Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Phân tích hợp tác thương mại Việt Nam-EU trong lĩnh vực Dệt may

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.43 KB, 30 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................1
CHƯƠNG 1............................................................................................2
MỘT VÀI NÉT VỀ LIÊN MINH CHÂU ÂU(EU)...............................2
1.1. Sự hình thành và phát triển của liên minh Châu Âu. ............................2
1.2. Chiến lược của liên minh Châu Âu đối với Châu Á. ............................5
................................................................................................................. 8
CHƯƠNG 2............................................................................................9
THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM -EU
TRONG LĨNH VỰC DỆT MAY...........................................................9
2.1. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam. ................................................9
2.2. Cơ cấu thị trường ngành dệt may Việt Nam .......................................10
2.3. Cơ cấu của ngành dệt may Việt Nam. .................................................12
2.4. Một số đánh giá về thực trạng thương mại dệt may Việt Nam-EU.....14
CHƯƠNG 3..........................................................................................18
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – EU
TRONG LĨNH VỰC DỆT – MAY......................................................18
3.1. Định hướng của ngành dềt may Việt Nam ..........................................18
3.2. Định hướng thương mại dệt may Việt Nam- EU:................................20
3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác thương mại Việt Nam-EU trong
lĩnh vực dệt may. ........................................................................................22
3.3.1. Tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại:.........................................23
3.3.2. CảI cách hệ thống để đẩy mạnh xuất khẩu. ..................................25
3.3.3. Đẩy mạnh phát triển nguyên liệu trong nước. ..............................26
3.3.4. Nghiên cứu triển khai và đào tạo nhân lực. ..................................26
3.3.5. Đẩy mạnh phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm. .........27
KẾT LUẬN...........................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................29
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU


Cuộc chiến tranh lạnh giữa các nước tư bản( đứng đầu là Mỹ) và các
nước XHCN( đứng đầu là Liên Xô)đã kết thúc. Xu thế hoà bình hợp tác đôi
bên cùng phát triển đang trở thành xu thế chủ yếu chi phối quan hệ ngoại giao
gĩưa các nước. Kinh tế thế giới ngày nay cũng đang ngày một xích lại ngần
nhau hơn. Các liên minh kinh tế giữa các vùng, các khu vực, các quốc gia
không ngừng được củng cố và mở rộng. Sự hợp tác, trao đổi, giao lưu về kinh
tế văn hoá nhằm tăng cường sự hiểu biết dể hợp tác vì lợi ích dân tộc đang trở
nên cấp thiết. Với môi trường quốc tế thuận lợi như vậy quan hệ hợp tác giữa
Việt Nam-EU đang mở ra một giai đoạn phát triển mới đầy triển vọng. Cả
Việt Nam và EU đều có chung lợi ích trong việc mở rộng và tăng cường quan
hệ hữu nghị trên các lĩnh vực.
Như chúng ta đã biết EU là khu vực bao gồm những nước có nền kinh tế
phát triển, có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Là một trong những
trung tâm chính trị kinh tế đầu tàu của thế giới. EU có tiêm lực tài chính hùng
hậu là một trong những nguồn viện trợ lớn cho Việt Nam. Hợp tác với EU giúp
chúng ta học hỏi được những kinh nghiệm, tiếp thu được trình độ KHKT tiên
tiến, hiện đại của họ đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế nước nhà.
Trong vài năm trở lại đây nhờ thế mạnh là giá nhân công rẻ, thời gian
thu hồi vốn nhanh, sự dầu tư mạnh của các doanh nghiệp nước ngoài ngành
Dệt may Việt Nam đã có sự phát triển không ngừng. Kinh ngạch xuất khẩu
của nghành luôn nằm trong ‘‘top’’ đầu. thị trường xuất khẩu chính của ngành
là liên minh châu Âu bởi vậy sự hợp tác giữa Việt Nam-EU ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của ngành Dệt may nước ta.
Đề tài này sẽ đi vào mục đích ‘‘Phân tích hợp tác thương mại Việt
Nam-EU trong lĩnh vực Dệt may". Để hiểu rõ hơn thì chúng ta sẽ đi vào các
nội dung sau:
Chương 1: Một vài nét về liên minh Châu Âu ( EU )
Chương 2: Thực trạng thương mại Việt Nam – EU trong lĩng vực dệt may.
Chương 3: Các giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam – EU trong
lĩnh vực dệt may.

