Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Đánh giá hiện trạng quản lý và sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất rau trên địa bàn huyện lạng giang, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 87 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





NGUYỄN THỊ NGA



ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG
PHÂN BÓN, THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT TRONG
SẢN XUẤT RAU TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LẠNG GIANG,
TỈNH BẮC GIANG





Chuyên ngành : KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
Mã số: 60.44.03.11


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐOÀN VĂN ĐIẾM



Hà Nội - 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận
văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Nga




















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN
Để có được kết quả nghiên cứu này, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản
thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ các đơn vị và cá nhân. Tôi xin
ghi nhận và bày tỏ lòng biết ơn tới những tập thể, cá nhân đã dành cho tôi sự
giúp đỡ quý báu đó.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và kính trọng sự giúp đỡ nhiệt tình
của thầy giáo PGS.TS. Đoàn Văn Điếm, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực
hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu của các
thầy, cô giáo trong khoa Tài nguyên và Môi trường – Học viện Nông nghiệp
Việt Nam.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo UBND huyện Lạng
Giang, các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên phòng Tài nguyên và Môi trường,
phòng NN-PTNT, phòng thống kê và UBND các xã đã tạo điều kiện về thời
gian và cung cấp số liệu giúp tôi thực hiện đề tài này.
Cảm ơn sự cổ vũ, động viên và giúp đỡ của gia đình, các anh, chị đồng
nghiệp, bạn bè trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Hà Nội, ngày 28 tháng 9 năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Nga

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii


MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục viết tắt v
Danh mục bảng vi
MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3 Yêu cầu của đề tài 2
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1 Tình hình sản xuất rau an toàn hiện nay 3
1.1.1 Vấn đề sản xuất rau an toàn 3
1.1.2 Tình hình sản xuất rau an toàn trên thế giới 6
1.1.3 Sản xuất rau an toàn ở Việt Nam 7
1.2 Sử dụng phân bón trong sản xuất rau 11
1.2.1 Các loại phân bón trong nông nghiệp 11
1.2.2 Sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp: 12
1.2.3 Sử dụng phân bón trong sản xuất rau 13
1.3 Sử dụng thuốc Bảo vệ thực vật (BVTV) trong sản xuất rau 16
1.3.1 Các loại thuốc bảo vệ thực vật 16
1.3.2 Nguyên tắc sử dụng thuốc BVTV 17
1.3.3 Tình hình quản lý và sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất rau 18
1.4 Ảnh hưởng của phân bón và thuốc BVTV đến môi trường 21
1.4.1 Phân bón, thuốc BVTV ảnh hưởng đến môi trường 21
1.4.2 Ảnh hưởng của phân bón, thuốc BVTV đến sức khoẻ con người 25
CHƯƠNG 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30
2.1 Đối tượng nghiên cứu 30
2.2 Phạm vi nghiên cứu 30

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.3 Nội dung nghiên cứu 30
2.3 Phương pháp nghiên cứu 30
2.3.1 Thu thập số liệu thứ cấp 30
2.3.2 Thu thập số liệu sơ cấp 31
2.3.3 Phương pháp phân tích, xử lý số liệu 32
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 33
3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Lạng Giang 33
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 33
3.1.2 Điều kiện kinh tế, xã hội 36
3.2 Hiện trạng sản xuất rau của huyện Lạng Giang 42
3.2.1 Diện tích, sản lượng các loại cây trồng 42
3.2.2 Tình hình sản xuất rau ở huyện Lạng Giang 44
3.3 Hiện trạng quản lý và sử dụng phân bón trong sản xuất rau 53
3.3.1 Sử dụng phân hữu cơ 53
3.3.2 Sử dụng phân vô cơ 54
3.4 Hiện trạng quản lý và sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất rau 58
3.4.1 Chủng loại thuốc BVTV sử dụng trên rau 59
3.4.2 Đánh giá của người dân về sử dụng thuốc BVTV 61
3.5 Đánh giá của người dân về ảnh hưởng của phân bón và thuốc BVTV 67
3.5.1 Nhận thức của người dân về ảnh hưởng của phân bón, thuốc
BVTV tới sức khỏe con người 67
3.5.2 Đánh giá về ảnh hưởng của phân bón, thuốc BVTV đến môi trường 68
3.6 Giải pháp quản lý và sử dụng phân bón, thuốc BVTV 69
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 72
1.1 Kết luận 72
1.2 Kiến nghị 73
TÀI LỆU THAM KHẢO 74


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

DANH MỤC VIẾT TẮT

BQ Bình quân
BQLĐ Bình quân lao động
CN-TTCN&XD Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp & xây dựng
BVTV Bảo vệ thực vật
DT Diện tích
ĐVT Đơn vị tính
G.O.C Công ty cổ phần chế biến & xuất khẩu
GTSX Giá trị sản xuất
MNPB Miền núi phía bắc
NN Nôn nghiệp
QĐ Quyết định
ĐBSCL Đồng bằng sông cửu long
ĐBSH Đồng bằng sông hồng
HĐND Ủy ban nhân dân
UBND Ủy ban nhân dâ
PTNT Phát triển Nông thôn
SD Độ lệch chuẩn
RAT Rau an toàn
XNK Xuất nhập khẩu




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vi

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

1.1 Diện tích, năng suất, sản lượng các loại rau 8
1.2 Tích lũy kim loại nặng từ phân bón (E.Witter, 1996) 22
1.3 Số lượng vi trùng, trứng giun của một số mẫu phân tích 26
1.4 Tồn dư kim loại nặng trong RAT ở Vân Nội, Đông Anh 28
3.1 Thống kê diện tích đất đai của huyện Lạng Giang 35
3.2 Cơ cấu các ngành kinh tế chủ yếu qua 3 năm (2010-2012) 37
3.3 Tình hình dân số, lao động của huyện qua 3 năm 2010 - 2012 39
3.4 Diện tích và sản lượng của một số cây trồng chính 43
3.5 Khối lượng sản phẩm hàng hóa của huyện Lạng Giang 44
3.6 Một số đặc điểm nông hộ sản xuất rau ở các xã 46
3.7 Tình hình đất đai, lao động của hộ điều tra 47
3.8 Diện tích, sản lượng một số cây trồng chính của các hộ 47
3.9 Các hình thức tiêu thụ chính của nông dân 48
3.10 Ma trận đánh giá SWOT đối với sản xuất rau tại địa phương 52
3.11 Hiện trạng sử dụng phân hữu cơ trong 1 vụ gieo trồng 54
3.12 Lượng phân vô cơ bón cho các cây rau 55
3.13 Lượng thuốc BVTV thực tế và khuyến cáo trên cây trồng 59
3.14 Tỷ lệ sử dụng các loại thuốc BVTV của các hộ sản xuất rau 60
3.15 Tỷ lệ sử dụng các loại thuốc trừ bệnh trong sản xuất rau 60
3.16 Kết quả sử dụng thuốc BVTV của người sản xuất rau 61
3.17 Hiểu biết của người sản xuất rau về nguyên tắc 4 đúng 62
3.18 Nhận thức của người dân về sử dụng thuốc BVTV 63
3.19 Nhận thức về ảnh hưởng của phân bón, thuốc BVTV 68
3.20 Đánh giá ảnh hưởng của phân bón, thuốc BVTV đến môi trường 69

