Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Đánh giá biến động dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cho sản xuất rau xã vân nội, huyện đông anh, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.08 KB, 51 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Rau là loại thực phẩm không thể thiếu được trong đời sống hằng ngày.
Cùng với thức ăn động vật, rau cung cấp những dinh dưỡng cần thiết cho sự
tồn tại và phát triển của con người. Tục ngữ có câu: “Cơm không rau như đau
không thuốc”. Rau cung cấp cho cơ thể những chất dinh dưỡng, đặc biệt là
các vitamin, các axít hữu cơ, chất khoáng… Theo tính toán của nhiều nhà
dinh dưỡng học, muốn cơ thể hoạt động bình thường cần cung cấp 2300-2500
kcal mỗi ngày, trong đó phải có 250-300 gam rau (tương đương với 7,5-8
kg/tháng hay 90-108 kg/năm – Trần Khắc Thi). Như vậy tổng nhu cầu rau của
nước ta sẽ là 7.650 – 9.180 nghìn tấn, tổng sản lượng rau các loại năm 2006
đạt 9.650 nghìn tấn. Chính vì thế, rau xanh trở thành một sản phẩm Nông
Nghiệp có giá trị kinh tế cao và có thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Với điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, Việt nam có thể sản xuất rau
quanh năm. Theo thống kê 2005, diện tích sản xuất rau ở nước ta vào khoảng
635,8 nghìn ha, sản lượng 9640,3 nghìn tấn, so với năm 1999 diện tích tăng
175,5 nghìn ha (tốc độ tăng bình quân 3,61%/ năm), sản lượng tăng 3071,5
nghìn tấn (tốc độ tăng bình quân 7,55%/năm). Trong đó rau ở miền bắc vào
khoảng 249,7 ngàn ha (chiếm 39,3% tổng diện tích) [4].
Hà Nội là một trong những địa phương sản xuất khá nhiều rau trong cả
nước. Tổng diện tích gieo trồng rau các loại của thành phố Hà Nội có 8,1
ngàn ha, năng suất đạt 186,2 tạ/ha, sản lượng 150,8 ngàn tấn. Do vậy, ngành
hàng rau của tỉnh có những ảnh hưởng nhất định tới toàn bộ hệ thống ngành
hàng rau của miền Bắc. Sản xuất rau một mặt đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu đang ngày càng tăng, mặt khác là giải pháp cho phép
thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp Việt Nam và
1
nâng cao thu nhập cho người dân, chuyển đổi hiệu quả và bền vững cơ cấu
cây trồng cũng như các điều kiện sản xuất.
Sản xuất rau đòi hỏi kỹ thuật thâm canh cao, do có nhiều loại sâu bệnh
gây hại nên mức sử dụng phân bón cũng như các loại thuốc BVTV ngày càng


gia tăng. Quá trình sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu chủ yếu là tự phát,
kinh nghiệm mà không theo một quy trình hướng dẫn nào. Vì vậy ngày càng
có nhiều loại sâu bệnh có tính kháng thuốc cao, là yếu tố buộc người sản xuất
phải đầu tư nhiều hơn. Điều này để lại những hậu quả nghiêm trọng ảnh
hưởng đến chất lượng rau, cũng như môi trường đất, nước, hệ sinh thái nông
nghiệp , trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Theo thống kê của tổ chức lao động quốc tế (ILO), ở Việt nam con số bị
ngộ độc do ăn rau là không nhỏ. Từ năm 1993 đến 6/1998, hàng chục ngàn
người bị nhiễm độc do ăn phải rau còn dư lượng thuốc trừ sâu cao. Nặng nhất
là ở ĐBSCL, năm 1995 có 1300 người nhiễm độc, trong đó có 354 người
chết. Hàng loạt vụ ngộ độc đã và đang xảy ra là hồi chuông cảnh báo tới các
cấp, các ngành và chính người sản xuất cũng như người tiêu dùng cần phải
quan tâm hơn nữa [20].
Đông Anh là một huyện ngoại thành, ở vị trí cửa ngõ phía Bắc của Thủ
đô Hà Nội, là một vùng trọng điểm nằm trong vùng đô thị lõi mở rộng trong
quy hoạch tổng thể thủ đô Hà Nội đến năm 2050 . Trong những năm vừa qua,
huyện đã có những bước phát triển vượt bậc. Trước năm 2009, thu nhập bình
quân đầu người khu vực nông thôn ước đạt dưới 15 triệu đồng/người/năm thì
đến hết năm 2012 đã tăng lên 22 triệu đồng/người/năm. Cơ sở hạ tầng kỹ
thuật được đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. [8].
Diện tích đất cho công nghiệp ngày một tăng, diện tích đất cho nông
nghiệp ngày càng thu hẹp. Trong khi yêu cầu đặt ra là đảm bảo nhu cầu lương
thực, thực phẩm cho huyện đã tạo ra sức ép khá lớn lên diện tích đất nông
nghiệp nhỏ hẹp này, đòi hỏi cần có những biện pháp kỹ thuật tác động để
2
nâng cao năng suất cây trồng trong khoảng thời gian ngắn. Tuy nhiên, thâm
canh cao trong nông nghiệp gắn liền với việc tăng cường sử dụng phân bón
hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ đã làm ảnh hưởng xấu tới môi trường
xung quanh.
Xã Vân Nội là xã nằm ở phía Tây huyện Đông anh - ngoại thành Hà nội.

Từ lâu, xã Vân Nội đã nổi tiếng là làng rau chuyên canh với diện tích khá lớn
của huyện, là nơi cung cấp rau cho thành phố Hà Nội và các vùng lân cận.
Nhu cầu thị hiếu của người dân về rau ngày càng gia tăng, rau bán trên thị
trường trước hết phải có mẫu mã đẹp, xanh, non, mà không bị sâu bệnh. Vì
vậy, đòi hỏi người sản xuất cần phải tăng hàm lượng sử dụng thuốc BVTV,
diệt trừ hết sâu bệnh để đảm bảo rau của mình dễ dàng được người dân sử
dụng. Tuy nhiên, việc lạm dụng thuốc BVTV trong sản xuất rau đã làm ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng thực sự của rau cũng như chất lượng môi trường
do lượng dư các hóa chất BVTV này, qua đó ảnh hưởng tới sức khỏe con
người.
Do vậy , việc tìm hiểu thực trạng sản xuất rau trong khu vực, thực trạng
sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất rau của xã và dư lượng của nó trong đất,
nước là điều rất quan trọng và hết sức cần thiết. Để từ đó đưa ra được những
biện pháp quản lý và kiểm soát cũng như các biện pháp kỹ thuật phù hợp
trong sản xuất rau vừa đáp ứng được nhu cầu rau trong khu vực, vừa đảm bảo
được chất lượng rau cũng như chất lượng môi trường xung quanh.
Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá biến động dư lượng thuốc Bảo vệ thực vật cho sản xuất rau
xã Vân Nội, huyện Đông Anh, Hà Nội .”
1.2.Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất rau tại xã Vân Nội,
huyện Đông Anh, Hà Nội.
3
- Đánh giá biến động của thuốc BVTV trong môi trường đất, nước của vùng
trồng rau của xã Vân Nội, huyện Đông Anh giai đoạn 2011 - 2013.
- Đề xuất ra một số giải pháp để nâng cao mức độ an toàn thuốc BVTV đối
với rau và bảo vệ môi trường sinh thái.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Thông tin thu thập về tình hình sử dụng thuốc BVTV trên địa bàn phải
chính xác, phù hợp với thực tế của địa phương.

