Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích triết lý âm dương ngũ hành và ứng dụng nó vào văn hóa ẩm thực việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.26 KB, 14 trang )

Trường Khoa học Xã hội và nhân văn
Hệ văn bằng 2 CQ
Khoa ngữ văn Anh
1
Tháng 4/2
GVHD:
Mục lục
I) Lời mở
đầu………………………………………………………………………3
II) Triết lý âm dương ngũ
hành………………………………………………… 4
III) Ứng dụng của nó trong văn hóa ẩm thực truyền thống Việt
Nam……… 8
IV) Tài liệu tham khảo……………………………………………………………
15
2
Lời mở đầu
Từ xa xưa người Việt cổ đã hình thành nên một nền văn minh lúa nước, cuộc
sống của con người gắn liền với nông nghiệp, các phong tục và nếp sống
theo đó cũng ảnh hưởng theo và không biết từ lúc nào thuyết âm dương ngũ
hành đã ăn sâu vào đời sống văn hóa của con người Việt Nam, có lẽ là do
thuyết âm dương ngũ hành dựa vào các quy luật của trời đất, gắn chặt với
thiên nhiên, thể hiện sự tương tác của con người với thiên nhiên, thỏa mãn
nhu cầu tinh thần của người dân nên vô hình chung nó đã trở thành một nếp
không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cư dân Việt cổ.
Từ thời xa xưa con người đã biết nhìn nhận sự luân chuyển và vận động của
đất trời để ứng dụng vào cuộc sống. Một cái nhìn tuy còn thô sơ nhưng không
thể phủ nhận trí tuệ và sự uyên thâm của các nhà hiền triết thời xưa. Đặc biệt
là cách biến những triết lý âm dương phức tạp thành những thứ gần gũi và dễ
nhớ đối với người dân. Biểu hiện rõ nét nhất của thuyết âm dương ngũ hành
trong nếp sống của người dân Việt cổ đó là trong ca dao tục ngữ, cách hành


xử, quan niệm về cuộc sống và các giáo lý thường ngày. Tuy bị ảnh hưởng
nhiều bởi nếp suy nghĩ và thuyết âm dương ngũ hành của người Bách Việt
nhưng người Việt cũng đã tạo nên cho mình một bản sắc riêng thể hiện trong
ẩm thực, văn hóa, nếp sống, và sinh hoạt hằng ngày.
Thuyết âm dương ngũ hành thể hiện nhiều trong văn hóa Việt Nam, trong các
khía cạnh đời sống và ảnh hưởng một cách sâu sắc đến bản sắc văn hóa dân
tộc, hình thành nên tính cách người Việt Nam.
Nhằm mục đích tìm hiểu về thuyết âm dương ngũ hành và những ảnh hưởng
của nó tới Văn hóa Việt Nam, tôi làm đề tài này. Tuy nhiên, do đề tài quá rộng
và trong một và nhận định không thể xem xét hết các khía cạnh nên chỉ xin
nêu ra một và nhận định về thuyết âm dương ngũ hành ảnh hưởng tới văn
hóa ẩm thực của dân tộc Việt Nam. Nhưng do kiến thức còn hạn chế và cũng
không có nhiều thời gian nghiên cứu nên không thể tránh khỏi những sai sót
và đôi lúc không thể tránh khỏi cái nhìn thiển cận. Vì vậy, rất mong nhận được
sự đóng góp và sửa chữa của thầy.
Học viên
3
I) Triết lý âm dương ngũ hành
Âm Dương được hiểu là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong
toàn vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết chứ không phải là một vật
chất cụ thể. Bản chất của Âm Dương chính là sản phẩm của thực tiễn xã hội:
chữ “sinh” trong “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
sinh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng” là minh chứng cho điều này. Âm Dương
chỉ hai mặt đối lập vốn có trong các sự vật hiện tượng: sự đối lập ngay trong mỗi
sự vật hiện tượng: trong > < ngoài, trước > < sau, trên > < dưới, phải > <
trái, Sự đối lập giữa các sự vật, hiện tượng: ngày > < đêm, sáng > < tối, nóng >
< lạnh, nam > < nữ, Các mặt đưa ra xem xét trái ngược nhau nhưng không
loại trừ lẫn nhau mà cùng song song tồn tại, nương tựa lẫn nhau, chuyển hoá
cho nhau.
Theo Trần Ngọc Thêm triết lý Âm Dương có hai quy luật cơ bản:

Quy luật thành tố: Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, trong
âm có dương, trong dương có âm. Vì vậy muốn xác định tính chất âm dương của
một vật cần xác định đối tượng so sánh, sau đó còn phải xác định cơ sở so sánh.
Quy luật về quan hệ: Âm và Dương luôn gắn bó mật thiết với nhau và
chuyển hóa cho nhau: âm cực sinh dương, dương cực sinh âm.
Nói chung, cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng
lên, vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương.
Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu
hình, lạnh lẽo, đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm.
Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con sâu, con
bọ, cây cỏ, đều được qui vào âm dương.
4
Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý
nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có
mầm mống của dương, trong dương lại có mầm mống của âm.
Ngũ Hành
Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã
giới thiệu trong thuyết âm dương, nhưng bổ xung và làm cho thuyết âm dương
hoàn thiện hơn.
Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ được con người ý niệm, phức tạp
hóa từ những vật chất cụ thể và thiết thực trong cuộc sống như: đất, nước, cây,
lửa, sắt, đá và được kết hợp trong hai bộ tam tài : “Thủy – Hỏa – Thổ” và “Mộc –
Kim – Thổ”, trong đó Thổ là yếu tố chung. Kết hợp chúng lại, ta được bộ năm với
mối quan hệ đa dạng và phong phú, trong đó “Thủy – Hỏa” và “ Mộc – Kim” là hai
cặp đối lập rõ rệt, “Thổ” ở giữa điều hòa. Do có mức độ trừu tượng hóa cao, Ngũ
Hành không phải là “5 yếu tố” mà là 5 loại vận động, Thủy, Hỏa…không chỉ và
không nhất thiết phải là nước, lửa mà còn là rất nhiều thứ khác.
Trong Ngũ hành có 2 qui luật:
Tương sinh: giữa Ngũ Hành có mối quan hệ nuôi dưỡng, giúp đỡ, thúc đẩy
nhau để vận động không ngừng, đó là quan hệ Tương sinh. Người ta qui ước

thứ tự của Ngũ hành Tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh
Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Trong quan hệ Tương sinh, mỗi Hành đều có
mối quan hệ với hai Hành khác: Cái-Sinh-Nó và Cái-Nó-Sinh.
Tương khắc: giữa Ngũ Hành có mối quan hệ ức chế nhau để giữ thế quân
bình, đó là quan hệ Tương khắc. Người ta qui ước thứ tự của Ngũ hành Tương
khắc như: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim
khắc Mộc. Trong quan hệ tương khắc, mỗi Hành cũng có quan hệ với hai Hành
khác, hai vị trí khác: Cái-Khắc-Nó và Cái-Nó-Khắc.
5



Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị sự
cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc thái quá
hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường.
6
Tương tự như mối quan hệ giữa Âm và Dương, Tương sinh và Tương khắc
không tách rời nhau, nhờ đó vạn vật mới giữ được thăng bằng trong mối quan hệ
với nhau.
Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc khắc thổ.
Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim.
Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ
Có tương sinh mà không tương khắc thì không thăng bằng, không phát triển
bình thường được. Có tương khắc mà không tương sinh thì không thể có sự sinh
trưởng biến hóa. Như vậy, qui luật tương sinh tương khắc của Ngũ hành, về bản
chất, chính là sự cụ thể hóa Học thuyết Âm Dương.
II) Ứng dụng của nó trong văn hóa ẩm thực Việt Nam
Thực phẩm nói chung đều là những vật chất có mức tương ứng đối với Âm