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạng Giang là một huyện trung du nằm ở phía Bắc của tỉnh Bắc
Giang, cách trung tâm tỉnh (Thành phố Bắc Giang) 10km. Có hệ thống
đường giao thông đan xen rất thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán hàng hoá;
điều kiện đất đai, khí hậu, cơ sở hạ tầng khá thuận lợi cho việc phát triển sản
xuất nông nghiệp. Trong những năm gần đây vấn đề phát triển sản xuất rau
sạch được coi là giải pháp quan trọng nhằm thực hiện chủ trương phát triển
nền nông nghiệp hàng hóa nâng cao thu nhập đời sống cho nông dân. Lạng
Giang đang nỗ lực xây dựng vùng sản xuất rau hàng hóa tập trung với khối
lượng lớn, chất lượng cao, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến
và tiêu dùng.
Thuốc BVTV, phân bón là một trong những nhân tố quan trọng góp
phần làm ổn định và tăng năng suất cây trồng. Sử dụng hoá chất BVTV, phân
bón đã mang lại nhiều kết quả tích cực trong phòng chống dịch bệnh, nâng
cao năng suất và bảo vệ cây trồng, bảo đảm cung cấp lương thực, thực phẩm
theo nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Vì vậy, ngày nay, với sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, thuốc BVTV, phân bón đang ngày càng được sử dụng
một cách rộng rãi.
Với thời tiết khí hậu gió mùa nóng ẩm quanh năm, nhiều loại sâu bệnh
hoành hành, tàn phá rau màu gây thiệt hại không nhỏ cho nông dân thì việc sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) và phân bón là không thể thiếu trong
phòng trừ các loại sâu bệnh hại cây trồng. Tuy nhiên, bên cạnh những tác
dụng to lớn đối với sản xuất nông nghiệp, việc sử dụng thuốc BVTV còn có
những tác hại nhất định
gây hậu quả xấu đến môi trường và sức khỏe của người sản xuất rau,
những người trực tiếp phun thuốc và sau đó là người tiêu dùng. Trước cơ hội

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

mới hiện nay, vấn đề đặt ra là phải quan tâm đến chất lượng rau, tạo ra một
vùng sản xuất nguồn nguyên liệu sạch, sử dụng ít phân bón và hóa chất bảo vệ
thực vật cung cấp cho người tiêu dùng và làm nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá
hiện trạng quản lý và sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất
rau trên địa bàn huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật trong sản xuất rau trên địa bàn huyện Lạng Giang.
- Đề xuất giải pháp cụ thể trong việc quản lý, sử dụng phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật và nâng cao chất lượng rau cho địa phương.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Phân tích được cơ hội và thách thức về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội trong sản xuất rau ở huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
- Đánh giá được thực trạng quản lý và sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ
thực vật đối với rau trên địa bàn huyện Lạng Giang để phát hiện những mặt
hạn chế cần khắc phục.
- Đề xuất được giải pháp khả thi sử dụng phân bón và thuốc BVTV,
nâng cao chất lượng nông sản nhằm bvmt bảo vệ môi trường.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình sản xuất rau an toàn hiện nay
1.1.1. Vấn đề sản xuất rau an toàn

Theo cách hiểu thông thường hiện nay thì rau an toàn là loại rau được
sản xuất trong điều kiện bình thường, có thể sử dụng các loại phân bón, thuốc
trừ sâu nhưng phải đảm bảo thời gian cách ly để tránh gây độc khi sử dụng.
Theo quyết định số 67/ 1998/QĐ - BNN - KHCN ngày 28/04/1998 về
các quy định tạm thời trong sản xuất rau an toàn của Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn: “Những sản phẩm rau tươi bao gồm tất cả các loại rau ăn
củ, thân, lá, hoa, quả có chất lượng đúng với đặc tính giống của chúng, hàm
lượng các hoá chất độc và mức độ nhiễm các vi sinh vật gây hại ở dưới mức
tiêu chuẩn cho phép, an toàn cho người tiêu dùng và môi trường thì được coi
là rau đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, gọi tắt là Rau an toàn ”.
Theo Trần Khắc Thi (1998), sản phẩm rau được xem là an toàn khi đáp
ứng đủ các yêu cầu sau:
+ Sạch, hấp dẫn về hình thức: tươi, sạch bụi bẩn, tạp chất; thu và đóng
gói đúng độ chín; không có triệu chứng bệnh; có bao bì vệ sinh hấp dẫn.
+ Sạch, an toàn về chất lượng: Khi sản phẩm rau chứa dư lượng thuốc
BVTV, dư lượng nitrat, dư lượng kim loại nặng và lượng vi sinh vật gây hại
không vượt quá ngưỡng cho phép của tổ chức Y tế thế giới.
Những yêu cầu chất lượng của “rau an toàn”: Chỉ tiêu nội chất quy định
cho rau tươi gồm dư lượng thuốc BVTV, hàm lượng NO
3
, hàm lượng một số
kim loại nặng chủ yếu như Cu, Pb, Hg , mức độ nhiễm các vi sinh vật gây
bệnh và ký sinh trùng đường ruột; tiêu chuẩn về hình thái như sản phẩm phải
được thu hoạch đúng độ già kỹ thuật hay thương phẩm theo yêu cầu của từng
loại rau, không dập nát, hư hỏng, không lẫn tạp chất, sâu bệnh và có bao gói
thích hợp; giá trị dinh dưỡng.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