- Các số liệu phân tích trong phòng thí nghiệm phải đảm bảo tính chính
xác và khoa học.
- Sử dụng đúng thông tư, nghị định, quy định hiện hành về thuốc BVTV,
các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường để đưa ra những kết quả đánh giá chính
xác về tình hình sử dụng thuốc BVTV trên địa bàn.
- Đưa ra những đề xuất giải pháp khả thi, phù hợp với tình hình thực tiễn
của xã.
4
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ RAU TRÊN THẾ GIỚI
2.2.1 Tình hình sản xuất rau trên thế giới
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm rau, bên cạnh
việc cải tiến không ngừng về giống, chủng loại rau, công nghệ sản xuất rau
trên thế giới cũng không ngừng được hoàn thiện nhằm nâng cao năng suất và
sản lượng rau xanh. Đồng thời kiểm soát triệt để hơn hàm lượng kim loại
nặng, nitrat, vi sinh vật, cũng như dư lượng thuốc BVTV có hại đối với sức
khỏe con người. Vì thế, năng suất và sản lượng rau trên thế giới các năm đã
tăng lên rõ rệt. Theo số liệu thống kê năm 2001 của FAO sự gia tăng đó được
thể hiện qua bảng 2.1
Qua bảng 2.1 ta thấy: từ năm 1997 – 2001, năng suất rau của Châu Á
luôn đạt mức cao hơn so với năng suất chung của thế giới. Cụ thể, năm 1997
năng suất rau của Châu Á là 163,47 tạ/ha (tương đương 101,50% của toàn thế
giới), năng suất rau cuat thế giới chỉ đạt mức 161,06 tạ/ha. Năm 2001, tỷ lệ
năng suất rau của Châu Á so với thế giới đạt cao nhất qua 5 năm với
101,65%, năng suất rau của Châu Á là 164,95 tạ/ha, trong khi đó năm suất rau
của thế giới chỉ đạt 162,27 tạ/ha. Diện tích trồng rau qua các năm trên thế giới
và của Châu Á ngày càng tăng nhanh; tương đương năm 1997 là 37,759 triệu
ha và 25,003 triệu ha; đến năm 2001 đã là 43,023 ha và 29,539 triệu ha.
Sản lượng rau của toàn thế giới và Châu Á qua các năm tăng lên rõ rệt;
tương đương đạt 608,146 triệu tấn và 408,724 triệu tấn vào năm 1997; đạt

698,134 triệu tấn và 487,246 triệu tấn vào năm 2001. Ta cũng nhận thấy Châu
Á luôn là châu lục chiếm tỷ lệ đa số về cả diện tích, năng suất và sản lượng
rau của toàn thế giới.
5
Bảng 2.1. Diện tích, năng suất, sản lượng rau của Châu Á
Năm Chỉ tiêu
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
1997
+Toàn thế giới
+ Châu Á
+ * Tỷ lệ (%)
37,759
25,003
66,21
161,06
163,47
101,50
608,146
408,724
67,21
1998
+Toàn thế giới
+ Châu Á
+ * Tỷ lệ (%)
39,740

26,745
67,30
158,79
159,85
100,67
631,031
427,519
67,75
1999
+Toàn thế giới
+ Châu Á
+ * Tỷ lệ (%)
41,558
28,087
67,59
160,65
160,82
100,11
667,629
451,695
67,66
2000
+Toàn thế giới
+ Châu Á
+ * Tỷ lệ (%)
42,442
28,883
68,05
163,02
165,22

101,35
691,889
477,205
68,97
2001
+Toàn thế giới
+ Châu Á
+ * Tỷ lệ (%)
43,023
29,539
68,66
162,27
164,95
101,65
698,134
487,246
69,79
* Tỷ lệ (Châu Á/Thế giới )% Nguồn FAO – Databases,
2002
Riêng ở Châu Á, sản lượng rau năm 2001 đạt khoảng 487,246 triệu tấn.
Trong đó, Trung Quốc là nước có sản lượng rau cao nhất, đạt 70 triệu
tấn/năm; thứ 2 là Ấn Độ với sản lượng rau đạt 65 triệu tấn/năm. Nhìn chung,
mức tăng trưởng sản lượng rau Châu Á qua các năm đạt khoảng 3%/năm,
tương đương khoảng 5 triệu tấn/năm.
6
2.1.2 Tình hình tiêu thụ rau trên thế giới
Rau được dùng kết hợp với các loại hoa quả thực phẩm rất tốt cho sức
khoẻ do có chứa các loại vitamin, các chất chống ôxi hoá tự nhiên, có khả
năng chống lại một số bệnh như ung thư. Do vậy nhu cầu tiêu thụ rau quả
ngày càng tăng. Người dân Nhật Bản tiêu thụ rau quả nhiều hơn người dân

của bất cứ quốc gia nào trên thế giới, mỗi năm Nhật Bản tiêu thụ 17 triệu tấn
rau các loại, bình quân mỗi người tiêu thụ 100 kg/năm. Xu hướng hiện nay là
sự tiêu thụ ngày càng nhiều các loại rau tự nhiên và các loại rau có lợi cho sức
khoẻ. Trung bình trên thế giới mỗi người tiêu thụ 154 - 172g/ngày (FAO,
2006 [FAO start database, 2006]). Theo dự báo của Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ
(USDA) do tác động của các yếu tố như sự thay đổi cơ cấu dân số, thị hiếu
tiêu dùng và thu nhập dân cư, tiêu thụ nhiều loại rau sẽ tăng mạnh trong giai
đoạn 2005 - 2010, đặc biệt là rau ăn lá. Việc tiêu thụ rau diếp và các loại rau
ăn lá khác tăng 22 - 23%, trong khi mức tiêu thụ khoai tây và các loại rau ăn
củ chỉ tăng 7 - 8 %.
2.2 THỰC TRẠNG SẢN XUẤT, TIÊU THỤ RAU Ở VIỆT NAM
2.2.1 Tình hình sản xuất rau tại Việt Nam
Nước ta có lãnh thổ dài trên 15 vĩ độ địa lý với địa hình không bằng
phẳng đã hình thành nên nhiều vùng sinh thái có đặc thù riêng. Nằm ở vùng
Đông Nam Á, Việt Nam có khí hậu nhiệt đới, gió mùa với tiềm năng nhiệt và
bức xạ khá phong phú, nước ta có 4 vùng trồng rau lớn với những đặc trưng
sinh thái đặc sắc [3]; [19].
1) Vùng rau Á nhiệt đới Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai), Đà Lạt (Lâm Đồng):
khí hậu quanh năm có nền nhiệt độ thấp, mùa đông lạnh với nhiệt độ tối thấp
khoảng 4 – 5
0
C, đôi khi xuống dưới 0
0
C rất thích hợp cho sự sinh trưởng và
phát triển của các loại rau có nguồn gốc ôn đới.
2) Vùng rau nhiệt đới có mùa đông lạnh Đồng bằng và Trung du Bắc bộ:
khí hậu có 4 mùa rõ rệt, mỗi mùa cho phép trồng một số loại rau thích hợp,
7
hình thành các vụ rau khác nhau. Vụ Xuân trồng các loại rau ít chịu nóng như
rau cải, rau cần, ngô rau…Vụ Hè phù hợp cho các loại rau chịu nóng và ưa

