Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

MỘT số đặc điểm SINH học, SINH TRƯỞNG và SINH sản của gà RỪNG (GALLUS GALLUS, LINNAEUS) NUÔI tại vườn THÚ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 84 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
HÌI


NGUYỄN THỊ THU NGÂN


MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH TRƯỞNG VÀ
SINH SẢN CỦA GÀ RỪNG (GALLUS GALLUS, LINNAEUS)
NUÔI TẠI VƯỜN THÚ HÀ NỘI


LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH : CHĂN NUÔI
MÃ SỐ : 60.62.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN BÁ MÙI


HÀ NỘI, NĂM 2014

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là


trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị
Thu Ngân





Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page ii

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của nhiều đơn vị và cá nhân. Đến nay luận văn của tôi đã hoàn thành, nhân
dịp này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Thầy hướng dẫn tôi: PGS.TS. Nguyễn Bá Mùi đã đầu tư nhiều công
sức và thời gian hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện đề tài, đánh giá kết
quả và hoàn thành luậ
n văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến tất cả các thầy cô giáo Bộ môn Sinh lý -
Tập tính Động vật, Khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng thủy sản - Học viện Nông
nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu
học tập và thực hiện luận văn.
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến ông Đặng Gia

Tùng - Chủ tịch Công ty TNHH MTV Vườn thú Hà Nội, các nhà chuyên
môn, và các cán bộ, nhân viên tại Vườn thú Hà Nộ
i , đã nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Nhân dịp này cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các
Thầy Cô trong hội đồng chấm bảo vệ luận văn đã đóng góp những ý kiến quí
báu, chỉ bảo giúp tôi hoàn thiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, và các đồng nghiệp đã động
viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận

n này.
Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2014


Nguyễn Thị Thu Ngân


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC ẢNH, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ vii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT viii
1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết củ
a đề tài 1

1.2. Mục đích của đề tài 2
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học 2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC 3
2.1. Cơ sở khoa học của luận văn 3
2.1.1. Sơ lược về loài gà r
ừng trong tự nhiên 3
2.1.2. Đặc điểm sinh học cơ bản của gà rừng 7
2.1.3 Đặc điểm sinh sản gà rừng 13
2.1.4 Đặc điểm sinh trưởng gà rừng 13
2.1.5. Lịch sử nuôi nhốt gà rừng trong nước và thế giới 13
2.2 Tình hình nghiên cứu gà rừng trên thế giới và trong nước 14
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 14
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 16
3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
3.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 18
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 18
3.1.2. Địa điểm nghiên cứu 18

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page iv

3.1.3. Thời gian nghiên cứu 18
3.2. Nội dung nghiên cứu 18
3.2.1. Đặc điểm sinh học cơ bản của gà rừng 18
3.2.2. Đặc điểm sinh sản (tuổi thành thục, mùa sinh sản, tỷ lệ ấp nở,
thời gian ấp, trứng và một số chỉ số trứng). 19
3.2.3. Đặc điểm sinh trưởng gà rừng (0-12 tuần tuổi) 19
3.2.4. Thức ăn và điều kiện nuôi dưỡng 19
3.3. Phương pháp nghiên cứu 19

3.3.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm ngoại hình 19
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu tập tính hoạt động của gà rừng 19
3.3.3. Phương pháp nghiên cứu sinh sản 20
3.3.4. Phương pháp nghiên cứu sự sinh trưởng của gà rừng non 22
3.3.5. Phương pháp nghiên cứu thức ăn 23
3.4 Phươ
ng pháp xử lý số liệu 25
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 26
4.1. Đặc điểm sinh học của gà rừng (Gallus gallus Linnaeus, 1758) 26
4.1.1. Đặc điểm ngoại hình phân loại gà rừng 26
4.1.2. Tập tính của gà rừng 35
4.2. Đặc điểm sinh sản của gà rừng 43
4.2.1. Tuổi thành thục về tính 43
4.2.2. Mùa sinh sản và n
ăng suất trứng 43
4.2.3. Trứng và một số chỉ số trứng 46
4.2.4. Tỷ lệ ấp nở và thời gian ấp 47
4.2.5. Tỷ lệ nuôi sống 48
4.3. Đặc điểm sinh trưởng gà rừng 49
4.3.1. Sinh trưởng tích lũy của gà rừng 0-12 tuần tuổi 49
4.3.2. Sinh trưởng tuyệt đối của gà rừ
ng 0-12 tuần tuổi 51
4.3.3. Sinh trưởng tương đối của gà rừng 0-12 tuần tuổi 52

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page v

4.3.4 Chỉ số hình thái ngoài của gà rừng 53
4.4. Thức ăn và điều kiện nuôi dưỡng gà rừng tại Vườn thú Hà Nội 55
4.4.1. Lượng thức ăn thu nhận trong ngày của gà rừng 55
4.4.2. Điều kiện chuồng nuôi 58

5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 60
5.1. Kết luận 60
5.1.1. Đặc điểm sinh học 60
5.1.2. Đặc điểm sinh sản gà rừng 60
5.1.3. Đặc điểm sinh trưởng gà rừng 0 - 12 tuần tuổi 60
5.1.4. Thức ăn và chế độ chăm sóc 61
5.2. Đề nghị 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
PHỤ LỤC 67




