là quan hệ tình dục không an toàn.
Gõ từ khóa “có cần thiết phải giáo dục giới tính cho trẻ” trên trang Google có
đến gần 5,1 triệu kết quả cho thấy sự quan trọng, cấp thiết của giáo dục giới
tính hiện nay. Cũng trên trang này có hơn 8,2 triệu kết quả thể hiện các ý
kiến, góp ý về độ tuổi bắt đầu thực hiện việc giáo dục giới tính.
Rõ ràng giáo dục giới tính là vấn đề đang được quan tâm, và có tầm
quan trọng đối với lứa tuổi học sinh hiện nay. Vì vậy, chúng tôi quyết định
nghiên cứu đề tài: "Thái độ của học sinh trung học phổ thông đối với
phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính hiện nay”.


4
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ các mặt biểu hiện thái độ của học sinh trung học phổ thông đối
với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính. Trên cơ sở đó đề
xuất một số kiến nghị nhằm góp phần giúp cho học sinh hình thành thái độ
tích cực hơn đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính
hiện nay.
3. Đối tƣợng và khách nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thái độ của học sinh trung học phổ thông đối với phương pháp tổ chức
giảng dạy môn giáo dục giới tính.
3.2. Khách thể nghiên cứu
3.2.1. Khách thể chính
50 em điều tra thử.

397 em học sinh điều tra chính thức (Học sinh lớp 10. Học sinh lớp 11
và học sinh lớp 12)
03 em phỏng vấn sâu.
Tổng số khách thể nghiên cứu là: 450 học sinh
3.2.2. Khách thể phụ.
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu được tốt hơn và mang tính khách
quan khoa học hơn, chúng tôi cũng lựa chọn ra nhóm đối tượng khách thể phụ
tiến hành điều tra. Cụ thể là: 10 thầy cô giáo điều tra là các thầy cô giáo làm
công tác quản lý và các thầy cô giáo làm công tác giảng dạy.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Học sinh có thái độ chưa tích cực đối với phương pháp tổ chức giảng
dạy môn giáo dục giới tính hiện nay. Thái độ đối với phương pháp tổ chức
giảng dạy môn học này có sự khác nhau giữa các em học sinh nam và học
sinh nữ.


5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về thái độ của học sinh trung học
phổ thông đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính.
Đồng thời tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng, tác động đến thái độ này của các
em đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính.
Tiến hành khảo sát thực trạng về thái độ của học sinh trung học phổ
thông đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính và các
yếu tố ảnh hưởng tới thái độ đó.
Đề xuất một số kiến nghị nhằm giúp học sinh hình thành thái độ tích
cực hơn đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính.
6. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh THPT trên địa bàn huyện Nam Đàn là đối tượng rất rộng. Do
đó, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này,chúng tôi không thể tiếp cận với

tất cả để điều tra mà chủ yếu điều tra, khảo sát học sinh ở một trường trên địa
bàn huyện Nam Đàn có số lượng học sinh đông nhất. Trường được lựa chọn
để tiến hành nghiên cứu là Trường trung học phổ thông Nam Đàn 1.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu;
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi cá nhân;
- Phương pháp phỏng vấn sâu;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp thống kê toán học.
8. Cấu trúc của luận văn.
- Phần mở đầu: Nêu khái quát các vấn đề chung của đề tài


6
- Chương 1: Cơ sở lý luận về thái độ của học sinh đối với phương pháp tổ
chức giảng dạy môn giáo dục giới tính
- Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tiễn về thái độ của học sinh THPT đối
với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính hiện nay
- Kết luận và kiến nghị


7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÁI ĐỘ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG ĐỐI VỚI PHƢƠNG PHÁP TỔ CHỨC GIẢNG DẠY MÔN
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1.1 Tình hình nghiên cứu về thái đ của học sinh trung học phổ thông đối
với phƣơng pháp tổ chức giảng dạy môn học giáo dục giới tính
1.1.1. Những nghiên cứu về thái độ

