Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Chuyên đề ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.3 KB, 8 trang )

GV: TRẦN HỮU TƯỜNG
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn chuyên đề:
Để đáp ứng yêu cầu của thời đại khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão
hiện nay. Tại nghị quyết hội nghị lần thứ 2 của ban chấp hành Trung ương khóa
VIII về những giải pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “ Đổi mới
mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương
pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian
tự họ, tự nghiên cứu cho học sinh”, đồng thời kết hợp với công nghệ thông tin
trong soạn và giảng dạy các bộ môn ở trường THCS. Chính vì vậy đòi hỏi từng bộ
môn trong nhà trường THCS phải có cách nhìn nhận cải tiến phương pháp dạy học
sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Trong đó đặc biệt là môn vật lí – một
môn khoa học thực nghiệm, đòi hỏi giáo viên phải sáng tạo, đặc biệt hơn là cần
phải tổ chức dạy học sao cho học sinh hứng thú say mê, yêu thích môn học nói
riêng và các bộ môn học khác nói chung, qua đó hình thành kiến thức, kĩ năng và
nhận thức của học sinh. Kết hợp với công nghệ thông tin vào giảng dạy để giúp
cho học sinh có cái nhìn sinh động, hứng thú học bộ môn. Nhiệm vụ cơ bản của bộ
môn là đảm bảo cho học sinh nắm vững những kiến thức được truyền thụ, nghĩa là
làm cho học sinh hiểu đúng bản chất của kiến thức ấy gắn chúng với những điều đã
biết từ trước và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn.
Trong quá trình đi tìm kiến thức mới, ứng dụng phương pháp mới: lấy học
sinh làm trung tâm không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giáo viên mà trong đó vai
trò của giáo viên quyết định đến quá trình tìm ra những kiến thức mới và định
hướng giáo dục.
Trong quá trình dạy học: Giáo viên đồng thời là người hướng dẫn, người cố
vấn, người mẫu mực cho học sinh. Hoạt động dạy của giáo viên không có nghĩa là
Chuyên đề: Ứng dụng CNTT vào giảng dạy Trang 1
GV: TRẦN HỮU TƯỜNG
chỉ truyền thụ những tri thức có sẵn mà cần phải tổ chức, điều khiển, hoạt động tự
lực nhận thức của học sinh, nhằm hình thành cho học sinh thái độ, năng lực,


phương pháp học tập, ý thức học tập để học sinh tự khám phá ra tri thức. Điều đó
có nghĩa là hoạt động dạy là xây dựng những quy trình, các thao tác chỉ đạo hoạt
động nhận thức của học sinh, hình thành cho học sinh nhu cầu thường xuyên học
tập, tìm tòi kiến thức, kích thích năng lực sáng tạo, hình thành cho các em tự kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của mình, rèn luyện phương pháp học tập, phương
pháp suy nghĩ. Điều quan trọng là hình thành cho các em cách học có hiệu quả
nhất, đáp ứng được nhu cầu kiến thức bộ môn. Mục đích cuối cùng là làm thế nào
để các em học sinh có thể vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống một cách hiệu
quả nhất.
Người học và người dạy phải là những người bạn đồng hành, cùng làm việc,
cùng trao đổi, cùng nhau tìm hiểu khám phá kết quả đạt được chỉ khi có sự thống
nhất, biện chứng giữa hoạt động của giáo viên và học sinh. Trong đó sự nỗ lực của
học sinh cùng với sự nỗ lực của giáo viên sẽ tạo nên sự cộng hưởng giữa hoạt động
dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh.
Theo cách nhìn nhận trên và qua thực tế dạy môn Vật lý của trường THCS
Nguyễn Văn Trỗi những năm qua. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng
dạy đối với các đối tượng học sinh ở những vùng xa xôi không tiếp cận được nhiều
với công nghệ thông tin có nhiều điểm rất khác các đối tượng học sinh ở những
vùng thuận lợi. Vì vậy cần phải“Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy bộ môn Vật
Lý ở trường Trung học cơ sở”
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
1. Thực trạng:
Là một giáo viên dạy học bộ môn vật lý ở trường, qua quá trình thực tế dạy học,
qua trao đổi với các bạn đồng nghiệp và qua tìm hiểu học sinh tôi thấy trong giờ
Chuyên đề: Ứng dụng CNTT vào giảng dạy Trang 2
GV: TRẦN HỮU TƯỜNG
học vật lý nói chung đối với tất cả học sinh đều yêu thích môn học Vật lý vì nó gần
gủi với các em trong cuộc sống hàng ngày.Và thích hơn nữa là được học với các
tiết dạy đèn chiếu. Nhưng tìm hiểu sâu hơn tôi đã biết được những trở ngại mà các
em đưa ra là “Thầy ơi! Thầy làm cho các em xem chứ khó lắm, các em không làm