Dương và Ngũ Hành. 
 !"#$%&''(&)&
)*&+,-./&0123*&+,,"
&0134*&+,&$156
Thứ nhất, bảo đảm hài hòa Âm Dương của thức ăn. Để tạo nên các món
ăn có sự cân bằng Âm Dương, người Việt phân biệt năm mức Âm Dương của
thức ăn theo Ngũ Hành, bao gồm: Hàn (lạnh, âm nhiều, hành thủy), Nhiệt (nóng,
dương nhiều, hành hỏa), Ôn (ấm, dương ít, hành mộc), Lương (mát, âm ít, hành
kim), Bình (trung tính, hành thổ).
7
Khi chế biến thức ăn, phải tuân thủ nghiêm ngặt luật Âm Dương bù trừ và
chuyển hóa khi kết hợp các loại lương thực, thực phẩm, gia vị với nhau tạo thành
các món ăn có sự cân bằng âm – dương, thủy – hỏa. Có như vậy, thức ăn mới
có lợi cho sức khỏe và ngon miệng. Chẳng hạn: rau răm là nhiệt (dương) được
ăn với trứng lộn là hàn (âm) thì ngon miệng, dễ tiêu hóa. Hoặc gừng là thứ gia vị
nhiệt (dương) có tác dụng thanh hàn, giải cảm, khi nấu kèm với các loại thực
phẩm như: cá, rau cải (kho cá, canh rau cải) là thực phẩm có tính hàn thì ăn rất
thơm, ngon.
Thứ hai, bảo đảm sự quân bình Âm Dương trong cơ thể. Người Việt Nam
sử dụng thức ăn như là các vị thuốc để trị bệnh. Theo quan niệm của người Việt
Nam thì mọi bệnh tật sinh ra là do cơ thể bị mất quân bình Âm Dương , thức ăn
chính là vị thuốc để điều chỉnh sự mất quân bình Âm Dương ấy, giúp cơ thể khỏi
bệnh. Vì vậy, nếu người bệnh ốm do quá âm cần phải ăn đồ ăn dương (đau bụng
lạnh, uống nước gừng sẽ khỏi); ngược lại nếu người bệnh ốm do quá dương thì
cần phải ăn đồ ăn âm (bệnh kiết lị, ăn trứng gà rang với lá mơ)…
Thứ ba, bảo đảm sự quân bình Âm Dương giữa con người và môi
trường. Người Việt Nam có tập quán ăn uống theo vùng khí hậu và theo mùa.
Chẳng hạn, mùa hè nóng (nhiệt – hành hỏa) nên ăn các loại thức ăn hàn, lương
(mát), có nước (âm – hành Thủy), có vị chua (âm) thì vừa dễ ăn, vừa dễ tiêu hóa,
vừa giải nhiệt. Mùa đông lạnh (hàn – âm) thì nên ăn các loại thức ăn khô, nhiều