1.1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Người đầu tiên nghiêu cứu về thái độ là A.Ph. Lagiurxki (1874 - 1917).
Ông chủ yếu nghiên cứu các khái niệm thái độ chủ quan ở con người với môi
trường. Các khái niệm đó được ông tổng kết trong các tác phẩm của mình
như: Chương trình nghiên cứu nhân cách trong mối quan hệ với môi trường
(1912), Tâm lý học đại cương và thực nghiệm (1912), bút ký khoa học về tính
cách (1916), phân loại nhân cách (1917,1924). Theo ông, đời sống tâm lý
thực của con người được chia làm hai lĩnh vực.
- Thứ nhất là cái tâm lý bên trong: Là cái cơ sở bẩm sinh của nhân
cách, bao gồm khí chất, tính cách và một loạt đặc điểm tâm lý khác.
- Thứ hai là cái tâm lý bên ngoài: Là hệ thống thái độ của nhân cách với
môi trường xung quanh.
Như vậy, theo ông thì thái độ là sự biểu hiện ra bên ngoài của cái tâm
lý, phản ứng với cái tác động của môi trường xung quanh. Ông đặc biệt quan
tâm thái độ của con người đối với lao động, với nghề nghiệp, với sở hữu
người khác và với xã hội [Dẫn theo 5,tr.12].
Vào năm 1964 nhà tâm lý học nhân cách người Mỹ là J.P.Guil Ford đã
đưa ra định nghĩa về thái độ dựa trên quan điểm cho rằng nhân cách bao gồm
bảy khía cạnh tạo nên một cấu trúc độc đáo. Bảy khía cạnh đó là: năng lực,
khí chất, giải phẫu, hình thái, nhu cầu, hứng thú và thái độ. Và ông đã định


8
nghĩa “thái độ là những cử chỉ, phong thái, ý nghĩa liên quan đến những hoàn
cảnh xã hội” [Dẫn theo18,tr.9]
Trước đó, A.Kosakowski và J.Lompcher vào năm 1935 đã đưa ra một
định nghĩa mới về thái độ “thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay tiêu
cực đối với một đối tượng hay một biểu tượng trong môi trường” [Dẫn theo
9,tr.11]
Sau này nhà tâm lý học T.M. Newcom cho rằng: “thái độ chính là một

thiên hướng hành động, tư duy nhận thức, cảm nhận của cá nhân tới một đối
tượng hay sự việc có liên quan” [4.tr,318]
Thuật ngữ Thái độ cũng được các nhà khoa học Liên xô cũ quan tâm
nghiên cứu. Những nghiên cứu về thái độ của Liên xô được bắt đầu từ rất
sớm. Nhà tâm lý học Xô Viết V.N.Miaxiseu (1892 - 1973) nghiên cứu vấn đề
thái độ trên lập trường quan điểm của một nhà tâm lý học hoạt động. Ông đã
xây dựng nên "học thuyết thái độ nhân cách". Đây là học thuyết tổng hợp các
khái niệm về mặt lý luận. Ông cho rằng thái độ mang tính giá trị chủ quan đối
với hiện thực khách quan. Hệ thống thái độ được hình thành theo cơ chế
chuyển dịch "từ ngoài vào trong" thông qua kinh nghiệm tác động qua lại với
người khác trong điều kiện xã hội mà chủ thể đang sống và sinh hoạt. Cũng
theo ông, thái độ nhân cách quyết định đặc điểm cảm xúc, việc tri giác hiện
thực khách quan và cũng như sự phản ứng trong hành vi với những tác động
từ bên ngoài. Miaxisev còn đề cập đến việc phân loại thái độ, theo ông thái độ
bao gồm hai loại: thái độ tích cực và thái độ tiêu cực. Các thái độ này biểu
hiện trong quan hệ với người xung quanh là cơ sở hình thành nên thái độ
tương ứng trong nhân cách con người. V.N.Miaxisev cho rằng tất cả các hoạt
động tâm lý hiểu theo nghĩa rộng có thể xem như một dạng nào đó của thái
độ, việc mở rộng quan niệm như vậy là thiếu cơ sở khoa học. Nhưng có thể