nước như rau muống, cà pháo…Vụ Thu trồng các loại rau ít chịu lạnh như su
hào, cà chua, còn vụ Đông phù hợp với các loại rau chịu lạnh như súp lơ, bắp
cải, khoai tây…
3) Vùng nhiệt đới có mùa hè khô nóng Nam Trung Bộ (Ninh Thuận,
Bình Thuận): phù hợp với các loại rau đặc thù như các loại dưa và đặc biệt là
tỏi, hành tây.
4) Vùng nhiệt điển hình Nam Bộ với khí hậu hàng năm chia thành 2 mùa
rõ rệt là mùa mưa và mùa khô nên có thể trồng các loại rau ưa nước trong
mùa mưa và cây chịu hạn trong mùa khô [4].
Đầu thập kỷ 90, diện tích trồng rau của Việt Nam phát triển nhanh chóng
và ngày càng có tính chuyên canh cao. Ở các tỉnh phía bắc, diện tích trồng rau
vụ đông năm 2005 đạt 137,4 nghìn ha( bằng 95.5%), năng suất đạt 153,5
tạ/ha(tăng 5,6%) và sản lượng đạt 2,1 triệu tấn(tăng 1,1%) so với vụ đông
năm 2004 các tỉnh phía nam, năm 2006 gieo trồng được khoảng 235,182 ha
rau các loại, tăng 22,959 ha so với năm 2005 và tăng chủ yếu ở khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long( 20.504 ha). Năng suất bình quân là 154,85 tạ/ha, sản
lượng đạt 3.641.896 tấn, tăng hơn năm 2005 là 363.837 tấn [2].
Tính đến năm 2009, diện tích trồng rau cả nước là 735.335 ha, năng suất
đạt 161,6 tạ/ha, sản lượng đạt 11.885.067 tấn, tăng 30,02 % so với năm
2001( 514.600 ha), tăng gấp đôi so với 10 năm trước( năm 1996 à 342,6 nghìn
ha).đây là một trong nhóm cây trồng có tốc độ tăng diện tích gieo trồng nhanh
nhất trong một thập kỷ qua [18].
8
Bảng 2.2. Diện tích, sản lượng rau ở Việt Nam phân theo địa phương
TT
Địa phương
2007 2008 2009
Diện
tích
(ha)

Sản lượng
(tấn)
Diện
tích
(ha)
Sản lượng
(tấn)
Diện
tích
(ha)
Sản lượng
(tấn)
Cả nước 706.479 1.1084.655 722.580 1.1510.700 735.335 11.885.067
I Miền Bắc 335.835 4.889.834 339.534 5.002.330 330.578 4.956.667
1. ĐBSH 160.747 2.996.443 156.144 2.961.669 142.505 2.832.753
2 ĐB 82.543 947.143 85.948 1.018.904 89.359 1.084.037
3 TB 15.563 179.419 16.681 195.605 18.093 211.852
4 BTB 76.982 766.829 80.761 826.152 80.620 828.024
II Miền Nam 370.644 6.194.730 383.046 6.510.387 404.757 6.928.400
1 NTB 47.427 708.316 46.646 695.107 49.459 713.473
2 TN 61.956 1.274.728 67.075 1.482.361 74.299 1.635.944
3 ĐNB 69.723 892.631 70.923 940.225 73.094 1.014.715
4 ĐBSCL 191.538 3.319.055 198.402 3.392.694 207.905 3.564.268

Nguồn: Tổng cục thống kê 2008 - 2010
Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu rau quả và Viện quy hoạch và thiết
kế nông nghiệp, những năm gần đây các loại rau được xác định có khả năng
xuất khẩu là cà chua, dưa chuột, đậu rau, ngô rau…phát triển mạnh cả về quy
mô và sản lượng, trong đó sản phẩm hàng hóa chiếm tỷ trọng cao [7].
Hiện nay rau được sản xuất theo 2 phương thức tự cung tự cấp và sản

xuất hàng hóa, trong đó rau hàng hóa tập trung chính ở 2 khu vực:
- Vùng rau chuyên canh tập trung ven thành phố, khu tập trung đông dân
cư. Sản phẩm chủ yếu cung cấp cho dân phi nông nghiệp, với nhiều chủng
loại rau phong phú (gần 80 loài với 15 loài chủ lực), hệ số sử dụng đất cao
(4,3 vụ/năm), trình độ thâm canh của nông dân khá, song mức độ không an
toàn của sản phẩm rau xanh và ô nhiễm môi trường canh tác rất cao.
- Vùng rau luân canh: đây là vùng có diện tích, sản lượng lớn, cây rau
được trồng luân canh với cây lúa hoặc một số cây màu. Tiêu thụ sản phẩm rất
9
đa dạng: phục vụ ăn tươi cho dân cư trong vùng, ngoài vùng, cho công nghiệp
chế biến và xuất khẩu.
Sản xuất rau theo hướng nông nghiệp công nghệ cao đã bước đầu được
hình thành như: sản xuất trong nhà màn, nhà lưới chống côn trùng, sản xuất
trong nhà plastic không cố định để hạn chế tác hại của các yếu tố môi trường
bất lợi, trồng rau bằng kỹ thuật thủy canh, màng dinh dưỡng, nhân giống và
sản xuất các loại cây quý hiếm, năng suất cao bằng công nghệ nhà kính của
Israel có điều khiển kiểm soát các yếu tố môi trường [22].
2.2.2 Tình hình tiêu thụ rau tại Việt Nam
Nhìn chung, ngành trồng rau đã đóng góp một khối lượng sản phẩm đáng
kể cho xuất khẩu ở nước ta. Từ năm 1957, rau quả Việt Nam đã có mặt tại
Trung Quốc. Thời kỳ 1986 – 1990, thực hiện Hiệp định hợp tác đã ký giữa hai
Chính phủ Việt Nam và Liên Xô cũ (01/1985) về xuất khẩu sản phẩm rau quả
sang Liên Xô, một khối lượng lớn rau đã được bán, góp phần không nhỏ vào
kim ngạch xuất khẩu cho đất nước.
Bảng 2.3. Kim ngạch xuất khẩu rau quả năm 1990 – 2004 (Triệu USD)
Năm Kim ngạch Năm Kim ngạch
1990 52,3 1997 68,2
1991 33,3 1998 53,0
1992 32,2 1999 104,9
1993 23,6 2000 213,126