mỡ (dương), như các món xào, rán, kho…
Ví dụ: trong đám cưới, vợ chồng trẻ thường tặng cho nhau một nắm đất và
một nắm muối, như lời thề nguyền gắn bó với nhau và câu ca dao: “Gừng cay
muối mặn xin đừng quên nhau”. Để cho tình cảm vợ chồng gắn bó, ăn đời ở kiếp
với nhau, ngày cưới người ta còn làm bánh phu thê : hình tròn, bọc trong khuôn
hình vuông (dương trong âm). Bánh có ruột dừa trắng, nhân đậu vàng, rắc vừng
đen, khuôn lá xanh, buộc lạt đỏ – đó là biểu tượng của triết lý Âm Dương – Ngũ
Hành, biểu tượng cho sự vẹn toàn, hòa hợp của đất trời và con người.
8
Các món ăn còn thể hiện được vị: mặn, ngọt, chua, cay, đắng; Ngũ sắc:
Trắng, đen, xanh, đỏ, vàng. Để thỏa mãn 5 giác quan khi ăn: mũi ngửi mùi thơm,
mắt thấy được màu sắc, tai thấy được tiếng nhai, lưỡi nếm được mùi vị, và tay
cầm và cảm nhận.
Các món ăn ngày tết của mỗi miền dù khác nhau đến đâu cũng không thoát
khỏi mô hình canh - rau - mặn. Miền Bắc ăn nhiều chất béo để giữ ấm. Tết rất
lạnh, nên mới có món thịt đông. Sự khác biệt của món ăn các vùng chịu ảnh
hưởng của phong thổ, vị trí địa lý. Chịu ảnh hưởng của gió biển, gió núi, khí hậu
khắc nghiệt, các sản vật miền Trung không thể phong phú bằng hai miền Bắc,
Nam. Vì vậy, các món ăn có nhiều vị cay, mặn. Trong khi đó, món ăn ngày tết của
miền Nam nhiều cá, thịt, cây trái. Khi chế biến, món gì cũng được cắt to, thái dày.
Chẳng hạn, món thịt kho ngày tết bao giờ cũng thái vuông lớn thay vì thái lát
mỏng như ngày thường. Từ mâm ngũ quả của miền Bắc vào đến miền Nam đã
trở thành "mũ quả", với hoa tươi, trái ngọt phương Nam. Người Nam còn sắp trái
cây theo kiểu chơi chữ, như cầu vừa đủ xài với quả mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài.
"Văn hóa cuốn" cũng là đặc trưng của món ăn ngày Tết Nam Bộ.
Bánh chưng là sản phẩm lâu đời của nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
Bánh chưng vừa bình dị, thân thiết với người Việt Nam, vừa thể hiện tính tư duy
sâu sắc của người xưa và thấm đượm triết lý âm dương, tam tài và ngũ hành.
Bánh chưng được làm từ sản phẩm nông nghiệp trồng trọt và chăn nuôi đó là:
gạo nếp, đậu xanh, thịt heo, gia vị (thảo quả, hạt tiêu, muối). Tất cả những thứ ấy

được gói lại bằng lá dong hay lá chuối vuông vức và được cột bằng dây lạt mềm
mại buộc chặt.
Bánh chưng trong ngày tết tuy đơn giản như thế nhưng thể hiện tính tư duy
sâu sắc của người xưa. Khi cắt bánh chưng ra, một tổng thể 5 màu sắc thật hấp
dẫn: Màu vàng ngà của nhân đậu bùi thoảng hương thơm, màu đỏ hồng của thịt
heo chín, màu trắng ngần của nếp dẻo thơm, màu xanh biếc của lá dong hay lá
chuối và chấm đen của thảo quả, hạt tiêu. Từ trong ra ngoài của chiếc bánh thể
9
hiện triết lý âm dương, tam tài, ngũ hành. Năm màu sắc ấy tượng trưng cho ngũ
hành trong triết lý phương Đông. Thủy (màu đen), hỏa (màu đỏ), mộc (màu
xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng). Ngũ hành tương sinh tương khắc hài
hòa bổ trợ cho nhau trong tổng thể vuông vức ấy.
Màu vàng ứng với hành thổ trong thế đất vuông nằm ở trung tâm, tượng
trưng cho con người. Trong chiếc bánh, hạt đậu vàng được đặt ở giữa làm nhân,
bên cạnh thịt lợn đỏ hồng. Đây là hai cặp phạm trù âm dương hòa quyện vào
nhau (hạt đậu: là sản phẩm từ thực vật, thể hiện văn hóa trọng tình, là âm; thịt
heo: sản phẩm từ động vật, thể hiện văn hóa trọng động, là dương), chúng bổ trợ
cho nhau trong quá trình phát triển. Ngay trong đời sống thực vật và động vật đã
có sự nương dựa vào nhau và chuyển hóa cho nhau. Thực vật là nguồn sống
của động vật và ngược lại, chất thải của động vật lại là nguồn dinh dưỡng cho
thực vật hấp thụ phát triển.
Bánh chưng còn thể hiện triết lý âm dương trong cách bố trí hình thể và
nhân chiếc bánh. Bánh chưng hình vuông (là âm), bên trong nhân bánh hình tròn
(là dương). Cùng bao bọc của nhân đậu, thịt heo (âm – dương) là màu trắng của
nếp. Nếp – đậu – thịt heo (âm – dương – âm, thực vật – động vật – thực vật) tạo
thành tam tài. Tam tài với 3 cặp phạm trù âm – dương: nếp – thịt heo (âm -
dương), đậu – thịt heo (âm – dương), nếp – đậu (âm – dương, nếp được trồng
dưới nước là âm, đậu trồng trên cạn là dương).
Từ âm dương, tam tài đã phát triển lên thành ngũ hành, đó là lạm bàn bản
chất của bánh chưng. Ngay cả quá trình luộc bánh chưng cũng thể hiện triết lý

