Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

an tinh tài chính doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.35 MB, 122 trang )

,TSKH. TÀO HỮU PHÙNG
Th.s. TRẦN TIẾN
AN NINH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP NHÀ Nước
TRONG ĐIỀU KIỆN

■ ■ ■
KINH TẾ QUỐC TẾ
(SÁCH THAM KHả O)
NHÀ XUẤT Bả N CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
AN NINH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
NHÀ Nước
TRONG ĐIềU KIỆN
CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUốC Tế
3.34(V)8
CTQG - 2003
GS,TSKH. TÀO HỮU PHÙNG
TH.S. TRẦN HỮU TIẾN
AN NINH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP NHÀ
Nước
TRONG ĐIỂU KIỆN

CHỦ Độ NG HỘI NHẬP

KINH TẾ QUỐC TẾ
(SÁCH THAM KHẢO)
f [rTÌínÌNs r>M ỊI
Si Triõ-ViỄN


' * V v-' * ‘L • l )
Li AI CHỈN!;
1 t;\> ok»)
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Hà Nôi - 2003
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Hội nhập kinh tế quốc tế đem lại động lực phát triển
song cũng đặt các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
nhà nước đứng trước nhiều khó khăn và thách thức. Vối
những hạn chế đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam như
thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, thiếu cơ chế chính sách hợp lý,
thiếu kinh nghiệm trước sự cạnh tranh gay gắt, V.V., làm thế
nào để bảo đảm sự ổn định, an toàn và phát triển của sản

xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước là một vấn đề
mà Nhà nước, các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên
cứu kinh tế và đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước quan
tâm.
Nhằm giúp bạn đọc có trong tay một tài liệu hữu ích về
vấn đề trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn
sách
An ninh tài chính doanh nghiệp nhà nước trong
điêu kiên chủ động hôi nhập kinh tế quốc tế.
Nội dung cuốn sách nghiên cứu vấn đề an ninh tài chính
và bảo đảm an ninh tài chính doanh nghiệp nhà nước dưới góc
độ quản lý vĩ mô của Nhà nước từ năm 1991 trở lại đây. Ngoài
phần mở đầu, kết cấu của cuốn sách bao gồm ba chương:
Chương I; Những vấn đề chung về an ninh tài chính
doanh nghiệp
5

Chương II: Thực trạng an ninh tài chính doanh nghiệp
nhà nước và việc bảo đảm an ninh tài chính doanh nghiệp
nhà nước hiện nay ở Việt Nam
Chương III: Quan điểm, định hướng và giải pháp bảo
đảm an ninh tài chính doanh nghiệp nhà nước trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Xin giới thiệu cuốn sách và mong nhận được những góp
ý, nhận xét, phê bình của bạn đọc.
Tháng 9 năm 2003
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ Quốc GIA
MỞ ĐẨU
Tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng và cơ
bản nhất của hệ thống tài chính quốc gia. Sự yếu kém
của khu vực này là nguyên nhân làm cho hệ thống tài
chính quốc gia kém hiệu quả, thiếu ổn định và an toàn.
Ngược lại, một khu vực tài chính doanh nghiệp mạnh sẽ
là cơ sở cho việc tăng cường tiềm lực tài chính quốc gia.
Cùng với quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới,
doanh nghiệp ở các nước phải đối mặt với sự cạnh tranh
gay gắt và đứng trước nhiều nguy cơ rủi ro, trong đó có
các rủi ro ảnh hưởng tiêu cực tới tình hình tài chính. Ví
dụ như, chỉ một sự kiện ngày 11-9-2001 đã làm cho các
doanh nghiệp thuộc ngành hàng không thế giới lao đao.
Theo Tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), chỉ riêng thời
gian từ tháng 9 đến tháng 12-2001, do lưu lượng vận
chuyển và công suất giảm tới 15% so với trước đó, các
khoản lỗ ròng của ngành tăng từ 12 tỷ USD lên 14 tỷ
USD. Ngay sau vụ khủng bố, việc Chính phủ Hoa Kỳ
đóng cửa các sân bay chỉ trong ba ngày đã gây thiệt hại
cho các doanh nghiệp thuộc ngành hàng không nước này