1994 20,8 2001 329,972
1995 56,1 2002 218,521
1996 102,2 2003 182,554
Nguồn: Tổng cục thống kê, 1997
Tính đến năm 2002, nước ta có khoảng 60 cơ sở chế biến rau quả với
tổng công suất 290.000 tấn sản phẩm/năm, trong đó,doanh nghiệp nhà nước
chiếm khoảng 50%, doanh nghiệp tư nhân 16% và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài 34%. Ngoài ra còn hàng chục ngàn hộ gia đình làm chế biến
rau quả với quy mô nhỏ [19].
10
Hiện nay, sản phẩm rau tươi được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường trong
nước còn sản phẩm chế biến thì lại chiếm tỷ lệ không đáng kể. Năm 2005, rau
quả chế biến xuất khẩu chỉ đạt 235 triệu USD, trong đó phần lớn là sản phẩm
quả chế biến. Sản phẩm rau xuất khẩu rất hạn chế về chủng loại, hiện chỉ có
một số chủng loại như cà chua, ngô ngọt, ngô rau, ớt, dưa hấu…ở dạng sấy
khô, đóng lọ, đóng hộp, muối mặn, cô đặc, đông lạnh và chỉ có một số là xuất
khẩu tươi.
Hội thảo “Trái cây Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh
tế quốc tế” tại Mỹ Tho, ngày 20 tháng 04 năm 2010 cho thấy kim ngạch xuất
khẩu từ năm 2004 đến nay tăng trưởng khá đều. Ước tính chung 6 năm (2004
– 2009) tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả đạt 1,82 tỷ USD, tăng trưởng bình
quân đạt 20%/năm
Cụ thể: năm 2004:179 triệu USD; năm 2005: 235 triệu USD; năm 2006:
259 triệu USD; năm 2007: 306 triệu USD; năm 2008: 407 triệu USD; năm
2009: 439 triệu USD.
Hình 2.1. Giá trị kim ngạch xuất khẩu rau qua các năm 2004 - 2009
Nhà xuất khẩu đã chịu đầu tư mở rộng tìm kiếm nghiên cứu thị trường
xuất khẩu, đến nay sản phẩm rau quả đã có mặt rại 50 quốc gia trên thế giới,
trong đó chủ yếu là Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hà Lan, CHLB Nga, Đài
Loan…

11
Đa số các doanh nghiệp xuất khẩu nhận thức được tầm quan trọng về quản lý
chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, một số lớn doanh nghiệp chế biến
xuất khẩu đã được chứng nhận HACCP, ISO, BRC, Kosher, Halal…Doanh nghiệp
cũng rút nhiều kinh nghiệm, quen dần tập quán mua bán hàng hóa của các thị
trường chính: EU, hoa Kỳ, Trung Đông, biên mậu phía Bắc…Sản phẩm rau quả
Việt Nam xuất khẩu ngày càng đa dạng hơn, mới lạ hơn [6].
2.2. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC BVTV CHO SẢN XUẤT RAU
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.2.1. Những hiểu biết chung về thuốc BVTV
2.2.2.1. Khái niệm về thuốc BVTV
Để đáp ứng nhu cầu lương thực ngày càng tăng do việc bùng nổ dân số,
cùng với xu hướng đô thị hóa và công nghiệp hóa ngày càng mạnh, con người
chỉ có cách duy nhất: Thâm canh để tăng sản lượng cây trồng. Khi thâm canh
cây trồng, một hậu quả tất yếu không thể tránh được là mất cân bằng sinh
thái, kéo theo sự phá hoại của dịch hại ngày càng tăng. Để giảm thiệt hại do dịch
hại gây ra, con người phải đầu tư thêm kinh phí để tiến hành các biện pháp phòng
trừ, trong đó biện pháp sử dụng thuốc bảo vệ thực vật được coi là quan trọng [14].
Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hay nông dược là những chất độc có
nguồn gốc tự nhiên hay hóa chất tổng hợp được dùng để bảo vệ cây trồng và
nông sản, chống lại sự phá hoại của những sinh vật gây hại đến tài nguyên
thực vật. Những sinh vật gây hại chính gồm sâu hại, bệnh hại, cỏ dại, chuột và
các tác nhân khác [20].
Thuốc BVTV là những hợp chất hóa học (vô cơ, hữu cơ), những chế
phẩm sinh học (chất kháng sinh, nấm, vi khuẩn, siêu vi trùng, tuyến trùng…),
những chất có nguồn gốc thực vật, động vật, được sử dụng để bảo vệ cây
trồng và nông sản, chống lại sự phá hoại của các sinh vật gây hại (côn trùng,
nhện, tuyến trùng, chim, chuột, thú rừng, nấm, vi khuẩn, rong rêu, cỏ dại…).
Theo quy định tại điều 1, chương 1, điều lệ quản lý thuốc BVTV (ban hành
12

kèm theo Nghị định số 58/2002/NĐ – CP ngày 03/06/2002 của Chính phủ),
ngoài tác dụng phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật, thuốc BVTV
còn bao gồm cả những chế phẩm có tác dụng điều hòa sinh trưởng thực vật,
các chất làm rụng lá, làm khô cây, giúp cho việc thu hoạch mùa màng bằng cơ
giới được thuận tiện (thu hoạch bông vải, khoai tây bằng móc…). Những chế
phẩm có tác dụng xua đuổi hoặc thu hút các loài sinh vật gây hại tài nguyên
thực vật đến để tiêu diệt. Trong các nhóm thuốc BVTV trên đây được sủ dụng
phổ biến hơn cả là thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh và thuốc trừ cỏ dại. Tuy
nhiên, , các nhóm thuốc BVTV chỉ tiêu diệt được một số loài dịch hại nhất
định, chỉ phát huy hiệu quả tối ưu trong những điều kiện nhất định về thời
tiết, đất đai, cây trồng, canh tác…[1].
2.2.2.2. Phân loại HCBVTV
* Phân loại dựa vào đối tượng phòng chống
Nguyễn Trần Oánh, Nguyễn Văn Viên (1996) [13] và Lê Trung (1997)
[21], phân loại như sau:
- Thuốc trừ sâu (Insecticides)
- Thuốc trừ nấm và vi khuẩn (Fungicides, Bactericides)
- Thuốc diệt loài gặm nhấm (Rodenticdes, Zoocides)
- Thuốc trừ ký sinh trùng (Acarcides, Miticides)
- Thuốc trừ cỏ dại và cây dại (Herbicides, Arboricides)
- Thuốc gây rụng lá (Defulicumts)
- Chất điều hòa sinh trưởng (Growth regulators).
* Phân loại dựa theo con đường xâm nhập
Nguyễn Trần Oánh, Nguyễn Văn Viên (1996) [13] phân loại như sau:
- Thuốc có tác dụng tiếp xúc: là những loại thuốc có thể gây độc cho cơ
thể sinh vật khi chúng xâm nhập qua da.
- Thuốc có tác dụng vị độc: gây độc cho cơ thể sinh vật khi chúng xâm
nhập qua con đường tiêu hóa.
13
- Thuốc xông hơi: là thuốc có khả năng bốc hơi đầu độc bầu không khí