9
khẳng định học thuyết thái độ nhân cách có những đóng góp lớn làm cơ sở
cho việc nghiên cứu thái độ theo quan điểm hoạt động [Dẫn theo 21,tr10]
Trong những năm cuối thế kỷ XX nhà tâm lý học người Nga
B.Ph.Lomov cũng đã để cập đến khái niệm thái độ chủ quan của nhân cách.
Tác giả cho rằng, khái niệm "tâm thế " "ý thức cá nhân" là những khái niệm
có liên quan và cùng loại với nhau, nó phản ánh những khía cạnh khác nhau
của thái độ. Ông còn khẳng đính tính nhiều chiều, nhiều tầng và cơ động của
thái độ chủ quan trong một hệ thống phức tạp được gọi là "không gian chủ

quan đa chiều", trong đó mỗi chiều đó không gian tương ứng với một thái độ
chủ quan cụ thể. Cũng theo ông, phương thức hình thành thái độ chủ quan
thông qua giao tiếp, ông cho rằng cũng có thể xẩy ra mâu thuẫn giữa giao tiếp
và hoạt động. Nhưng chính việc giải quyết mâu thuẫn này bảo đảm cho cá
nhân chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác của cuộc sống. Trên cơ sở
những đề xuất, quan điểm nghiên cứu nhân cách, trong đó có thái độ chủ quan
của cá nhân, B.Ph.Lomov đã vạch ra cơ sở khoa học, phương pháp luận cho
việc nghiên cứu thái độ.
Khái niệm thái độ lần đầu tiên được đặt ra trong tâm lý học phương Tây
bởi W.I. Thomas và F.Znaniecki vào năm 1918 và từ đó thái độ được đặt vào
trọng tâm của các nhà khoa học. Ở đây, vấn đề nghiên cứu khái niệm thái độ
được diễn ra với các thời kỳ nhất định. Thời kỳ đầu tiên keo dài từ năm 1918
đến chiến tranh thế giới thứ 2: trong thời kỳ này, hai tác già là W.I.Thomas và
F.Znaniecki đã khởi đầu cho việc nghiên cứu thái độ của những người dân Ba
Lan khi họ đi di cư sang Mỹ. Biểu hiện ở sự thích nghi của họ với môi trường
mới. Tuy nhiên, trong giai đoạn này các công trình nghiên cứu chủ yếu tập
trung vào việc nghiên cứu định nghĩa, cấu trúc chức năng của thái độ cũng
như nghiên cứu mối quan hệ của nó với hành vi. Đáng kể nhất của thời kỳ này
là công trình nghiên cứu thực nghiệm phát hiện ra "nghịch lý La Pier " biểu


10
thị sự không nhất quán giữa nhận thức và hành vi. Thời kỳ thứ hai kéo dài
suốt từ chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối những năm 1950. Khác với thời
kỳ trước đó, ở thời kỳ này các nhà khoa học tập trung chủ yếu vào việc
nghiên cứu tìm hiểu, lý giải những hoài nghi về vai trò của thái độ trong việc
chi phối hành vi (Các tác giả đáng lưu tâm trong thời kỳ này đó là H.
Trianodis, J.Traver, H.Fillmore…). Trong thời kỳ này, do điều kiện chiến
tranh cùng vời việc bế tắc trong công việc lý giải các nghịch lý này sinh trong
quá trình nghiên cứu mà các công trình nghiên cứu trở trên giảm sút. Một số