1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1
MỘT VÀI NÉT VỀ LIÊN MINH CHÂU ÂU(EU)
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay trong nền kinh tế thế giới
xuất hiện nhiều loại hình liên kết kinh tế. Trong đó liên minh Châu Âu ( cộng
đồng Châu Âu – EU trước đây ) là khối liên kết kinh tế hình thành sớm nhất
và có hiệu quả nhất. Trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, với GDP khoảng 8500
tỷ USD, dân số khoảng 375 triệu người chiếm giữ khoảng 40-50% sản lưởng
công nghiệp của các nước tư bản phát triển EU đang trở thành một cực rất
mạnh trong nền kinh tế thế giới.
1.1. Sự hình thành và phát triển của liên minh Châu Âu.
Ngay từ thời Saclơ đại đế thuộc đế chế La Mã ( TK8 – Sau công nguyên)
những mơ tưởng về thống nhất Châu Âu đã được hình thành. Tuy nhiên trong
một thời gian dài, ý đồ thống nhất Châu Âu chỉ thuộc về một vài nhà chính
trị, quân sự có nhiều tham vọng và một bộ phận các nhà tri thức. Đại bộ phận
Châu Âu vẫn thờ ơ thậm chí không hề có ý tưởng gì về điều đó, mặc dù Châu
Âu đã mang sẵn trong mình các yếu tố thống nhất.
Đến năm 1923, Bá Tước người Áo –Condenhve Kalerg đã đề nghị thành
lập một liên minh Châu Âu theo kiểu Liên Bang Thuỵ Sĩ năm 1648 hay liên
bang Hoa Kỳ năm 1776 năm 1929 Bộ trưởng Pháp lúc bấy giờ – Arstide
Briand cũng đưa ra đề án thành lập liên minh Châu Âu. Nhưng những ý tưởng
này phải mãi đế sau chiến tranh thế giới thứ hai mới trở thành hiện thực.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai các nước Tây Âu đều kiệt quệ về kinh tế.
So với năm 1937 sản lượng của Đức 1946 chỉ bằng 31%, Italia 64%, Anh
96%. Trong khi đó nhờ chiến tranh mà kinh tế Mỹ đã phát triển vượt bậc sức
mạnh kinh tế của Mỹ còn lơns hơn sức mạnh kinh tế của tất cả các nước Tây
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Âu gộp lại. Mặt khác sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác

động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đặc biệt là sự phát triển lực
lượng sản xuất ở Mỹ đã khẳng định vị trí bá chủ toàn cầu của Mỹ. Chính bối
cảnh ấy, buộc các quốc gia Tây Âu phảI tăng cường hợp tác để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, thoát khỏi sự kiểm toạ của Mỹ và cũng là làm dịu đi
bầu không khí chính trị căng thẳng ở Tây Âu, đặc biệt là giữa Pháp và Đức,
phong trào giải phóng dân tộc đang dâng lên ở các nước thuộc địa và trên hết
là phải đối đầu với “cộng sản ” ở nửa kia Châu Âu – các quốc gia Tây Âu
không còn sự lựa chọn nào khác ngoài con đường hoà bình hợp tác với nhau.
Ngày 9/5/1950 Ngoại trượng Pháp – Rôbe Suman đã đưa ra một sáng
kiến mới khởi đầu cho tiến trình liên kết Châu Âu. Ông đề nghị “Đặt toàn bộ
việc sản xuất than và thép của Đức vá Pháp dưới một cơ quan quyền lực tối
cao chung trong một tổ chức mở cửa cho các nước Tây Âu khác tham gia ”
Trên cơ sở đề nghị đó ngày 18/4/1951, tại Paris, 6 quốc gia Tây Âu gồm:
Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Luych Xăm Bua đã ký Hiệp ước thành lập cộng
đồng than thép Châu Âu ( có hiệu lực từ ngày 25/7/1952 ) mở ra một chương
mới trong lịch sử quan hệ giữa các nước Tây Âu.
Nhìn chung, sáu nước Tây Âu đã thực hiện thành công Hiệp ước Paris
năm 1952. Trên lĩnh vực kinh tế, từ tháng 5/ 1953 một thị trường chung than,
sắt, thép cho sáu nước đã hình thành. Ngành luyện kim đạt một bước phát
triển mạnh mẽ kéo theo sự phát triển cả nền kinh tế sáu nước. Thành tích kinh
tế là to lớn song còn một kết quả quan trọng khác mà cộng đồng than thép
Châu Âu mang lại đó là tác động tâm lý đối cới người Tây Âu. Lần đầu tiên
họ thấy rằng không cần chiến tranh mà vẫn có thể thống nhất được Châu Âu
và thống nhất theo chiều hướng Siêu quốc gia.
Tại cuộc họp các ngoại trưởng của các quốc gia Tây Âu ở Messine năm
1955 đã đưa ra đề án mở rộng liên kết của các quốc gia Tây Âu song các lĩnh
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vực khác và cử ngài Paul Henry Spack – ngoại trưởng Italia làm chủ đề án.
Đến 1956 họ đã nhất trí thành lập cộng đồng kinh tế Châu Âu ( Eurpean

Economic Community – EEC ) và cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu.
Ngày 25/ 7/ 1957 hiệp ược về việc thành lập 2 tổ vhức này đã được thông qua
và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/ 1/ 1958. Mỗi tổ chức có một chức năng
riêng: EEC có nhiệm vụ chung liên quan đến những vấn đề kinh tế với việc
tạo lập một thị trường chung, trong đó không còn sự ngăn cản vận động của
hàng hoá, tư bản, sức lao động … giữa các nước Tây Âu với nhau, cộng đồng
năng lượng nguyên tử Châu Âu quan tâm đến việc nghiên cứu phổ biến kiến
thức, bảo đảm nguồn cung cấp thường xuyên các nguyên liệu hạt nhân thúc
đẩy đầu tư lập các cơ sở sản xuất năng lượng hạt nhân chung lập thị trường
nguyên tử chung giữa các nước.
Bước vào đầu thập kỷ 90, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu đã làm thay đổi cục diện thế giới từ hai cực trở thành đa
cực. Trong trật tự mới, các thế lực đều đang dốc sức chuẩn bị lực lượng để
chiếm vị trí tối ưu cho mình trong tương lai. Mặc dù đến thời điểm này cộng
đồng Châu Âu đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng nói chung về
kinh tế, chính trị lẫn quân sự vẫn còn thua kém Mỹ và Nhật Bản. Do vậy
trong cuộc cạnh tranh quyết liệt trước mắt các nước Tây Âu vẫn sẽ phải thống
nhất lại, đẩy manh công cuộc xây dựng cộng đồng tạo ra sức mạnh tập thể để
đối phó với hai đối thủ lớn của mình. ĐIều này được thể hiện rất rõ tại Hội
nghị thượng đỉnh các quốc gia Tây Âu ở Maastricht – Hà Lan tháng 11 năm
1991. Tại Hội nghị này các quốc gia thành viên đã thống nhất: Thứ nhất tiếp
tục mở rộng liên kết bằng cắch kết nạp thêm các thành viên mới, thứ hai tạo
lập đồng tiền chung Châu Âu làm cho Châu Âu thay đổi một cách căn bản
vào năm 2000. Thứ ba, tiến tới thống nhất mặt chính trị, xây dựng một chính
sách quốc phòng an ninh chung. Năm 1993 những hiệp ước trên bắt đầu có
hiệu lực và EU cũng chính thức đổi thành liên minh Châu Âu ( European
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Union – EU ). Đồng thời, EU tiếp tục mở cửa lần thứ ba đến năm 1995 ba
nước ở Tây Bắc Âu gồm: Áo, Phần Lan, Thuỵ Điển đã trở thành thành viên

