Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Đặc trưng ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.85 KB, 66 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ trước đến nay đã có rất nhiều quan điểm đánh giá khác nhau về
thơ Hồ Xuân Hương. Có người cho rằng ở thơ bà : "Thi trung hữu quỷ"
(trong thơ có quỷ) – Tản Đà, Xuân Diệu thì gọi bà là : "Bà chúa thơ nôm",
nhà thơ Hoa Bằng thì gọi bà là "nhà thơ cách mạng" Tựu chung các nhà
nghiên cứu đều cùng gặp nhau ở một quan điểm đó là thơ Hồ Xuân Hương
có một phong cách riêng, khác thường, tài hoa.
Hồ Xuân Hương là một hồn thơ giàu giá trị nhân văn, nhân bản, một
chất giọng lạ và giàu sắc thái sáng tạo. Đến với thơ Hồ Xuân Hương là đến
với một tài năng và sự độc đáo – một hiện tượng lạ của nền văn học Việt
Nam. Một con người độc đáo cả về tính cách lẫn thơ văn, mà kể về sự độc
đáo thì từ trước đến nay chưa có một nhà thơ nữ nào sánh bằng. Điều làm
nên sự độc đáo nổi tiếng của bà chúa thơ Nôm chính là đặc trưng ngôn từ
trong thơ Hồ Xuân Hương.
So với các sáng tác của một số nhà thơ đương thời, sự nghiệp sáng tác
thơ của Hồ Xuân Hương không nhiều, chủ yếu là mảng thơ nôm truyền tụng,
bên cạnh đó còn có sự xuất hiện của Lưu Hương Kí, Xuân Hương đàm
thoại với một phong cách thơ không xen lẫn với ai được. Thơ Hồ Xuân
Hương chiếm một vị trí đặc biệt trong lòng người đọc, làm say mê, rung
động biết bao thế hệ
Tôi rất ấn tượng với thơ Hồ Xuân Hương, một chất thơ dung
dị dễ hiểu, dễ nhớ và mang đậm âm hưởng của dân gian, mặt khác tôi
có một sự đồng cảm đặc biệt với một nhà thơ cùng quê hương với mình, nên
phần nhiều tôi đã hiểu rất sâu sắc tiếng nói chân chất, mộc mạc trong thơ bà,
đó cũng là ngôn ngữ của người dân xứ Nghệ quê tôi.
Trên cơ sở tiếp thu những công trình của các nhà nghiên cứu,
phê bình, và các tài liệu có liên quan, chúng tôi quyết định chọn đề tài: Đặc
trưng ngôn từ trong thơ Hồ Xuân Hương với mong muốn đóng góp thêm
một tiếng nói bé nhỏ của mình bên cạnh những công trình nghiên cứu về
cuộc đời, sự nghiệp thơ của "Bà chúa thơ nôm" – Hồ Xuân Hương.


2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đặc trưng ngôn từ trong thơ Hồ Xuân Hương.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát thơ Nôm của Hồ Xuân Hương đã được công bố.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm thấy giá trị nhân văn của nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong thơ
Hồ Xuân Hương.
4. Lịch sử nghiên cứu
Cuộc đời và thơ Hồ Xuân Hương là một chuỗi những bí ẩn và gây
nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu. Đó là nỗi ám ảnh chưa bao giờ đứt
đoạn về tiểu sử, con người và thơ văn. Đến với thơ Hồ Xuân Hương, mỗi
người đều có sự nhìn nhận đánh giá khác nhau và xem chừng các cách giải
quyết vẫn chưa thỏa đáng. Điều đó chứng tỏ Hồ Xuân Hương là một hiện
tượng độc đáo, bí ẩn nên dù có rất nhiều các công trình nghiên cứu và khám
phá về thân thế, con người và thơ văn bà nhưng cho đến nay vẫn chưa đi đến
ngã ngũ.
Chính vì gặp khó khăn trong việc xác lập một cách chính xác thân
thế Hồ Xuân Hương nên trước đây có rất ít các công trình nghiên cứu. Bước
sang thế kỷ XX cuộc đời và sự nghiệp thơ Hồ Xuân Hương dần dần được
vén bức màn bí ẩn, nhiều các công trình nghiên cứu với đa dạng các hướng
khai thác khác nhau ra đời.
Đầu tiên là phải kể đến công trình nghiên cứu của Nguyễn Hữu Tiến
và Nguyễn Thành Ý (1925) "Việt Nam hợp tuyển giảng nghĩa"; "Quốc văn
trích diễn" của Dương Quảng Hàm (1925); "Nam thi hợp tuyển" của Nguyễn
Văn Ngọc (1927) Các bài viết này đều nhằm mục đích thu thập những cứ
liệu chính về thơ ca của Hồ Xuân Hương và bước đầu đi vào mặt nội dung
trong thơ Hồ Xuân Hương.
Về sau này, vấn đề thân thế và sự nghiệp thơ ca của bà càng được
nhiều sự quan tâm của độc giả. Việc đi tìm chân tướng "người đàn bà bí ẩn",

"người lạ mặt" này là một cuộc hành trình không biên giới, đây vẫn là đề tài
mở cho những ai có ý muốn khám phá cuộc đời và sự nghiệp thơ bà.
Đặc trưng ngôn từ trong thơ Hồ Xuân Hương là một đề tài có rất ít
các công trình nghiên cứu. Phải chăng các nhà nghiên cứu muốn tìm rõ
tường tận chân dung, thân thế hơn là đi sâu khai thác cái sâu sắc, độc đáo
trong ngôn ngữ thơ, các phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa dân gian của
người Việt thông qua cái nhìn và cảm nhận của hồn thơ Hồ Xuân Hương!
Sau đây, tôi xin đưa ra một số phát hiện mới về đặc trưng ngôn từ mà một số
nhà nghiên cứu đã đề cập tới trong một số các công trình sau:
- Đỗ Đức Hiểu trong "Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương" in trong
cuốn Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm, Nxb GD (2003) đã nhận xét:
" Nghệ thuật ngôn từ là một cơ thể sống phức tạp, vận động, nhiều âm
thanh, nhiều màu sắc: mỗi tiếng là một "con kỳ nhông", đứng chỗ này thì
màu xanh, đứng chỗ khác thì màu nâu, hoặc vàng úa. Thơ là một thể loại
thật kỳ ảo. Nhà thơ nói một sự việc, bài thơ mang một ý nghĩa khác Đó là
những điệp trùng của tiếng của câu, của các hệ thống đồng nghĩa, phản
nghĩa, ẩn dụ nhằm diễn đạt ý tưởng( tình cảm, suy tư ) dưới nhiều dạng,
ngày càng cao, càng sâu. Cho nên, có thể thấy chiều cao và chiều sâu ấy là
một đặc trưng của thơ "[18,tr.389].
- Trương Tửu trong "Hồ Xuân Hương - Thiên tài huê nguyệt" in trong
cuốn Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm, Nxb GD (2003) đã nhận xét:
" Về ngôn ngữ, Hồ Xuân Hương còn có đặc điểm nữa là hay dùng những
chữ tục, nạc, ngọt sớt, người bình dân ưa nói : Ai về nhắn nhủ phường lòi
tói, Muốn sống đem vôi quét trả đền Đầu sư há phải gì bà cốt. Bá ngọ con
ong bé cái nhầm Quân tử có thương thì bóc yếm, Xin đừng ngó ngoáy lỗ
chôn tôi Ong non ngứa nọc châm hoa rữa, Dê cỏn buồn sừng húc dậu
thưa Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ
không Kìa cái diều ai nó lộn lèo. Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài, Mỏi gối
chồn chân vẫn muốn trèo Ta có thể nói về cách dùng chữ, đặt câu, xếp ý
của Hồ Xuân Hương để trào phúng thói đời hay bộc lộ tình tự " [11,tr 84].