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page vi

DANH MỤC BẢNG

Bảng 4.1. Những khác nhau cơ bản giữa 3 phân loài gà rừng Việt Nam 33
Bảng 4.2. Khối lượng và kích thước của gà rừng trưởng thành 34
Bảng 4.3. Hoạt động trong ngày của gà rừng (phút/ngày) 39
Bảng 4.4. Mùa sinh sản của gà rừng tại Vườn thú Hà Nội (2013-2014) 45
Bảng 4.5. Các chỉ tiêu chất lượng trứng 46
Bảng 4.6. Tỷ lệ ấp nở trứng gà rừng tại Vườn thú Hà N
ội (2013-2014) 47
Bảng 4.7. Tỷ lệ nuôi sống gà rừng 0 - 12 tuần tuổi 48
Bảng 4.8. Sinh trưởng tích lũy của gà rừng 0-12 tuần tuổi (g/con) 49
Bảng 4.9 . Sinh trưởng tuyệt đối của gà rừng 0-12 tuần tuổi (g/con/ngày) 51
Bảng 4.10. Sinh trưởng tương đối của gà rừng 0-12 tuần tuổi (%) 52
Bảng 4.11. Chỉ số hình thái ngoài của gà rừng 1-10 tuần tuổi (mm) 54
Bảng 4.12. Lượng thức ăn thu nhận củ

a gà rừng trong ngày (g/cặp/ngày) 56
Bảng 4.13. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn trong ngày của gà rừng
(cặp/ngày) 57


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page vii

DANH MỤC ẢNH, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ

Ảnh 4.1. Gà rừng tai trắng trống trưởng thành 28
Ảnh 4.2. Gà rừng tai trắng mái trưởng thành 29
Ảnh 4.3. Gà rừng con 1 ngày tuổi 29
Ảnh 4.4. Gà rừng trống tai đỏ Đông Bắc 30
Ảnh 4.5. Gà rừng mái tai đỏ Đông Bắc 30
Ảnh 4.6. Gà rừng (trống, mái) tai đỏ Đông Bắc 31
Ảnh 4.7. Gà rừng (trống, mái) tai đỏ
Tây Bắc 31
Ảnh 4.8. Thay lông ở gà rừng trống trưởng thành 37
Ảnh 4.9. Hoạt động đậu sào của gà rừng 38
Ảnh 4.10. Hoạt động ngủ nghỉ của gà rừng 38
Biểu đồ 4.1. Hoạt động trong ngày hè của gà rừng 40
Biểu đồ 4.2. Hoạt động trong ngày đông của gà rừng 41
Đồ thị 4.1. Sinh trưởng tích lũy (g/con) 50
Đồ thị
4.2. Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày) 51
Đồ thị 4.3. Sinh trưởng tương đối (%) 53


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page viii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ĐB Đông Bắc
KLCT Khối lượng cơ thể
LTATN Lượng thức ăn thu nhận
TĂ Thức ăn
TB Tây Bắc
TB Trung bình
TL Tỷ lệ
TT Tuần tuổi
SS Sơ sinh
VTHN Vườn thú Hà Nội
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
NCKH Nghiên cứu khoa học
Gallus gallus G.g
Gallus gallus gallus G.g.g
Gallus gallus
jabouillei
G.g. jabouillei
Gallus gallus
spadiceus
G.g. spadiceus
Gallus gallus murghi G.g. murghi
Gallus gallus
bankiva
G.g.bankiva


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 1


1. MỞ ĐẦU

1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, một số loài động vật có nguồn gốc hoang dã
ở Việt Nam đã được phép chăn nuôi và phát triển khá mạnh như: hươu sao,
nai, nhím, cá sấu, trĩ đỏ khoang cổ… mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân.
Mặt khác, trong khi số lượng các loài động vật hoang dã ngoài thiên nhiên
cũng đang giảm sút nhanh chóng, việc nhân nuôi thành công các động vật này
cũng giả
m bớt nguy cơ săn bắt gay gắt động vật hoang ngoài tự nhiên, góp
phần bảo vệ đa dạng sinh học bền vững, đặc biệt, khi có điều kiện thích hợp,
có thể thả chúng về nơi sống ngoài thiên nhiên.
Theo Võ Quý (1975) và Trương Văn Lã (1995), Gà rừng (G.g,
Linnaeus) thuộc nhóm chim Họ Trĩ (Phasianidae), Bộ Gà (Galliformes). Ở
Việt Nam, gà rừng có 3 phân loài: phân loài gà rừng tai trắng (G. g. g), phân
loài gà rừng tai đỏ Đông Bắc (
G.g.jabouillei) và phân loài gà rừng tai đỏ Tây
Bắc (G.g.spadiceus). Dù là động vật hoang dã song gà rừng là nguồn gen quí,
có quan hệ cận nhất với các loài gà nhà hiện nay (G. g. domesticus), và được
xếp vào nhóm động vật được phép gây nuôi vì có thể thuần hóa, theo
Hoffman và Scherf (2005), Nguyễn Xuân Đặng (2009).
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu về
đặc điểm sinh thái học của gà rừng cũng như khả năng sinh sản của gà rừng
là cầ
n thiết và cấp bách để có thể bảo tồn nguồn gen quí - đặc biệt nguồn gen
kháng bệnh của động vật hoang - đồng thời khai thác, phát triển loài này
thành vật nuôi, tạo hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi. Ở nước ta, hiện đã
có một số hộ gia đình, trang trại đã bắt đầu nuôi gà rừng song họ chưa có hiểu
biết về đặc điểm cũng như sinh thái loài và cách thức nuôi d
ưỡng chúng. Mặt

khác, ở Việt Nam, hiện chưa có nghiên cứu tổng thể nào về gà rừng. Vì vậy,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số đặc điểm sinh học, sinh
trưởng và sinh sản của gà rừng (Gallus gallus, Linnaeus) nuôi tại Vườn thú
Hà Nội”.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 2

1.2. Mục đích của đề tài
- Nhận biết được các phân loài gà rừng Việt Nam qua hình thái bên
ngoài của chúng.
- Xác định được một số đặc tính sinh học nổi bật (tập tính, sinh sản,
trứng và sự phát triển cá thể) của gà rừng trong điều kiện nuôi nhốt.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả đề tài là cơ sở khoa học hỗ trợ cho công tác bả
o tồn động vật
hoang dã trong điều kiện nuôi nhốt, bảo tồn và phát triển nguồn gen gà rừng -
loài chim đẹp trong họ chim Trĩ - để có thể tái thả chúng về thiên nhiên hoang
dã, đồng thời là tài liệu tham khảo có giá trị trong công tác giảng dạy, nghiên
cứu khoa học trong lĩnh vực chăn nuôi gia cầm.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả đề tài là cơ sở thực tiễn có giá trị để có thể nuôi thuần hóa gà
rừ
ng tại Việt Nam.
- Mở ra hướng sản xuất mới: chăn nuôi gà rừng phục vụ nhu cầu trưng
bày giải trí của người dân, cung cấp thực phẩm chất lượng và tạo hiệu quả
kinh tế cho người chăn nuôi, góp phần phát triển nền nông nghiệp sinh thái
bền vững ở Việt Nam.









Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 3

2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC

2.1. Cơ sở khoa học của luận văn
2.1.1. Sơ lược về loài gà rừng trong tự nhiên
*Phân loại
Gà rừng (G.g, Linnaeus) thuộc nhóm chim Họ Trĩ, nằm trong hệ
thống phân loại như sau:
- Giới (Kingdom): Động vật (Animal)
- Ngành (Phylum): Có dây sống (Vetebrata)
- Lớp (Class): Chim (Aves)
- Bộ (Order): Gà (Galliformes
)
- Họ (Family): Trĩ (Phasianidae)
- Giống (Genus): Gà (Gallus)
- Loài (Species): Gà rừng (Gallus gallus)
*Nguồn gốc và vùng phân bố
Theo Delacour 1977, gà rừng đã được những bộ lạc nguyên thủy ở
Châu Phi, Nam Mỹ và vùng đảo Pacific nuôi dưỡng và thuần hóa thành gà
nhà, mặc dù gà rừng vẫn được coi là thuần hóa ở Đông Nam Á từ trước đó.
Chúng đã có ở Trung Quốc vào những năm 1400 trước Công nguyên. Gà
rừng thuần hóa
được biết đến vào khoảng 2500 năm trước Công nguyên, ở

thung lũng Indus (Pakistan). Chúng ở Crete và ở Phoenicia vào năm 1500
trước Công nguyên, đến Trung Đông vào khoảng năm 700 trước Công
nguyên, vài năm sau đó có ở Hy Lạp. Những con gà này đã được mang đến
Trung Âu và Tây Bắc Âu rất sớm, có lẽ vào khoảng 1500 trước Công nguyên,
từ rất lâu trước những cuộc xâm chiếm của người Roman. Từ Hy Lạp gà
rừng có mặt muộn hơn ở nhữ
ng vùng phía Tây Địa Trung Hải, trong đó có
Rome. Gà rừng sau đó cũng được mang tới châu Mỹ từ các chiến binh thắng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 4

trận của châu Âu. Nhiều huyền thoại được gây dựng quanh hình tượng của
chú gà trống và chúng cũng trở thành một vật thể tôn giáo hay biểu tượng của
nhiều vùng đất.
Theo Delacour (1977), tất cả các loài gà nhà hiện nay được nuôi đều
có nguồn gốc tổ tiên từ loài Gà rừng Đỏ Đông Nam Á Red Junglefowl (G.g);
còn 03 loài gà rừng khác gồm có gà rừng Sri Lanka (G.lafayetii) Sri Lanka
Junglefowl; gà rừng xám (G.sonneratii) Grey Junglefowl; Gà rừng xanh (G.
various) Green Junglefowl đều không có bất kỳ một sự liên hệ
nào. Điều này
cho đến nay vẫn được các nhà nghiên cứu tiếp tục khẳng định, với nghiên cứu
của Fumihito A et al, 1994 về phụ loài gà rừng tai trắng được coi là tổ tiên
của các loài gà nhà ngày nay. Gà rừng (G.g) có nguồn gốc từ Trung Quốc và
vùng Đông Nam Á (bao gồm Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Lào và Việt
Nam), trải dài đến Ấn Độ.
Với các phân vùng địa lý khác nhau, riêng loài G. g hiện có 05 phụ loài
trên thế giới:
- Gà rừng tai trắng (G.g.g Linnaeus) Cochin-Chinese red jungle fowl
- Gà rừ
ng tai đỏ Tây Bắc - gà rừng Myanmar (G.g.spadiceus) Burmese bird

- Gà rừng tai đỏ Đông Bắc (G.g. jabouillei Delacour and Kinnear)
Tonkinese bird
- Gà rừng Ấn Độ (G.g.murghi Robinson and Kloss) Indian bird
- Gà rừng Java (G.g.bankiva Temminck) Javanese bird
Trong đó, Việt Nam có 3 phân loài gà rừng là:
- Gà rừng tai trắng (G.g.g Linnaeus) Cochin-Chinese red jungle fowl
- Gà rừng tai đỏ Tây Bắc - gà rừng Myanmar (G.g.spadiceus) Burmese bird
- Gà rừng tai đỏ Đông Bắc (G.g. jabouillei Delacour and Kinnear)
Tonkinese bird

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 5

Theo Nishida et al, 2000, gà rừng tai trắng có ở các vùng lục địa của
Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam có dái tai màu trắng; còn gà rừng tai
trắng ở sâu vùng Nam Thái Lan có dái tai không hoàn toàn là màu trắng. Vì
vậy, người ta phân biệt phụ loài gà rừng tai trắng type C (Continental - lục
địa) và gà rừng tai trắng type I (Insular - đảo).
Theo Võ Quý (1975) Việt Nam có 22 loài và phân loài chim Họ Trĩ.
Theo Delacour (1977) đã thống kê được 48 loài thuộc nhóm chim Trĩ phân
bố ở châu Á và chủ yếu vùng Đông Nam Á, trong đó có 12 loài chim Trĩ ở
Việt Nam (chưa kể các phân loài). Chúng sống
ở các vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới thuộc các độ cao về địa lý khác nhau, phân bố ở cả vùng núi cao của
vùng núi, trung du, đồng bằng và hải đảo. Theo Trương Văn Lã, 1995, nhóm
chim Trĩ ở Việt Nam là một trong những nước ở vùng Đông Nam Á giàu về
thành phần loài nhóm chim Trĩ ( châu Á có 48 loài thì nước ta có 12 loài -
chiếm 25%). Theo Sách Đỏ Việt Nam, Phần 1. Động vật (2007), có 13 loài
chim Họ Trĩ.
Theo Trương Văn Lã (1995) yếu tố địa lý, địa hình đã có
ảnh hưởng

