Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn – Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 43 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm trở lại đây, đất nước ta đã chứng kiến sự trở mình mạnh mẽ
của nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự gia tăng không ngừng cả số lượng
và chất lượng đã khẳng định những đóng góp quan trọng của những doanh
nghiệp này vào sự phát triển của đất nước.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ có nhu cầu rất lớn về vốn để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh hay đơn giản là để trả lương hay xoay vòng vốn trả tiền
hàng.Chính vì vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn được coi là đối tượng
khách hàng tiềm năng của các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương
mại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy quá trình tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân
hàng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như hiệu quả sử dụng vốn còn
nhiều khó khăn. Và từ chính các ngân hàng thương mại, họ cũng gặp phải
những hạn chế trong quá trình tìm khách hàng và nâng cao hiệu quả tín dụng
đối với nhóm khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhận thấy tầm quan trọng và tiềm năng lớn từ đối tượng khách hàng là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn – Hà
Nội luôn chú trọng việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đến nhóm
khách hàng này. Song bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận thì chất lượng
tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn – Hà Nội vẫn còn
những mặt hạn chế, cần có những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện.
Sau quá trình hơn 2 tháng thực tập tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Sài Gòn – Hà Nội, qua việc tìm hiểu và nghiên cứu thực tế công việc tại Ngân
hàng, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Sài Gòn – Hà Nội” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nội dung chuyên đề bao gồm:


Chương I : Những vấn đề lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng
Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
Trong quá trình thực hiện chuyên đề tốt nghiệp, tôi đã được sự hướng
dẫn nhiệt tình của cô giáo ThS. Nguyễn Thị Hoài Phương, cũng như các anh
chị Phòng cán bộ Phòng Chính sách và Phát triển thị trường doanh nghiệp
Ngân hàng Thương mại Cổ Phần Sài Gòn – Hà Nội đã tạo mọi điều kiện để
em hoàn thành tốt chuyên đề này. Qua đây em xin chân thành cảm ơn cô giáo
và các anh chị!
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
1.1 Tổng quan về tín dụng và hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương
mại
1.1.1 Tín dụng
1.1.1.1 Khái niệm
Lịch sử phát triển cho thấy tín dụng là một sản phẩm của quá trình sản
xuất và lưu thông hàng hóa, nó tồn tại song song với nền kinh tế hàng hóa và
nó chính là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển lên
những giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế - xã
hội, đã có nhiều khái niệm khác nhau về tín dụng được đưa ra, song khái quát
lại có thể hiểu tín dụng theo khái niệm cơ bản sau:
“ Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa
hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao một lượng giá trị sang cho bên kia
được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận phải cam kết

hoàn trả theo thời hạn đã thỏa thuận.”
Mối quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất
định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như:
hàng hóa, máy móc, thiết bị, bất động sản.
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định,
sau khi hết thời hạn sử dụng theo thỏa thuận, người đi vay phải hoàn trả cho
người vay.
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc vay ban đầu hay nói
cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi vay.
Tóm lại, tín dụng là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ sử dụng vốn
lẫn nhau giữa các chủ thể trong nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn
lẫn lãi.
1.1.1.2 Đặc trưng và bản chất của tín dụng
Có thể nhận thấy về thực chất, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa
người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự
vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và
hàng hóa từ người cho vay chuyển sang người đi vay và sau một thời gian
nhất định quay về với người cho vay với lượng giá trị lớn hơn ban đầu. Tín
dụng được cấu thành nên từ sự kết hợp của ba yếu tố chính là: lòng tin, thời
hạn của quan hệ tín dụng và sự hứa hẹn hoàn trả. Và do đó, phạm trù tín dụng
có những đặc trưng cơ bản sau đây:
• Tín dụng là có lòng tin: Bản thân từ tín dụng xuất phát từ tiếng La-tin
“Creditum” có nghĩa là “Sự giáo phó” hay “Sự tín nhiệm”. Nghiên cứu khái
niệm tín dụng cũng cho ta thấy tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn sẽ hoàn trả.
Sự hứa hẹn biểu hiện “lòng tin” của người cho vay vào người đi vay. Yếu tố
lòng tin tuy vô hình nhưng không thể thiếu trong quan hệ tín dụng, đây là yếu

tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng
phát sinh.
Trong quan hệ tín dụng “lòng tin” được biểu hiện từ hai phía. Người cho
vay phải tin tưởng vào khả năng hoàn trả của người đi vay và người vay cũng
tin tưởng vào khả năng đáp ứng khối lượn tín dụng và thời hạn vay của người
cho vay như vậy thì một quan hệ tín dụng mới có điều kiện để phát sinh. Tuy
nhiên, trong quan hệ tín dụng, thì lòng tin của người cho vay đối với người đi
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vay quan trọng hơn nhiều bởi lẽ người cho vay là người giao phó tiền bạc
hoặc tài sản của họ cho người khác sử dụng.
• Tín dụng là có tính thời hạn: Khác với các quan hệ mua bán thông
thường khác – sau khi trả tiền người mua trở thành chủ sở hữu của hàng hóa
đó hay còn gọi là “Mua đứt bán đoạn” – quan hệ tín dụng chỉ trao đổi quyền
sử dụng giá trị khoản vay chứ không trao đổi quyền sở hữu khoản vay. Người
cho vay giao giá trị khoản vay dưới dạng hàng hóa hay tiền tệ cho người kia
sử dụng trong một thời gian nhất định. Sau khi khai thác giá trị sử dụng của
khoản vay trong thời hạn cam kết người đi vay phải hoàn trả toàn bộ giá trị
khoản vay cộng thêm khoản lãi vay hợp lý như đã cam kết với người cho vay.
Mọi khoản vay dưới dạng hiện vật hay tiền tệ cũng đều là hàng hóa và vì
thế nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Trong kinh doanh tín dụng người cho
vay chỉ bán “giá trị sử dụng của khoản vay” chứ không bán “giá trị của khoản
vay” nên sau khi hết thời hạn sử dụng theo cam kết khoản vay đó được hoàn
trả về và vẫn giữ nguyên giá trị của nó, phần lãi vay theo thỏa thuận nếu có là
“giá bán” giá trị sử dụng của khoản vay trong thời gian nhất định. Như vậy,
khối lượng hàng hóa hay tiền tệ (phần gốc) cho vay ban đầu chỉ là vật chuyên
trở giá trị sử dụng của chúng, nó được phát ra qua các thời gian nhất định rồi
sau đó thu về chứ không được “bán đứt”.
• Tín dụng là có tính hoàn trả: Đây là đặc trưng thuộc về bản chất vận

động của tín dụng và là dấu ấn để phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm
trù kinh tế khác. Sau khi kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng, hoàn
thành một chu kỳ sản xuất trở về trạng thái tiền tệ, vốn tín dụng được người đi
vay trả cho người cho vay kèm theo một phần lãi vay như đã thỏa thuận.
Một mối quan hệ tín dụng được gọi là hoàn hảo nếu được thực hiện với
đầy đủ các đặc trưng trên, nghĩa là người đi vay hoàn trả được đầy đủ gốc và
lãi đúng thời hạn.
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.1.3 Các loại hình tín dụng trong lịch sử
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa, tín dụng ngày càng
phát triển cả về nội dung lẫn hình thức. Các quan hệ tín dụng ngày càng được
mở rộng hơn, ban đầu là quan hệ giữa các cá nhân với nhau, sau đó là giữa cá
nhân với tổ chức, tổ chức với tổ chức, quan hệ với nhà nước và cao nhất là tín
dụng quốc tế. Trong quá trình phát triển lâu dài đó quan hệ tín dụng đã hình
thành và phát triển qua các hình thức sau:
• Tín dụng nặng lãi: Loại hình này khi xuất hiện khi có sự phân chia
giai cấp dẫn đến kẻ giàu, người nghèo. Đặc điểm nổi bật của tín dụng này là
lãi suất cho vay rất cao. Chính vì vậy, tiền vay chỉ được sử dụng vào mục đích
tiêu dùng cấp bách, hoàn toàn không mang mục đích sản xuất nên đã làm
giảm sức sản xuất xã hội. Một cách công bằng mà nói, tín dụng nặng lãi đã
góp phần quan trọng trong việc làm tan rã kinh tế tự nhiên, mở rộng quan hệ
hàng hóa tiền tệ, tạo tiền đề cho chủ nghĩa tư bản ra đời.
• Tín dụng thương mại: Đây là hình thức giữa các nhà sản xuất kinh
doanh với nhau. Công cụ của hình thức tín dụng này là các thương phiếu
thương mại (bao gồm kỳ phiếu và hối phiếu thương mại). Tín dụng thương
mại có đặc điểm là đối tượng cho vay là hàng hóa vì hình thức tín dụng được
dựa trên cơ sở mua bán chịu hàng hóa giữa các nhà sản xuất với nhau. Qui mô
tín dụng do đó bị hạn chế bởi nguồn vốn cho vay là của từng chủ thể sản xuất