- Đặng Thanh Hòa trong bài viết "Thành ngữ và tục ngữ trong thơ
Nôm Hồ Xuân Hương" in trong tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 4 (2001),
đã nhận xét như sau: " Người ta thường bảo "nôm na là cha mánh khóe" thế
nhưng đến với thơ Hồ Xuân Hương thì đó là một ngoại lệ, bởi vì người đọc
nhớ đến Hồ Xuân Hương, yêu Xuân Hương lại chính từ cái "mánh qué" ấy.
Nếu không có chất "nôm na", "mánh qué", "xỏ xiên" đầy tinh quái này thì có
lẽ đã không có một Hồ Xuân Hương để cho người đời chiêm ngưỡng và tôn
vinh bà thành bà chúa thơ Nôm trong làng thơ Việt Nam. Chính cái chất
nôm na trong thơ của bà đã tạo nên một chất men xúc tác mãnh liệt trong
lòng người đọc. Người ta ngây ngất, hỉ ha, khoái trá với cái thứ ngôn ngữ
"nhà quê", "mánh qué" Tất cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với sự chau
chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà người ta thường bắt gặp trong ngôn ngữ thơ".
[10, tr. 22].
- Lê Trí Viễn trong cuốn "Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương", Nxb GD
(1998) đã nhận xét như sau : "Sở dĩ ngôn ngữ Xuân Hương lột được mọi ý
đồ của nữ sĩ chính vì cái tài vô song của người vận dụng. Cái tài ấy chẳng
khác gì cái tài của người làm xiếc. Vượt xa trên mức tưởng tượng. Tài tình
như thần thông biến hóa. Dân gian mà cổ điển. Điêu luyện mà cứ hồn nhiên.
Thực hư, hư thực, nó đấy mà không phải nó, bóng mà hình, hình mà bóng,
đùa mà thật, thật mà đùa. Có vẻ như Tôn Ngộ Không với Tam Tăng thì chỉ
một thân, trung thật, chân chất đến xúc động, nhưng với yêu quái, ma vương
thì có đến trăm Tôn Ngộ Không, chẳng biết đâu là thật, là giả " [24, tr. 34].
- Lê Hoài Nam trong bài viết "Hồ Xuân Hương" in trong cuốn Nghĩ
về thơ Hồ Xuân Hương Nxb GD (1998) đã nhận xét: "Xuân Hương có vốn
ngôn ngữ rất phong phú, rất chính xác, nhưng đồng thời cũng rất độc đáo.
Điều đó không phải chỉ chứng tỏ Hồ Xuân Hương nắm vững ngôn ngữ của
dân tộc, mà còn biểu hiện cá tính mạnh mẽ của Xuân Hương. Có những
tiếng như : hỏm hòm hom, trơ toen hoẻn, chín mõm mòm, đỏ lòm lom, sáng
banh, trưa trật phải là người có bản lĩnh vững vàng như Xuân Hương mới
có thể đưa vào văn học, nhất là vào thi ca được. Nói chung thì ngôn ngữ của

Xuân Hương có một sức biểu hiện rất mạnh, bao giờ cũng xúc tích, hình ảnh
sinh động, nói như ngày xưa thì mỗi một tiếng là đắc một tiếng" [24, tr.
172].
- Nguyễn Đăng Na trong "Thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian"
in trong cuốn Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm, Nxb GD (2003) đã
nhận xét: " Chủ nghĩa nhân đạo thù địch với chủ nghĩa cấm dục tôn giáo,
thù địch với thói đạo đức giả đã khiến Xuân Hương đưa những cảm hứng
dân gian không được giai cấp thống trị thừa nhận vào thơ chính thức. Đó
cũng là nét riêng của Hồ Xuân Hương, bà tiếp tục tiếng cười dân gian một
cách thành công. Tuy nhiên văn học dân gian không phải là nguồn duy nhất
tạo nên Hồ Xuân Hương " [11,tr.363].
- Đỗ Lai Thúy trong bài viết "Đi tìm phong cách thơ Hồ Xuân Hương"
in trong cuốn Hồ Xuân Hương, Nxb Văn Nghệ TP HCM (1997) đã nhận xét
như sau: " Thơ Hồ Xuân Hương có một kiến trúc ngôn từ khác lạ, một
ngôn ngữ khác lại. Đọc thơ bà hoặc bằng sự mẫn cảm, hoặc bằng phương
pháp thống kê, có thể chia ra những nét đặc biệt trong cách sử dụng ngôn
từ "[11, tr. 90].
- Đào Thái Tôn trong bài "Xuân Hương đàm thoại – Một nhịp nối
trong tiến trình dân gian hóa" in trong cuốn Hồ Xuân Hương về tác gia và
tác phẩm, Nxb GD (2003) đã nhận xét: " Như một phương tiện quan trọng
trong nghĩa của hai chữ "nhân quyền". Có điều là một tiếng nói như thế, ở
một thời điểm lịch sử cụ thể, ở một con người cụ thể, lại là một phụ nữ có
hoàn cảnh chắc chắn không phải sống trong nhung lụa như một nàng Mai
Am nào đó, thì phương tiện chủ yếu để bảo tồn tiếng nói ấy cho đến nay,
không còn gì khác hơn là lòng người "bia miệng". Đó là phương tiện thường
thấy trong văn học dân gian; phương tiện không biết tự bao giờ đã giữ lại
cánh cò cánh vạc, từng tiếng ru xao động lòng người ". [11,tr.263].
- Đỗ Lai Thúy trong bài "Đi tìm phong cách thơ Hồ Xuân Hương" in
trong cuốn Hồ Xuân Hương, Nxb Văn nghệ Tp HCM (1997) đã nhận xét:
" Nhiều người cho rằng công lao của Hồ Xuân Hương chỉ giới hạn ở sự