quyết định đến sự đa dạng các nhóm yếu tố địa lý động vật của các nhóm
chim Trĩ ở nước ta. Việt Nam hoàn toàn thuộc đai nhiệt đới của Bắc bán cầu,
với khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Đó là điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát
sinh và phát triển của nhóm chim Trĩ . Mặt khác hệ núi Việt Nam đa dạng về
địa hình, núi đấ
t xen núi đá vôi địa hình phức tạp đã ảnh hưởng tới sự phân bố
thành phần loài của nhóm chim Trĩ, tới sự di cư, sinh trưởng, phát triển của
loài. Bên cạnh đó, sự phong phú của hệ rừng nhiệt đới với các loài thực vật đa
dạng (hệ quả của yếu tố địa lý - địa hình), nguồn thức ăn quan trọng của các
loài chim nói chung và nhóm chim Trĩ nói riêng là nguyên nhân cơ bản góp
ph
ần làm tăng tính đa dạng của các loài nhóm chim Trĩ ở Việt Nam.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 6

Theo Võ Quý (1975) : Ở Việt Nam, các phân loài gà rừng với phân bố
như sau: Phân loài G.g.g phân bố ở Nam Lào, Campuchia và Nam Việt Nam
(từ Hà Tĩnh trở vào tới Nam Bộ). Phân loài gà rừng tai đỏ G.g.jabouillei có ở
nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam (vùng hữu ngạn sông Hồng vào phía
nam đến Hà Tĩnh). Phân loài gà rừng tai đỏ G.g.spadiceus ở Tây Bắc Việt
Nam trải rộng đến Lào, Thái Lan và Myanmar.
Võ Quý (1993) - dẫn theo Trương Văn Lã (1995) - đã dựa trên cơ sở
phân bố của khu h
ệ chim Việt Nam và một số ranh giới tự nhiên đã chia Việt
Nam thành 6 vùng động vật địa lý tương tự như Đào Văn Tiến (1983), chỉ có
sai khác chút ít. Cụ thể : Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ,
Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Trong kết quả nghiên cứu về vùng địa lý động vật của nhóm chim Trĩ
ở Việt Nam của Trương Văn Lã (1995), gà rừng phân bố theo các vùng địa lý
động vật như sau: gà rừ

ng tai trắng có từ Bắc Trung Bộ vào đến Nam Bộ, gà
rừng tai đỏ Đông Bắc ở vùng Đông Bắc và Bắc Trung Bộ, còn gà rừng tai đỏ
Tây Bắc có ở vùng Tây Bắc.
* Môi trường sinh thái của gà rừng
Ngoài tự nhiên, gà rừng có ở Châu Á, Ceylon, Ấn Độ, Burma, Siam,
vùng Đông Dương (trong đó có Việt Nam), cực nam của Trung Quốc,
Malaixia mở rộng đến đảo Leser Sunda. Gà rừng cư ngụ ở những vùng đất
ấm áp, thấp và có
độ cao vừa phải. Chúng sống thành từng nhóm nhỏ hay gia
đình, gồm một con trống và nhiều con mái, nhất là trong mùa sinh sản. Gà
rừng có thể thích nghi với nhiều môi trường sống, ở độ cao lên tới 1800 m so
với mực nước biển (Delacour, 1977) từ rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh, bụi
tre, rừng cây gỗ nhỏ gần chỗ trồng trọt và những ngôi làng, bụi cây khô…
Chúng đến cả những vùng khai hoang và những cánh đồng, trảng cỏ trống
c
ạnh khu dân cư. Gà rừng mái làm tổ trên mặt đất dưới các bụi cây nhỏ.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 7

Theo Delacour (1977) cả 3 phân loài gà rừng đều có phân bố rộng.
Chúng sống được ở nhiều địa hình và nhiều sinh cảnh khác nhau: miền núi,
trung du, đồng bằng, hải đảo, rừng rậm, rừng thưa, rừng già, trảng cỏ cây bụi,
nương rẫy, đồng ruộng và cả những nơi gần dân cư sinh sống. Gà rừng sống
định cư trong nhiều kiểu rừng khác nhau, nhưng sinh cảnh thích hợp nhất là
rừng thứ sinh, r
ừng thưa, rừng tái sinh nhiều tre nứa… với độ cao lên tới
1800m so với mặt biển. Theo Trương Văn Lã (1995), riêng với sinh cảnh
rừng ngập mặn thì chỉ có loài gà rừng tai trắng sinh sống ở đó. Còn vùng hải
đảo, chỉ gặp gà rừng tai trắng ở Côn Đảo. Theo Hoàng Xuân Thủy (2010)
trong điều tra về hiện trạng gà rừng tai đỏ Tây Bắc ngoài tự nhiên tại rừng