kinh doanh.
• Tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng (TDNH) là hính thức phản
ánh quan hệ vay và trả nợ giữa một bên là các ngân hàng, các tổ chức tín dụng
và một bên là các cá nhân hay tổ chức có nhu cầu về vốn. Hình thức TDNH
thể hiện rõ ưu thế của mình so với hai hình thức tín dụng kể trên ở chỗ đây là
hình thức tín dụng rất linh hoạt vì đối tượng cho vay mượn chủ yếu là tiền tệ
và khối lượng mà ngân hàng có thể cho vay là tương đối lớn vì ngân hàng có
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thể huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế, do đó TDNH thỏa mãn được nhu
cầu từ khách hàng cá nhân vay để chi tiêu trong gia đình đến khách hàng tổ
chức vay để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, phục vụ cho phát triển
kinh tế-xã hội. TDNH là hình thức tín dụng chủ yếu của nền kinh tế thị
trường, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế linh hoạt, kịp thời, khắc
phục được nhược điểm của các hình thức tín dụng khác trong lịch sử.
1.1.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1.2.1 Khái niệm tín dụng NHTM
“Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán” – Theo Pháp lệnh của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
ban hành ngày 24/05/1990. Như vậy, NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền
tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong
nền kinh tế để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác.
Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM:
- Nghiệp vụ huy động vốn
- Nghiệp vụ sử dụng vốn
+ Nghiệp vụ ngân quỹ
+ Nghiệp vụ tín dụng

+ Nghiệp vụ đầu tư
- Nghiệp vụ trung gian
Nhìn từ phía NHTM thì phạm trù tín dụng NHTM chính là hai trong ba
nghiệp vụ cơ bản của một NHTM. “Tín dụng NHTM là quan hệ tín dụng bằng
tiền tệ mà một bên là NHTM – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ với một bên là các tổ chức hay cá nhân trong xã hội, trong đó ngân
hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay”.
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Với tư cách là người đi vay: NHTM huy động mọi nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các
tổ chức cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn
trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay: NHTM đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu về vốn cần được bổ sung trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, NHTM đã thực hiện
chức năng phân phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn
đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt, đầy đủ và kịp
thời.
Trong khuôn khổ của chuyên đề, chúng ta sẽ quan tâm tới phạm trù tín
dụng NHTM dưới góc độ NHTM là người cho vay, tức là “Tín dụng NHTM
là hoạt động theo đó NHTM giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng
vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả
gốc và lãi”. Nói cách khác chúng ta đi nghiên cứu hoạt động cho vay của
NHTM – Đây là hoạt động quan trọng và có quy mô lớn nhất trong toàn bộ
hoạt động của NHTM. Phần lớn vốn huy động được ngân hàng dùng để cho
vay và thu nhập từ hoạt động cho vay đóng góp lớn và lợi nhuận của NHTM.
1.1.2.2 Các hình thức tín dụng NHTM

Ở Việt Nam hiện nay, căn cứ theo quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1
của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ngày 30/09/1998 về
việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng,
NHTM có thể có các hình thức tín dụng sau:

Cho vay từng lần: Là hình thức cho vay khá phổ biến của NHTM đối
với khách hàng không có nhu cầu vốn thường xuyên hoặc ngân hàng muốn
kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay chặt chẽ hơn. Đối với hình thức này
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khách hàng phải tiến hành đủ các thủ tục cần thiết và ký kết hợp đồng tín
dụng mỗi lần vay vốn. Khi có nhu cầu, khách hàng đến ngân hàng xin vay
một khoản tiền cho mục đích sử dụng của mình như thanh toán tiền hàng,
nguyên vật liệu cũng như các chi phí sản xuất kinh doanh khác.
Số tiền cho vay của ngân hàng được xác định dựa trên nhu cầu vay vốn
của khách hàng, tài sản đảm bảo và khả năng hoàn trả của khách hàng cũng
như khả năng nguồn vốn của ngân hàng. Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ
được xác định tùy thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá
trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu
quả sử dụng vốn vay của khách hàng, nếu thấy dấu hiệu vi phạm hợp đồng,
ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn.

Cho vay theo hạn mức: Là hình thức cho vay mà ngân hàng và khách
hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng được duy trì trong một
khoảng thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa được duy
trì trong một khoảng thời gian nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa
thuận trong hợp đồng tín dụng. Khách hàng được rút vốn trong phạm vi hạn
mức tín dụng cho phép căn cứ vào nhu cầu vốn của phương án kinh doanh và

chỉ phải xuất trình những thủ tục đơn giản, tạo thuận lợi cho khách hàng.
Hình thức tín dụng này thường được áp dụng cho các khách hàng có nhu
cầu vay vốn – trả nợ thường xuyên, vốn vay tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh ổn định, có uy tín trong quan hệ kinh doanh với ngân hàng. Hạn
mức tín dụng được xác định trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh và nhu
cầu vốn vay của khách hàng.

Cho vay thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng
cho phép người vay được chi trội trên số tiền gửi thanh toán của mình đến
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được
gọi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần
lớn là không có tài sản đảm bảo. Hình thức này có thể cấp cho cả khách hàng
cá nhân và khách hàng doanh nghiệp vài ngày trong tháng, vài tháng trong
năm dùng để chi trả lương, trả các khoản phải nộp, mua hàng … Đối tượng áp
dụng hình thức cho vay này thường là những khách hàng có độ tin cậy cao,
thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.

Cho vay theo dự án: Khách hàng xin vay vốn để thực hiện dự án đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời
sống. Ngân hàng cho vay theo hình thức này trong trường hợp vay vốn trung
và dài hạn.

Cho vay hỗn hợp: Là phương án cho vay khi mà lượng vốn vay của
khách hàng là quá lớn, khi đó một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn
xếp phối hợp các tổ chức tín dụng khác cùng cho khách hàng này vay vốn.
Hình thức này giúp cho ngân hàng giảm thiểu được rủi ro, đồng thời bổ sung

kinh nghiệm, kiến thức cho nhau.

Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Ngân hàng đảm bảo sẵn
sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi tín dụng nhất định để đầu tư cho
dự án. Theo hình thức này, căn cứ vào nhu cầu của khách hàng, ngân hàng và
khách hàng thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng – Hợp đồng tín dụng dự
phòng về số vốn mà ngân hàng cam kết cho vay. Trong thời gian hiệu lực của
hợp đồng, nếu khách hàng không sử dụng hoặc không sử dụng hết hạn mức,
khách hàng phải trả phí cam kết đã thỏa thuận. Khi khách hàng vay chính
thức, phần vốn vay được tính theo lãi suất tiền vay hiện hàng.

Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ: Ngân hàng
cho phép khách hàng trong phạm vi thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ tại
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
các cơ sở bán hàng có chấp nhận thanh toán thẻ hay rút tiền tại các máy rút
tiền tự động.
Ngày nay, các ngân hàng ngày càng có nhiều hình thức cho vay để phù
hợp với từng đối tượng và thu hút thêm nhiều khách hàng, tăng khả năng cạnh
tranh của ngân hàng mình trên thị trường.
1.1.2.3 Nguyên tắc tín dụng NHTM
Tín dụng ngân hàng được thực hiện trên 3 nguyên tắc sau:
• Tiền cho vay phải được hoàn trả sau một thời gian nhất định cả vốn
lẫn lãi: Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn kinh doanh
của ngân hàng là nguồn vốn huy động từ nền kinh tế. Nguyên tắc hoàn trả
phản ánh đúng bản chất quan hệ tín dụng, tính chất của tín dụng sẽ bị phá vỡ
nếu nguyên tắc này không được thực hiện đầy đủ. Nếu trong quá trình hoạt
động kinh doanh, các khoản tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp không được
hoàn trả đúng hạn nhất định sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán và thu nhập

của ngân hàng. Do đó, khách hàng khi vay vốn phải cam kết trả cả gốc và lãi
trong một thời gian nhất định, cam kết này được ghi trong hợp đồng vay nợ.
• Vốn vay phải có giá trị tương đương làm đảm bảo: Trong nền kinh tế
thi trường các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp, vì thế
mọi dự đoán về rủi ro của ngân hàng chỉ mang tính chất tương đối. Như vậy,
đảm bảo tín dụng được coi là một tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhằm bổ sung
những mặt hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng ngừa những
diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh. Các giá trị tương
đương làm đảm bảo có thể là: vật tư hàng hóa trong kho, tài sản cố định của
doanh nghiệp, số dư trên tài khoản tiền gửi, hóa đơn chuẩn bị nhận hàng hoặc
có thể là cam kết bảo lãnh của một cơ quan khác thạm chí có thể là chính uy
tín của doanh nghiệp trên thị trường và trong mối quan hệ quá khứ với ngân
hàng.
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Cho vay theo kế hoạch thỏa thuận trước: Tín dụng đúng mục đích
không những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của tín dụng.
Quan hệ tín dụng phản ánh nhu cầu về vốn và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Việc thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng là cơ sở để doanh
nghiệp tính toán các yếu tố hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, đồng
thời nó cũng là một trong những yếu tố đảm bảo khả năng thu nợ của ngân
hàng. Nếu ngân hàng phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, ngân
hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, trường hợp khách hàng không có tiền
thì chuyển nợ quá hạn.
1.1.2.4 Lãi suất tín dụng NHTM
Trong quan hệ tín dụng, lãi suất là biểu hiện giá cả khoản tiền mà người
cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng một khoản vốn của mình cho
người khác trong một thời gian nhất định. Người đi vay coi lãi suất như một
khoản chi phí phải trả cho nhu càu sử dụng tạm thời vốn của người khác. Nói

một cách khác, lãi suất tín dụng là giá cả của quyền sử dụng vốn vay. Đối với
hoạt động ngân hàng, lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt
chẽ nhất, nó không chỉ là công cụ điều tiết vĩ mô mà còn là phương tiện giúp
các ngân hàng cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Thông thường lãi suất của
ngân hàng được hình thành trên cơ sở lãi suất thị trường nên luôn biến động.
Trong hoạt động tín dụng, lãi suất tín dụng thường có các giới hạn sau:
Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất huy động < Lãi suất cho vay < Trần lãi suất
cho vay < Tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Đối với mọi thành viên trong hệ thống Ngân hàng Công thương (NHCT)
Việt Nam hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của tổ chức tín dụng được
quy định như sau:
- Mức lãi suất cho vay do ngân hàng cho vay và khách hàng thỏa thuận
phù hợp với quy định của NHNN và hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCT về
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Ngân hàng cho vay
công bố mức lãi suất cho vay cho khách hàng biết.
- Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được ưu
đãi về lãi suất do Tổng giám đốc NHCT thông báo theo quy định của Chính
phủ và hướng dẫn của NHNN.
- Trường hợp khoản vay bị chuyển nợ sang quá hạn, phải áp dụng lãi suất
nợ quá hạn theo mức quy định của Thống đốc NHNN tại thời điểm kí kết hợp
đồng tín dụng.
1.1.2.5 Qui trình tín dụng NHTM
Quy trình tín dụng là tập hợp các nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản,
trình tự các bước phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một vòng
quay của vốn tín dụng. Quy trình tín dụng là yếu tố quan trọng, để đảm bảo
hiệu quả tín dụng quy trình tín dụng thường có 10 bước:
1 - Khai thác khách hàng, tìm kiếm dự án