được đâu” hay là “Thầy ơi! em chỉ nhìn thôi chứ không viết được gì cả”, ngay cả
với những học sinh khá giỏi thì tiết học vật lý bằng đèn chiếu các em học xong
cũng chưa ghi chép được đầy đủ nội dung cơ bản cần thiết. Không phải vì các em
không muốn học mà các em chưa quen với cách học này, sự mới lạ là điểm mới,
thích thú cho các em học sinh nhưng kết quả chúng ta cần là các em học xong phải
nắm vững được kiến thức của bài, về nhà học được nội dung của bài và biết ứng
dụng vào trong cuộc sống.
Từ thực tế giảng dạy ở nhà trường tôi nhận thấy rằng: Phương pháp giảng dạy
truyền thống rất quen thuộc đối với học sinh học sinh đã biết cách ghi chép nội
dung cần thiết của bài học, nhưng phương pháp giảng dạy truyền thống đặt ra
không ít khó khăn cho giáo viên và học sinh. Hiện nay, đối với các em học sinh
khá giỏi cũng không hứng thú nhiều đối với bộ môn Vật Lý. Không phải vì “
Chưa được yêu thích” mà bởi lẽ đồ dùng, thiết bị, dụng cụ thí nghiệm thì thiếu, hư
hỏng nhiều nên giáo viên và học sinh tiến hành cũng khó khăn. Đối với phương
pháp giảng dạy kết hợp công nghệ thông tin sẽ tạo được những điểm hứng thú mới
cho học sinh, giáo viên cũng tự tin hơn khi lên lớp và đảm bảo thời gian nhưng vì
còn mới lạ nên học sinh không biết ghi chép như thế nào để về nhà có thể học bài.
Một số giáo viên kỹ năng sử dụng vi tính còn hạn chế nên soạn các bài giảng chưa
tạo ra được sự hứng thú, chưa kết hợp với được với các hiệu ứng, chèn hình ảnh,
video minh họa, …
Chuyên đề: Ứng dụng CNTT vào giảng dạy Trang 3
GV: TRẦN HỮU TƯỜNG
B. GIẢI PHÁP
I. Các giải pháp thực hiện:
Để khắc phục được những điều trên buộc người dạy và người học phải đổi
mới cách dạy, cách soạn giảng và cách học sao cho phù hợp. Nhất là người giáo
viên phải biết tổ chức một tiết dạy phù hợp với nội dung, với đối tượng và tâm sinh
lí học sinh, việc đổi mới đó trước hết thể hiện ngay từ khâu soạn bài sao cho phù
hợp với từng bài học, với từng điều kiện cụ thể của nhà trường, có sự linh hoạt khi
bố trí và sử dụng thiết bị dạy học, các phương tiện trực quan. Qua đó mới thu hút

được học sinh yêu thích và say mê với môn học.
Xét về mặt phát triển tính tự lực của học sinh, đặc biệt hình thành cho học
sinh tính tự học, tự nghiên cứu để rút ra kết luận cần thiết thì việc tổ chức tiết học
có sự hỗ trợ của đèn chiếu của người giáo viên sao cho phù hợp là điều rất quan
trọng nó quyết định tới việc nắm kiến thức của học sinh có bền vững và sâu sắc
không. Với những tiết học có sự “tham gia” của đèn chiếu không phải chỉ đơn
thuần là thông qua quan sát những hình ảnh trực quan được ghi lại để rút ra kiến
thức mà qua đó còn đánh giá được khả năng tự lực tự tìm tòi, khám phá kiến thức,
mức độ tư duy và kĩ năng làm việc theo quy trình khoa học, khả năng liên hệ thực
tế của học sinh Học sinh thấy được những kết quả thí nghiệm những hiện tượng
thực tế chính xác để không còn sự hoài nghi về kiến thức mà mình tiếp thu được.
Qua đó còn kích thích học sinh say mê với môn học với khoa học đây mới là điều
quan trọng nhất đối với việc đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng với yêu cầu của xã hội, yêu
cầu đặt ra trong thời buổi khoa học và công nghệ có sự phát triển mạnh mẽ nhất từ
trước đến nay.
1. Yêu cầu đối với giáo viên:
Chuyên đề: Ứng dụng CNTT vào giảng dạy Trang 4
GV: TRẦN HỮU TƯỜNG
Xuất phát từ thực tế tôi nhận thấy bản thân là một giáo viên dạy bộ môn vật
lý nói riêng và các bộ môn cần nhiều minh họa trực quan sinh động và các hiện
tượng từ thực tế cuộc sống nói chung, mình cần phải thay đổi cách dạy học trước
hết là từ bản thân. Qua tìm tòi, nghiên cứu và dạy thử nghiệm tôi đã rút ra được
kinh nghiệm trong cách tổ chức cho học sinh một tiết học có sự kết hợp chặc chẽ
giữa phương pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp dạy học qua đèn chiếu
như sau:
Đầu tiên là giáo viên phải hiểu rõ về mục đích yêu cầu của sự kết hợp này.
Nhiệm vụ của từng phương pháp trong bài dạy là gì? Để xác định và phân rõ
nhiệm vụ của từng phương pháp trong bài dạy, giáo viên phải có sự chuẩn bị kĩ về
nội dung mà mỗi phương pháp cần truyền tải đến các em học sinh, cần tránh sự lặp
đi lặp lại gây ra sự nhàm chán, mất thời gian. Giáo viên phải có sự lựa chọn phù