quốc gia Cúc Phương, gà rừng phổ biế
n sinh sống tại các khu vực có trảng cỏ
cây bụi 61,6%, tiếp đến là rừng thứ sinh phân bố ở các thung lũng 34,9%, còn
các khu vực rừng thứ sinh ở chân núi đá và trên núi đá bắt gặp gà rừng không
nhiều từ 0,2-0,3%.
2.1.2. Đặc điểm sinh học cơ bản của gà rừng
*Đặc điểm hình thái ngoài
Theo Delacour (1977), gà rừng khác biệt hoàn toàn với các loài chim
Trĩ khác. Mào của gà trống cao và có kích thước lớn. Cặp lông đuôi giữa cong
hình l
ưỡi liềm. Gà rừng trống thường có kích thước lớn hơn, màu sắc rực rỡ
hơn con mái . Màu sắc ở con trống chủ yếu là đen, đỏ tía, đỏ đồng, đỏ lửa,
cam, vàng, xám. Con mái nhỏ hơn, nhạt nhòa với lông màu nâu, pha đốm
vàng, trắng, đen. Gà mái mào gần như không phát triển và không có mào tích.
Trọng lượng gà trống từ 672 - 1450g; con mái nặng khoảng 485 - 1050g tùy
theo phân loài gà. Theo Nishida và cộng sự (2000), có một số đặc điểm hình
thái điể
n hình rõ ràng của gà rừng như sau:
Da: da của gà rừng rất mỏng, nhìn rõ những bắp thịt bên dưới, gần
như trong suốt màu hồng.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 8

Mào: mào gà rừng nhỏ và mỏng
Vảy chân và cựa gà: Vảy chân của gà rừng nhẵn. Cựa gà và móng chân
gà rừng thon và sắc nhọn.
Bộ lông: bộ lông của gà rừng trống khá điển hình, với lông ngực, bụng
màu đen. Phần đầu cánh có màu hơi đỏ nâu. Gà rừng cái có màu nâu xỉn, lông
ở trước ngực có màu phớt hồng cam.
Màu của dái tai: Dái tai của G.g.g vùng từ Đông Nam Thái Lan đến

Nam Việt Nam là màu trắng; nhưng trong số nh
ững phụ loài ở xa miền nam
Thái Lan đến miền tây Malaysia là không hoàn toàn là màu trắng hoặc là hơi
trắng đỏ. Dái tai của loài G.g.spadiceus và G.g.jabouillei là màu đỏ.
Kích thước cơ thể: Chiều dài của xương cánh, trọng lượng cơ thể, kích
thước và độ dày của mào gà là các tiêu chuẩn tốt để chọn lọc gà rừng thuần
chủng từ những con lai.
Theo Võ Quý (1971), các phân loài gà rừng Việt Nam là G.g.g có da
yếm tai màu trắng, lông cổ rất dài, màu vàng cam. Loài G.g. japoullei có da
yếm tai nhỏ màu đỏ, lông cổ ngắn, màu đỏ thẫm lẫn màu da cam. Còn
G.g.spadiceus có da yếm tai nhỏ màu đỏ, lông cổ khá dài , màu đỏ sáng, mỗi
lông có một vệt dọc màu nâu ở giữa lông, mút lông vàng cam.
* Nơi sống
Gà rừng sống định cư trong nhiều kiểu rừng khác nhau, nhưng sinh
cảnh thích hợp nhất là rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh, rừng thưa, rừng gỗ
pha tre nứa, nương rẫy, đất trồng gần rừng có cỏ
cây, bụi rậm. Sống thành bầy
đàn, hoạt động hầu như suốt cả ngày (trừ buổi trưa), chủ yếu vào sáng và tối.
Buổi tối gà thường tìm đến những khu vực có cây cao chừng dưới 5m, có tán
lớn để ngủ. Gà thích ngủ trong các bụi giang, nứa có nhiều cây đổ nằm ngang.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 9

*Thức ăn
Ngoài thiên nhiên, gà rừng ăn các loại quả, hạt quả cây rừng, hạt cỏ dại,
hạt cây lương thực (ngũ cốc) như thóc, vừng, lạc, các loại đậu; các loài côn
trùng, động vật nhỏ như kiến, mối, giun đất, cào cào, châu chấu…
*Tập tính của gà rừng
Khái niệm về tập tính
Tập tính là sự đáp ứng của cơ thể động vật đối với môi tr

ường
sống, ví dụ sự thay đổi về nhiệt độ, thời tiết, thức ăn, thú săn mồi đều có
ảnh hưởng đến các hoạt động của động vật. Do đó, các thay đổi của môi
trường sống đều có tác động đến tập tính. Tóm lại, tập tính là mọi vận động,
cử động hoặc ngừng cử động có thể quan sát trực tiếp trong đời sống hàng ngày của
động vật.
Còn theo Vũ Chí Cương (2008) - dẫn theo Hoàng Thanh Hải
(2012) - tập tính là chuỗi các phản xạ được hình thành trong đời sống
động vật để thích nghi với môi trường sống. Môi trường sống thường xuyên
thay đổi, cơ thể sống muốn thích ứng với sự biến đổi đó thì phải thay đổi tập
tính, lối sống cho phù hợp với môi trường, hợp với các quy luật tự nhiên.
Tập tính học (Ethology) là ngành khoa h
ọc nghiên cứu hoạt động của động
vật , bao gồm sinh vật đơn bào, không xương sống, cá, lưỡng cư, bò sát, chim, thú.
Đó là những nghiên cứu tỉ mỉ về mối quan hệ giữa động vật với các điều kiện môi
trường tự nhiên như đối với cơ thể sinh vật khác, cách động vật tìm thức ăn, bảo vệ
lãnh thổ, tránh kẻ thù, chọn bạn đời và sinh sản, ch
ăm sóc con non . Sự hiểu biết về
tập tính động vật cũng rất cần thiết và có ích cho các chương trình sinh sản , quản
lý, bảo tồn và khai thác các động vật nuôi.
Sự hình thành tập tính
Tập tính của các loài động vật do hệ thần kinh chi phối và do sự ảnh
hưởng của các hệ cơ, xương v.v. Bên cạnh đó, môi trường cũng ảnh hưởng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 10

đến sự hình thành và tiếp tục tạo nên tập tính mới. Không có tập tính nào là
không phụ thuộc vào thông tin di truyền của vật nuôi và các yếu tố môi
trường. Mọi tác động đến một con vật và môi trường của nó có khả năng làm
thay đổi tập tính của con vật đó (Vũ Chí Cương, 2008) - dẫn theo Hoàng