2 - Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn
3 - Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng
4 - Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn
5 - Quyết định cho vay
6 - Kiểm tra hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố,
bảo lãnh
7 - Phát tiền vay
8 - Kiểm tra sau khi cho vay, thu hồi nợ, gia hạn nợ
9 - Xử lý rủi ro
10 - Thanh lý hợp đồng và đánh giá kết quả cho vay
Nắm vững quy trình tín dụng, tuân thủ thực hiện chặt chẽ các bước của
quy trình sẽ là điều kiện đầu tiên để nâng cao chất lượng tín dụng.
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2 Tín dụng NHTM đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)
1.2.1.1 Khái niệm DNVVN
Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh.
DNVVN là một trong các loại hình doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh
tế, việc phân loại DNVVN không được thống nhất giữa các quốc gia mà tùy
vào đặc thù điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia mà có những quy
định riêng về DNVVN. Việc xác định quy mô DNVVN chỉ mang tính chất
tương đối vì nó chịu tác động của các yếu tố như trình độ phát triển của đất
nước, tính chất ngành nghề, điều kiện của mỗi vùng lãnh thổ nhất định và cả
mục đích phân loại doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày

23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã định nghĩa:
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo luật doanh nghiệp hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.”
1.2.1.2 Đặc điểm DNVVN
Trong quá trình phát triển của mình, DNVVN đã bộc lộ những ưu điểm
nhưng cũng có không ít những nhược điểm. Việc nhận rõ được những điểm
mạnh cũng như điểm yếu sẽ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có biện pháp
khắc phục khó khăn để nâng cao chất lượng hoạt động và khả năng cạnh
tranh, đồng thời cũng là một trong những tiêu chí để các ngân hàng đánh giá
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
một cách tương đối chính xác về khách hàng của mình từ đó nâng cao được
chất lượng các khoản cho vay.
Điểm mạnh của DVVVN
• Tồn tại và phát triển ở mọi thành phần kinh tế: Các DNVVN cũng có
tính tự chủ cao hơn, họ sẵn sàng khai thác triệt để các cơ hội phát triển mà
không ngại rủi ro. Chính điều này tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển
năng động hơn, khai thác tối đa mọi tiềm lực của đất nước.
• Quy mô vừa và nhỏ nên có tính linh động: Với số vốn đầu tư ban đầu
nhỏ, khả năng thu hồi vốn cao do đó các nhà đầu tư dễ lựa chọn loại hình
doanh nghiệp này khi quyết định thành lập công ty. Những ngành nghề mà
phần lớn các DNVVN đang hoạt động đó là thương mại, sản xuất những sản
phẩm tiêu dùng, những sản phầm thực phẩm … do đó khoảng thời gian để thu
hồi vốn ban đầu ngắn nên dễ dàng hơn trong việc tái đầu tư và mở rộng sản
xuất kinh doanh.
So với các doanh nghiệp lớn, các DNVVN năng động hơn trước những
sự thay đổi của thị trường. Với quy mô nhỏ nên các DNVVN cũng có thể
nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sản xuất hay bộ máy quản lý khi có bất lợi từ