hợp (phần nội dung nào dùng đèn chiếu, phần nội dung nào dùng bảng). Hay
chúng ta có thể nói rằng “đèn chiếu là một bảng phụ đa năng”. Những thí nghiệm
tiến hành khó, những hiện tượng lạ trong cuộc sống, những yếu tố lịch sử liên quan
đến bộ môn, …. Chúng ta có thể tận dụng tối đa vai trò của đèn chiếu. Tuy nhiên,
để minh chứng cho một kiến thức, giáo viên chỉ nên chọn một hoặc vài minh
chứng khả dĩ, gần gủi nhất. Cần tránh việc tham đưa các minh chứng mà gây mất
thời gian để học sinh tìm hiểu những nội dung kiến thức khác trong bài học. Muốn
vậy giáo viên phải tìm hiểu kỹ nội dung, chia ra nội dung của từng phương pháp
cho thực sự hợp lí, hài hòa.
Trong các tiết dạy sử dụng đèn chiếu người giáo viên cần phải tổ chức cho
học sinh các hoạt động nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, rèn
luyện tư duy sáng tạo cho học sinh. Có nghĩa là dưới sự dẫn dắt của giáo viên sao
cho học sinh chủ động học tập, tự giác, sẳn sàng tham gia vào các hoạt động liên
hệ những kiến thức có liên quan, chú ý đến màn chiếu khi có yêu cầu của giáo viên
và học sinh phải chú ý đến phần vận dụng của bản thân vào thao tác thí nghiệm,
Chuyên đề: Ứng dụng CNTT vào giảng dạy Trang 5
GV: TRẦN HỮU TƯỜNG
thực hành hay vận dụng để giải thích các vấn đề có liên quan đến nội dung kiến
thức vừa tìm hiểu.
Phát huy tích cực, chủ động của học sinh, rèn luyện tư duy sáng tạo cho học
sinh thể hiện ở các vấn đề:
Kích thích được “óc tò mò khoa học”, ham hiểu biết bằng cách tạo ra những
tình huống có vấn đề sinh động trong cuộc sống để dẫn các em vào kiến thức mới
của bài học. Thường là các câu chuyện, hình ảnh, video gây hứng thú tạo nhu cầu
nghiên cứu với học sinh. ( Để có các câu chuyện, các video này giáo viên phải tự
tìm tòi qua sách vở, qua thực tế, qua Intenet )
Quá trình tổ chức cho học sinh quan sát đèn chiếu không liên miên, câu hỏi
đưa ra phải rõ ràng, ngắn gọn và đúng trọng tâm.
Đối với môn khoa học thực nghiệm như vật lý, có thể nói: “ Trăm nghe
không bằng một thấy” cần cho học sinh trải nghiệm thực tế bằng quan sát hiện