tác giả nổi lên trong thời kỳ này đáng để lưu tâm là Likerk, Sank, G.Allport,
J.Bruner…[Dẫn theo 22,tr.9].
Thời kỳ tiếp theo là từ cuối những năm 1950 đến nay. Có thể nói rằng
đây là thời kỳ bùng nổ về nghiên cứu thái độ ở các nước Phương Tây. Vấn đề
thái độ có vị trí xứng đáng trong tâm lý học xã hội. Cũng như ở những thời kỳ
trước, khi nghiên cứu vấn đề thái độ trong thời kỳ này chủ yếu tập trung vào
nghiêu cứu định nghĩa thái độ, cấu trúc và chức năng của nó. Tuy nhiên các
nhà khoa học đã có những bước tiến mới hơn và tiến bộ hơn khi nghiên cứu
chúng. Nhiều học thuyết mới được hình thành trong thời kỳ này nhằm phục
vụ cho việc lý giải các mối quan hệ như học thuyết "tự thể hiện mình (Parye
Beny)", học thuyết bất đồng nhận thức giữa thái độ và hành vi (Leon
Festinger)…. Một điểm chung trong việc nghiên cứu thái độ ở phương Tây là
nhằm giải quyết những vấn đề trong thực tiễn cuộc sống như tiếp thị, tuyên
truyền, vận động tranh cử, bảo vệ môi trường…Tuy là có bước tiến mới song
các nhà khoa học phương tây vẫn vấp phải những khó khăn nhất định.
Như vậy, có thể thấy rằng khi định nghĩa về thái độ cần phải chọn tiêu
chí chức năng làm điểm tựa. Trong tâm lý học Macxit thì có thể thấy chức
năng của thái độ thể hiện trong hoạt động hợp tác. Trong tâm lý học xã hội
Mỹ thì một số tác giả đề cập đến khía cạnh nhận thức. Những quan điểm về


11
thái độ của các nước có sự ảnh hưởng nhất định đến các trường phái quan
niệm về thái độ ở Việt Nam.
1.1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề thái độ cũng được quan tâm nghiên cứu nhiều. Hầu
hết các quan điểm của các nhà tâm lý học Việt Nam đều xuất phát trên quan
điểm tâm lý học hoạt động. Vấn đề thái độ cũng không là ngoại lệ. Vấn đề
này nghiên cứu về thái độ chủ yếu là khái quát, tổng hợp lại những vấn đề lý
luận, về thái độ như định nghĩa, cấu trúc, đặc điểm của thái độ.

Các tác giả lớn chúng ta có thể đề cập đến như là Phạm Minh Hạc, Trần
Trọng Thuỷ, Trần Hiệp…. Theo tác giả Phạm Minh Hạc “thái độ là một trong
những biểu hiện của động cơ học tập, là mục đích hàng đầu của hoạt động dạy
học bên cạnh việc cung cấp tri thức, rèn luyện kỹ năng kỹ xảo” [4,tr.29].
Cũng có quan niệm cho rằng “thái độ là một bộ phận cấu thành, đồng thời là
một thuộc tính cơ bản của ý thức”. [4.tr,894]. Một quan niệm khác lại cho
rằng “thái độ xét về mặt cấu trúc nó bao hàm cả mặt nhận thức, mặc xúc cảm
và hành vi” [23]
Trong những năm gần đây, nhiều luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ và
các khoá luận tốt nghiệp tâm lý học đã chú trọng nhiều đến việc nghiên cứu
thái độ trên nhiều lĩnh vực nhiều đối tượng và nhiều khía cạnh khác nhau.
Bước đầu cũng góp phần vào việc phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2. Khái quát những nghiên cứu về thái độ của học sinh trung học phổ
thông đối với phương pháp tổ chức giảng dạy môn giáo dục giới tính.
Với chủ đề liên quan đến giáo dục giới tính, chúng tôi đã tìm hiểu và
cũng có khá nhiều các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này.
Tác giả Nguyễn Phương Lan với công trình: Trở ngại tâm lý trong thái
độ của học sinh trung học cơ sở đối với môn học giáo dục giới tính [10].


12
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành điều tra và đưa
ra được những kết luận mang tính lý luận về vấn đề như sau; “ học sinh có
nhu cầu tìm hiều các nội dung chương trình giáo dục giới tính và có thái độ
tán thành. Song việc giáo dục giới tính lại vấp phải trở ngại tâm lý ở mức cao
hơn trong việc biểu hiện tâm trạng, xúc cảm của các em liên quan đến vấn đề
tiếp cận kiến thức môn học này” [10.tr,96]. Đồng thời tác giả cũng nhận định
“mặc dù các em thấy việc đưa môn học GDGT vào chương trình giáo dục
đem lại những lợi ích thiết thực. Song tâm lý suy nghĩ của các em vẫn lấn cấn
e ngại dư luận xã hội bình phẩm, đánh giá không hay nếu như các em chủ