Việt hóa thể thơ Trung Quốc này mà quan trọng hơn mà còn làm mới thể thơ
Luật Đường. Việc thi nhân đưa vào cái cấu trúc đã hoàn chỉnh của nó những
yếu tố dị biệt, những nghịch cảm, chất liêu trai, mà không làm sụp đổ thể
loại, ngược lại còn nâng nó lên một chất lượng mới, quả thật rất lạ lùng. Có
lẽ ở mỗi bài của Xuân Hương, đằng sau ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng phồn
thực, đằng sau cái con người xã hội chính là con người vũ trụ " [2,tr.98].
Trong bài "Hoài niệm phồn thực" in trong cuốn Hồ Xuân Hương về tác gia
và tác phẩm Đỗ Lai Thúy đã khái quát như sau: " Những biểu tượng phồn
thực trong thơ Hồ Xuân Hương vừa không phải là tục vừa là tục. Bởi vì nó
gắn chặt với một điều thiêng liêng là sự cầu mong sinh sôi nảy nở cho mùa
màng, con người, động vật và cây cối. Nó chính là điều thiêng liêng. Trong
ý thức dân gian người ta cũng không coi đó đơn thuần là dâm tục chỉ có
trong ý thức chính thống của xã hội thì đó mới là dâm tục, bởi vì người ta
tách rời những biểu tượng này khỏi cái thiêng liêng là sự cầu mong phồn
thực phồn sinh " [11,tr.282]
- Ngô Gia Võ trong bài " Nghệ thuật với ý nghĩa khẳng định khát
vọng nhân văn trong thơ nôm Hồ Xuân Hương" in trong cuốn Hồ Xuân
Hương tác gia và tác phẩm đã khẳng định: " Thơ Hồ Xuân Hương là khúc
hát bay bổng và rạo rực ngợi ca, khẳng định hạnh phúc trần tục của con
người. Thơ bà xoay đi, xoay lại cuối cùng chủ yếu để nhằm xoáy vào việc
khẳng định khát vọng tự nhiên, ngợi ca hạnh phúc trần tục, đòi giải phóng
bản năng con người khỏi mọi trói buộc khổ hạnh của cường quyền và thần
quyền " [11,tr.330].
Hồ Xuân Hương không chỉ được nghiên cứu và đánh giá cao ở trong
nước mà còn thu hút sự chú ý quan tâm của nhiều người nước ngoài. Sau
đây là một số nhận xét, đánh giá tiêu biểu về thơ Hồ Xuân Hương:
- Jăng Ruxtal – Trong bài tựa bản dịch thơ Hồ Xuân Hương sang
tiếng Pháp đã coi Hồ Xuân Hương là : " Một trong những tên tuổi lớn của
văn học Việt Nam và không chút nghi ngờ, là một trong những nữ sĩ hàng
đầu của Châu Á” [18, tr. 454].

- Jean Ristat cũng nhận xét : "Tình yêu thân xác (trong thơ bà) là tình
yêu toàn vẹn. Nó bao gồm cả thiên nhiên trong đó. Tất cả đầy ăm ắp những
thần linh, tất cả đều xoáy về tình yêu”[18, tr. 441].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều có một tiếng nói chung là thống
nhất với nhau trên những vấn đề cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn.
Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó vẫn có những thái độ khen chê khác nhau
thậm chí còn có một số ý kiến mâu thuẫn nhau và cho đến nay vẫn chưa có
một sự giải quyết thỏa đáng. Thơ Hồ Xuân Hương thật sự có một sức quyến
rũ mạnh giống như "Lược trúc chải cài trên mái tóc / Yếm đào trễ xuống
dưới nương long / Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm / Một lạch đào nguyên
nước chửa thông”. Những phát hiện, tìm tòi mới về thân thế, sự nghiệp thơ
bà vẫn sẽ là vấn đề nóng hổi thu hút nhiều công trình tham gia nghiên cứu
giành cho những ai say mê, muốn khám phá thơ bà thì hãy tìm về với ngọn
nguồn của thơ ca truyền thống mà chiêm nghiệm.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Chúng tôi đã tiến hành so sánh các
sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương với các sáng tác thơ của các nhà thơ cùng
thời với bà, qua đó làm nổi bật đặc trưng ngôn từ trong thơ "bà chúa thơ
nôm" - Hồ Xuân Hương.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở phân tích, nhận xét,
đánh giá từ đó rút ra các kết luận cần thiết có liên quan đến đặc trưng ngôn
từ trong thơ Hồ Xuân Hương
- Phương pháp thống kê, phân loại: Trích ra một số bài thơ tiêu biểu
của từng giai đoạn và phân loại chúng theo từng mốc thời gian nhất định.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài của chúng tôi gồm có ba
chương chính:
Chương 1. Hồ Xuân Hương - Thời đại, cuộc đời và thơ
Chương 2. Đặc trưng ngôn từ trong thơ Hồ Xuân Hương
Chương 3. Ý nghĩa biểu đạt qua cách sử dụng ngôn từ trong

thơ Hồ Xuân Hương







NỘI DUNG
Chương 1
HỒ XUÂN HƯƠNG - THỜI ĐẠI, CUỘC ĐỜI VÀ THƠ
1.1. Đặc trưng nghệ thuật ngôn từ
1.1.1. Ngôn từ trong văn học
Văn học là một loại hình nghệ thuật, chính vì thế mà lâu nay người ta
thường dễ dàng bằng lòng đối sánh nó với các loại hình thái ý thức xã hội
khác như chính trị, triết học, đạo đức để rút ra những đặc trưng như tính
hình tượng, tính truyền cảm Song thật ra đây là những đặc trưng chung của
nghệ thuật với tư cách là một loại hình thái ý thức xã hội, tuy rất cần thiết
nhưng chưa gọi là đủ để làm nổi bật lên đặc trưng riêng của văn học. Bởi lẽ
văn học không chỉ là một loại hình thái ý thức xã hội mà nó còn là một loại
hình nghệ thuật. Do đó phải tiến lên khám phá đặc trưng của văn học trong
sự đối sánh với các loại hình nghệ thuật khác. Đặc trưng của mỗi loại hình
nghệ thuật xét đến cùng đều bắt nguồn từ chất liệu của nó.
Nói đến văn học là nói đến nghệ thuật ngôn từ, ngôn ngữ là chất liệu
xây dựng hình tượng văn học, là phương tiện giao tiếp, là công cụ tư duy của
con người. Văn học không chỉ là một loại hình thái ý thức xã hội mà nó còn
là một loại hình nghệ thuật, xét đến cùng là bắt nguồn từ chất liệu của nó.
Chất liệu của hội họa là màu sắc và đường nét. Chất liệu của âm nhạc là âm
thanh và tiết tấu. Chất liệu của vũ đạo là hình thể và động tác và những
trạng thái của nó. Trái lại chất liệu của văn học là ngôn ngữ hay nói đúng

