Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

dàn ý chi tiết bài thơ bếp lửa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.2 KB, 5 trang )

Câu4: – TLV :Phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt để cho thấy tình yêu quê
hương đất nước chan hòa với bao kỷ niệm tuổi thơ vô cùng thiết tha về người bà kính
yêu, người bà đôn hậu và tần tảo sớm khuya sáng bừng lên như một ngọn lửa thần kỳ và
thiêng liêng.
Hướng dẫn : Phân tích bài “Bếp lửa”:
Gợi ý Bài làm
I- Giới thiệu bài thơ “Bếp
lửa” ( bài thơ viết về tình
cảm bà cháu)
- Trở lại đề ( nêu lại phần
gợi ý ở đề bài)
II- TB:
1/Mạch cảm xúc và cảm
hứng chủ đạo của bài thơ
2/ Phân tích bài thơ (theo
mạch cảm xúc - bố cục
bài thơ)
a/ 3 câu đầu : khơi nguồn
dòng hồi tưởng cảm xúc:
-Hình ảnh bếp lửa được
hình dung trong trí nhớ của
tác giả (phân tích từ láy
“chờn vờn”,“ấp iu”)
-Từ hình ảnh bếp lửa liên
tưởng tới ngời nhóm lửa-
người bà (phân tích hình
ảnh ẩn dụ “(biết mấy) nắng
mưa”)
b/Khổ thơ thứ 2 (năm
câu tiếp theo): Kỷ niệm
tuổi thơ, kỷ niệm buồn khó


quên “Lên bốn tuổi sống
mũi còn cay”:
I- Viết về người bà trong gia đình, với tình thương và đức
hy sinh cao cả, bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một
trong những bài thơ lắng sâu trong tâm hồn tuổi thơ mỗi
chúng ta.
-Bài thơ đã cho thấy tình yêu quê hương đất nước chan hòa
với bao kỷ niệm tuổi thơ vô cùng thiết tha về người bà kính
yêu, người bà đôn hậu và tần tảo sớm khuya sáng bừng lên
như một ngọn lửa thần kỳ và thiêng liêng.
II-
1/-Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những
kỷ niệm tuổi ấu thơ sống với bà, làm hiện lên hình ảnh bà
chăm sóc, lo toan vất vả với tình thương yêu vô bờ dành
cho cháu. Đứa cháu nay trưởng thành, từ nơi xa suy ngẫm,
thấu hiểu về bà. Cuối cùng người cháu gởi niềm thương nỗi
nhớ về với bà. Vậy mạch cảm xúc của bài thơ là đi từ quá
khứ đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm theo dòng hồi
tưởng.
-Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là tình cảm bà cháu, là nỗi
nhớ, lòng kính yêu và biết ơn vô hạn của người cháu với bà
mình cũng là với gia đình và quê hương đất nước.
2/
a-Hình ảnh đầu tiên hiện lên trong trí nhớ của tác giả là
hình ảnh bếp lửa ở một làng quê Việt Nam từ thời thơ ấu:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
“Chờn vờn” là từ láy tượng hình vừa giúp ta hình dung làn
sương sớm đang bay nhè nhẹ quanh bếp lửa vừa gợi cái mờ
nhòa của hình ảnh ký ức theo thời gian. Từ “ấp iu” là một