môi trường kinh doanh, tăng khả năng thích nghi của các doanh nghiệp với
những biến động của thị trường.
• Hệ thống tổ chức và quản lý ở các DNVVN gọn lẹ, linh hoạt, tiết kiệm
được chi phí: Đối với các DNVVN, công tác điều hành thường mang tính trực
tiếp, các quyết định được thực hiện nhanh chóng, công tác kiểm tra, giám sát
được tiến hành chặt chẽ, không phải qua nhiều khâu trung gian vì vậy rất gọn
nhẹ và tiết kiệm được nhiều chi phí cho quản lý doanh nghiệp.
DNVVN là những doanh nghiệp mà số lượng lao động không lớn nên
mối quan hệ giữa người quản lý và người lao động khá chặt chẽ, gắn bó, tạo
môi trường làm việc tốt. Việc tiếp xúc trực tiếp với người lao động giúp cho
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thể nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của
người lao động dễ dàng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà quản lý trong việc
đưa ra các chính sách quản lý, chính sách sử dụng nhân sự và đãi ngộ phù
hợp, giúp người lao động phát huy được hết khả năng của mình.
• Cạnh tranh giữa các DNVVN là cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường rộng
lớn, không đòi hỏi sự bảo hộ của Chính phủ và không có sự độc quyền. Các
DNVVN hoạt động với số lượng đông đảo dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự
do cạnh tranh.
Hạn chế
• Quy mô nhỏ vừa là một thuận lợi nhưng vừa là một khó khăn chủ yếu
của DNVVN: Các DNVVN thường gặp nhiều trở ngại trong việc vay vốn do
năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này còn hạn chế. Ở nước ta, có
khoảng 42% doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 1 tỷ đồng; từ 1 đến 5 tỷ chiếm
47%; từ 5 đến 10 tỷ chiếm 8%; còn lại là các doanh nghiệp có vốn điều lệ trên
10 tỷ đồng. Với số vốn tự có nhỏ bé như vậy nên 90% số doanh nghiệp phải
tự huy động, vay vốn các nguồn để sản xuất kinh doanh.
Việc thiếu vốn sẽ làm cho doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, gặp

khó khăn trong việc mua sắm các trang thiết bị máy móc, mở rộng sản xuất.
• Máy móc ít, công nghệ lạc hậu, khả năng và điều kiện áp dụng tiến bộ
khoa học rất hạn chế chủ yếu là lao động thủ công: Hạn chế này cũng bắt
nguồn từ việc thiếu vốn của DNVVN. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình
hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7%, trong khi tỷ lệ này của thế giới là
20%. Đây chính là nguyên nhân của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng
lượng, nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường. Công nghệ lạc hậu làm tăng
chi phí lên 1,5 lần đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao
và năng suất thấp.
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Năng lực quản lý điều hành của người lãnh đạo ảnh hưởng chủ yếu
đến doanh nghiệp, phong cách làm việc của người lao động không chuyên
nghiệp: Do trong các DNVVN người sở hữu vốn đồng thời là người quản lý,
điều hành doanh nghiệp nên hiểu biết về quản trị doanh nghiệp còn nhiều hạn
chế. Số lượng công nhân và người đứng đầu công ty được đào tạo chỉ chiếm
hơn 20%. Cơ cấu nghề nghiệp không cân đối, phần lớn đào tạo ngắn hạn, rất
ít kỹ sư kỹ thuật đầu đàn, năng suất lao động thấp, năng lực quản lý yếu.
Những người lãnh đạo các DNVVN thường không có sự hiểu biết cặn kẽ về
luật lệ kinh doanh trong nước cũng như luật quốc tế.
• DNVVN có vị thế thấp trên thị trường nên họ gặp nhiều áp lực về thâu
tóm, xóa sổ từ phía các doanh nghiệp lớn: Việc phát triển thị trường và xây
dựng thương hiệu của các DNVVN mới ở giai đoạn đầu. Các DNVVN chưa
thật chú trọng đến việc mở rộng thị trường, chưa chú trọng đầu tư và khâu
phân tích, dự đoán xu thế chung của thị trường để phát triển và xây dựng
những chiến lược lâu dài mà chủ yếu chỉ kinh doanh mang tính chất thời vụ,
đáp ứng nhu cầu tức thì của thị trường.
1.2.1.3 Vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế thị trường Việt Nam
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) tại Việt Nam được nhận định là sẽ

có những bước phát triển mạnh về số lượng và quy mô trong bối cảnh chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện nhất
quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Mặc dù trong giai đoạn hội nhập
sắp tới, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ sẽ gặp nhiều khó khăn, song trong
một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam thì việc phát triển lực lượng
này là rất quan trọng. Và theo chủ trương của Chính phủ, đến 2010, cả nước
sẽ có khoảng 500.000 DNVVN. Những đóng góp của các DNVVN cho sự
SV: Nguyễn Thị Thanh Tâm
17

×