Tuy không phải là nguồn cung cấp calo chính cho các hoạt động sống

của con người, nhưng rau xanh được biết đến như một yếu tố đóng vai trò cân
bằng dinh dưỡng và kéo dài tuổi thọ khi nhu cầu về các loại lương thực, thực
phẩm giàu Protein đã được đảm bảo. Các loại rau cung cấp một lượng lớn
Vitamin (C, B1-B6, E, K,… ) và nhiều Provitamin A, D… Chất xơ trong rau
có tác dụng ngăn ngừa bệnh tim, huyết áp, bệnh đường ruột; vitamin C giúp
ngăn ngừa ung thư dạ dày và lợi; Vitamin D trong rau giàu caroten có thể hạn
chế nhưng biến cố về ung thư phổi. Ngoài ra, rau còn cung cấp các nguyên tố
khoáng đa lượng, vi lượng cần thiết cho cấu tạo của tế bào, cấu tạo các enzim,
tác nhân xúc tác và điều hoà các quá trình sinh tổng hợp trong cơ thể người.
Đồng thời, rau xanh còn cung cấp một lượng lớn chất xơ có khả năng làm
tăng hoạt động của nhu mô ruột và hệ tiêu hoá.
Bên cạnh giá trị dinh dưỡng, một số loại rau xanh như hành, tỏi, nghệ,
tía tô, mướp đắng… được coi như những vị thuốc rất có giá trị đối với sức
khoẻ con người. Chính vì thế, trong cuộc sống con người, rau xanh đóng một
vai trò hết sức quan trọng và là sản phẩm nông nghiệp được tiêu thụ với số
lượng lớn. Các kết quả nghiên cứu và số liệu thống kê cho thấy, mức độ tiêu
thụ rau xanh trên thế giới tính theo đầu người ngày càng có chiều hướng tăng
cao. So với những nước đang phát triển thì các nước phát triển thường có mức
tiêu thụ rau bình quân đầu người cao hơn.
Các yếu tố cơ bản tác động đến cây trồng bao gồm yếu tố tự nhiên và
các yếu tố kinh tế xã hội, trong đó các yếu tố tự nhiên vừa là điều kiện, vừa là
môi trường sản xuất (Mai Văn Quyền, 1996). Mỗi yếu tố đều có vai trò quan
trọng, phải nghiên cứu nắm vững quy luật chuyển biến của các yếu tố tự
nhiên mà bố trí cây trồng hợp lý, lợi dụng tối đa những ưu thế, hạn chế và né
tránh những mặt bất lợi( Phạm Chí Thành, 1996). Trong sản xuất nông
nghiệp, rau là loại cây trồng quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống
trồng trọt. Với lợi thế có thời gian sinh trưởng ngắn, kích thước các loại rau
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5


thường nhỏ nên cây rau rất phù hợp trong cơ cấu trồng xen hay trồng gối với
những loại cây trồng khác, cho phép nâng cao hiệu suất sử dụng đất. Trồng
rau không những tận dụng được đất đai mà còn tận dụng được lao động và tư
liệu sản xuất khác, cây rau có giá trị kinh tế cao, một hecta trồng rau mang lại
thu nhập gấp 2-5 lần so với trồng lúa (Phạm Vân Đình, Đỗ Kim Chung,
1998). Chính vì thế, thu nhập từ sản xuất rau cũng cao hơn nhiều so với thu
nhập từ sản xuất lúa cũng như một số cây trồng khác. Trong đó, các loại rau
ăn lá thường có thời gian sinh trưởng ngắn và dễ chăm sóc, khả năng khai
thác (năng suất/đơn vị diện tích/đơn vị thời gian) nhanh hơn và mang lại hiệu
quả kinh tế lớn hơn.
Như vậy, có thể nói, rau là loại thực phẩm rất cần thiết đối với con
người và là sản phẩm không thể thay thế bởi rau xanh cung cấp rất nhiều các
chất quan trọng cho sự phát triển của con người như các loại vitamin, các loại
chất khoáng, chất xơ… trong đó có 2 thành phần chủ yếu đó là các loại
vitamin và chất khoáng. Các chất này có tác dụng điều hòa, cân bằng kiềm
toan trong máu, là những chất cần thiết cấu tạo máu và xương. Qua thực tế
sản xuất cho thấy giá trị sản xuất trên 1 ha rau màu thường cao hơn gấp 2 - 3
lần so với 1 ha lúa nên rau được xem là cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao
trong sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra rau còn có nhiều ý nghĩa kinh tế khác, là
loại cây lương thực, hàng hóa có giá trị xuất khẩu cao và là nguồn nguyên liệu
cho các ngành công nghiệp chế biến. Về y học, một số loại rau được coi là
loại dược liệu quý và chữa được nhiều bệnh. Về mặt xã hội, khi ngành sản
xuất rau phát triển thì sẽ có nhiều mặt tác động tích cực đối với đời sống của
con người, góp phần tăng thu nhập cho người lao động, đáp ứng được nhu cầu
ngày càng cao của xã hội; khi sản xuất rau phát triển với quy mô lớn sẽ là
điều kiện sắp xếp lao động nông nhàn một cách hợp lý.
Hiện nay ngành sản xuất rau đang được chú trọng để phát triển, năng
suất, sản lượng rau không ngừng tăng lên qua các thời kỳ với nhiều chủng loại
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6