bao quanh dịch hại và xâm nhập vào cơ thể sinh vật qua hệ hô hấp.
- Thuốc nội hấp: là những thuốc có khả năng xâm nhập vào cây qua thân,
lá hoặc rễ và được dịch chuyển trong cây.
- Thuốc có tác dụng thấm sâu: là những thuốc có khả năng xâm nhập qua
biểu bì lá cây và thấm sâu vào lớp tế bào nhu mô.
* Phân loại dựa vào nguồn gốc, cấu trúc hóa học
Phùng Minh Phong, 2002, [15] dựa vào nguồn gốc, cấu trúc hóa học,
người ta phân các HCBVTV thành 11 nhóm chính, các thuốc còn lại thuộc
nhóm 12.
- Nhóm 1: lân hữu cơ gồm Diazinon, Dichlorovos, Trichlofon…
- Nhóm 2: Clo hữu cơ gồm Lindan, DDT 2, 4 – D, Thiodan…
- Nhóm 3: Các hợp chất chứa axit Phenoxy alkanic.
- Nhóm 4: Các hợp chất Cacbon mạch thẳng, mạch vòng và chế phẩm.
- Nhóm 5: Carbamat gồm Carbaryl, Carbofran…
- Nhóm 6: Dithiocarbamat gồm Cartap (Padan)…
- Nhóm 7: Các hợp chất Nitro mạch vòng.
- Nhóm 8: Triazin.
- Nhóm 9: Các hợp chất chứa Nitơ
- Nhóm 10: Các hợp chất vô cơ.
- Nhóm 11: Các hợp chất chứa Ure.
- Nhóm 12: Các loại thuốc còn lại.
Ngoài 3 cách phân loại trên còn có nhiều cách phân loại khác nhằm phục
vụ cho mục đích sử dụng hay nghiên cứu.
Theo Nguyễn Trần Oánh, Nguyễn Văn Viên (1996), [13] thì việc phân
loại như trên mang tính quy ước vì một loại thuốc có thể trừ được nhiều loại
dịch hại, chúng lại có khả năng xâm nhập khác nhau vào cơ thể sinh vật và
14
trong phân tử của chúng lại có các nhóm nguyên tố hay các nguyên tố mà
người ta xếp chyungs vào những nhóm khác nhau.
2.2.2. Tình hình sử dụng thuốc BVTV trên thế giới

Trong sản xuất nông nghiệp, ngoài nước tưới, phân bón, giống là 3 yếu
tố tạo năng suất và sản lượng cây trồng cao thì thuốc BVTV cũng rất quan
trọng.
Thuốc BVTV có thể được coi như sử dụng đầu tiên là dung dịch huyền
phù Boocđo (1881). Trong một thời gian dài, người ta dùng các chất vô cơ
như HCN, Đồng Asenat, Chì Asenat…làm thuốc trừ dịch hại cây trồng.
Theo một số tác giả thì từ năm 1013 ở Đức, hợp chất thủy ngân hữu cơ
đầu tiên được sử dụng để bảo quản hạt giống. Năm 1924, Zeidler đã tổng hợp
được DDT nhưng phải đến năm 1939, Muler mới phát hiện ra khả năng diệt
sâu hại của nó. Điều đó đặt nền móng cho việc sử dụng các hợp chất hữu cơ,
hữu cơ – vô cơ vào mục đích làm HCBVTV. Sau đó là các hợp chất Clo hữu
cơ, Carbamat, các hợp chất Photpho hữu cơ được phát hiện và dùng rộng rãi ở
nhiều nước trên thế giới.
Năm 1972, người ta đã thành công trong việc sản xuất từ cây cỏ tự nhiên
nhóm hoạt chất Pyrethroid, đây là nhóm hóa chất diệt côn trùng mới và có ý
nghĩa hết sực quan trọng. Trong những năm của thập kỷ 70 – 80, có nhiều
HCBVTV mới được ra đời, những hợp chất này có hiệu quả ở nồng độ thấp
hơn các loại trước đây. Tiêu biểu của thế hệ mới này là chất diệt cỏ Sulfonyl
urealaxyl và Triadimefon (Phùng Minh Phong) [15].
Tác hại của sâu bệnh, nấm, vi khuẩn…rất lớn không thể lường trước
được. Người ta đã dự tính tác hại của sâu bệnh, cỏ dại, vi khuẩn lên đến 46%
tiềm năng năng suất lúa thế giới (Cramer, 1967). Riêng Châu Á thiệt hại đến
51,6% và riêng ở Mỹ hàng năm thiệt hại khoảng 80 tỷ đôla. Thuốc BVTV đã
thực sự được đánh giá cao, được ghi nhận vai trò của mình trong sản xuất
15
nông nghiệp. Theo Viện lúa quốc tế (IRRI), trong thí nghiệm nhờ sử dụng
thuốc BVTV mà đã bội thu được 2,7 tấn/ha, đó là kết quả nghiên cứu dài hạn
từ 1964 – 1971 (Pathak và Dyek, 1974).
Theo Phùng Minh Phong (2002) [15], ngày nay trên thế giới đang
khuyến khích dùng các biện pháp sinh học và phòng trừ tổng hợp để bảo vệ

cây trồng nhằm hạn chế sử dụng các hóa chất BVTV có hại cho môi trường.
Tuy nhiên, hóa chất BVTV vẫn được sử dụng nhiều về số lượng và chủng
loại. Có khoảng 90% lượng hóa chất BVTV được sử dụng trong nông nghiệp,
còn lại được sử dụng trong y tế.
Ngày nay, thế giới có khoảng 900 – 1000 loại thuốc chính với khoảng
5000 loại dẫn xuất khác nhau. Số lượng thuốc BVTV trên toàn cầu đạt tới
hàng triệu tấn (thống kê điều tra 1990 – 1991 là 25 triệu tấn). Các nhà khoa
học đã nghiên cứu tình hình sử dụng hóa chất BVTV cho rằng, tiêu thụ thuốc
BVTV trên toàn cầu năm 1985 khoảng 3 triệu tấn, trong những năm gần đây
con số này tăng lên rất nhiều. Đối với các nước phát triển như Mỹ, Tây Âu,
Nhật Bản sử dụng khoảng 20%, còn các nước đang phát triển sử dụng 10%
tổng số hóa chất BVTV.
Vấn đề tác hại của hóa chất BVTV là không nhỏ, tại các nước nghèo,
trình độ dân trí thấp đã có hơn 100.000 người chết vì ngộ độc hóa chất BVTV
trong nguồn nước và trong thực phẩm. Ngoài ra có khoảng 400.000 người
khác bị ảnh hưởng đến sức khỏe. Theo tổ chức sức khỏe thế giới ước tính thì
hàng năm có khoảng 3% nhân lực nông nghiệp bị nhiễm độc hóa chất BVTV
theo nhiều con đường khác nhau [12].
2.2.3. Thực trạng sử dụng thuốc BVTV cho rau tại Việt Nam
Ở Việt Nam, thuốc BVTV thực sự có ý nghĩa trong sản xuất nông nghiệp
trong hơn 40 năm qua (miền Bắc từ năm 1956 và miền Nam từ năm 1962).
16
Tuy lịch sử sử dụng thuốc BVTV ở nước ta chưa dài song bước đi cũng giống
như nhiều nước khác [5].
Thời gian đầu, từ cuối những năm 50 đến cuối thập kỷ 60, thuốc BVTV
mới được đưa vào sản xuất nhưng người ta hết lòng ca ngợi chúng, do đó đã
nảy sinh tình trạng lạm dụng thuốc. Theo số liệu của chi cục BVTV, năm
1990 nước ta chỉ sử dụng khoảng 10.000 tấn thuốc BVTV, đến năm 1998
lượng này đã tăng lên gấp 3 lần tức 30.000 tấn hóa chất BVTV. Có 30% cơ sở
kinh doanh thuốc BVTV không có giấy phép tiếp sức cho việc lạm dụng