tượng, bằng suy luận lôgic
Cần sử dụng các phương tiện , đồ dùng tối đa có thể cho phép (có thể sử dụng
phương tiện nghe nhìn, máy tính )
Kết hợp chặc chẽ với nó là việc chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm để học sinh sau
khi quan sát thì có thể tiến hành thí nghiệm theo hướng dẫn để kiểm tra kiến thức
hay tìm ra kiến thức mới.
Thường giáo viên hay mắc một lỗi trong dạy học đó là chú trọng dạy cách
làm việc của giáo viên hơn mà không quan tâm tới việc dạy cách hướng dẫn học
sinh tự học; tự quan sát và tìm ra cách giải thích hợp lí nhất cho kết quả thí
nghiệm. Theo định hướng đổi mới phải coi trọng việc rèn luyện kĩ năng tự học cho
học sinh dạy cách tự học, tự làm, tự sáng tạo
Coi trọng phương pháp thực nghiệm giáo viên cần phải tính toán kĩ các hoạt
động học tập của học sinh theo một kế hoạch đã được chuẩn bị trước (Giáo án).
Chuyên đề: Ứng dụng CNTT vào giảng dạy Trang 6
GV: TRẦN HỮU TƯỜNG
Trong việc tổ chức cho học sinh học đèn chiếu cần phải kết hợp hài hòa việc
học tập cá nhân với việc học tập hợp tác nhóm. “ Học thầy không tày học bạn”.
Cần thông qua hoạt động này giáo dục cho học sinh tinh thần, trách nhiệm và thói
quen lao động hợp tác, chú ý quan sát hiện tượng, chia sẻ kinh nghiệm, lắng nghe ý
kiến người khác, tranh luận, ý thức trách nhiệm với công việc nó là đặc trưng quan
trọng của xã hội công nghiệp hiện đại.
Từ kết quả quan sát được từ đèn chiếu và vận dụng vào quá trình thực hành,
thí nghiệm của học sinh để giáo viên đánh giá được năng lực của từng học sinh,
cho học sinh tự đánh giá kết quả học tập của mình để có điều chỉnh phù hợp (Tốt
thì khuyến khích cao lên, yếu thì hướng dẫn trợ giúp )
Từ kết hợp giữa đèn chiếu với việc ghi bảng giáo viên cần phải định hướng
cho học sinh, khuyến khích học sinh từ kết quả quan sát được tự tìm tòi khám phá
và vận dụng vào thực tiễn để giải thích hiện tượng, …
Để làm được những điều nêu trên thì người giáo viên dạy bộ môn vật lí cần:
a. Phải xác định rõ được mục tiêu bài học – Phải nghiên cứu kĩ bài dạy

trước khi lên lớp.
b. Phân được nội dung nào ghi bảng và những nội dung nào cần trình chiếu
để học sinh quan sát.
b. Phải có kĩ năng tổ chức học sinh hoạt động chiếm lĩnh tri thức của riêng
bản thân các em học sinh qua tiến hành thí nghiệm của các em.
- Kĩ năng lựa chọn nội dung kiến thức phù hơp gồm có:
+ Tổ chức tình huống học tập dẫn vào bài thông qua trình chiếu.
+ Thu thập thôn tin (Hướng dẫn học sinh quan sát hiện tượng, thí nghiệm, thiết
kế thí nghiệm, lựa chon thiết bị, cách bố trí thí nghiệm và ghi lại kết quả, lập bảng
biểu, sơ đồ )
+ Xử lý thông tin (Định hướng để học sinh tìm ra quy luật, phân loại dấu hiệu
giống, khác, so sánh phân tích, tổng hơp rút ra kết luận)
Chuyên đề: Ứng dụng CNTT vào giảng dạy Trang 7
GV: TRẦN HỮU TƯỜNG
+ Thông báo kết quả (Yêu cầu học sinh mô tả lại thí nghiệm, trình bày kết
luận)
+ Vận dụng và ghi nhớ (Tổ chức học sinh giải các bài tập có liên quan, tự làm
đồ chơi, dụng cụ học tập, học thuộc )
- Kĩ năng đặt câu hỏi sử dụng các loại câu hỏi ( Câu hỏi biết, hiểu, vận dụng và
câu hỏi phân tích, tổng hợp, đánh giá)
c. Biết sử dụng máy tính, khai thác mạng, công nghệ thông tin hổ trợ dạy
học.
2. Quy trình tổ chức tiết dạy kết hợp đèn chiếu và phương pháp giảng dạy
truyền thống.
1. Cho học sinh tìm hiểu đầy đủ chức năng của từng phần trong một tiết dạy và
chú ý học sinh làm theo yêu cầu của giáo viên.
2. Từ những hiện tượng quan sát được. Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí
nghiệm hay liên hệ thực tế và vận dụng kiến thức đã học để giải thích.
3. Vận dụng kết luận vào thực tế (Làm bài tập, giải thíc hiện tượng liên quan và
mở rộng nếu có thể).

II. Vận dụng vào tiết dạy:
BÀI 47: SỰ TẠO ẢNH TRÊN PHIM TRONG MÁY ẢNH
Chuyên đề: Ứng dụng CNTT vào giảng dạy Trang 8

×