phong phú đa dạng, tạo ra nguồn thu nhập không nhỏ cho những người sản
xuất. Bên cạnh những mặt tích cực đó thì việc sản xuất rau cũng đang có
nhiều vấn đề cần phải quan tâm như tình trạng sử dụng phân bón, thuốc trừ
sâu không hợp lý gây ngộ độc thực phẩm, môi trường sống bị ô nhiễm.
1.1.2. Tình hình sản xuất rau an toàn trên thế giới
Hiện nay, 120 chủng loại rau được sản xuất ở khắp các lục địa nhưng chỉ
có 12 chủng loại chủ lực được trồng trên 80% diện tích rau trên toàn thế giới.
Loại rau được trồng nhiều nhất là cà chua - 3,17 triệu ha, thứ hai là hành -
2,29 triệu ha, thứ ba là bắp cải - 2,07 triệu ha. Ở châu Á, loại rau được trồng
nhiều nhất là cà chua, hành, bắp cải, dưa chuột, cà tím, ít nhất là đậu Hà Lan.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, ngoài việc mở rộng diện
tích, năng suất và sản lượng các loại rau cũng không ngừng tăng.
Cũng theo FAO (2001), sản lượng rau tiêu thụ bình quân đầu người toàn
thế giới là 78 kg/năm. Riêng châu Á sản lượng rau 2001 đạt khoảng 487.215
triệu tấn. Trong đó Trung Quốc là nước có sản lượng rau cao nhất, đạt 70
triệu tấn/năm; thứ 2 là Ấn Độ với sản lượng rau đạt 65 triệu tấn/năm. Nhìn
chung, mức tăng trưởng sản lượng rau châu Á các năm qua đạt khoảng 3%
năm, tương đương khoảng 5 triệu tấn/ năm .
Cùng với số lượng, vấn đề chất lượng rau quả cũng đang được người tiêu
dùng trên thế giới rất quan tâm. Tháng 09/2003, Tổ chức bán lẻ châu Âu
(EUREP) đã đề xuất tiêu chuẩn Thực hành nông nghiệp tốt (GAP) nhằm giải
quyết mối quan hệ bình đẳng và trách nhiệm giữa người sản xuất sản phẩm nông
nghiệp và khách hàng của họ. Sản xuất rau an toàn (RAT) theo hướng GAP có thể
được hiểu là sản phẩm khi đưa ra thị trường phải đảm bảo 3 yêu cầu: “An toàn
cho môi trường, an toàn cho người sản xuất và an toàn cho người tiêu dùng”.
Dựa trên những quy định của EUREPGAP phiên bản 2 (1/2004), các
tiêu chuẩn sản xuất rau đã được chuẩn hóa ở mức độ chung nhất cho khu vực,
yêu cầu người nông dân phải tuân thủ và được gọi là ASEANGAP. Các tiêu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7

chuẩn này được đưa ra phù hợp với các nước thành viên ASEAN đến năm
2020. Sản phẩm cuối cùng mà khu vực nhằm đến là môi trường, kỹ thuật canh
tác và an toàn cho xã hội.
Trong nhà kính, sản xuất cà chua, dưa các loại, ớt chủ yếu bằng công
nghệ trồng không đất. Hà Lan có nhiều giống mới về các loại rau. Có giống
cà chua leo tới 30 m, thời gian sinh trưởng 12 tháng, năng suất từ 600-700
tấn/ha năm, ớt ngọt cao tới 3 m, năng suất 300 tấn/ha năm, DCBT năng suất
tới 200 tấn/ha/năm.
Châu Á được coi là khu vực có nhiều thuận lợi trong việc triển khai áp
dụng theo tiêu chuẩn EUREPGAP. vì đây là nơi trung ương và các ngành
phối hợp với nhau để lập kế hoạch và triển khai thực hiện nông nghiệp sạch.
Tính đến tháng 8/2007 đã có 3676 cơ sở Châu Á – Thái Bình Dương được
cấp giấy chứng nhận GAP. trong đó có 7 chương trình ở 7 nước thuộc Thái
Bình Dương.
1.1.3. Sản xuất rau an toàn ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nhiệt đới có thể trồng rau quanh năm, ngành rau
nước ta đã phát triển từ lâu và đóng góp khoảng 3% trong tổng giá trị ngành
nông nghiệp. Phát triển rau có ý nghĩa lớn về kinh tế xã hội: tạo việc làm, tận
dụng lao động, đất và nguồn tài nguyên cho hộ gia đình (Viện quy hoạch và
thiết kế nông nghiệp, 2000).
Theo số liệu thống kê, tính đến năm 2004, diện tích trồng rau của cả
nước là 614,5 nghìn ha, gấp đôi năm 1994 (297,3 nghìn ha), chiếm khoảng
7% đất nông nghiệp và 10% đất cây hàng năm. Với năng suất 144,1 tạ/ha
(bằng 90% năng suất trung bình toàn thế giới), sản lượng rau cả nước đạt
8,855 triệu tấn/ha, gấp 2,5 lần so với năm 1994 (3,52 triệu tấn). Như vậy,
trong 10 năm, mức tăng bình quân đạt 13,57%/năm. Tính đến năm 2004, khối
lượng rau bình quân đầu người ở nước ta đạt 107 kg/năm, tương đương bình
quân toàn thế giới và vượt mức chi tiêu kế hoạch năm 2010 (85 kg/người)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

trong Đề án Phát triển rau, quả, hoa, cây cảnh đã được Chính phủ phê duyệt.
Đến năm 2005, tổng diện tích rau các loại trên cả nước đạt 635,8 nghìn ha,
sản lượng là 9640,3 nghìn tấn; so với năm 1999, diện tích tăng 175,5 nghìn ha
(tốc độ tăng 3,61%/năm), sản lượng tăng 3071,5 nghìn tấn (tốc độ tăng
7,55%/năm). Trong đó, vùng sản xuất rau lớn nhất là Đồng bằng sông Hồng
(chiếm 24,9% diện tích và 29,6% sản lượng rau cả nước), tiếp đến là Đồng
bằng sông Cửu Long (chiếm 25,9% diện tích và 28,3 sản lượng rau cả nước).
Theo báo cáo của Văn phòng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
diện tích gieo trồng rau, đậu cả nước tăng lên liên tục từ quý III năm 2006,
vượt so với cùng kỳ năm 2005. Năm 2006 cả nước đã gieo trồng được 675
nghìn ha rau đậu các loại, tăng 3,3% so với năm 2005.
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất, sản lượng các loại rau

STT


Vùng
Di
ện tích
(1.000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1.000 tấn)
1999 2005 1999 2005 1999 2005
Cả nước 459,6 635,1 126 151,8 5792,2 9640,3
1

§BSH
126,7 158,6 157 179,9 1988,9 2852,8
2 Trung du, MNPB 60,7 91,1 105,1 110,6 637,8 1008
3 Bắc Trung bộ 52,7 68,5 81,2 97,8 427,8 670,2
4 Nam Trung bộ 30,9 44 109 140,1 336,7 616,4
5 Tây Nguyên 25,1 49 177,5 201,7 445,6 988,2
6
§«ng Nam bé
64,2 59,6 94,2 129,5 604,9 772,1
7
§BSCL
99,3 164,3 136 166,3 1350,5 2732,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2005)
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, diện tích trồng rau trên đất nông
nghiệp cả năm 2006 của Việt Nam là 644,0 nghìn ha; năng suất trung bình
cao nhất từ trước đến nay (149,9 tạ/ha). Tổng sản lượng rau cả nước đạt 9,65
triệu tấn, đạt 144 nghìn tỷ đồng, chiếm 9% GDP ngành nông nghiệp trong khi
diện tích chỉ chiếm 6% .
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