thuốc tràn lan. Theo viện BVTV 1998, tại Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hải
Dương…Monitor, Wofatox bị cấm trên rau nhưng người dân vẫn sử dụng với
lượng khá lớn, gấp 6,45 lần/vụ với rau họ thập tự, trên đậu đỗ là 5,73 lần/vụ.
Về chủng loại, người dân dừng phổ biến 30 loại, trong đó, ở miền bắc là 13
loại, miền nam là 17 loại chỉ dùng cho rau [17].
Cho đến năm 2002 đã có 354 hoạt chất với 1113 tên thuốc thương phẩm
đang được phép lưu hành. Trên các chánh đồng rau vùng Hà Nội, Vĩnh Phúc,
Hà Tây thì các loại thuốc trừ sâu thuộc nhóm lân hữu cơ được dùng phổ biến.
Tỷ lệ các loại thuốc BVTV được sử dụng trên rau ở Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hà
Tây được thể hiện trong bảng 2.4:
17
Bảng 2.4. Tỷ lệ các loại thuốc BVTV được sử dụng trên rau họ HTT vùng
Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hà Tây 1997 – 2001
Tên hoạt chất
Tên thương
phẩm
Tỷ lệ hoạt chất của các loại TTS
sử dụng trên rau họ HTT (%)
1997 – 1998 1999 – 2001
* Nhóm Lân hữu cơ
Methamidophos Monitor 50 DD,
70 DD
26,18 20,70
Dimethoate Bi 58 3,16 -
Trichlorfon +
Fenotrothion
Ofatox 400EC 10,88 9,16
* Nhóm Carbarmat
Cartap Padan 95SP 10,46 8,84
* Nhóm Pyrethriod và hỗn hợp Pyrethriod và Lân hữu cơ

Pyrethriod Decis, Sherpa 18,42 17,29
Hỗn hợp Polytrin
P440 EC
7,18 6,76
Các loại (Bt) + kháng
sinh
7,52 11,82
* Các loại khác
Fipronil Regent 800 WG 10,52 16,45
Diafenthiuron Pegasus 500 SC 5,68 9,46
Thuốc thảo mộc - - 0,42

Nguồn: Trần Duy Quý, Nguyễn Văn Sơn, 2002.
Qua bảng cho thấy: lượng hoạt chất Methamidophos sử dụng trong vụ
rau từ tháng 9/1999 đến tháng 4/2001 chiếm 20% tổng số hoạt chất thuốc trừ
sâu (TTS) dùng trên rau họ hoa thập tự (HTT). Padan 95 SP (Cartap) cũng
được sử dụng khá phổ biến trên các loại rau họ hoa thập tự.
Do thói quen và tâm lý sợ mất mùa nên đa số nông dân chỉ dùng những
loại TTS gây chết nhanh. Ngược lại nhiều loại thuốc trừ sâu sinh học như Bt,
18
có hiệu lực trừ sâu cao, ít độc hại với người và vật nuôi nhưng lại chỉ có ít
người sử dụng chỉ chiếm 11,82%.
Tình trạng buôn bán hóa chất, đặc biệt là thuốc BVTV trên thị trường rất
phức tạp. Theo thống kê, trên thị trường có khoảng 22000 cửa hàng buốn bán
thuốc BVTV, trung bình mỗi tỉnh có 400 – 500 của hàng, rải đều trên diện
rộng ở tất cả các xã, phường vùng sâu vùng xa nên việc quản lý là rất khó
khăn. Là mặt hàng hạn chế kinh doanh nhưng theo thống kê của cục BVTV,
hiện nay mới chỉ có 80% cá nhân buôn bán thuốc được cấp chứng chỉ hành
nghề. 20% hoạt động buôn bán không có chứng chỉ, chủ yếu tập trung ở các
của hàng nhỏ lẻ, vùng sâu, vùng xa rất khó kiểm soát [16].

Thời gian cách ly thuốc BVTV là 1 vấn đề lớn nhất trong giai đoạn hiện
nay. Ở nước ta, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đó là cần có thời gian cách
ly sau khi sử dụng thuốc BVTV trên rau và các loại cây thực phẩm khác.
Theo điều tra của cục BVTV, hầu hết nông dân đều vi phạm thời gian cách ly
theo quy định sau khi phun thuốc. Sự vi phạm lớn nhất là trên nhóm rau ăn
quả như cà chua, đậu đỗ, tiếp theo là đến các loại rau ăn lá.
Bảng 2.5. Thực trạng thời gian cách ly thuốc BVTV đối với rau
Địa điểm
Số hộ
điều
Tỷ lệ (%) số hộ nông dân thực hiện ở
khoảng thời gian cách ly (ngày)
1 – 3 4 – 6 7 – 10 11 – > 15
19
15
Trên rau ăn lá
Minh Khai, Từ Liêm 58 6,9 37,9 25,9 13,8 15,5
Tiền phong, Mê Linh 73 9,6 35,6 30,1 13,7 11,0
Song Phương, Hoài Đức 60 10,0 46,7 18,3 15,0 10,0
An Hòa, An Hải 44 9,1 54,5 6,9 20,4 9,1
Hưng Tiệp, Hưng Yên 55 12,5 29,1 25,5 14,5 18,2
Rau ăn quả
Minh Khai, Từ Liêm 58 39,7 34,5 - - -
Tiền phong, Mê Linh 73 45,2 37,0 - - -
Song Phương, Hoài Đức 60 35,0 43,3 10,0 - -
An Hòa, An Hải 44 54,5 25,0 - - -
Hưng Tiệp, Hưng Yên 55 60,0 29,1 - - -
Sai số chung là 0,014%
Nguồn: Theo thống kê của cục BVTV năm 2001
Theo cục BVTV, hàng năm cả nước sử dụng khoảng 20.000 – 25.000 tấn

thuốc BVTV các loại. Nếu tính nồng độ thuốc khoảng 2% thì lượng thuốc
phun là 75.10
10
lít.Với diện tích canh tác 7 triệu ha đã sử dụng 10.10
4
lít thuốc
2%/ha/năm nay hay có thể hình dung là 11 lít thuốc 2%/m
2
/năm. Tuy nhiên,
theo Phạm Bình Quyền và CTV (1995), thuốc BVTV sử dụng ở vùng rau Đà
Lạt là 5,1 – 13,5 kg/ha, vùng ĐBSCL là 1,5 – 1,7 kg/ha, chè ở Hòa Bình là
3,2 – 3,5 kg/ha. Điều tra vùng trồng rau Từ Liêm, Hà Nội năm 1996 đã thấy,
tại Mai Dịch, Tây Tựu, một vụ rau phun thuốc đến 25 lần, loại thuốc chủ yếu
được sử dụng là Monitor, Dipterx, Basa, DDT, Wofatox, Validacin…
Gần đây (1993) tuy đã có lệnh cấm sử dụng nhóm thuốc DDT, Heptaclo
(thuộc nhóm clo hữu cơ) song thực tế người dân vẫn sử dụng. Nguyên nhân
chủ yếu là do giá rẻ, phổ diệt rộng và hiệu quả diệt sâu tương đối cao [12].
2.2.4. Ảnh hưởng của thuốc BVTV đối với môi trường và sức khỏe
con người
2.2.4.1.Dư lượng thuốc BVTV trên rau và tác động tiêu cực của chúng
Trên thế giới, nền công nghiệp thuốc BVTV phát triển rất nhanh để đáp ứng
đòi hỏi ngày càng to lớn của nền nông nghiệp thâm canh cao. Nếu như cuối những
20
năm 80 của thế kỷ trước, doanh số thuốc BVTV bán ra trên toàn thế giới mới vượt
20 tỷ đô la Mỹ hàng năm thì đến nay, khoảng 15 năm sau, con số này đã vượt 35
tỷ đô, trong đó khoảng một nửa là ở Châu Âu và Bắc Mỹ, khoảng 25% ở Viễn
Đông và khoảng 25% ở các nước còn lại (Stephenson, 2003) [48]. Yêu cầu mức
độ an toàn và sự đánh giá chặt chẽ về ảnh hưởng của thuốc đến môi trường và
người tiêu dùng đã làm cho chi phí cho sự ra đời một loại thuốc mới hiện nay là
rất cao. Theo IUPAC – KSBS, (2003) [38], chi phí này trung bình hiện nay là 184