sáng tạo mới mẻ của nhà thơ . Đó không phải là từ láy, từ
ghép đơn thuần mà là sự kết hợp và biến thể của hai từ “ấp
ủ” và “nâng niu”. “Ấp iu” gợi đến bàn tay kiên nhẫn, khéo
léo và tấm lòng chi chút của người nhóm bếp, lại đúng với
công việc nhóm lửa cụ thể
-Từ hình ảnh bếp lửa liên tưởng tự nhiên đến người nhóm
lửa, nhóm bếp - đến nỗi nhớ, tình thương với bà của đứa
cháu đang ở xa:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
“Biết mấy nắng mưa” là một cách nói ẩn dụ gợi ra phần
nào cuộc đời vất vả lo toan của bà.
b-Khổ thứ hai nói về từ thời ấu thơ rất xa hiện về, đó là kỷ
- Nhớ lại quá khứ : nhớ
những năm tháng chiến
tranh chống Pháp gian khổ
(đói mòn đói mỏi, khô rạc
ngựa gầy)
-Hình ảnh chi tiết ám ảnh
mãi đến bây giờ: mùi khói
bếp (đến bây giờ sống mũi
còn cay)
c/ Khổ 3:(11 câu: “Tám
năm ròng trên những
cánh đồng xa”):
-Chi tiết tiếp theo hiện lên
trong hồi ức của cháu :
tiếng chim tu hú kêu trong
ngày hè, là âm thanh của
đồng quê.
-Tiếng chim tu hú vang

vọng giúp tác giả lại nhớ
về bà
niệm buồn khó quên:
Lên bốn tuổi , cháu đã quen mùi khói
Năm ấy ,là năm đói mòn, đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến bây giờ sống mũi còn cay!
Hình ảnh những năm tháng chiến tranh chống Pháp gian
khổ được hiện về qua thành ngữ “đói mòn, đói mỏi”- cái đói
kéo dài làm mệt mỏi , kiệt sức (cuối năm 1944 đầu năm
1945, nạn đói kinh khủng đã xảy ra, hơn hai triệu đồng bào
ta bị chết đói).Hình ảnh con ngựa gầy rạc thì chắc người bố
đánh xe cũng gầy khô
- Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là mùi khói bếp: khói
hun nhèm mắt cháu, khói nhiều cay khét . Đó là kỷ niệm về
“mùi khói”, về “khói hun”, một cảnh đời nghèo khổ gắn
liền với bếp lửa gia đình trước cách mạng. Vần thơ là tiếng
lòng thời thơ ấu gian khổ, rất chân thật cảm động. “Nghĩ lại
đến giờ” (đó là 1963, 19 năm đã trôi qua), mà đứa cháu vẫn
cảm thấy “sống mũi còn cay!”. Kỷ niệm buồn , vết thương
lòng , khó quên là vậy!
c- Đoạn thơ thứ ba gồm 11 câu, nhắc lại một vài kỷ niệm
sâu sắc về bà trong suốt thời gian “Tám năm ròng cháu
cùng bà nhóm lửa”.
-Hình ảnh, chi tiết tiếp theo chợt đến trong hồi ức của nhân
vật trữ tình là tiếng chim tu hú:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

Chim tu hú kêu những ngày hè, tiếng tu hú kêu trên những
cánh đồng xa cứ khắc khoải kêu mãi, kêu hoài, trong hiện
thực đã tha thiết, trong nỗi nhớ lại càng trở nên da diết hơn.
Tiếng chim tu hú là âm thanh đồng quê thật tha thiết. Tiếng
chim tu hú trở thành một mảnh tâm hồn tuổi thơ. Tiếng
chim tu hú, những chuyện kể của bà về Huế thân yêu đã trở
thành kỷ niệm :
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
-Tám năm ấy, đất nước có chiến tranh “Mẹ cùng cha bận
công tác không về”, cháu ở cùng bà, cháu lớn lên trong tình
thương và sự chăm sóc nuôi dưỡng của bà:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm , bà chăm cháu học
Hai câu thơ 16 chữ mà chữ bà, chữ cháu đã chiếm đúng
một nửa. Ngôn từ đã hội tụ tất cả tình thương của bà dành
cho cháu, gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương, một
tình thương ấp ủ, chở che. Hay nhất, hàm súc nhất là từ ngữ
d/Đoạn tiếp theo:(10
câu :Năm giặc đốt làng
niềm tin dai dẳng) :
Những phẩm chất cao
quý của bà:
-Vững long tin trước mọi
tai họa thử thách ( “Vẫn
vững lòng được bình
an”).
-Bếp lửa thành ngọn lửa
bất diệt, ngọn lửa của tình
thương