Ở nước ta, rau được sản xuất theo 2 phương thức là tự cung tự cấp và
sản xuất hàng hóa. Trong đó rau hàng hóa tập trung chủ yếu ở 2 vùng chính:
• Vùng rau chuyên canh: Tập trung ven đô thị, khu đông dân cư vùng
khu công nghiệp chiếm 38 - 40% diện tích và 45 - 50% sản lượng. Sản phẩm
chủ yếu cung cấp cho dân phi nông nghiệp, với nhiều chủng loại rau phong
phú (gần 80 loài với 15 loài chủ lực), hệ số sử dụng đất cao (4,3 vụ/năm),
trình độ thâm canh khá. Tuy nhiên, mức độ không an toàn sản phẩm rau xanh
cao và thường gây ra ô nhiễm môi trường.
• Vùng rau luân canh: Là vùng có diện tích và sản lượng lớn. Cây rau

được trồng luân canh với cây lương thực trong vụ đông xuân tại các tỉnh phía
Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và tỉnh Lâm Đồng. Tiêu thụ
sản phẩm rau rất đa dạng, phục vụ rau tươi cho cư dân trong vùng, ngoài
vùng, cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Hiện nay, sản xuất rau theo hướng nông nghiệp công nghệ cao đã bước
đầu được hình thành, các phương thức áp dụng như sản xuất trong nhà màn,
nhà lưới chống côn trùng, sản xuất trong nhà plastic không cố định để hạn chế
các yếu tố môi trường bất lợi, trồng rau bằng kỹ thuật thủy canh, màng dinh
dưỡng, nhân giống và sản xuất các loại cây quý hiếm, năng suất cao bằng
công nghệ nhà kính của Israel có kiểm soát các điều kiện môi trường (Mai
Văn Quyền, 1996)
Cục Bảo vệ Thực vật đang triển khai dự án “Hướng dẫn nông dân xây
dựng mô hình sản xuất rau an toàn theo hướng GAP” tại 28 tỉnh thành phố, bao
gồm 6 tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ và 22 tỉnh phía Nam (từ Ninh Thuận trở vào).
Bộ Nông nghiệp & PTNT đã quan tâm chỉ đạo và ban hành Quyết định
106/2007/QĐ-BNN ngày 28 tháng 12 năm 2007 về việc “quy định về quản lý
sản xuất và chứng nhận chất lượng rau an toàn” .Hiện nay, VietGAP là tiêu
chuẩn tự nguyện nhưng đến năm 2015, 100% diện tích SX rau tập trung phải
đáp ứng và đạt được chứng nhận VietGAP (QĐ107/2008/QĐ-TTg). Tính đến
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

tháng 1/2010, cả nước mới có 15 mô hình sản xuất áp dụng VietGAP được
chứng nhận.
Việt Nam là một nước đang phát triển, nên trong thời gian dài chúng ta
tập trung chủ yếu giải quyết vấn đề tăng năng suất, đảm bảo đủ nhu cầu lương
thực, thực phẩm. Tuy nhiên hiện nay, mục tiêu của người tiêu dùng đang yêu
cầu ngày càng cao các nông sản phải có chất lượng tốt và an toàn vệ sinh thực
phẩm. Thực tế rau an toàn của Việt Nam chưa đáp ứng được các yêu cầu tiêu
chuẩn quốc tế, do đó chỉ mới tiêu thụ chủ yếu trong nước. Để giải quyết vấn

đề trên, năm 2008 Bộ đã ban hành Quy định thực hành sản xuất nông nghiệp
tốt (VietGAP) trong sản xuất rau, quả, chè an toàn; Quyết định số
84/2008/QĐ-BNN về Quy chế chứng nhận VietGAP; Quyết định số
99/2008/QĐ-BNN về quản lý và kinh doanh rau, quả và chè an toàn. Thủ
tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 107/2008/QĐ-TTg về một số
chính sách hỗ trợ sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau, quả, chè an toàn nhằm tạo
động lực thúc đẩy áp dụng VietGAP vào sản xuất.
Ngành sản xuất rau của cả nước tăng mạnh trong những năm gần đây,
đặc biệt là sản xuất rau an toàn quy hoạch theo vùng, tỉnh thành. Theo Hiệp
hội Rau quả Việt Nam, diện tích canh tác quả năm 2011 hiện đạt khoảng 1,5
triệu ha, sản lượng gần 20 triệu tấn/năm, trong đó diện tích rau vào khoảng
trên 720.000 ha, năng suất trung bình đạt trên 165 tạ/ha, với sản lượng trên 12
triệu tấn/ năm. So với năm 2008 diện tích trồng rau là trên 718.000 ha, tăng
không lớn nhưng năng suất trung bình đã tăng khoảng 6 tạ/ha (năm 2008 là
159 tạ/ha). Không những năng suất rau trung bình tăng mà chất lượng rau
cũng dần tăng lên rõ rệt, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ rau trong nước và xuất
khấu. Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn hết năm 2011 các tỉnh
thành trong cả nước đều có quy hoạch vùng sản xuất rau, quả, chè an toàn tập
trung. 50% các tổ chức, cá nhân tại các vùng sản xuất an toàn bảo đảm đủ
điều kiện sản xuất, sơ chế sản phẩm phù hợp với VIETGAP, 30% lượng hàng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

nông sản tại các vùng này được chứng nhận hoặc tự đánh giá và công bố sản
xuất theo VIETGAP. Mục tiêu đến năm 2015, toàn bộ 100% lượng rau, quả,
chè tại các vùng sản xuất an toàn tập trung bảo đảm đủ điều kiện sản xuất, sơ
chế sản phẩm phù hợp với VIETGAP, 100% lượng hàng nông sản tại các
vùng này được chứng nhận hoặc tự đánh giá và công bố sản xuất theo
VIETGAP.
1.2. Sử dụng phân bón trong sản xuất rau