tới 1,3 tỷ USD. Chính vì vậy, việc tìm hiểu sự an toàn, ổn
định của khu vực tài chính doanh nghiệp trong điều kiện
toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới không chỉ là sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu kinh tế mà còn là một vấn đề
7
đặt ra cho chính các doanh nghiệp.
ở Việt Nam, tài chính doanh nghiệp nhà nước là bộ
phận quan trọng của tài chính doanh nghiệp-khâu cơ
bản của hệ thống tài chính quốc gia. Tình hình khu vực
này có tác động mạnh mẽ tới sự ổn định, an toàn của
tài chính doanh nghiệp nói riêng và tài chính quốc gia
nói chung. Tuy nhiên, hiện nay tài chính doanh nghiệp
nhà nước vẫn còn thiếu lành mạnh, tiềm lực tài chính
nhỏ bé, chứa đựng nhiều nguy cơ bất ổn. Bên cạnh đó,
việc Việt Nam đã và đang dần dần tham gia vào quá
trình toàn cầu hoá kinh tế biểu hiện bằng các hoạt động
như: bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính
quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế
giới (WB), tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), trở thành thành viên của Tổ chức diễn đàn
kinh tê Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), ký Hiệp
định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, v.v. đã đặt tài
chính doanh nghiệp nhà nước đốì mặt với sự cạnh
tranh gay gắt và những rủi ro trên thị trường khu vực,
thị trường thế giới. Thực trạng bất lợi đó của tài chính
doanh nghiệp nhà nước đã và đang đe doạ đến tình
hình an ninh tài chính doanh nghiệp nhà nước nói
riêng, an ninh tài chính doanh nghiệp và an ninh tài
chính quốc gia nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu thực
trạng an ninh tài chính doanh nghiệp nhà nước để từ

đó đề xuất các giải pháp bảo đảm an ninh tài chính
khu vực doanh nghiệp nhà nước là một đòi hỏi bức xúc
đặt ra hiện nay.
8
/
CHƯƠNG I
- « J . I * / . . _• 'i V ^
NHữ NG VẤN Đề CHUNG Về
AN NINH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
- • > / ; » *• •*’ - . % • . ị • ! - , * . <: 1* . * • "
I. AN NINH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1. Tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống
tài chính, là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền
với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Trên
bình diện xã hội, tài chính doanh nghiệp biểu hiện là
quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ
của doanh nghiệp. Các quỹ tiền tệ này được hình
thành, phân phối và sử dụng cho những mục đích nhất
định khi doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền
tệ đó phát sinh các luồng tiền tệ đi vào và các luồng
tiền tệ đi ra khỏi doanh nghiệp, tạo thành sự vận động
của các luồng tài chính của doanh nghiệp
Về mặt bản chất, tài chính doanh nghiệp phản ánh
những quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá
9
trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của
doanh nghiệp. Các quan hệ kinh tế này gọi là quan hệ
tài chính doanh nghiệp.

Căn cứ vào phạm vi hoạt động, người ta chia quan
hệ tài chính doanh nghiệp thành quan hệ tài chính bên
ngoài doanh nghiệp và quan hệ tài chính trong nội bộ
doanh nghiệp. Quan hệ tài chính bên ngoài doanh
nghiệp bao gồm: quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà
nuớc, được thể hiện qua việc Nhà nước cấp vốn cho
doanh nghiệp hoạt động (đối với doanh nghiệp nhà
nước) và doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính
đối với Nhà nước như nộp các khoản thuế, lệ phí,v.v.;
quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế
khác như quan' hệ về mặt thanh toán trong việc vay
hoặc cho vay vốn, đầu tư vốn, mua hoặc bán tài sản,
vật tư, hàng hoá và các dịch vụ khác,v.v Quan hệ tài
chính trong nội bộ doanh nghiệp được thể hiện trong
thanh toán tiền lương, tiền công và thực hiện các
khoản tiền thưởng, tiền phạt với công nhân viên của
doanh nghiệp; quan hệ thanh toán giữa các bộ phận
trong doanh nghiệp; việc phân phối lợi nhuận sau thuế
của doanh nghiệp; việc phân chia lợi tức cho các cổ
đông; việc hình thành các quỹ của doanh nghiệp,V.V
2. Khái niêm an ninh tài chính doanh nghiêp
Trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, an
ninh tài chính doanh nghiệp là vấn đề quan tâm của tất
10
cả các quốc gia. Tuy nhiên, khái niệm về an ninh tài chính
doanh nghiệp vẫn chưa được nhận thức thông nhất và
hiện còn nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này.
Một số nhà kinh tế cho rằng, an ninh tài chính
doanh nghiệp là sự ổn định của các mối quan hệ tài
chính doanh nghiệp, tức là sự duy trì một cách bình