chính thức của EU.
Như vậy, từ sáu nước thành viên đến nay EU đã mở rộng ra 15 nước và
xu thế sẽ tiến tới 21 nước vào đầu thế kỷ 20 liên kết được mở rộng trên rất
nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật, văn hoá, giáo dục.
Mục đích của liên minh Châu Âu là nhằm thiết lập và hoàn thiện thị
trường nội bộ thống nhất thông qua việc phát hành một đồng tiền thống nhất
xoá bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên xây dựng một hàng rào
thuế quan thống nhất đối với hàng hoá nhập từ ngoài vào, xoá bỏ những hạn
chế đối với việc tự do di chuyển vốn sức lao động hàng hoá dịch vụ … nhằm
tăng cường hợp tác, liên kết giữa các quốc gia thành viên xây dựng Châu Âu
thành một cực mạnh trong nền kinh tế thế giới. Để đạt được mục tiêu này, EU
có một hệ thống thể chế để hoạch định, đIều hành và giám sát. Hệ thống này
bao gồm năm cơ quan chính uỷ ban Châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Quốc hội
Châu Âu, Toà án Châu Âu và toà kiểm toàn cùng với các bộ phận hỗ trợ cho
các cơ quan trên như uỷ ban kinh tế và xã hội, uỷ ban khu vực.
Vậy, thực chất của liên kết kinh tế EU là tạo lập một thị trường thống
nhất với việc phát hành một đồng tiền thống nhất là quá trình quốc tế hoá
không chỉ lực lượng sản xuất mà cả quan hệ sản xuất.
1.2. Chiến lược của liên minh Châu Âu đối với Châu Á.
Quan hệ kinh tế nói chung giữa các nước EU và các nước trong khu vực
Châu Á đã có từ rất lâu, nhưng trong một thời gian tương đối dài sau chiến
tranh thế giới thứ hai, các nước lớn trong EU rất ít chú ý đến Châu Á. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao với thị trường rộng lớn ở Châu Phi đã hấp đẫn các nhà
kinh doanh, đầu tư Châu Âu nhiều hơn khu vực Châu Á. Trong giai đoạn này,
quan hệ của các nước EU với khu vực châu Á chủ yếu là viện trợ kinh tế. Tuy
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vậy từ sau thập kỷ 80 đến nay các nước Mỹ La Tinh đã bị lâm vào khủng
hoảng nợ, trong khi các nước đang phát triển Châu Á lạI có những chuyển
biến trong phát triển kinh tế. Các NiEs và ASEAN đã thực hiện thành công

chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế thế
giới. Đồng thời sự suy sụp của Liên Xô và các nước Đông Âu đã làm cho cục
diện về kinh tế cũng như kinh tế của mình ở Châu Á nhằm duy trì ảnh hưởng
của mình trong nền kinh tế thế giới. Việc thiết lập được một sự hiện diện
mạnh mẽ và đồng bộ tại các khu vực ở Châu Á sẽ cho phép EU đảm bảo được
lợi ích của mình tại khu vực này vào đầu thế kỷ 21. Để đạt được điều đó
tháng 7/1994, EU đã thông qua văn kiện “Hướng tới một chiến lược mới đối
với Châu Á”.
Chiến lược mới này hướng tới các mục tiêu chủ yếu là:
Thứ nhất: Tăng cường sự hiện diện về kinh tế của EU tại Châu Á nhằm
duy trì vai trò nổi trội của mình trong nền kinh tế thế giới. Việc thiết lập một
sự hiện diện đáng kể ở Châu Á sẽ cho phép EU chăm lo những lợi ích của
mình được tôn trọng hoàn toàn trong khu vực then chốt này vào đầu thế kỷ
21.
Thứ hai: Góp phần vào sự ổn định ở Châu Á bằng cách khuyến khích
hợp tác và hiểu biết lẫn nhau ở cấp độ quốc tế.
Thứ ba: Khuyến khích sự phát triển kinh tế của các nước và khu vực
kém thịnh vượng nhất. EU và các thành viên của mình tiếp tục góp phần làm
giảm bớt sự nghèo nàn và tạo ra một sự tăng trưởng bền vững ở các nước và
khu vực này.
Thứ tư: Góp phần phát triển và củng cố nền dân chủ, nhà nước pháp
quyền, cũng như phương tiện tôn trọng quyền con người và các quyền tự do
cơ bản ở Châu Á.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Để đạt được các mục tiêu trên EU đã đưa ra hàng loạt các chính sách
củng cố và tăng cường sự hiện diện của mình như.
- Dành cho Châu Á những ưu tiên lớn hơn và đi sâu đối thoại với các
nước và các nhóm trong khuôn khổ song phương hoặc đa phương.
- Coi trọng hợp tác kinh tế trong các lĩnh vực EU có lợi thế như ngân

hàng, năng lượng, công nghệ môi trường, viễn thông …
- Dành ưu tiên lớn nhất cho các thị trường Châu Á mới trong đó có Đông
Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ …
Sự cụ thể hoá trong chiến lược mới đối với Châu Á chứng tỏ EU đã tiến
thêm một bước quan trọng trong chính sách đối ngoại và an ninh chung của
mình. Việc EU cố gắng đi đến một chính sách chung đối với Châu Á -Thái
Bình Dương là xuất phát từ chỗ đánh giá lại thực trạng của mình và tương lai
của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Qua chiến lược này EU hy vọng sẽ
giành được những vị trí vững chắc cả về kinh tế quốc dân. EU đã sớm đón bắt
được một xu thế phát triển đặc thù ở Châu Á trong thế kỷ 21. Đó là vị trí lý
tưởng để EU có thể phát huy ảnh hưởng chính trị của mình. Một cơ hội mới
đã được tạo ra cho sự hợp tác giữa EU và ASEAN khi Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của ASEAN.
Tóm lại: Sau 40 năm hình thành và phát triển EU trở thành một siêu
cường cả về kinh tế, chính trị, dân số, diện tích … và sẽ trở nên mạnh hơn khi
đồng tiền chung Euro được sử dụng trước một trật tự thế giới mới đang hình
thành và đang đầy biến động phức tạp, EU đã chuyển mình vươn lên tắch
khỏi sự lệ thuộc với Mỹ, vươn tầm hoạt động sang trung và Đông Âu, Châu
Á, Châu Mỹ La Tinh, nhằm nâng cao hơn nữa vị thế của mình trước thềm thế
kỷ XXI. chính trong quá trình thực hiện chiến lược toàn cầu của mình nói
chung và chiến lược mới với Châu Á nói riêng, EU đã tìm thấy ở Việt Nam
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những ưu thế địa chính trị, địa kinh tế để lấy Việt Nam làm đIểm tựa quan
trọng trong chiến lược đối ngoại của mình với Châu Á.
Mối quan hệ Việt Nam – EU đã bắt đầu được thiết lập từ sau năm 1975,
nhưng chỉ đơn thuần là viện trợ kinh tế. Bước chuyển biến to lớn đánh dấu
một thời kỳ mới trong quan hệ Việt Nam- EU là việc hai bên thiết lập quan hệ
ngoại giao tháng 10/1990. Trên cơ sở đó mối quan hệ Việt Nam và EU đã
phát triển nhanh chóng. Hai bbên đã có hàng loạt cuộc tiếp xúc gặp gỡ thăm