1.2.1. Các loại phân bón trong nông nghiệp
Phân bón là những chất chứa một hay nhiều nguyên tố dinh dưỡng cần
thiết với cây, được sử dụng cho cây trồng với mục đích không ngừng làm tăng
năng suất, chất lượng nông sản và độ phì nhiêu đất. Đây là một trong những
vật tư quan trọng và không thể thiếu cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp.
Có rất nhiều loại phân bón cho cây trồng nhưng xuất phát từ nguồn sản
xuất, nguồn khai thác, số lượng và cách thức bón… người ta có thể chia phân
bón thành 5 loại như sau:
Phân vô cơ: Phân vô cơ hay phân hóa học là các loại phân có chứa yếu
tố dinh dưỡng dưới dạng muối khoáng thu được nhờ các quá trình vật lý, hóa
học. Một số loại phân bón vô cơ thường gặp:
Phân đạm vô cơ:
• Phân Urea [ CO(NH
2
)
2
] có 46% N.
• Phân đạm sunfat còn gọi là đạm SA [ (NH
4
)
2
SO
4
] chưa 21% N.
• Phân clorua amon [ NH
4
Cl ] chứa 24 – 25 % N.
• Phân nitrat canxi [ Ca(NO
3
)

2
] chứa khoảng 13 - 15% N.
• Phân nitrat amon [ NH
4
NO
3
] chứa khoảng 35% N.
• Phân nitrat natri [ NaNO
3
] chứa khoảng 15 – 16% N.
• Phân cyanamit canxi [ CaCN
2
] chưa khoảng 20 – 21% N.
Phân lân:
• Phân super lân [Ca(H
2
PO
4
)] có chứa 16 – 20% P
2
O
5
.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

• Phân lân nung chảy Văn Điển Thermophosphat chứa 16% P
2
O

5
.
Phân Kali:
• Phân Kali clorua [ KCl ] có chứa 60% K
2
O.
• Phân Kali sunfat [ K
2
SO
4
] có chứa 48 – 50 % K
2
O.
Ngoài các loại phân trên, trên thị trường còn có các loại phân NPK hỗn hợp.
Phân hữu cơ: phân hữu cơ gồm các chất hữu cơ khi vùi vào đất được vi
sinh vật phân giải và có khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây.
Một số loại phân hữu cơ thường dùng bón cho rau gồm: phân bắc;
nước giải; phân gia súc, gia cầm; phân xanh; rác thải đô thị sau khi ủ thành
phân ủ; phế phẩm của công nghiệp chế biến thực phẩm và tàn dư thực vật vùi
trực tiếp vào đất.
Phân vi lượng: gồm các nguyên tố: Cu, Zn, Mn, B, Mo, Fe, Co…chúng
được bón ở dạng đơn hoặc hỗn hợp.
Phân phức hợp vi sinh: gồm chế phẩm vi sinh, phân vi sinh, phân hữu
cơ vi sinh và phân phức hợp hữu cơ vi sinh.
Phân bón lá: là hỗn hợp của một số phân đa lượng, vi lượng và chất
điều hòa sinh trưởng. Loại phân này dùng để phun lên lá, hoa quả và thân cây.
1.2.2. Sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp:
Phân bón là những chất cung cấp dinh dưỡng cho cây, là phương tiện
tốt nhất để tăng sản lượng và cải thiện chất lượng của lương thực, thực phẩm.
Dùng phân bón sẽ cho hiệu quả sản xuất cao nhất trên các loại đất, bổ xung

dinh dưỡng cho đất nhằm thoả mãn đòi hỏi của các cây trồng có tiềm năng về
năng suất, bù đắp chất dinh dưỡng mà cây dùng để sinh lợi hoặc đã bị rửa trôi,
khắc phục các điều kiện bất lợi hoặc duy trì các điều kiện thuận lợi cho cây
trồng. không nhữn đối với loại đất phì nhiêu hoặc đã được cải tạo mà ngay cả
với đất kém màu mỡ, cây trồng cũng đượng tăng trưởng tốt hơn (Lê Văn Chi,
2001). Theo số liệu của vụ Khoa học công nghệ và chất lượng sản phẩm, bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn, hiện có khoảng 1420 loại phân bón gồm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

6 nhóm chính là phân đơn, NPK, hữu cơ khoáng, vi sinh, trung lượng, vi
lượng và một nhóm gồm các loại phân còn lại.
Quy định sử dụng phân bón trong sản xuất rau an toàn là chỉ sử dụng
các loại phân hóa học trong danh mục phân bón được phép sản xuất kinh
doanh ở Việt Nam, phân hữu cơ đã qua xử lý và ủ hoai mục bảo đảm không
còn nguy cơ ô nhiễm hoá chất và vi sinh vật có hại. Không sử dụng các loại
phân có nguy cơ ô nhiễm cao như phân chuồng tươi, nước giải, phân chế biến
từ rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp để bón và tưới trực tiếp cho rau. Sử
dụng hợp lý và cân đối giữa các loại phân (hữu cơ, vô cơ) số lượng dựa trên
tiêu chuẩn cụ thể quy định trong các quy trình của từng loại rau, đặc biệt với
rau ăn lá phải kết thúc bón trước thu hái ít nhất là 14-15 ngày. Có thể sử dụng
bổ sung phân bón lá trong danh mục cho phép ở Việt Nam và phải theo đúng
hướng dẫn sử dụng; Hạn chế tối đa sử dụng các hóa chất kích thích và điều
hòa sinh trưởng cây trồng. Chỉ sử dụng phân bón qua lá, thuốc kích thích sinh
trưởng của các cơ quan đơn vị được phép sản xuất, đã được đưa vào danh
mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam, dùng đúng liều lượng và
kỹ thuật hướng dẫn; Tất cả các loại phân không bón gần thời điểm thu hoạch.
1.2.3. Sử dụng phân bón trong sản xuất rau
Nông dân Việt Nam sử dụng phân hữu cơ từ lâu. Trước giải phóng
miền Bắc nền nông nghiệp nước ta chủ yếu là nền nông nghiệp hữu cơ. Bình

quân mỗi vụ bón cho 1 ha cây trồng khoảng 5 – 6 tấn phân hữu cơ. Hiện nay
ước tính cũng chỉ bón được 5 – 6 tấn, trừ một số vùng thâm canh cao lượng
bón đạt trên 10 tấn/ha. Ở một số vùng do chăn nuôi giảm sút nên lượng bón
thấp hơn nhiều hoặc cấy chay không phân chuồng (Phạm Đình Quyền, 1995).
Những năm qua, bên cạnh phân hữu cơ từ chăn nuôi, nông dân đã kết
hợp với các nhà khoa học và nhà sản xuất đưa vào sử dụng nhiều loại phân
hữu cơ vi sinh để giảm bớt khó khăn do chăn nuôi hộ gia đình giảm. Qua thực
tế cho thấy, phân hữu cơ vi sinh cho hiệu quả tốt, không chỉ cung cấp đủ các
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