hơn là ngôn từ, đều không phải là bản thân vật chất mà chỉ là kí hiệu của nó
mà thôi. Chất liệu của văn học dùng ngôn ngữ theo nghĩa gốc, nghĩa là chỉ
một hệ thống tiếng nói của một cộng đồng người nhất định, phân biệt với
các cộng đồng khác, và có thể khái quát lại trong từ điển và sách ngữ pháp.
Ngôn từ là ngôn ngữ trong vận động, tức là lời nói được thể hiện qua những
chủ thể phát ngôn khác nhau. Nhưng nói văn học là nghệ thuật của ngôn từ,
song không phải là những ngôn từ logic chỉ tác động chủ yếu vào lý tính như
trong chính trị, triết học , mà phải là ngôn từ giàu hình ảnh và tình cảm, tác
động chủ yếu vào tâm hồn con nguời.
1.1.2. Đặc trưng của tác phẩm trữ tình
Trước hết ta biết rằng tác phẩm trữ tình là tác phẩm văn học chủ yếu
dùng phương thức trữ tình để miêu tả, nghĩa là thông qua bộc lộ tình cảm
của tác giả mà phản ánh hiện thực. Ở đây tác giả trực tiếp bộc lộ những cảm
xúc của mình trước hiện thực đời sống. Có tác phẩm được viết bằng văn
xuôi ( tức là một loại thơ trữ tình, có cấu trúc thơ giống văn xuôi, câu nọ
cách câu kia không xuống dòng và dường như không có vần và nhịp điệu,
không mang tính chất cố định và không theo niêm luật nào), có tác phẩm trữ
tình thuộc loại thơ như thơ trữ tình. Có thể khẳng định rằng, trong tác phẩm
trữ tình thì thơ chiếm bộ phận lớn nhất đồng thời tiêu biểu nhất.
Tác phẩm trữ tình bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp. Đây là đặc điểm
nổi bật nhất của tác phẩm trữ tình. Nếu như tác phẩm tự sự thiên về miêu tả,
tác phẩm kịch tập trung miêu tả hành động thì tác phẩm trữ tình lại thiên về
bộc lộ cảm xúc của nhà thơ, nhà văn. Ví dụ tinh thần lạc quan, yêu đời của
Tố Hữu trong những năm 1960 :
Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước,
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Cũng là tinh thần hăng say, quên mình của cả một thế hệ thanh niên
Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ gian khổ nhưng hào hùng.
Nhân vật trữ tình thường là hiện thân của tác giả nhưng cũng có khi
là nhân vật được tác giả mượn để thể hiện tâm trạng. Nhân vật trữ tình tuy

không được miêu tả đầy đủ diện mạo mà chỉ được biểu hiện qua cảm xúc
cá nhân, nhưng thông qua ngôn ngữ ta có thể tưởng tượng ra chân dung tác
giả. Lời thơ trong tác phẩm trữ tình đầy cảm xúc, tình cảm. Vì vậy khi phân
tích tác phẩm trữ tình người ta không thể không phân tích tính nhạc – một
trong những đặc trưng của thơ trữ tình. Nhạc tính trong thơ gồm các yếu tố
vần, thanh điệu, nhịp điệu…Tính nhạc là một yếu tố quan trọng được coi là
sinh mệnh của thơ. Xuân Diệu đã thật tài tình khi miêu tả cái lâng lâng trong
cảm xúc của những người đang yêu bằng những thanh bằng liên tiếp:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời,
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.
Tác phẩm trữ tình thường ngắn gọn do mỗi tác phẩm chỉ thể hiện một
cảm xúc chủ đạo, một tâm trạng gắn liền với một thời điểm. Như Nguyễn
Khuyến trong bài thơ Khóc Dương Khuê, ông thể hiện lòng thương xót, tiếc
nuối trước cái chết của người bạn cố tri. Do tính ngắn gọn nên tác phẩm trữ
tình coi trọng sự cô đọng, hàm xúc. Mỗi chữ, mỗi câu, mỗi chi tiết, hình ảnh
đều có vai trò quan trọng nhằm thể hiện nội dung sâu sắc ẩn chứa bên trong.
Do trực tiếp bộc lộ cảm xúc nên lời văn trong tác phẩm trữ tình tràn
đầy tính biểu cảm. Trong tác phẩm trữ tình, do chủ thể trực tiếp bộc lộ cảm
xúc nên giọng điệu giàu sắc thái biểu cảm. Hồ Xuân Hương cũng đã uất ức
với thân phận lẽ mọn mà đã thốt lên:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.
Có thể nói, văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung tồn tại thông
qua tác phẩm. Không thể nói đến âm nhạc, hội họa, điêu khắc…nếu không
có những bản nhạc, bức tranh, pho tượng…Cũng như vậy, không thể nói
đến văn học nếu không có những bài thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết…Tác
phẩm văn học trước hết là những sáng tạo nghệ thuật bằng ngôn từ, trong đó
chứa đựng những nội dung, tình cảm nhất định. Dung lượng có thể hàng
ngàn trang nhưng cũng có thể chỉ một vài câu. Nó có thể được sáng tác bởi
một cá nhân hoặc là sản phẩm tinh thần của một tập thể. Điểm cơ bản để

phân biệt tác phẩm văn học với tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật khác là
nó được sáng tạo nên bằng nghệ thuật ngôn từ.
1.1.3. Ngôn từ trong thơ Hồ Xuân Hương
Về ngôn ngữ, có thể nói "văn học cổ không ai giản dị dễ hiểu và mộc
mạc như Xuân Hương. Ngôn ngữ của Xuân Hương không khác gì ngôn
ngữ của ca dao, tục ngữ. Thỉnh thoảng trong thơ bà có một đôi từ Hán Việt,
thì hầu hết đã được Việt hóa, đã đi vào kho từ vựng phổ biến của Tiếng
Việt" [18, tr.187]. Cá biệt như trong bài Bỡn bà lang khóc chồng, nhà thơ
dùng nhiều từ Hán Việt, thì đó là một dụng ý. Bởi vì đây là một bài thơ
"bỡn", Xuân Hương có ý dùng rất nhiều tên thuốc bắc thì cho đến bây giờ
chúng ta vẫn còn gọi bằng từ Hán Việt như thế
Thơ Hồ Xuân Hương là một lối thơ rất tự nhiên, thật gần gũi với đời
sống thường nhật, với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động.
Lời thơ không cầu kỳ, gọt dũa mà vẫn thiết tha, nhẹ nhàng rót vào lòng
người những cung bậc rất thánh thót, ngân vang. Thơ bà đã thoát ra ngoài
khuôn sáo, ít dùng điển cố Hán văn, lời thơ thường dùng theo lối ca dao, tục
ngữ.
Trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương, bên cạnh tiếng cười giòn giã,
lạc quan, thách thức, còn có cả tiếng thở dài ngậm ngùi, xót xa giữa đêm
khuya thanh vắng về thân phận long đong chìm nổi, cho số kiếp hẩm hiu,
bạc bẽo của người phụ nữ. Cái "tục" trong thơ bà nhiều khi là con dao hai
lưỡi, nó vừa phản ánh cái tục của cuộc đời trần tục vừa cái “tục” theo ý
nghĩa phồn thực. Trong quá trình phát triển của lịch sử, Hồ Xuân Hương đã
có cống hiến lớn lao trong việc nêu lên vấn đề về quyền sống và nhân phẩm
của người phụ nữ, chống lại những tập tục, những quan điểm bất công vô
nhân đạo của lễ giáo phong kiến. Tiếng nói mạnh bạo, thống thiết của Hồ
Xuân Hương sẽ mãi mãi vang vọng nhờ giá trị lịch sử và nhân văn của nó.
Nhìn chung, có thể nói "ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương phần
lớn là một ngôn ngữ thuần túy Việt Nam. Xuân Hương có tài khai thác vốn
ngôn ngữ súc tích, cô đọng của ca dao, tục ngữ. Trong cấu trúc chung của