triệu đô la Mỹ, gấp 8 lần so với 20 năm trước đây (gồm phát minh, phát triển và
đăng ký). Thời gian phát triển mỗi sản phẩm mới trung bình là 9,1 năm (8,3 năm
năm 1995), và để chọn ra một sản phẩm, số hợp chất phải đánh giá là 140.000
(52.000 trong năm 1995).
Việc lạm dụng thuốc BVTV đã đưa đến sự nguy hại cho sức khỏe con người.
Don Echobinson ước lượng rằng, ở Bắc Mỹ, hàng năm nhiều ngàn người bị ngộ
độc thuốc BVTV; Còn ở các nước đang phát triển, hàng triệu người bị ngộ độc
cấp tính và hàng ngàn người bị chết do sử dụng thuốc BVTV. Con số người bị
ngộ độc mãn tính còn lớn hơn nhiều (Stephenson, 2003) [48].
Mức dư lượng tối đa cho phép (MRL) là mước có thể tìm thấy nếu sản phẩm
được áp dụng theo “nhãn” hướng dẫn, nó là giới hạn dư lượng ở “cổng trang trại”,
là chỉ tiêu để kiểm tra độ tin cậy của nhãn thuốc, như là tiêu chuẩn trong thương
mại quốc tế, thấp hơn hẳn mức liên quan đến sức khỏe cộng đồng. Đã phát triển
chứng chỉ rộng trên thế giới toàn cầu về nông sản sản xuất theo GAP như
EUREPGAP của Cộng đồng châu Âu và nhiều siêu thị sử dụng sản phẩm có
chứng chỉ này (Syngenta, 2005) [49].
Theo Charles (2004) [27] nghiên cứu tại Mỹ năm 2004 cho thấy thuốc
BVTV có hiện tượng gây ô nhiễm không chỉ ngay ở vùng nó được sử dụng mà cả
các vùng lân cận do rửa trôi. Các mẫu rau có dư lượng cao thuộc về đậu ăn quả, cà
chua, rau bí, ớt, rau diếp. Tuy nhiên, số liệu năm 1999 – 2000 cho thấy nông sản
vùng sử dụng hóa chất thông thường có dư lượng cao gấp 5 lần và số mẫu có dư
21
lượng cao gấp 6,8 lần so với nông sản ở vùng canh tác hữu cơ bên cạnh. Cũng
theo tác giả này, thuốc BVTV chính dùng cho canh tác thông thường và canh tác
hữu cơ là Lưu huỳnh, dầu khoáng trừ sâu, thuốc trừ nấm chứa đồng. Lưu huỳnh
thường có dư lượng trong rau quả song nó rất ít độc qua thực phẩm và được miễn
trừ đòi hỏi MRL. Đồng cũng được miễn trừ về MRL và thực chất nó còn là dinh
dưỡng quan trọng cho cây và nó ít độc qua dư lượng trong nông sản. Nông dân
canh tác hữu cơ dựa nhiều vào thuốc trừ sâu Baccilus thuringiensis (BT),
pheromone và các sản phẩm được sinh ra từ các vật liệu không độc và được phân

hủy sinh học nhanh. Thuốc thảo mộc được sử dụng ngày càng nhiều trong canh
tác hữu cơ (48% nông dân sử dụng) bao gồm pyrethrins, neem, rotenone, sabadilla
(Charles, 2004) [27].
Tác giả Oh (2000) [43] đặc biệt lưu ý thận trọng về dư lượng các chất ô
nhiễm hữu cơ bền vững (POP) và các thuốc phá vỡ tuyến nội tiết (Endocrine
disrupter). Các hợp chất này có thể kích thích hoặc ức chế hiệu quả của hormone
như estrogen, testosterone, insulin, melatonin hoặc hoạt động như là một hệ thống
tuyến nội tiết. Chúng còn có thể gây ra những vấn đề về sự phát triển cơ thể và
sinh sản. Các thuốc có tình chất nguy hiểm này là DDT, PCB, Lindane, Zineb,
Maneb, Endosulfan, Atrazine, một số thuốc Pyrethroid tổng hợp, một số hoạt chất
này đã bị cấm sử dụng.
Kết quả kiểm tra gần đây ở Mỹ (năm 2003) cho thầy có 1,9% số rau nội địa
không an toàn về dư lượng thuốc BVTV và 37,4% mẫu rau không phát hiện thấy
dư lượng thuốc BVTV. Đặc biệt một số nhóm rau có nguy cơ cao (5 – 13% số
mẫu có dư lượng thuốc BVTV cao quá mức tối đa cho phép) là rau ăn lá, rau ăn
thân, rau ăn củ, mướp tây, dưa chuột, cà, rau diếp (USFDA, 2005) [57].
Trên thế giới, vấn đề kiểm tra và đnáh giá dư lượng thuốc BVTV trên rau
được làm thường xuyên ở nhiều nước, nhất là các nước phát triển. Chẳng hạn, ở
Mỹ và Đài Loan, hàng năm mỗi nơi đều phân tích trên 10 nghìn mẫu nông sản.
Kết quả phân tích dư lượng được so với MRL cho thấy, đến nay tuyệt đại đa số
22
các mẫu rau sản xuất tại nhiều nước là khá an toàn. Thị trường xuất nhập khẩu rau
của các nước Đông Á và Đông Nam Á hàng năm đạt hàng chục tỷ đô la đòi hỏi
các nước phải có các giải pháp gắt gao để đảm bảo sản phẩm rau an toàn, nhất là
về dư lượng thuốc BVTV (Vong Nguyen, 2002) [58].
Bảng 2.6. Tình hình dư lượng thuốc BVTV trên rau ở một số nước
Nước
Tỷ lệ % mẫu có
dư lượng thuốc
BVTV