viếng hội thảo khoa học… nhằm trao đổi thông tin và tăng cường sự hiểu biết
lẫn nhau. Quan hệ Việt Nam –EU bước vào giai đoạn lịch sử mới khi.
Hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU được ký kết vào tháng 7/1995.
Hiệp định đã tạo ra những yếu tố thuận lợi cho EU và mối nước thành viên
EU trong quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư với Việt Nam. Có thể nói,
hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU vừa là cơ sở pháp lý vừa là động cơ
thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU phát triên mạnh mẽ và toàn
diện trên rất nhiều lĩnh vực: hợp tác thương mại, đầu tư khoa học kỹ thuật môi
trường văn hoá giáo dục y tế… đặc biệt là trng lĩnh vực dệt may. Bằng chứng
là hai hiệp định dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1993 – 1997 và 1998 –
2000 đã ký kết. nhờ đó kim ngạch hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường
EU đã tăng lên nhanh chóng. Vẫn đề này sẽ được nghiên cứu kỹ ở chương
tiếp theo.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM -EU
TRONG LĨNH VỰC DỆT MAY
2.1. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam.
Ngành dệt may là ngành công nghiệp truyền thống có lịch sử phát triển
rất lâu đời ở nước ta. Mạc dù thường xuyên phảI đối mặt với rất nhiều thử
thách, song với đặc tính thu hút nhiều lao động, đầu tư ít vốn, thu lãi nhanh,
ngành dệt may đã tận dụng được các lợi thế của đất nước và đóng góp ngày
càng nhiều cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ nhất, ngành dệt may phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng là đảm
bảo đầy đủ nhu cầu thiết yếu cho nhân dân trong nước “sau cái ăn là cái mặc
”, qua đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Trên thực tế sản phẩm của ngành dệt may chỉ mới đáp ứng được một phần
nhu cầu trong nước. Hàng năm chúng ta vẫn phảI nhập với một khối lượng
lớn nguyên liệu lẫn hàng dệt may thành phẩm. Mặt khác ngành dệt may sản

phẩm cho tiêu dùng trong nước chất lượng còn thấp, mẫu mã chưa phong phú,
giá cả lại cao so với sản phẩm dệt may nhập khẩu. Tuy nhiên trong những
năm gần đây, ngành dệt may đã có kế hoạch đổi mới trang thiết bị, tăng sản
lượng, giảm giá thành, đa dạng hoá mẫu mã nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ
nhu cầu của nhân dân trong nước.
Thứ hai, với đặc tính sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là đối với ngành
dệt may Việt Nam thiếu thiết bị công nghệ hiện đại vì thế còn rất nhiêù công
đoạn sản xuất thủ công, nên ngành dệt may có khả năng giải quyết việc làm
cho rất nhiều lao động. Hiện nay toàn ngành dệt may Việt Nam đang sử dụng
hơn 500. 000 lao động Con số này là nhỏ khi so với tổng số 38 triệu người
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong độ tuổi lao động của Việt Nam nhưng là một con số khá lớn đối với một
ngành công nghiệp, có ý nghĩa không chỉ trên phương diện kinh tế mà còn
góp phần bình ổn chính trị – xã hội.
Thứ ba, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước, hiện nay sản phẩm dệt
may của Việt Nam đã có mặt ở rất nhiều thị trường nước ngoài. Các sí nghiệp
dệt may lớn ở Trung ương và địa phương đều đang cố gắng dành năng lực tốt
nhất cho sản xuất hàng dệt may. Ngành dệt may đã phát huy và tận dụng hết
tiềm năng sẵn có của đất nước, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đó. Trong thời
gian tới, chúng ta cần phải có những chính sách phù hợp để khai thác hiệu quả
những ưu thế của ngành dệt may nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2. Cơ cấu thị trường ngành dệt may Việt Nam
Nhiệm vụ đầu tiên của ngành dệt may là đáp ứng cho nhu cầu của nhân
dân trong nước “sau cái ăn là cái mặc ”. Nhưng trên thực tế, ngành dệt may
chưa hoàn thành nhiệm vụ này, hàng năm chúng ta vẫn phải nhập một lượng
lớn nguyên liệu lẫn hàng dệt may thành phẩm. Điều này chứng tỏ rằng trong
quá trình phát triển và hướng ngoại ngành dệt may Việt Nam đã để lại một
khoảng trống sau lưng mình, đó là thị trường may mặc trong nước Hiện nay