Thanh Hải (2012).
Tập tính được coi là sự hình thành từ trong hệ thần kinh, từ những gì đã
xảy ra trong môi trường, làm thay đổi các cơ quan củ
a cơ thể, có thể thay đổi
về hệ thần kinh và não bộ. Một số tập tính là kết quả của sự biến đổi hàm
lượng hormon hoặc về mặt môi trường vật lý và hóa học của bộ não. Tập tính
cũng là do tích lũy các phản xạ. Đôi khi tập tính có được từ những thay đổi
chức năng sinh lý, do những thay đổi từ bên ngoài cơ thể hoặc từ những thay
đổi hoàn toàn bên trong c
ơ thể. Một số tập tính hình thành rất nhanh, trong
khi đó có những tập tính khác phải trải qua thời gian rất dài. Việc tạo ra tập
tính là sự mất dần đi phản xạ đối với những kích động lặp lại, nhưng nó có thể
vẫn còn tồn tại. Việc lặp đi lặp lại có thể diễn ra thường xuyên hoặc một lần
trong ngày nhưng tập tính con vật vẫn hình thành. Khả
năng tạo ra tập tính và
mức độ còn tùy thuộc vào khả năng của tác động và trạng thái của vật nuôi.
Sự hình thành tập tính là một quá trình quan trọng đối với vật nuôi để
chúng dự trữ năng lượng, nó sẽ mất năng lượng khi phản xạ lặp đi lặp lại
nhiều lần đối với các tác động thông thường. Như vậy, sự hình thành tập
tính là một phương tiệ
n quan trọng nhằm bảo đảm cho động vật không
phản xạ với quá nhiều tình huống diễn ra trong môi trường. Sự hình thành
tập tính có thể là do hậu quả của sự chịu đựng lâu ngày hay sự thích nghi
của các chuỗi nơron trong bộ não (Fraser và Broom, 1998 - dẫn theo Hoàng
Thanh Hải, 2012).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 11

*Một số tập tính cơ bản của gà rừng
Tập tính hoạt động theo mùa và ngày

Gà rừng chỉ hoạt động kiếm ăn vào ban ngày, ở ngay trên mặt đất, buổi
tối bay lên cây ngủ. Buổi sáng mùa hè gà rừng hoạt động mạnh nhất khoảng
sáng sớm rồi giảm dần đến khi nghỉ trưa. Còn mùa đông, đầu giờ sáng gà ít
hoạt động, sau đó tăng động cho đến khi nghỉ trưa; cuố
i chiều, chúng lại hoạt
động mạnh cho đến chiều tối.
Tập tính bầy đàn và phân chia đẳng cấp
Theo Delacour (1977), gà rừng thường sống thành đàn nhỏ. Tổ chức
đàn ở gà rừng chặt chẽ và có tính đẳng cấp rõ rệt, do một con trống đầu đàn
cầm đầu. Thường 1 con trống đi kèm 2-3 con mái, hoặc có thể đến 5 con mái
trong mùa xuân. Con trống non sống đơn lẻ hoặc sống với 2 ho
ặc 3 con.
Ngoài thiên nhiên, đã quan sát thấy gà rừng đi thành đàn đông 9 - 11 con, tỷ
lệ đực bao giờ cũng ít hơn cái (Trương Văn Lã, 1995).
Tập tính trốn chạy kẻ thù
Mọi hoạt động của gà rừng đều ở trên mặt đất. Tuy nhiên khi bị đe dọa
chúng có thể bay xa 30-50m nhưng không bay được cao, sau đó lại sà xuống
đất. Khi bị kẻ thù đuổi theo lại vỗ cánh bay tiếp. Chúng là loài chim linh hoạt
và nhanh nhẹn trong mọ
i tình huống; có thể chạy, bay nhanh ở chỗ quang và
chui rúc, lủi giỏi ở chỗ rậm rạp. Khi bị đe dọa, gà rừng thường lủi nhanh và
cất cánh lao nhanh vào nơi ẩn náu. Khi kiếm ăn hay nghỉ ngơi, gà rừng luôn
tỏ ra nhanh nhẹn và quan sát cảnh giác xung quanh.
Tập tính làm tổ và bảo vệ lãnh thổ
Theo Trương Văn Lã (1995), mỗi đàn gà rừng tai trắng sống trong một
khu vực nhất định, đó là vùng sống của chúng.
Đó là khu vực con vật có
những hoạt động kiếm ăn, uống nước, ghép đôi, sống đàn, sinh sản, nuôi dạy
con, nghỉ ngơi, trú ẩn. Vùng sống của gà rừng tai trắng tương đối ổn định qua


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 12

nhiều năm, thậm chí cả khi nguồn thức ăn ở đó có mùa khan hiếm. Mỗi đàn
có một vùng sống riêng biệt và chúng luôn bảo vệ lãnh thổ của mình. Cùng
với tiếng gáy, việc hai con trống đánh nhau (không có mái ở xung quanh) có
thể là hiện tượng đánh nhau tranh giành lãnh thổ ngoài tự nhiên.
Tập tính gáy
Tiếng gáy của gà rừng thường biểu hiện cho mùa sinh sản bắt đầu. Sau
mùa sinh sản hầu như không nghe thấy gà trống gáy. Gà trống r
ừng thường
gáy dồn dập vào buổi sáng và sẩm tối. Ngoài mùa sinh sản, gà trống rừng
thường kêu, chứ ít gáy. Thường chỉ có một con đực hay kêu, nhất là sẩm tối
khi đi ngủ, có lẽ là con đầu đàn, tiếng tác hơi giống tiếng tác của gà ta, với âm
lượng nhỏ hơn. Khi bị nguy hiểm hoặc bị đe dọa, con đầu đàn cũng thường
cất tiếng kêu gọi và cảnh báo cho cả
đàn.
Tập tính đánh nhau
Tất cả những con gà trống rừng đều đánh nhau rất khỏe. Chúng cũng
hung hăng hơn so với các loài Trĩ khác. Dường như đó là bản năng của chúng.
Cũng vì điều này mà trò chơi “đá gà” đã ra đời, phát triển ở một số nước châu
Á, thậm chí còn bị biến thành trò cá độ.
Tập tính thay lông
Đối với gà rừng, lớp lông đầu tiên được thay nhiều lầ
n trong quá trình
phát triển từ chim non đến trưởng thành để phù hợp với kích thước của chim
non trong từng giai đoạn (Võ Quý, 1971). Ở chim trưởng thành, mỗi năm gà
rừng thay lông 2 lần vào mùa xuân hè và thu đông.
Tập tính ghép đôi, khoe mẽ
Là tập tính sinh sản đặc trưng của gà rừng. Con trống bao giờ cũng lớn
hơn và có màu sắc đẹp rực rỡ hơn con mái. Vào mùa sinh sản con trống có