nguyên tố đa lượng đạm, lân, kali mà còn cung cấp các nguyên tố vi lượng
khác giúp cây trồng sinh trưởng và phát triển.
Việc sử dụng phân hóa học ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 60 của
thế kỉ 20 và chủ yếu là phân đạm. Những thí nghiệm bón phân đạm thực hiện
dưới thời Pháp thuộc cho thấy hiệu quả của phân đạm đem lại rất rõ ràng
(Nguyễn Vi, 1998).
Giai đoạn 1970 – 1980, phân hóa học chiếm hơn 40% tổng lượng phân
bón, lượng phân đạm bón ngày càng tăng. Người dân bắt đầu quan tâm tới
việc bón lân cho cây trồng. Lượng phân hóa học (NPK) trung bình chỉ 43,3
kg/ha vào năm 1974 – 1976.
Giai đoạn 1980 – 1990 người dân sử dụng phân hóa học khoảng 60 –
70% tổng lượng phân bón. Kali được người dân quan tâm sử dụng nhiều hơn.
Giai đoạn 1990 – 2000 lượng phân hóa học sử dụng chiếm 70 – 80%
tổng lượng phân bón. Phân hữu cơ ít được ưa chuộng. Theo thống kê của
FAO bình quân nước ta sử dụng 263 kg N, P
2
O
5
, K

2
O/ha đứng thứ 17 trên thế
giới. Tỉ lệ sử dụng N, P
2
O
5
, K
2
O thay đổi khá nhiều 1:0,188:0,018 năm 1991
và 1:0,372:0,228 năm 1999.
Giai đoạn 2000 đến nay lượng phân bón hóa học nhập vào nước ta tăng lên
đáng kể. Người dân ít quan tâm tới phân hữu cơ khi bón cho cây trồng. Các loại
phân NPK được ưa chuộng sử dụng. Tỉ lệ sử dụng N, P
2
O
5
, K
2
O năm 2000 là
1:0,516:0,378 đến năm 2005 là 1:0,541:0,398 và năm 2010 là 1:0,548:0,411.
Theo một số nhà khoa học thì lượng phân hoá học được sử dụng vào rau
ở Việt Nam không vào loại cao so với các nước trong khu vực và so với bình
quân trên toàn thế giới. Tuy nhiên ảnh hưởng của phân hoá học, nhất là đạm
với sự tích luỹ nitrat trong rau cũng là một nguyên nhân làm cho rau được
xem là không an toàn.
Theo đánh giá của Viện Dinh dưỡng Cây trồng Quốc tế (IPNI), phân bón
đóng góp khoảng 30-35% tổng sản lượng cây trồng. Việt Nam là một nước
nhập khẩu phân bón là chủ yếu, hàng năm phải nhập tới 90-93% phân đạm,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15


30-35% phân lân và gần 100 % phân kali, tuy nhiên trong nông nghiệp, nông
dân sử dụng phân bón rất lãng phí do chưa hiểu biết hết tác dụng của bón
phân cân đối và hợp lý. Chính vì vậy, hiện nay hiệu suất sử dụng phân đạm
mới chỉ đạt 35-40%, phân lân và kali đạt khoảng 50%. Vì thế việc sử dụng
phân bón cân đối và hợp lý là vấn đề rất quan trọng và cần thiết đối với nông
dân, đặc biệt là nông dân vùng trồng rau.
Theo Hoàng Minh Châu (1998), mọi ô nhiễm chỉ xẩy ra khi dùng phân
không đúng, thường là do dùng quá lượng phân vô cơ. Trong điều kiện thiếu
lương thực, thực phẩm thì mục tiêu chính của việc dùng phân bón là tạo ra
sản phẩm lượng cao dù chất lượng sản phẩm có thể bị giảm và có thể ảnh
hưởng không tốt đến môi trường. Nhưng khi sản xuất đã đủ đáp ứng nhu cầu
lương thực, thực phẩm hoặc đã dư ra thì vấn đề chất lượng sản phảm hoặc
ảnh hưởng của chúng đến ô nhiễm đất, nước, không khí phải có tầm quan
trọng ngang hoặc có khi hơn khối lượng sản phẩm tạo ra.
Về kỹ thuật bón phân thì trước đây, trong sản xuất người dân thường sử
dụng phân tươi để bón cho cây trồng vì họ nghĩ rằng phân tươi vừa có thể làm
cây trồng phát triển tốt lại vừa tận dụng được nguồn phân trong gia đình. Hiện
nay, vẫn còn một số người dân sử dụng phân tươi, còn lại không dùng phân
tươi nhưng với lý do là không còn phân tươi và vì ô nhiễm. Hầu hết người dân
chưa ý thức được trong phân tươi có chứa các vi sinh vật gây hại cho con
người. Vì vậy, không nên dùng phân tươi để bón cho rau.
Trong sản xuất rau thì phân đạm là loại phân quan trọng nhất. Nhưng
nếu bón quá nhiều đạm và không đảm bảo đúng thời gian cách ly ( >=15
ngày) sẽ tồn đọng dư lượng nitơrat trong rau gây bệnh ung thư ở người tiêu
dùng. Sản xuất rau hiện nay hầu hết không đảm bảo thời gian cách ly, nhiều
người sản xuất bón đạm gần sát ngày thu hoạch để rau non và xanh mướt, gây
hại cho người tiêu dùng. Do đó cần nâng cao nhận thức cho người sản xuất
trong cách sử dụng phân đạm nhằm giảm dư lượng nitorat trong rau.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16