==> ý chí , bản lĩnh sống
của bà, của người phụ nữ
Việt Nam
“cháu ở cùng bà”, “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn
tả một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la ,
sự chăm chút của bà đối với cháu nhỏ. Trong nhiều gia đình
Việt Nam, do nhiều cảnh ngộ khác nhau, mà vai trò của
người bà đã thay thế vai trò của người mẹ hiền.
-Năm tháng đã trôi qua thế mà bà vẫn “khó nhọc”, vất vả
“nhóm bếp lửa”. Nghĩ về ngọn lửa hồng của bếp lửa, nghĩ
về tiếng chim tu hú gọi bầy, đứa cháu gọi nhắn thiết tha
chim tu hú “kêu chi hoài”. Câu thơ cảm thán và câu hỏi tu
từ diễn tả nỗi thương nhớ bà bồi hồi tha thiết. Nhà thơ đắm
chìm trong suy tưởng để trò chuyện với con chim quê
hương, trách nó không đến ở với bà để bà đỡ nhớ cháu, đỡ
cô đơn tuổi già. Câu thơ thật tự nhiên, cảm động, chân
thành:
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm chữ “nghĩ thương bà khó nhọc” nói lên lòng biết ơn bà
của đứa cháu đã và mang nặng trong trái tim mình tình
thương của bà dành cho cháu.
d- Miên man theo dòng cảm xúc hồi tưởng, hình ảnh bà
càng hiện lên rõ nét, cụ thể với những phẩm chất cao quý:
Bình tĩnh, vững lòng, đinh ninh vượt qua mọi thử thách
khốc liệt của chiến tranh,làm trọn nhiệm vụ hậu phương để
người đi xa công tác được yên lòng. Bà là chỗ dựa tinh thần
vững chắc. Sống trong những năm chiến tranh, khi “giặc
đốt làng cháy tàn cháy rụi” được sự “đỡ đần” của bà con

hàng xóm,hai bà cháu mới dựng lại được túp lều tranh, thế
nhưng bà vẫn “vững lòng” trước mọi tai họa thử thách:
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ
giúp ta hình dung giọng nói, tiếng nói, tình cảm và suy nghĩ
của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của người bà, người
mẹ Việt Nam yêu nước, đầy lòng hy sinh, kiên trì nhóm lửa,
giữ lửa
-Từ “bếp lửa”, đứa cháu nghĩ về “ngọn lửa”.Một hình
tượng rất tráng lệ. “Bếp lửa bà nhen” sớm sớm chiều chiều
đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình
thương “luôn ủ sẵn”, ngọn lửa của niềm tin vô cùng “dai
dẳng” bền bỉ và bất diệt. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”,
các từ ngữ chỉ thời gian:”rồi sớm rồi chiều”, các động từ:
“nhen”, “ủ sẵn” , “chứa” (chứa niềm tin dai dẳng) đã
khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người
đ/Đoạn thơ: “Lận đận đời
bà thiêng liêng - bếp
lửa”(8 câu): những suy
ngẫm về người bà kính
yêu, về bếp lửa trong mỗi
gia đình Việt Nam:
- Điệp từ “nhóm”
-Lời khẳng định ca ngợi:
“Ôi kỳ diệu và thiêng liêng
- bếp lửa”
e/ Bốn câu cuối:Tình