ngũ hành: thủy, hỏa, mộc, kim và thổ. Khi nấu bánh phải dùng nồi kim loại lớn
(kim), xếp bánh vào nồi rồi đổ nước (thủy) vào, lửa (hỏa) được đốt từ củi (mộc).
Cả 5 yếu tố trên luôn bổ trợ cho nhau, hài hòa bên nhau.
Người Việt Nam còn quan niệm: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, ăn uống
phải có ý tứ, mực thước là biểu hiện cân bằng âm dương trong khi ăn. Người ăn
10
uống lịch sự không nên ăn nhanh quá hay chậm quá, không nên ăn nhiều quá
hay ít quá, không nên ăn hết cũng đừng ăn còn. Do vậy, khi ăn phải cố gắng ăn
cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủ nhà, lại phải để chừa một ít
thức ăn trong các đĩa đồ ăn để tỏ rõ rằng mình không tham ăn. Một bữa ăn ngon
là sự tổng hợp cái ngon của mọi yếu tố: Thức ăn ngon ăn không hợp thời tiết thì
không ngon; ngồi không hợp chỗ ăn không ngon; không có không khí vui ăn
không ngon; đặc biệt thức ăn ngon không có bạn bè tâm giao ăn không ngon.
Trong ăn uống, không chỉ biết ăn hợp thời tiết, đúng mùa, người Việt sành
ăn còn phải biết chọn đúng bộ phận có giá trị nhất để ăn “đầu cá chép, mép cá
trôi, môi cá mè, lườn cá trắm”; phải chọn đúng trạng thái thực phẩm có giá trị
“tôm nấu sống, bống để ươn”; đúng thời điểm có giá trị “cơm chín tới, cải vồng
non, gà ghẹ ổ” thì ăn mới ngon.
Ngoài ra, còn phải chọn thức ăn đang ở dạng âm dương cân bằng, là thức
ăn ngon, giàu chất dinh dưỡng như: trứng lộn, giá, nhộng, đuông, cốm,… Người
xưa cho rằng: “Cốm hóa vàng, chim cu ra ràng, cà cuống trứng” là ngon nhất…
Triết lý Âm Dương – Ngũ Hành còn được thể hiện cả trong đồ uống, hút.
Trong bữa ăn, người Việt Nam xưa không uống bia, cũng không uống “rượu
Tây”, “rượu Tây” là phù hợp với người xứ lạnh. Thức ăn Việt Nam phải dùng
chung với rượu Việt Nam nấu từ gạo nếp mới ngon. Khi uống rượu, các cụ đốt
lên một bình hương trầm thơm, mặc áo the, khăn đóng ngồi trên sập gụ, trước
mặt là một đĩa thức ăn ngon, rượu được rót ra chén hạt mít hay chén mắt trâu,
vừa ăn vừa bàn chuyện văn thơ, thế sự… một cách ăn uống thật tao nhã.
Trong chế biến thức ăn, người Việt đều chú ý đến mối quan hệ Âm Dương,
Ngũ Hành và ngay cả việc sắp xếp không gian cho bữa ăn, thời gian cũng đều