câu thơ Xuân Hương, những yếu tố ca dao, tục ngữ được đặt đúng chỗ nên
rất tự nhiên, nó nhuyễn vào những từ, trong những cấu trúc câu thơ tạo thành
một thể hữu cơ thống nhất" [18, tr. 187], mang lại giá trị biểu đạt cao.
1.2. Hồ Xuân Hương- Thời đại và cuộc đời
1.2.1. Thời đại Hồ Xuân Hương
Lịch sử Việt Nam có lẽ không có thời nào tồi tệ cho bằng những năm
cuối đời Lê. Năm 1767, Trịnh Sâm lên ngôi chúa mê tửu sắc, bị bệnh
kỳ quái, sợ nắng gió, ngày đêm cứ phải ở trong cung kín như bưng. Yêu Thị
Huệ, Trịnh bỏ con trưởng là Trịnh Khải lập con thứ là Trịnh Cán, gây ra bè
đảng trong cuộc tranh giành quyền lực. Đàng trong quận chúa Nguyễn cứ
lăm le ra đánh phá, quấy nhiễu. Trước hỗn cảnh đó, quan lại chỉ còn biết lấy
nịnh hót, luồn cúi làm lẽ sống. Nhân dân sống trong cảnh loạn ly, các giá trị
đạo đức bị băng hoại. Bao nhiêu nghĩa quân thần, tình gia quyến, bao nhiêu
ước thúc luân lý…bị lật nhào. Bởi thế bao nhiêu cặn bã xã hội đều nổi trên
mặt. Những bậc già cả, những vị có học nhìn thời cuộc đâm chán nản, trái lại
những kẻ cơ hội thoả mãn những mưu đồ vô đạo, bất chính. Đây là giai đoạn
suy tàn của những luân lý giáo điều Nho giáo và sự trỗi dậy của những tư
tưởng cá nhân tự do, muốn đả phá và giải phóng khỏi những ràng buộc của
những định kiến Nho giáo.
Hồ Xuân Hương đã sống trong một giai đoạn sóng gió nhất với nhiều
biến cố kinh thiên động địa nhất trong lịch sử chế độ phong kiến nước ta.
Khi nói về thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến đã có câu:
Thơ thánh thơ tiên đời vẫn có,
Tung hoành thơ quỷ hiếm hoi thay.
Vì sao gọi thơ Hồ Xuân Hương là thơ quỷ? Phải chăng tính chất
quỷ đó được sinh ra từ một xã hội quỷ sứ? Hay là tính chất ngông nghênh,
quậy chọc như quỷ sứ trong thơ bà! Tìm hiểu đôi nét về thời đại, sự nghiệp
thơ để hiểu hơn về cuộc đời người đàn bà tài hoa mà bạc mệnh này. Hồ
Xuân Hương sống vào thời vua Lê chúa Trịnh. Chế độ phong kiến đã trải
qua một cuộc khủng hoảng cực kì trầm trọng.

1.2.2. Cuộc đời Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ kỳ tài, điều đó có lẽ không cần phải
bàn cãi gì nhiều. Nhưng xét đến tiểu sử của bà thì thật là mờ mịt. Xung
quanh vấn đề này còn rất nhiều giả thuyết khác nhau. Người ta biến những
câu chuyện kể về bà thành những huyền thoại, mỗi người nói một cách khác
nhau khiến cho giới nghiên cứu đau đầu, lúng túng bởi đứng trước tình cảnh
không thể biết đích xác về cuộc đời của một nữ sĩ như Hồ Xuân Hương,
nghi vấn cả một số bài thơ không biết có phải là của Hồ Xuân Hương hay
không nữa. Đi tìm dấu tích văn tài này, chúng ta chỉ có thể dõi theo dòng
lịch sử, dõi theo những dấu ấn được khắc hoạ trong chính thơ ca của bà.
Cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không biết đích xác nữ sĩ Hồ Xuân
Hương sinh và mất vào đúng năm nào. Trước nhiều giả thuyết khác nhau,
thì đã có nhiều tác giả đã đi đến cùng một kết luận. Nguyễn Hữu Tiến trong
cuốn Giai nhân di mặc (in năm 1915), Song An trong bài Thân thế và văn
chương cô Hồ Xuân Hương (in trên báo Đông Tây số 12/1929), Dương
Quảng Hàm trong Việt văn giáo khoa thư (in năm 1940) đều thống nhất ở
một số điểm sau: Hồ Xuân Hương là con gái của Hồ Phi Diễn, một thầy đồ
xứ nghệ, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Dạy học ở
Hải Dương rồi kết bạn với một cô gái xứ Đông, sinh ra Hồ Xuân Hương.
Gia đình này sau lên Thăng Long, khi thì ở vùng Khán Xuân bên Hồ Tây,
khi thì ở phường Tiên Thị bên bờ Hoàn Kiếm. Hồ Xuân Hương đã từng lấy
lẽ một cai tổng (Tổng Cóc) và một tri phủ (Vĩnh Tường). Bà còn là bạn thơ
của Chiêu Hổ tức Phạm Đình Hổ (1768 – 1839). Như vậy Hồ Xuân Hương
sống khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Nhưng đến năm 1957, trên Tạp chí văn học, Hồ Tuấn Niêm căn
cứ vào sáu bộ gia phả của các chi họ Hồ ở Nghệ An rút ra một thông tin cực
kỳ hấp dẫn: Xuân Hương là cùng một họ và bằng vai với Quang Trung
– Nguyễn Huệ. Với việc công bố tài liệu này, gốc gác Xuân Hương xem ra
sáng tỏ hơn. Rồi đến năm 1963, tình hình có khác. Trên Tạp chí Văn học số
4 – 1963, Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ chữ Hán với nhan đề Lưu