thường các mối quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị
trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ
tiền tệ tập trung của doanh nghiệp. Quan niệm an ninh
tài chính doanh nghiệp hiểu theo nghĩa ổn định mối
quan hệ tài chính doanh nghiệp xuất phát từ bản chất
của tài chính doanh nghiệp. Nó mang tính khái quát cao
và đề cập một cách chung nhất tính ổn định trong hoạt
động tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, quan niệm
này chưa phản ánh được nội dung biểu hiện cũng như
những yếu tố quyết định đến tính an toàn của tài chính
doanh nghiệp. Nghĩa là, chưa đề cập được cụ thể trạng
thái không bị nguy hiểm từ những tác động tiêu cực và
các yếu tố quyết định tính an toàn của quá trình tạo lập,
phân phối, sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp.
Ý kiến khác cho rằng, an ninh tài chính doanh
nghiệp đồng nghĩa với cân bằng tài chính doanh
nghiệp. Cân bằng tài chính doanh nghiệp được hiểu là
việc duy trì giữa luồng tiền ra và luồng tiền vào của
doanh nghiệp bảo đảm doanh nghiệp luôn có số tồn ở
các quỹ dương. Quan điểm an ninh tài chính doanh
nghiệp hiểu theo nghĩa cân bằng tài chính xuất phát từ
11
nhận thức tài chính doanh nghiệp dưới góc độ về sự
vận động các luồng tài chính của doanh nghiệp. Do đó.
quan điểm này cũng mới chỉ xem xét vấn đề an ninh tài
chính doanh nghiệp trên một khía cạnh của sự ổn định
trong việc vận động, các luồng tài chính doanh nghiệp
mà chưa đề cập tính an toàn của những vận động này.
Theo một cách hiểu khác, an ninh tài chính doanh
nghiệp là trạng thái an toàn của tài chính doanh

nghiệp trước những rủi ro trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp. Quan niệm vể an ninh
tài chính doanh nghiệp này xuất phát từ nhận thức về
vấn đề rủi ro đối với doanh nghiệp. Tài chính của
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất nhạy
cảm. mọi biến động bất lợi của nền kinh tế - xã hội đều
nhanh chóng tác động đến hoạt động này, có thể gây
nên những xáo trộn bất ngờ và làm hiệu quả sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút. Do vậy, hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp luôn chứa đựng
những rủi ro tiềm ẩn và có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Rủi ro đôi với doanh nghiệp có nhiều loại: rủi ro về giá
cả, rủi ro về lãi suất, rủi ro về tỷ giá hối đoái, rủi ro về
công nghệ kỹ thuật,V.V Các rủi ro này tác động tiêu
cực tới tài chính doanh nghiệp từ các góc độ khác nhau,
với những mức độ khác nhau, do những nguyên nhân
khác nhau. Mức độ ảnh hưởng của các loại rủi ro đến
tài chính doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào mức
độ tác động của các rủi ro mà còn phụ thuộc rất lớn
12
vào khả năng tự bảo vệ của doanh nghiệp. Nêu khả
năng đề kháng của doanh nghiệp lớn hơn hoặc bằng
mức độ ảnh hưởng của các rủi ro thì tài chính doanh
nghiệp giữ được an toàn. Nghĩa là đã bảo đảm được an
ninh tài chính doanh nghiệp. Ngược lại, nêu khả năng
đề kháng của doanh nghiệp nhỏ hơn mức độ ảnh hưởng
của các rủi ro thì tài chính doanh nghiệp không an
toàn. Quan niệm này đã đề cập những tác động của các
loại rủi ro đến sự an toàn của tài chính doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nó chưa phản ánh được nội dung cũng như

tính ổn định của tài chính doanh nghiệp.
Các quan niệm về an ninh tài chính doanh nghiệp
trên đã đề cập sự ổn định và an toàn đôi với tài chính
doanh nghiệp. Tuy nhiên, vì đứng ở những góc độ khác
nhau nên mỗi quan niệm chỉ nhìn nhận vấn đề này ở
một khía cạnh. An ninh tài chính doanh nghiệp có thể
hiểu một cách tổng hợp sau: "An ninh tài chính doanh
nghiệp là một khái niệm cơ bản đê chỉ một trạng thái
ổn định, an toàn của tài chính doanh nghiệp",
ổ n định được hiểu là duy trì hoạt động bình
thường, không có những biến động đột ngột, bất
thường. Nghĩa là, quá trình tạo lập, phân phối và sử
dụng các quỹ tiền tệ cũng như các quan hệ tài chính
của doanh nghiệp được duy trì binh thường, không có
biến động đột xuất. Việc ổn định tài chính rất quan
trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Một tình
trạng tài chính không ổn định làm cho doanh nghiệp dễ
13
bị tổn thương, rơi vào tình trạng không an toàn. Tuy
nhiên, cần phải hiểu sự ổn định đặt trong sự vận động
và phát triển. ổ n định không có nghĩa là cố gắng giữ
nguyên mọi thứ như cũ mà là giữ được ổn định quá
trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ, các mối
quan hệ kinh tế trong tiến trình đi lên, không ngừng
hoàn thiện và cải tiến của doanh nghiệp.
An toàn được hiểu là trạng thái không bị nguy
hiểm từ phía các tác động bên trong và bên ngoài. Nói
một cách khác, nó được hiểu là quá trình tạo lập, phân
phối và sử dụng các quỹ tiền tệ, các mối quan hệ tài
chính của doanh nghiệp không bị tổn thương, không bị