thương nhớ,lòng kính yêu
và biết ơn của đứa cháu
nay đã đi xa
phụ nữ Việt Nam giữa thời loạn lạc:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Điệp ngữ “một ngọn lửa” và kết cấu song hành đã làm cho
giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào.
đ/Tám câu thơ tiếp theo là những suy ngẫm sâu sắc của nhà
thơ , của đứa cháu về người bà yêu kính , về bếp lửa trong
mỗi gia đình Việt nam chúng ta. Cuộc đời bà nhiều “lận
đận”, trải qua nhiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần mẫn lo
toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm,
manh áo của con cháu trong gia đình. Vần thơ chứa đựng
bao nghĩa nặng tình sâu . Cháu vô cùng cảm phục và biết ơn
bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Bà không chỉ là người giữ bếp giữ lửa mà còn là người
nhóm bếp, nhóm lửa:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Điệp từ “nhóm” trong 4 câu thơ có điểm chung là cùng gắn
với hành động nhóm bếp. nhóm lửa của bà nhưng lại khác
nhau ở những ý nghĩa cụ thể: khi thì nhóm bếp lửa ấp iu,
nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh của sương

sớm; đến câu tiếp theo thì đã vừa nhóm bếp luộc khoai,
luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà như còn đem đến cho
đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình thương vô
hạn của bà. Đến câu tiếp theo thì lòng bà còn mở rộng hơn
cùng với nồi xôi gạo mới là tình cảm xóm làng đoàn kết,
gắn bó, chia ngọt sẻ bùi và đến câu thứ tư thì hoàn toàn
mang nghĩa trừu tượng: nhóm dậy tâm tình tuổi nhỏ. Tâm
hồn và khát vọng tuổi thơ đã sáng bừng lên từ ngọn lửa do
bà”nhóm” suốt mất chục năm trời.
Chính từ đó mà, theo mạch suy ngẫm, nhà thơ đi lên
khái quát rất tự nhiên và hợp lý: “Ôi kỳ diệu và thiêng liêng
- bếp lửa”. Đúng vậy, vì bếp lửa thật giản dị , bình thường
và phổ biến trong mọi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa
cũng thật cao quý, kỳ diệu và thiêng liêng vì nó luôn gắn
liền với bà - người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người tạo
nên tuổi thơ của cháu. Bếp lửa trở thành một mảnh tâm hồn,
một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cháu.
e/ Bốn câu kết thể hiện một cách đằm thắm tình thương
nhớ, lòng kính yêu và biết ơn của đứa cháu bé bỏng nay đã
III KB :
-Ý nghĩa của bài thơ.
-Nét đặc sắc về nghệ thuật
đi xa:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà , niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
-Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Cuộc đời mới thật vui, thật đẹp,đã “có ngọn khói trăm
tàu” đã “có ngọn lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”, nhưng
cháu vẫn không nguôi nhớ bà, nhớ bếp lửa gia đình thương

yêu. Không gian và thời gian xa cách, và dù cuộc đời có đổi
thay, nhưng tình thương nhớ bà vẫn thiết tha mãnh liệt. Trở
về thời hiện tại , nhà thơ lại muốn hỏi bà, nhắc bà việc
nhóm bếp để nói cái ý không bao giờ quên quá khứ, không
bao giờ quên được hình ảnh bà với bếp lửa của một thời
thơ ấu nghèo khổ,gian nan mà ấm áp nghĩa tình.
Như vậy, hình ảnh trung tâm (bếp lửa) mở đầu, khơi nguồn
mạch cảm xúc của bài thơ, của dòng hồi tưởng đã được
khép lại bằng chính hình ảnh ấy.
III-
-“Bếp lửa” là một bài thơ hay và độc đáo. Bài thơ không chỉ
nói về bà, về tình bà cháu mà còn có ý nghĩa triết lý thầm
kín; Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều
có lúc tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt cả cuộc đời . Tình
yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện của
tình yêu thương , gắn bó với gia đình, quê hương và đó
cũng là khởi đầu của tình người, tình yêu nước.
- Lời thơ đẹp, chất thơ trong trẻo, trẻ trung. Hình tượng
thơ : “bếp lửa” “khói hun”, “ngọn lửa”, “tiếng chim tu hú”
bổ sung kết hợp thật tự nhiên giữa kể và tả bằng dòng hồi
tưởng và suy ngẫm rất thơ và đầy ấn tượng.

×