hương ký mà tên tác giả lại cũng là Hồ Xuân Hương. Tập thơ này còn cho
biết Hồ Xuân Hương còn lại bạn tình của tác giả Truyện Kiều. Nhưng sách
này lại cho hay rằng Hồ Xuân Hương là em gái ruột của Hoàng giáp Hồ Sĩ
Đống (1739 – 1785 ) tức con gái Hồ Sĩ Danh. Vấn đề thành ra rắc rối !
Càng rắc rối thêm là tới năm 1974, một tài liệu mới được công bố nêu
thêm một nghi vấn về lai lịch của bậc tài tử này: Trên Tạp chí Văn học số
3/1974 có đăng bản dịch Xuân Hương đàm thoại của Tam nguyên Trần Bích
San (1840 – 1878 ) một danh nhân của Nam Định. Bài này cho biết vào năm
Tự Đức 22 (1870) một nhóm văn nhân họp bạn cuối năm. Một người đến
chậm, cáo lỗi vì phải đi dự đám tang của “ tài nữ quê Nghệ An, hiệu là Cổ
Nguyệt Đường, nàng ở Từ Sơn, mộ mai táng bên núi Nguyệt Hằng”.
Như vậy, có một Hồ Xuân Hương mất vào năm 1870 và mộ bên núi
Nguyệt Hằng tức núi Chè, nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh. Bà cũng là
người Nghệ An, cũng là tài nữ có kiếp sống long đong. Lại cũng nhắc đến
một bài thơ của hoàng tử Tùng Thiện Vương: theo bài thơ này thì có một Hồ
Xuân Hương mà phần mộ ngay ở Hà Nội và nàng mất trước 1842 là năm
Tùng Thiện Vương ra thăm Hà Nội.
Vậy ai là Xuân Hương Bà chúa thơ Nôm? Vấn đề đang treo ở đấy
thì đến năm 1985, ông Hoàng Xuân Hãn Trên tạp chí Khoa học xã hội in
ở Pháp, với nhiều thư tịch, tư liệu mới tìm ra đã chứng minh rằng Hồ Xuân
Hương - Bà chúa thơ Nôm và Hồ Xuân Hương - tác giả Lưu hương ký (bạn
tình của Nguyễn Du) cùng với Hồ Xuân Hương có phần mộ ở Hà Nội chỉ là
một người. Và ông Hoàng còn cho biết rằng khoảng năm 1818 Hồ Xuân
Hương đang làm vợ lẽ của viên quan tham hiệp trấn Yên Quảng (nay tỉnh
Quảng Ninh), tên là Trần Phúc Hiển. Năm 1819, Phúc Hiển bị triều đình
khép án tử hình.
Như vậy tiểu sử của Xuân Hương vẫn còn phải nghiên cứu thêm.
Nhưng một vấn đề có thể khẳng định rằng bậc tài nữ này đã cất cao tiếng
nói đòi nữ quyền bằng thơ ca rất sắc sảo và một số bài đã lấy đề tài là cảnh
và người Hà Nội: Chùa Quán Sứ, núi Khán Sứ, mấy ông đồ ở phường Tiên

Thị…
Hồ Xuân Hương là con của Hồ Phi Diễn nhưng lại là con của một
người thiếp. Như thế ta thấy nàng không hề có một địa vị may mắn nào. Cái
cảnh vợ lớn, vợ bé xưa nay chắc ai cũng có thể hình dung là nó kinh khủng
đến mức nào! Tránh sự thù ghen tuông thù ghét, người cha dù thương con
đến mấy cũng không dám bênh vực, chỉ biết yên lặng cho “trong ấm ngoài
êm”. Nhưng một khi cái sợi dây liên lạc đó mất đi, người cha mất đi thì ôi
thôi! cảnh địa ngục trần gian diễn ra như một tất yếu vậy! Hồ Xuân Hương
đã sống trong cảnh ngộ đó. Khi cha nàng mất đi, hẳn nàng đã phải sống
những tháng ngày đen tối, tủi nhục nhất. Cái đen tối ấy theo đuổi nàng mãi:
Sinh làm con một người thiếp, sống cuộc đời làm kiếp vợ lẽ. Cả cuộc đời
nàng không có lấy một ngày hạnh phúc, chưa bao giờ thấy nàng cười, nàng
có cười vả chăng chỉ là cái cười mỉa mai, chua xót cho thân phận của mình.
Như thế đời nàng vui sao được, như thế bảo nàng không hận đời sao được.
Đã thế nàng lại sinh ra vào cái thời xã hội rối loạn, nhố nhăng ấy nữa.
Con người Hồ Xuân Hương bị ném vào cái xã hội đó và rồi ta thấy đời nàng
đã phải giãy giụa trong truỵ lạc lụt ngập của xã hội. Người ta nói: tất cả các
yếu đuối của xã hội đương thời đã kết tinh lại ở nàng, nhào nặn với cá tính
nàng mà làm nên một thi sĩ độc đáo. Xã hội Việt Nam thời ấy không hề chờ
đợi có một người như Hồ Xuân Hương đến, nhưng nàng đã đến trong cái xã
hội ấy ngay giữa lúc bọn đồ gàn ít chờ đợi nhất. Nàng đã đến với một trái
tim và một đầu óc trọn vẹn nhất, với tất cả mọi giác quan còn tinh khôi, và
đặc biệt là với đôi mắt tinh đời ấy, ta cứ tưởng tượng như chỉ cần một cái
nhìn nàng đã thấy được tận gan ruột. Nữ sĩ đã vạch rõ cái chân tướng của cả
những kẻ hiền nhân quân tử, những bậc trượng phu, anh hùng và đã đặt họ
lại những chỗ ngồi đúng với giá trị thực của họ giữa lúc cả bọn đang múa
máy quay cuồng, tâng bốc bợ đỡ nhau.
1.3. Thơ Hồ Xuân Hương
1.3.1. Sự nghiệp thơ Hồ Xuân Hương
Tác phẩm của Hồ Xuân Hương không có di cảo, những tác

phẩm được coi là của bà đều do người sau ghi chép lại bởi thế tình trạng
dị bản rất phổ biến. Về thơ, có khoảng một trăm bài được sáng tác chủ yếu
bằng thể tứ tuyệt và thất ngôn bát cú trong đó bốn mươi bài có sự thống nhất
về phong cách nghệ thuật. Ngoài ra còn có tập Lưu hương kí, tập thơ gồm
hai mươi bốn bài thơ chữ Hán và hai tám bài thơ chữ Nôm.
Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho
trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ
XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Bởi những sáng tác của bà đã nêu bật được
những vấn đề riêng tư, những nỗi bất công mà người phụ nữ trong xã hội
phong kiến phải chịu đựng và tin tưởng đấu tranh để bênh vực quyền lợi phụ
nữ. Thơ Hồ Xuân Hương có một số bài viết về cảnh ngộ riêng tư. Đó là nỗi
niềm của một người phụ nữ giàu sức sống và hết sức tài hoa nhưng cuộc đời
đầy bất hạnh. Những đề tài trong cuộc sống bình thường giản dị hàng ngày
nhưng khi đi vào thơ Hồ Xuân Hương lại rất mới mẻ, sinh động, có tính chất
úp mở hai nghĩa, một nghĩa đen phô ra, nói trực tiếp về đối tượng nhà thơ
miêu tả, và một nghĩa ngầm nói về chuyện thầm kín trai gái. Song không
phải như thế mà thơ của bà nhả nhớp, khêu gợi những dục vọng kín đáo của
con người. Một mặt thông cảm, bênh vực và đề cao người phụ nữ, Hồ Xuân
Hương còn lớn tiếng đả kích tất cả những nhân vật tiêu biểu của xã hội
phong kiến, bà vạch trần lối sống đạo đức giả, trái đạo đức của chúng. Hồ
Xuân Hương kế thừa truyền thống của truyện tiếu lâm dân gian thường dùng
cái tục làm phương tiện đả kích. Được sáng tác theo thể đường luật nhưng
thơ Hồ Xuân Hương được dân tộc hóa cao độ. Bà đã gặt hái được không ít
thành công trong việc đưa cuộc sống trần tục hàng ngày vào một thể thơ vốn
đài các, quí phái. Hồ Xuân Hương lợi dụng triệt để kết cấu chặt chẽ của bài
thơ đường luật với những câu đối nhau để tạo những mâu thuẫn có tính chất
trào phúng trong những bài thơ châm biếm, đả kích. Về phương diện ngôn
ngữ, Hồ Xuân Hương cũng có những sáng tạo và thành công đáng kể trong
việc sử dụng ngôn ngữ đời thường, trong việc học tập ca dao, tục ngữ, thành
ngữ để sáng tác thơ. Nữ thi sĩ tài hoa đã khai thác triệt để khả năng tu từ