động công khai tiếp cận kiến thức môn học”. Cũng trong công trình nghiên
cứu này, tác giả Nguyễn Phương Lan đã cho rằng: “ các yếu tố như gia đình,
bạn bè người thân đã làm tăng đi sự khác biệt trong việc các em thể hiện thái
độ của mình trong việc tiếp cận kiến thức về GDGT” và theo tác giả thì “đổi
mới quan trọng nhất trong việc giáo dục cho trẻ là cha mẹ, và người thân. Thế
nhưng thực tế phần lớn các bậc cha mẹ không hẳn ai cũng hiểu biết đầy đủ về
khoa học giới tính…. Không phải bậc phụ huynh nào cũng đủ bản lĩnh để có
được cách truyền đạt những kiến thức này đến con cái của mình”. Với công
trình nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra được những mặt mạnh, mặt
yếu của việc các em học sinh tiếp cận khoa học về giáo dục giới tính, những
hạn chế tâm lý và cũng đưa ra được những khuyến nghị mang tính chất khoa
học đề góp phần làm tăng hiệu quả nhận thức cho các em. Song trong công
trình nghiên cứu này mới chỉ ra được những rào cản tâm lý về phía gia đình
chứ chưa nêu ra được những rào cản tâm lý đến từ nhà trường, đặc biệt là các
thầy cô giáo. Chẳng hạn như thái độ của các giáo viên khi giảng dạy môn này
như thế nào, cách thức truyền đạt ra sao…đó cũng là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến chất lượng tiếp thu kiến thức của các em.


13
Ngoài ra còn có các nghiên cứu của một số nhóm tác giả như; Hành vi
tình dục và kiến thức tình dục của học sinh trung học phổ thông trên địa bàn
Hà Nội hiện nay của tác giả Nguyễn Thanh Vân [28]. Hay công trình: Nhu
cầu được giáo dục Sức khỏe sinh sản của học sinh trung học phổ thông của
tác giả Nguyễn Hà Thành [14].
Ngoài ra còn có hàng loạt luận văn, luận án tâm lý học, các đề tài
nghiên cứu khoa học khác đi nghiên cứu khai thác về mảng thái độ của học
sinh đối với vấn đề giáo dục giới tính, tình dục như ; Tình ái trong các cộng
đồng, các tôn giáo và các nền văn hóa của tác giả Phù Khải Hùng [8]; Nhận
thức về tình dục an toàn của sinh viên Đại học Đồng tháp của tác giả Trần

Kim Ngọc [19].
Tóm lại, các tác giả nghiên cứu đã góp phần đáng kể cho mảng đề tài
thái độ nói chung và cũng như sự phong phú về đối tượng nghiên cứu. Tuy
nghiên, phần lớn các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu nhỏ,
tính ứng dụng chưa cao và tập trung chủ yếu vào nhận thức của học sinh trung
học phổ thông đối với các vấn đề liên quan đến tình dục, tình dục an toàn. Mà
những vấn đề đó chỉ là một phần nhỏ trong vấn đề của giáo dục giới tính.
1.2. Mt số khái niệm cơ bản
1.2.1.Thái độ
1.2.1.1. Khái niệm thái độ
Mỗi cá nhân khác nhau có những cách nhìn nhận khác nhau về cuộc
sống, từ đó cũng hình thành những thái độ khác nhau đối với các mặt của
cuộc sống. Thái độ là trạng thái tâm lý chủ quan của cá nhân, sẵn sàng phản
ứng theo một khuynh hướng nhất định đối với đối tượng nào đó, được thể
hiện thông qua nhận thức, xúc cảm - tình cảm và hành vi của chủ thể trong
những tính huống, điểu kiện cụ thể.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau khi bàn về thái độ.