mào thịt phát triển, có tiếng gáy đặc trưng, bộ lông mượ
t mà bóng bẩy và
khoe mẽ trong mùa sinh sản.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 13

2.1.3 Đặc điểm sinh sản gà rừng
Sinh sản là một quá trình để tái tạo ra thế hệ sau và là tính trạng được
các nhà chọn giống quan tâm. Gà rừng là loài đa thê. Trong mùa sinh sản gà
trống gáy nhiều, nhất là sáng sớm và lúc hoàng hôn (chiều tà). Một con trống
thường đi kèm sát với 2-3 con mái. Tổ gà rừng làm đơn giản, thường ở dưới
các gốc cây bụi, hoặc khóm tre. Thường đẻ từ 4-9 trứng. Thời gian ấp trứng
18-21 ngày. Gà con mới nở có b
ộ lông màu nâu nhạt, một vạch nâu thẫm chạy
dài từ đỉnh đầu tới gốc đuôi, hai vạch xám nhạt xen kẽ và chạy dọc hai bên.
Tuổi thành thục cũng như mùa sinh sản của gà rừng tùy thuộc vào điều
kiện địa lý, sinh thái của từng vùng. Mùa sinh sản của gà rừng thường bắt đầu
từ tháng 2,3 hàng năm, song ở một số vùng (Ấn Độ), gà rừng có thể đẻ trứng
t
ừ tháng 1. Gà mái rừng làm tổ và đẻ trứng ngay trên mặt đất.
2.1.4 Đặc điểm sinh trưởng gà rừng
Sinh trưởng của vật nuôi nói chung và gia cầm nói riêng thường được
đánh giá qua khối lượng và các kích thước của chúng. Các thông số này
thường được biểu thị dưới dạng sinh trưởng tích lũy, sinh trưởng tuyệt đối và
sinh trưởng tương đối.
Ở gà rừng , giống như các chim họ Trĩ khác, sự sinh trưởng của chúng
chia 3 giai đo
ạn tuổi: gà rừng non ( từ 0-10 tuần tuổi); gà rừng sắp trưởng
thành (gà hậu bị) và gà rừng trưởng thành. Ở giai đoạn 8-10 tuần tuổi, gà rừng
bắt đầu phân biệt rõ được gà trống và gà mái. Trong quá trình sinh trưởng,

con trống tăng trưởng nhanh hơn và cũng có khối lượng trưởng thành lớn hơn
con mái.
2.1.5. Lịch sử nuôi nhốt gà rừng trong nước và thế giới
Gà rừng đứng hàng đầu trong những nhóm chim được nuôi để
giải trí,
đặc biệt là gà rừng trống. Vẻ đẹp khỏe mạnh, móng và cựa sắc nhọn, ở
Philipin, gà rừng trống thường xuyên được thuần hóa và được sử dụng như

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 14

một trò tiêu khiển trong nước bằng việc đánh nhau của gà trống bởi bản năng
bẩm sinh của chúng. Thổ dân Philipin rất thạo bắt những con gà rừng sống.
Các vườn thú trên thế giới như Vườn thú Cleres (Pháp) nổi tiếng về bộ
sưu tập các loài chim Họ Trĩ, trong đó có loài gà rừng. Nhiều vườn thú ở Nhật
Bản, Thái Lan cũng nuôi nhốt gà rừng.
Linaeus (1758) - dẫn theo Trương Văn Lã, 1995, lần đầ
u tiên mô tả con
trống loài gà rừng (G. g) với tiêu bản bắt được ở đảo Côn Lôn của Việt Nam.
Thịt gà rừng thơm ngon nên từ lâu chúng đã trở thành đối tượng bị săn bắt lấy
thịt của các dân tộc ở nhiều địa phương. Trò chơi chọi gà vẫn được coi là trò
chơi phổ biến trong dân gian giờ đây cũng vẫn được duy trì ở Việt Nam.
Việt Nam có 2 vườn thú lâu đờ
i nhất do các nhà tự nhiên người Pháp
thành lập từ cuối thế kỷ trước tại Vườn Bách thảo (Hà Nội) và Thảo Cầm
Viên Sài Gòn đều đã có nuôi dưỡng gà rừng.
Vườn thú Hà Nội được thành lập trên địa điểm mới ở Thủ Lệ, Ba Đình,
Hà Nội ngày 6/8/1976 và đã có nhiều thành công trong việc nhân giống các
loài động vật quí hiếm, trong đó có các loài chim Họ Trĩ. Năm 1990, gà rừng
(G. g) đã được nuôi l
ần đầu tiên ở Vườn thú Hà Nội. Từ đó đến nay, ngoài

phục vụ trưng bày, Vườn thú còn nuôi dưỡng bảo tồn các phân loài gà rừng
trong điều kiện nuôi nhốt, để giữ nguồn gen quí, phát triển phục hồi số lượng
của chúng, để có thể tái thả lại thiên nhiên.
Những năm gần đây, tại Vườn quốc gia Cúc Phương cũng đã nuôi thử
nghiệm phân loài gà rừng tai đỏ Tây Bắc (
G. g. spadiceus) nhằm từng bước bảo
tồn, phát triển và khai thác hợp lý các giá trị kinh tế mà loài gà rừng mang lại.
2.2 Tình hình nghiên cứu gà rừng trên thế giới và trong nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Việc nghiên cứu các đặc điểm hình thái, sinh học của gà rừng đã được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bởi các loài gà nhà hiện nay đều có nguồn