phong phú của ngôn ngữ dân tộc và đã mài sắc ngôn ngữ dân tộc của thời
đại mình.
1.3.2. Chất liệu trong thơ Hồ Xuân Hương
"Thơ Hồ Xuân Hương mang đậm sắc thái của dân gian" [11, tr. 98].
Ở đây không chỉ bó hẹp ở phạm vi văn học dân gian mà còn mở rộng sang
cả nghệ thuật dân gian, sinh hoạt văn hóa dân gian, lời ăn tiếng nói trong
thơ Hồ Xuân Hương cũng rất dân gian. Vậy ta cần tìm hiểu thế nào là chất
liệu. Theo như Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì chất liệu là cái
dùng làm vật liệu, tư liệu để sáng tạo nên các tác phẩm nghệ thuật.
Trên đây là cách hiểu của chúng tôi về chất liệu trong tác phẩm nghệ
thuật, song điều mà chúng tôi muốn đề cập sâu hơn ở đây là chất liệu dân
gian trong văn học. Từ xưa, mặc dầu sống trong một trạng thái văn hóa thấp
kém, con người luôn có khát vọng thể hiện trong các tác phẩm nghệ thuật tất
cả những tư tưởng, sinh hoạt, tình cảm của mình, đồng thời phản ánh tất cả
những phong tục, tập quán, quan niệm hình thành dân tộc, những cuộc chiến
đấu với thiên nhiên hay cả những ước mơ của mình. Dù bị áp bức bóc lột thế
nào đi nữa thì quần chúng lao động vẫn sản sinh được một nền văn hóa trong
đó có dòng văn học dân gian. Bắt nguồn từ quá trình lâu đời trong sản xuất
và chiến đấu. Từ khi xã hội chưa có giai cấp cho đến khi xã hội có giai cấp,
dòng văn học dân gian được khơi gợi, lan truyền và phát triển để phục vụ
sản xuất và chiến đấu, sinh hoạt hàng ngày của người dân lao động. Trong
văn học dân gian, ngôn ngữ được sử dụng là lời ăn tiếng nói trong cách sinh
hoạt hàng ngày của người dân. Sản phẩm dân gian được đưa vào tác phẩm
dân gian rất phong phú. Có khi là những món ăn dân dã như: bánh chưng,
bánh giày, bánh trôi nước. Có khi là những phong tục tập quán: tục ăn trầu,
tục thờ cúng thần linh cầu cho mùa màng bội thu, có khi nó là những trò
chơi dân gian đã có rất lâu đời: Đấu vật, đánh đu, bịt mắt bắt dê, nặn tò he
Tổng hợp lại là phong cách dân gian, cái hồn dân gian. Nó chân chất mộc
mạc, chân tình, thực tế nhưng giàu hình tượng. Nó tạo thành một giọng điệu
riêng khác hẳn với văn học viết. Tất cả đều là sản phẩm của dân gian, đều

thông qua con đường ngôn ngữ và chuyển tải đến người nghe, người đọc bao
thế hệ. Đến với thơ Hồ Xuân Hương một lần nữa ta lại bắt gặp những hình
ảnh đó trong thơ của bà nhưng dưới góc độ khác. "Đó là bà tiếp thu văn học
dân gian chứ không lặp lại dân gian, bà chắt lọc những cái hay, cái đúng, cái
đẹp của dân gian xuất phát từ cội nguồn dân gian" [11,tr.111]. Khi đã tạo
cho mình một truyền thống riêng, Hồ Xuân Hương nói riêng và văn học viết
nói chung đều kế thừa, vận dụng, phát huy kho tàng văn học dân gian, làm
cho tác phẩm càng thêm phong phú và mang đậm chiều sâu nhân văn nhân
bản hơn. Tìm hiểu nét tương đồng và khác biệt giữa văn học dân gian với
thơ Hồ Xuân Hương nói riêng trong cách sử dụng từ ngữ, ta càng có cơ hội
đi sâu về với cội nguồn dân tộc, với những truyền thống đạo lý, tập tục tốt
đẹp của ông cha để qua đó có thái độ đúng đắn, phát huy những tinh hoa văn
hóa nghìn năm văn hiến của dân tộc mình.
Có một câu chuyện kể rằng, một lần nhà thơ Tế Hanh về làng
Tiên Điền quê hương của Nguyễn Du. Ông hỏi thăm một bà cụ có biết
Nguyễn Du tác giả của Truyện Kiều là ai không, bà cụ trả lời rằng không
biết ông Nguyễn Du là ai mà chỉ biết cô Kiều trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du thôi. Tế Hanh đã kết luận một câu rằng: “Thơ văn trở thành của
quần chúng đến mức quần chúng quên cả người làm ra nó. Đó mới là loại
thơ văn chân chính”. Qua câu chuyện trên bài học để lại cho chúng ta, theo
chúng tôi dù thời gian có bào mòn đi tất cả cùng với những biến cố, thăng
trầm của cuộc đời thì các tác phẩm văn học có giá trị và tác giả của nó sẽ
sống mãi với nhân loại. Tâm hồn và lòng người vẫn sẽ là nơi cô đọng và lưu
giữ lại được những sản phẩm chân chính, giàu giá trị nhân văn. Thơ Hồ
Xuân Hương đã làm được điều đó. Nó đi vào quần chúng và lưu truyền như
một tác phẩm dân gian theo quy luật của sáng tác dân gian. Những sáng tác
đó đáp ứng được nỗi mong mỏi của quần chúng nhân dân, nói được tiếng
nói của nhân dân và mang phong cách sáng tác của nhân dân thì được nhân
dân xem như sản phẩm của họ. Thơ Hồ Xuân Hương cũng hòa chung vào
mạch nguồn đó. Dân gian có kiểu nói tục, nói lái (Truyện Trạng), các trò