Tỷ lệ % mẫu có dư lượng
thuốc BVTV > mức cho
phép (MRL)
Năm
Hoa Kỳ 72 4,8 1996
Cộng đồng Châu
Âu (EU)
37 1,4 1996
Hàn Quốc - 0,8 2000
Đài Loan (14 vạn
mẫu/năm)
71,4 28,6 1986
- 1,3 2000
(Shu – Jen Tuan, 2001) [53]; B. Y. Oh, (2000) [43])
Ở nước ta, từ năm 1996 – 2001, sản phẩm rau được kiểm tra ở Hà Nội và Tp.
Hồ Chí Minh có tới 30 – 60% số mẫu rau có dư lượng thuốc BVTV, trong đó 4 –
16% mẫu có dư lượng vượt quá mức cho phép (Cục BVTV, 2002) [5]. Ở nước ta,
do chưa có điều kiện quản lý chặt chẽ dư lượng thuốc BVTV trong nông sản, các
kết quả về phân tích dư lượng thuốc BVTV trong sản phẩm rau còn ít, song cũng
đã phản ánh tình trạng báo động về mức độ ô nhiễm này. Số liệu có được từ năm
1997 – 2000 cho thấy khoảng trên 60% số mẫu rau được phát hiện có dư lượng
thuốc BVTV, trong đó khoảng 30% mẫu có dư lượng thước vượt quá giới hạn tối
đa cho phép (MRL).
Đề cập đến hiện trạng dư lượng thuốc BVTV trong rau ở nước ta, Trung tâm
Kiểm định thuốc BVTV phía Bắc đã đánh giá trong các năm 2000 – 2004, với rau
cải, rau muống, cà chua, đậu đỗ, có tới 20 – 73% số mẫu có dư lượng thuốc
BVTV, 2,8 – 36% số mẫu có dư lượng vượt mức cho phép. Các loại rau có tỷ lệ
mẫu mà dư lượng vượt mức cho phép cao nhất là rau cải và đậu đỗ (TT Kiểm
định thuốc BVTV phía Bắc, 2005) [16].
23

Theo Ohio (2003), [44], tại Hàn Quốc, một số cơ quan có nhiệm vụ giám sát
dư lượng thuốc trong nông sản như Viện Khoa học công nghệ nông nghiệp
(NIAST) kiểm tra trên đồng ruộng. Sở Quản lý chất lượng sản phẩm nông nghiệp
quốc gia (NAPQMS) thuộc Bộ Nông nghiệp và Ngư nghiệp kiểm tra ở “cổng
trang trại”, Tổng cục Thuốc và Thực phẩm (KFDA) kiểm tra ở “điểm bán hàng”.
Kết quả kiểm tra ở trên đồng lúa của NIAST từ năm 1999 – 2002 đối với 7 thuốc
trừ sâu (BPMC, Buprofezin, Carbofuran, Edifenphos, Iprobenphos,
Isoprothiolane, Tricylazole), dư lượng trên gạo là từ 0 – 0,07 ppm (đều thấp hơn
hẳn mức cho phép MRL: 0,2 – 0,7 ppm), trên rơm rạ là từ 0 – 2,7 ppm.
Kiểm tra dư lượng rau quả nhập khẩu tại Hàn Quốc năm 2000 cho thấy tỷ lệ
mẫu rau vi phạm là 6,1%, mẫu quả vi phạm là 2,1%, cao hơn hẳn các mẫu nông
sản được sản xuất trong nước.
Tại Mỹ, nhiều bang thừng xuyên có tài liệu hướng dẫn được cập nhật hàng
năm cho nông dân các vùng trồng rau. Tài liệu chỉ rõ với mỗi cây trồng, thuốc nào
được sử dụng với liều sử dụng tối đa cho một đơn vị diện tích, PHI, đối tượng
phòng trừ có hiệu quả, những chú ý về an toàn trong khi xử lý (Tom K, 2005)
[51]. Tại bang Illinois (Mỹ), trường đại học Illinois đã xuất bản hàng năm tài liệu
“Quản lý dịch hại nông nghiệp” trong đó có dịch hại trên cây rau hàng hóa. Tài
liệu này đã cung cấp thường xuyên cho người sản xuất các loại thuốc trừ dịch hại
hiện có thể sử dụng trên từng cây trồng, liều lượng sử dụng, PHI, giới hạn tối đa
được sử dụng trong một vụ [56]. Đây thực sự là một việc làm rất có ý nghĩa đối
với nông dân trong việc sử dụng có hiệu quả và an toàn thuốc BVTV mà nhiều
nơi trong đó có nước ta nên làm.
Tại Australia, Bộ Nông nghiệp tổ chức cho các hộ nông dân được huấn luyện
về sử dụng thuốc BVTV nếu nông sản của họ có dư lượng vượt quá 50% MRL.
Nếu nông sản của họ về sau cao hơn MRL thì họ sẽ bị phạt hoặc cấm hành nghề
luôn tùy theo mức nặng nhẹ (Vong Nguyen, 2002) [58]. Tác giả cũng nêu rõ
nguyên nhân làm cho rau bị ngộ độc thuốc BVTV là do nông dân sử dụng bừa bãi
24
các loại thuốc BVTV với liều lượng cao, không đúng lúc, đúng thời điểm, trộn

bừa bãi các loại thuốc với nhau không dựa trên cơ sở khoa học, đất tồn lưu nhiều
hóa chất độc.
Về quản lý PHI (PHI) của mỗi loại thuốc, Cheah (2001) [28] cho rằng với
mỗi loại thuốc BVTV mới, mỗi nước cần có thử nghiệm nhằm xác định cách sử
dụng, liều lượng phù hợp cũng như PHI nhằm đảm bảo dư lượng trong nông sản
thấp hơn MRL. Tác gải còn khuyến cáo, với mỗi loại thuốc mới cần giám sát và
kiểm tra trước và cả sau khi sanrphaamr đã đăng ký về tác động của chế phẩm này
đến môi trường để có các điều chỉnh cần thiết (Zeneca Agrochemicals, 1999) [61].
Tại Đài loan, do MRL trong Codex thiếu nhiều và trên quan niệm chỉ số này
phụ thuộc không chỉ vào khả năng ăn, khối lượng cơ thể con người ở mỗi nước,
các tác giả đã đưa ra hệ thống MRL cho các nhóm rau được phân loại dựa trên
khả năng tương tự của chúng về dư lượng thuốc BVTV. Các nhóm rau đó là rau
ăn thân củ, rau ăn lá, rau ăn rễ và củ, rau ăn quả, dưa chuột, đậu rau (Wong, 1997)
[62].
2.2.4.2. Dư lượng thuốc BVTV trong môi trường và tác động tiêu cực của nó.
Hóa chất BVTV là những hợp chất độc có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng
hợp được dùng để phòng và trừ nhiều loại sinh vật gây hại cây trồng và nông
sản phẩm. Hóa chất BVTV gồm nhiều nhóm khác nhau, gọi theo tên nhóm
sinh vật gây hại, như thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh…Trừ một số trường hợp,
còn nói chung mỗi nhóm thuốc chỉ có tác dụng đối với sinh vật gây hại thuộc
nhóm đó.
Hóa chất BVTV nhiều khi còn được gọi là thuốc trừ dịch hại và khái
niệm này bao gồm cả thuốc trừ các loại ve, bét, rệp hại vật nuôi và côn trùng
y tế, thuốc làm rụng lá cây, thuốc điều hòa sinh trưởng cây trồng [9].
Dư lượng là phần còn lại của hóa chất, các sản phẩm chuyển hóa của
chúng và các thành phần khác có trong thuốc, tồn tại một thời gian trên cây
trồng, nông sản, đất, nước, dưới tác động của các hệ sống và điều kiện ngoại
25

×