các sí nghiệp dệt may lớn Trung ương và địa phương đều đang cố gắng dành
những năng lực tốt nhất cho sản xuất hàng dệt may xuất khẩu, phần nào
không xuất được thì để lại tiêu dùng trong nước. bằng chứng là thỉnh thoảng
mọt doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nào đó lạI đưa ra “cửa
hàng giới thiệu sản phẩm” của mình những lô hàng kém phẩm chất bán cho
hàng tiêu dùng, đó là những chiếc quần áo rộng quá cỡ, khác biệt về màu sắc
và kiểu mốt đối với người Việt Nam. Hoạt động của ngành dệt may trên thị
trường nội địa có thể được phản ánh như sau:
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ở thị trường thành thị, thị trường bị thả nổi: Các cơ sở sản xuất kinh
doanh hàng may mặc của tư nhân gia đời rất nhanh với nhiều quy mô và hình
thức khác nhau đã thay thế dần cho may mặc quốc doanh, tình trạng kinh
doanh đất trốn lậu thuế sản xuất buôn bán hàng giả, hàng “Sida”, hàng ngoại
tràn vào một cách tràn lan, khó kiểm soát được. Ở thị trường nông thôn, miền
núi lại khác hẳn thị trường bị bỏ trống bởi cầu ít, khả năng thanh toán kém do
đó không đủ sức để thu hút tư thương vào.
Nếu ta chỉ làm một phép tính đơn giản cũng có thể thấy được sự lãng phí
đáng quan tâm của ngành dệt may Việt Nam. Nước ta hiện nay có khoảng 78
triệu dân, chỉ tính khiêm tốn mỗi người tiêu dùng bình quân 100. 000 đồng /
năm sẽ tạo được một thị trường với sức mua 7800 tỷ đồng ( tương đương với
khoảng 600 triệu USD ) xấp xỉ kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của chúng
ta vào 14 quốc gia thành viên EU năm 1998.
Đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu ra
hai khu vực thị trường: có hạn ngạch và phi hạn ngạch. Thị trường có hạn
ngạch do EU áp đặt. Nơi đây, loại hình gia công chiếm vhủ yếu 80% kim
ngạch xuất khẩu hầu như ổn định. Sau khi Hiệp định dệt may thời kỳ đầu
( 1993 – 1997 ) được ký kết kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
sang EU không ngừng tăng lên. Thời kỳ đầu có 105 chủng loại ( category –
cat ) quản lý bằng hạn ngạch, sau khi điều chỉnh ( tháng 8/ 1995 ) còn 54 cat

và khi hiệp định thời kỳ 1998 – 2000 được ký kết thì số cat quản lý hạn ngạch
chỉ còn 29. Tính gia, có 122 đã được EU “giải phóng ” số lượng Cat được giải
phóng này có thể mang lạI một kim ngạch không nhỏ.
Trước những khó khăn trong việc khai thác thị trường xuất khẩu như đã
nêu trên, việc mở rộng và tăng cường hơn lữa hợp tác với thị trường EU là
một đòi hỏi khách quan của nganhf dệt may Việt Nam. Đó cũng chính là lý
do mà toàn bộ chỉ đi sâu tìm việc thực trạng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam đi EU để rút ra thách thức và thuận lợi.
11

×