được chú ý, tùy thuộc vào điều kiện khí hậu mỗi vùng, tính chất của thực phẩm…
Tuy nhiên như đã nói quy luật Âm Dương hay Ngũ Hành không phải là một phép
toán cố định, một vật có thể vừa âm vừa dương, vừa sinh vừa khắc. Vì vậy việc
11
áp dụng cho bất kỳ một hiện tượng nào cũng chỉ mang tính chất cơ sở tương đối.
Bởi còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố, đặc biệt là việc am hiểu những đặc trưng,
quy luật vận hành của Âm Dương, Ngũ Hành.
Bữa ăn truyền thống của người Việt Nam là sản phẩm của truyền thống
nông nghiệp lúa nước, nó chứa đựng những tư duy, triết lý sâu sắc trong việc
nhận thức về vũ trụ. Người Việt Nam đã biết vận dụng những nguyên lý ấy để
làm cho bữa ăn của mình đa dạng, giàu dinh dưỡng, có ích đối với sức khỏe.
Tùy vào con người, không gian và cả thời gian mà họ có cách chế biến khác
nhau phù hợp, trong đó yếu tố Âm Dương, Ngũ Hành được đảm bảo. Ngày nay,
khi khoa học công nghệ hiện đại phát triển, song bữa ăn của người Việt vẫn lưu
giữ được những nét truyền thống và được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Việc vận
dụng những nguyên lý của Âm Dương, Ngũ Hành trong việc chế biến thức ăn là
điều cần thiết, để đảm bảo cho sức khỏe.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Wikimedia Foundation-2011-âm dương- />%C3%82m_d%C6%B0%C6%A1ng
Nguyễn Vũ Tuấn Anh-2008-Ngũ Hành âm dương- www.vietlyso.com
Vietshare -2009-Nguồn gốc của âm dương và Ngũ Hành-
/>2010- Nguồn Gốc Thuyết Âm Dương Ngũ Hành- />blog/nguon-goc-thuyet-am-duong-ngu-hanh.vovantong.35CFC77F.html
Thiên Việt -2009- Ngũ hành tương sinh tương khắc-
/>sinh-t%C6%B0%C6%A1ng-kh%E1%BA%AFc/
NGŨ HÀNH VÀ CAN CHI - />viet/12779-nguon-goc-y-nghia-va-cong-dung-cua-canchi/
TS Bùi Bá Linh - Triết lý Âm Dương – Ngũ Hành trong nghệ thuật ẩm thực
của người Việt Nam - />%E2%80%93-Ngu-Hanh-trong-nghe-thuat-am-thuc-cua-nguoi-Viet-Nam-
6461.html
Lý Quảng- 2011 -Những vấn đề nguyên lý trong thuyết Âm Dương Ngũ hành -

/>Hoàng Minh – 2010 - Ứng dụng Âm Dương Ngũ hành trong bữa ăn truyên thống
người Việt- />bua-an-truyen-thong-nguoi-viet.hoangminhtq.35D0FC8D.html
Trần Ngọc Thêm 2006: 78&      09    :    ;&<
/>Trần Long 2010:7=:.>?@A$<6

Wikipedia- Văn hóa Việt Nam - 2011
/>13
Trần Đình Hượu 1984 VỀ ĐẶC ĐIỂM TƯ TƯỞNG VIỆT NAM -
/>im-t-tng-vit-nam&Itemid=5
GS.VS.TSKH.Trần Ngọc Thêm - 2007- ĐỐI THOẠI CÙNG BẠN ĐỌC VỀ ÂM
DƯƠNG - NGŨ HÀNH - />giao-su-tran-ngoc-them-va-thuyet-am-duong-ngu-hanh/
Xem thêm Phan Huy Lê, “Vấn đề truyền thống và cách mạng” trong  B
 C;&. Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1982, trang 80 – 95.
Nguồn Bộ Văn hóa Thông tin/Vietnam- Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc
dân tộc- />sac-dan-toc/20103/422.vnplus
Trần Ngọc Thêm - 2006D8&09 5
E
;&
14

×