14
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ Tâm lý học do tác giả Vũ Dũng chủ biên
lại có cánh nhìn nhận thái độ như sau: "Thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt
tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, có tác dụng điều
chỉnh hoặc có ảnh hưởng một cách linh hoạt đến phản ứng của một cá nhân
với tất cả các khách thể và tính huống nó có mối liên hệ" [1,tr.1035]. Thái độ
có ba thành tố là nhận thức, cảm xúc và hành vi. Chúng kết hợp lại để truyền
tải một phản ứng tích cực, tiêu cực hay tập trung. Thái độ là một sản phẩm
phức tạp của quá trình học tập, lĩnh hội, trải nghiệm, cảm xúc bao gồm cả
những hứng thú, ác cảm, thành kiến, mê tín, quan điểm khoa học và tôn giáo
cũng như chính trị [1,tr.528].

Còn trong cuốn Từ điển Tiếng Việt thái độ được định nghĩa như sau:
"Cách nhìn nhận, hành động của cá nhân về một hướng nào đó về một vấn đề,
một tính huống cần giải quyết. Đó là tổng thể biểu hiện bên ngoài của ý nghĩa,
tình cảm của cá nhân đối với con người hay một sự việc nào đó". [10,tr.894]
"Thái độ là trạng thái của hệ thần kinh, là sự sẵn sàng phản ứng, là một
trạng thái tổ chức, được hình thành trên quan niệm quá khứ và nó điều khiển
cũng như ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân". [Dẫn theo 16,tr.16]
Trong Từ điển Tâm lý học do tác giả Nguyễn Khắc Viện định nghĩa:
“Thái độ là những phản ứng tức thì tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình
hay chống đối như đã tri giác về đối tượng cũng như tri thức bị chi phối về
vấn đề thì thái độ gắn liền với tâm thế” [Dẫn theo 18,tr.278]
Năm 1971 nhà tâm lý học người Mỹ H.C Triandis đã đưa ra một định
nghĩa khác về thái độ. Ông cho rằng "thái độ là tư tưởng được tạo ra từ xúc
cảm, tình cảm. Nó tạo ra hành vi nhất định. Thái độ của con người bao gồm
những điều mà họ cảm thấy và suy nghĩ về đối tượng, cũng như cách sử dụng
của họ đối với đối tượng đó." [Dẫn theo 21].


15
Trong khi đó Marten lại đưa ra một định nghĩa khác về thái độ như sau:
"Thái độ là xu hướng thường xuyên đối với các tính huống xã hội, nó biểu
hiện sự thống nhất của ý nghĩ, xúc cảm và hành vi. Thái độ của con người có
mối quan hệ trực tiếp với hành vi bởi thái độ được xác định bởi tính thống
nhất bên trong hành vi đó.
Như vậy, có thể thấy rằng khái niệm thái độ được rất nhiều nhà khoa
học quan tâm. Song mỗi quan điểm, mỗi khái niệm có những sắc thái khác
nhau mang màu sắc của xu hướng mà nhà khoa học đó theo đuổi. Tuy nhiên,
nhìn chung vẫn có những nét chung giữa những khái niệm này về thái độ đó
là tất cả ít nhiều đều nhận ra rằng thái độ là một thuộc tính trọn vẹn của ý
thức, quy định tính sẵn sàng hành động của con người, đối với đối tượng theo

một tình huống nhất định. Thái độ được bộc lộ ra bên ngoài thông qua hành
vi, cử chỉ, nét mặt và lời nói của người đó trong những tính huống, điều kiện
cụ thể.
Dựa trên sự tổng kết và phân tích về các định nghĩa về thái độ, chúng
tôi thấy các quan điểm đều có những điểm cơ bản: thái độ là cấu tạo tâm lý
chủ quan, bên trong của nhân cách. Khi nghiên cứu về thái độ phải xem xét
thái độ trong mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội và phải dựa vào các thành
phần cơ bản là nhận thức, cảm xúc, hành vi. Cũng xuất phát từ các quan điểm
trên, chúng tôi xin rút ra khái niệm thái độ làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề
tài như sau:
Thái độ là trạng thái tinh thần có tính đặc trưng của con người, đó là
sự sẵn sàng trong phản ứng về một đối tượng nào đó liên quan đến chủ thể và
được chủ thể đánh giá dựa trên kinh nghiệm, vốn hiểu biết của con người. Nó
được hình thành trong hoạt động, giao tiếp và giữ vai trò định hướng hành vi
của con người.
1.2.1.2.Đặc điểm của thái độ.

×