chơi truyền thống dân gian thì trong thơ Hồ Xuân Hương cũng có. Hay
những ngôn ngữ bình dân, những lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân:
- Này của Xuân Hương đã quyệt rồi.
- Lại đây cho chị dạy làm thơ.
- Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
- Này chị em ơi chớ vội cười
Tất cả đều là mạch nguồn của dân gian mà ra cả, điều đó chứng
tỏ rằng Hồ Xuân Hương đã tiếp nhận một cách sâu sắc nguồn mạch dân
gian. Thơ Hồ Xuân Hương đã hòa chung vào dòng chảy của văn hóa dân
gian. Có người nhận định thơ Hồ Xuân Hương dâm và tục, có người cho
rằng thơ bà chỉ có tục thôi không có dâm, có người nhận xét nặng nề hơn
một chút là thơ Hồ Xuân Hương bị "khủng hoảng về tình dục" Chúng tôi
không nghĩ như vậy, thiết nghĩ rằng đó là cái tục trần thế, rất đỗi đời thường.
Vả chăng chính vì sống trong một xã hội bị bóp nghẹt mọi quyền sống của
người phụ nữ nên Hồ Xuân Hương đã dám đứng lên phản kháng lại. Thơ bà
viết ra những lời nói tục mà thanh, cười mà đau đớn giàn giụa trong nước
mắt và tủi nhục cho số phận nổi trôi của mình.
Trong dân gian có nhiều truyện cười mang yếu tố tục như "Trời sinh
ra thế", "Trạng dâng chúa cây cải" Còn nói về nghệ thuật dân gian
thì những bức tranh như "Hứng dừa", "Đánh ghen" hoặc các biểu tượng
được khắc trên đá, trên gỗ ở chùa chiền, những nơi rất thiêng liêng cũng
mạnh dạn phô bày nét tinh tế của người phụ nữ. Vậy ta có sự lý giải thế nào
về điều này? Theo chúng tôi, những truyện như tiếu lâm, truyện cười, truyện
trạng đến những bức tranh dân gian bên cạnh những yếu tố gây cười còn có
một ý nghĩa cao hơn là phê phán, đả kích những thói hư tật xấu, những bất
công của xã hội đương thời. Đến với thơ Hồ Xuân Hương cũng thế, có thể
bà thấy được phần nào nỗi bất hạnh, thân phận bạc bẽo bởi tâm địa xảo trá
"xanh như lá bạc như vôi" của các đấng mày râu, quân tử khiến bà có một
thái độ gay gắt mà thốt ra những lời "tục" như vậy chăng ?!
Vào dịp lễ hội, các trò chơi dân gian là nét sinh hoạt phổ biến của

nhân dân ta từ rất xưa và là một nét văn hóa dân gian truyền thống của nhân
dân ta. Người ta tổ chức các lễ hội một mặt với tinh thần là giải trí, lấy tiếng
cười để biểu hiện cho niềm vui, quên đi những lo toan, bon chen trong
chuyện cơm áo đời thường, mặt khác nó là cách chống lại mọi thứ ràng buộc
của xã hội đối với con người. Người ta đã mạnh dạn tìm đến với cuộc sống
phàm tục để lôi tất cả những cái gì mà nho giáo gọi là "thiêng liêng" không
một chút ngại ngần. Thơ Hồ Xuân Hương phần nào thể hiện được điều đó.
Tiểu Kết:
Hồ Xuân Hương là một tác giả đặc biệt trong văn học Việt Nam
Trung đại. Đặc biệt bởi xã hội mà bà sinh ra, đặc biệt bởi thân phận của bà
và đặc biệt bởi tài năng của bà về thơ Nôm. Thơ Nôm của bà sáng tác theo
thể Đường thi nhưng lại sử dụng lối nói dân gian, ngôn liệu dân gian nên kết
hợp được chất bác học và chất dân dã. Mục đích sáng tác văn học của bà là
để khẳng định vai trò của người phụ nữ trong xã hội và phản kháng lại chế
độ phong kiến thối nát nên dùng chất liệu dân gian là phương thức hữu hiệu
nhất. Vì thế thơ bà đã hòa vào mạch nguồn dân gian hay nói cách khác là lấy
từ nguồn nguyên liệu dân gian để sáng tác. Chính vì sự hòa quyện đó mà có
những tác phẩm khó phân biệt đâu là thơ bà và đâu là thơ dân gian mà người
đời sau gán cho bà. Hơn nữa, trong xã hội thời Lê Trịnh suy tàn, hiện tượng
thay ngôi đổi chủ, lộn sòng trắng đen tốt xấu, mọi giá trị phải được định giá
lại thì ý thức vùng lên của chị em phụ nữ lại càng mạnh mẽ và vì vậy, hiện
tượng phản kháng xã hội bằng thơ kiểu như Hồ Xuân Hương không phải
hiếm gặp. Đó cũng là lý do có nhiều giả thuyết về Hồ Xuân Hương. Nhưng
dù sao thì điều cuối cùng mà nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận là có một bà
chúa thơ Nôm với danh hiệu Hồ Xuân Hương.









Chương 2
ĐẶC TRƯNG NGÔN TỪ TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
2.1. Các dạng thức sử dụng từ ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương
2.1.1. Sử dụng từ láy
Ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương bình dị như chính cuộc sống đời
thường vậy. Ngôn ngữ trong thơ bà phần lớn dùng ngôn ngữ bình dân, rất
hạn chế sử dụng từ ngữ Hán Việt. Sở dĩ như vậy bởi vì bản thân Hồ Xuân
Hương chất chứa những tố chất thuần Việt của con người Việt Nam chất
phác, mộc mạc; không khoa trương, không xa lạ với thứ ngôn ngữ của quần
chúng nhân dân đa nghĩa, điêu luyện. Thật là tài tình, dân gian mà cổ điển,
điêu luyện mà rất đỗi hồn nhiên. Thực thực, hư hư, đùa mà như thật, thật mà
như đùa Tất cả đã kiến tạo nên một hồn thơ Hồ Xuân Hương mang đậm
phong vị quê hương, mang nhiều âm hưởng của ngôn ngữ dân gian truyền
thống.
Từ láy là từ loại được sử dụng rộng rãi trong dân gian nói chung
và trong thơ Hồ Xuân Hương nói riêng. Theo thống kê của Lã Nhân Thìn
trong tổng số 268 câu thơ có 79 từ láy (chiếm 29,4%). Từ láy trong thơ có
nhiều tác dụng, nó có chức năng hạn chế tính công thức ước lệ, làm cho câu
thơ trở nên biểu cảm hơn, đậm tính dân tộc hơn và góp phần thể hiện phong
cách tác giả. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của sức sống của chân đạp, tay
vung, thơ của nhịp điệu cơ thể và cuộc sống con người, thơ của tâm trạng.
Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương thường có tác dụng biểu lộ tình cảm, thể
hiện con người tác giả.
2.1.1.1. Đặc điểm cấu tạo
a. Từ láy hai âm tiết hay láy đôi
a1. Từ láy phụ âm đầu:
- Da nó xù xì, múi nó dày

- Xin đừng mân mó nhựa ra tay
- Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
- Dắt díu nhau lên đến cửa chiền
- Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi
- Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
- Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
- Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
- Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
- Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt
- Cha kiếp đường tu sao lắt léo
- Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
- Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
- Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
- Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
- Đầm đìa lá liễu giọt sương reo
- Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
- Giếng tốt thảnh thơi, giếng lạ lùng
- Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác
- Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo
- Khiến người quân tử hiền nhân ngại ngùng
- Con cò mấp máy suốt đêm thâu

×