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 15

gốc từ gà rừng hoang dã và đã được con người thuần hóa, nhân giống, lai tạo.
Nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh trưởng và sinh sản của loài gà rừng
riêng biệt không có nhiều, thường nằm trong những nghiên cứu chung của
nhóm chim Họ Trĩ. Công trình nghiên cứu đầu tiên về hình thái học của các
loài chim Trĩ thế giới lần đầu được Beebe công bố năm 1931. Theo Trương
Văn Lã (1995), vào năm 1931, Delacour và Japouille cho xuất bản một công
trình t
ổng hợp “Chim Đông dương” gồm 4 tập. Các tác giả đã mô tả 954 loài
và phân loài chim có kèm theo sơ lược về đặc tính sinh học, trong đó có 11
loài thuộc nhóm chim Trĩ. Delacour vào năm 1948 đã có nghiên cứu về loài
gà rừng (G. g) và gà lôi trắng (Lophura nycthemera).
Năm 1951, trong nghiên cứu của mình về các loài chim Trĩ trên thế
giới, Delacour đã cho rằng tất cả các loài gà nhà hiện nay được nuôi đều có
nguồn gốc tổ tiên từ loài Gà rừng đỏ Red Junglefowl (G. g); còn 03 loài gà
rừng khác g
ồm có gà rừng Sri Lanka (G.lafayetii) Sri Lanka Junglefowl; gà

rừng xám (G.sonneratii) GreyJunglefowl; Gà rừng xanh (G.various) Green
Junglefowl đều không có bất kỳ một sự liên hệ nào. Nghiên cứu của Fumihito
A, 1994 về phụ loài gà rừng tai trắng cũng cho rằng gà rừng là tổ tiên của các
loài gà nhà ngày nay.
Năm 1987, Robson đã nêu hiện trạng và và sự phân bố của các loài
trong nhóm chim Trĩ ở Việt nam. Năm 1985, Nishida đã nghiên cứu về hình
thái và sinh thái học của gà rừng vùng Đông Nam Á. Năm 1992, ông và cộng
sự tiếp tụ
c nghiên cứu những đặc điểm hình thái và sinh thái của gà rừng ở
Nepal, với mối quan tâm về sự phát triển cũng như thuần hóa của gà rừng từ
những năm 1971.
Gần đây nhất, năm 2000, Nishida và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu
mối quan hệ giữa hình thái và sinh thái của gà rừng ở Thái Lan, Lào và Việt
Nam. Cùng với những nhà nghiên cứu Việt Nam, điều tra được tiến hành trên

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 16

59 cá thể gà rừng và 47 cá thể gà lai từ năm 1994 đến năm 1998, nhằm lọc ra
những đặc điểm sinh thái học của 3 phụ loài gà rừng cũng như vùng phân bố
của chúng ở vùng Đông Nam Á. Del Hoyo và cộng sự (1994) trong cuốn “Sổ
tay các loài chim thế giới” cũng đã có mô tả chung về hình thái, sinh thái
học cũng như tình trạng của các phụ loài gà rừng trên thế giới.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu của Võ Quý , Anorova (1967a, 1967b) - dẫ
n theo Trương
Văn Lã (1995) - đã công bố đầu tiên về sinh học loài gà rừng (G. g.
jabouillei). Đặc biệt, Võ Quý (1975) đã công bố cuốn sách “Chim Việt
Nam - Hình thái và phân loại”, trong đó xác định gà rừng ở Việt Nam có 03
phân loài : Gà rừng tai trắng G.g.g phân bố ở nam Việt Nam (từ Hà Tĩnh trở
vào tới Nam Bộ). Phân loài gà rừng tai đỏ G.g.jabouillei có ở miền Bắc Việt

Nam (vùng hữu ngạn sông Hồng vào phía nam đến Hà Tĩnh). Phân loài gà
rừng tai đỏ G.g.spadiceus
ở Tây Bắc Việt Nam. Tác giả cũng mô tả hình thái
của các phân loài gà rừng này.
Năm 1975, nghiên cứu về “ Động vật kinh tế tỉnh Hòa Bình” do Đặng
Huy Huỳnh chủ biên,Trương Văn Lã đã nêu về đặc điểm sinh học của 4 loài
và phân loài thuộc nhóm chim Trĩ, trong đó có gà rừng (G. g.jabouillei).
Năm 1995, Trương Văn Lã - Viện Sinh thái tài nguyên sinh vật đã báo
cáo về công trình nghiên cứu “Góp phần nghiên cứu nhóm chim trĩ và đặc
điểm sinh học, sinh thái c
ủa Gà rừng tai trắng (G. g. g), Trĩ bạc (Lophura
nycthemera nycthemera), Công (Pavo muticus imperator) và biện pháp bảo
vệ chúng”. Lần đầu tiên tác giả đã công bố được những khám phá bước đầu
về tập tính, thức ăn, phân bố, cấu trúc đàn, sinh sản của phân loài gà rừng tai
trắng tại Việt Nam. Ngoài ra, có nghiên cứu của Nguyễn Cử (1995) về Chim
đặc hữu và bảo vệ đa dạng sinh học ở Việt Nam. Đến nă
m 1996, đã có nghiên
cứu đầu tiên của Đặng Gia Tùng và cs, về nuôi thuần hóa gà rừng tai trắng

×