1.3. Sử dụng thuốc Bảo vệ thực vật (BVTV) trong sản xuất rau
1.3.1. Các loại thuốc bảo vệ thực vật
Thuốc BVTV là những hợp chất độc có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng
hợp bằng con đường hóa học được dùng để phòng trừ sâu, bệnh, cỏ dại,
chuột,…hại cây trồng và nông sản được gọi chung là sinh vật hại cây trồng
hay dịch hại (Hà Quang Hùng, 1999).
Thuốc BVTV (sản phẩm nông dược) là những chế phẩm có nguồn gốc
hóa chất, thực vật, động vật, vi sinh vật, gồm các chế phẩm dùng để phòng trừ
sinh vật gây hại thực vật; các chế phẩm điều hòa sinh trưởng thực vật, chất
làm rụng hay khô lá; các chế phẩm có tác dụng xua đuổi hay thu hút các loài
sinh vật gây hại thực vật đến để tiêu diệt. (Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch
thực vật nước CHXHCN Việt Nam, ngày 25 tháng 7 năm 2001).
Như vậy, thuốc BVTV thường là những chế phẩm có nguồn gốc hóa
học hay sinh học và các chế phẩm khác dùng để phòng trừ dịch hại hay điều
khiển quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Các chế phẩm này
thường có nguồn gốc hóa học là chủ yếu, thường là những chất gây độc cho
con người và gia súc. Các chế phẩm có nguồn gốc sinh học mang tính độc
chuyên cao, ít gây hại cho người và gia súc nhưng giá thành lại cao nên ít
được sử dụng.
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) thuốc BVTV được chia thành 4 loại
căn cứ vào độ độc của thuốc:
 Nhóm I: rất độc, màu đen, phía trên, vạch màu đỏ, biểu tượng đầu
lâu xương chéo trong hình thoi vuông.
 Nhóm II: độ độc cao, màu đen, phía trên, vạch màu vàng, biểu tượng
chữ thập chéo đen trong hình thoi vuông.
 Nhóm III: nguy hiểm, chữ màu đen, vạch màu xanh nước biển, biểu
tượng đường chéo hình thoi vuông không liền nét.
 Nhóm IV: cẩn thận, màu đen, vạch màu xanh lá cây.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 17

Phân loại theo nguồn gốc chia ra: thuốc hóa học và thuốc sinh học.
Thuốc hóa học là các loại thuốc có nguồn gốc từ hóa học (vô cơ, hữu
cơ). Ưu điểm của loại thuốc này là có tác động nhanh đến sinh vật và rẻ tiền.
Tuy nhiên đây là những loại thuốc rất độc với con người, động vật máu nóng,
tồn dư lâu và tích lũy trong môi trường, dễ gây hại cho thực vật và quần thể
sinh vật trong lòng đất.
Thuốc sinh học là các loại thuốc có nguồn gốc chế xuất từ thảo mộc,
các loài sinh vật và sản phẩm do chúng sinh sản ra. Ưu điểm của nó là có độ
độc chuyên tính cao nhưng ít độc đối với các động vật máu nóng và bị phân
hủy hoàn toàn trong môi trường, rất an toàn với thực vật, thậm chí trong một
số trường hợp chúng còn kích thích cây phát triển. Tuy nhiên việc thu hái và
bảo quản nguyên liệu khó khăn nên giá thành đắt hơn so với thuốc hóa học.
Ngoài ra, người ta còn phân loại thuốc bảo vệ thực vật theo dạng (dạng
bột, dạng lỏng, dạng hạt) và theo nhiều tiêu chí khác nhau tùy theo mục đích
nghiên cứu và sử dụng (Nguyễn Trần Oánh, 2007).
Thuốc BVTV đóng một vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp
với nhiều ưu điểm nổi trội: Có thể diệt dịch bệnh nhanh, triệt để, đồng loạt
trên diện tích rộng và chặn đứng những chận dịch trong thời gian ngắn mà
biện pháp khác không thể thực hiện; đem lại hiệu quả phòng trừ rõ rệt, kinh
tế, bảo vệ năng suất cây trồng, cải thiện chất lượng nông sản và mang lại hiệu
quả kinh tế, đồng thời giảm được diện tích canh tác; đây là biện pháp dễ
dùng, có thể áp dụng ở nhiều vùng khác nhau đem lại hiệu quả ổn định và
nhiều khi biện pháp phòng trừ là duy nhất; làm tăng năng suất và chỉ tiêu cấu
thành năng suất; làm tăng sức chống chịu của cây với những điều kiện bất lợi
như chống rét, chống hạn, chống lốp đổ, tăng khả năng hút chất dinh dưỡng
và tăng khả năng chống chịu sâu bệnh (Lê Thị Phương Thảo, 2011).
1.3.2. Nguyên tắc sử dụng thuốc BVTV

Thực hiện triệt để các biện pháp phòng trừ tổng hợp trên cơ sở áp dụng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 18

quy trình quản lý dịch hại tổng hợp (I.P.M) trong hệ sinh thái ruộng rau. Bên
cạnh các biện pháp giống và canh tác, coi trọng biện pháp đấu tranh sinh học
(vai trò của các sinh vật có lợi). Áp dụng biện pháp phòng trừ thủ công, đặc biệt
là biện pháp bắt sâu, bắt bướm và diệt ổ trứng sâu vào thời điểm thích hợp, tiêu
huỷ các cây, bộ phận của cây bị bệnh. Sử dụng thuốc trừ sâu bệnh nguồn gốc
sinh học, biện pháp phòng trừ sinh học, nhất là đối với các loại rau ngắn ngày.
Bảo vệ, nhân nuôi và phát triển thiên địch trong các vùng trồng rau. Chỉ được
dùng các loại thuốc hóa học ít độc hại và phân giải nhanh khi cần thiết, sử dụng
đúng liều lượng, đảm bảo thời gian cách ly cho phép theo hướng dẫn của ngành
BVTV. Tuyệt đối không được dùng những thuốc BVTV đã cấm sử dụng, các
loại thuốc chưa có danh mục BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam. Hạn chế
tối đa việc sử dụng thuốc hoá học để phòng trừ sâu bệnh cho rau. Trường hợp
cần thiết phải sử dụng thuốc hoá học tuân thủ nguyên tắc 4 đúng:
+ Đúng chủng loại: chỉ sử dụng các loại thuốc thuộc danh mục thuốc
BVTV được phép sử dụng trên rau ở Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn ban hành.
+ Đúng liều lượng: sử dụng đúng nồng độ và liều lượng hướng dẫn
trên bao bì cho từng loại thuốc và từng thời gian sinh trưởng của cây trồng.
+ Đúng cách: áp dụng biện pháp phun xịt, tung vãi hoặc bón vào đất
theo đúng hướng dẫn của từng loại thuốc để đảm bảo hiệu quả, an toàn cho
người và môi trường.
+ Đúng thời gian: Sử dụng thuốc đúng thời điểm theo hướng dẫn để
phát huy hiệu lực của thuốc và tuân thủ thời gian cách ly được quy định cho
từng loại thuốc, từng loại rau.
1.3.3. Tình hình quản lý và sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất rau
Ở Việt Nam, thuốc BVTV thực sự có ý nghĩa trong sản xuất nông

nghiệp qua hơn 40 năm qua. Tuy lịch sử dụng thuốc BVTV ở nước ta chưa
dài song bước đi cũng giống như nhiều nước khác.

×