nguy hiểm từ những rủi ro trong quá trình sản xuất,
kinh doanh. Một tình trạng không an toàn của tài
chính doanh nghiệp làm cho doanh nghiệp dễ rơi vào
khủng hoảng, thậm chí dẫn tới phá sản. Giữ được an
toàn đồng nghĩa với không tự mình gây hại cho mình,
đồng thời, ngăn chặn và chống lại được sự tấn công phá
hoại từ bên ngoài. Nếu ổn định tài chính doanh nghiệp
là tiền đề có tính chất nền tảng thì an toàn tài chính
doanh nghiệp là cốt lõi chi phối toàn bộ quá trình vận
động của tài chính doanh nghiệp.
3. Nội dung của an ninh tài chính doanh
nghiệp:
Nội dung của an ninh tài chính doanh nghiệp bao
gồm bốn vấn đề cơ bản sau: cân bằng tài chính, tự chủ
tài chính, khả năng thanh toán và hiệu quả kinh
doanh. Bốn nội dung này tác động lẫn nhau, ảnh hưởng
đến tình hình và khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Nghiên cứu vấn đề an ninh tài chính doanh nghiệp đòi
hỏi phải xem xét đồng bộ và thống nhất cả bốn nội
dung này.
3.1. Căn bằng tài chính:
Tài sản trong doanh nghiệp chia thành tài sản lưu
động và tài sản cố định. Các loại tài sản này được hình
thành từ những nguồn vốn có thời hạn khác nhau:
ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
Cân bằng tài chính như đã nêu là sự cân bằng giữa
luồng tiền ra và luồng tiền vào. Bản chất của nó là xem
xét mối quan hệ giữa các nguồn vôn tài trợ cho tài sản
của doanh nghiệp có cùng thời hạn tồn tại. Thời hạn
nguồn vốn tài trợ cho tài sản của doanh nghiệp ít nhất

cũng phải bằng thòi gian sử dụng của tài sản được hình
thành từ nguồn vốn đó. Nghĩa là, mọi quá trình sử
dụng vốn phải được tài trợ bằng nguồn vốn có cùng thòi
gian tồn tại; đôi với mỗi quá trình sử dung vốn ngắn
hạn hay dài hạn, cần phải tồn tại một mức chênh lệch
an toàn giữa dòng tiền dùng cho việc thanh toán các
khoản nợ, muạ hàng hoá, tài sản,v.v., và dòng tiền có
được từ việc sử dụng số vốn đó vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Như vậy, một doanh nghiệp sẽ ở tình
trạng không cân bằng tài chính nếu như doanh nghiệp
tài trợ cho việc đầu tư tài sản cố định, đầu tư dài hạn,
15
liên doanh liên kết dài hạn, V.V., bằng nguồn vốn vay
ngắn hạn hoặc bằng vốn lưu động (không tính đến khả
năng thanh toán của doanh nghiệp). Ngược lại, một
doanh nghiệp sẽ vẫn ở tình trạng cân bằng nếu doanh
nghiệp dùng nguồn vốn tự có, vốn vay dài hạn, V.V., để
đầu tư tài sản cố định, đầu tư dài hạn hoặc mua các
loại hàng hoá, đầu tư ngắn hạn, V.V
3.2. Tự chủ tài chính
Tự chủ tài chính phản ánh mức độ độc lập của
doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Xét từ góc độ hình thành,
tổng vốn trong doanh nghiệp được chia thành hai loại:
vôn chủ sở hữu và các khoản nợ. Vốn chủ sở hữu là số
vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp (chủ sở hữu doanh
nghiệp nhà nước là Nhà nước, chủ sở hữu doanh nghiệp
tư nhân là những người góp vốn, V.V.). Khi doanh
nghiệp mới thành lập, vốn chủ sở hữu hình thành vốn
điều lệ. Khi doanh nghiệp hoạt động, ngoài vốn điều lệ,

còn có một số nguồn khác cũng thuộc vốn chủ sở hữu
như: lợi nhuận không chia, quỹ đầu tư phát triển, quỹ
dự trữ tài chính, v.v. Gác khoản nợ của doanh nghiệp
bao gồm vốn chiếm dụng và các khoản nợ vay. Vôn
chiếm dụng thể hiện toàn bộ số nợ phải trả cho người
cung cấp, số nợ phải nộp ngân sách, sô" nợ phải thanh
toán cho cán bộ công nhân viên, v.v. Đặc điểm của loại
vốn này là doanh nghiệp được sử dụng nhưng không
phải trả lãi. Các khoản nợ vay bao gồm toàn bộ vốn vay
ngân hàng, nợ tín phiếu, nợ trái phiếu của doanh
nghiệp.
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, doanh
nghiệp phải sử dụng vôn hình thành từ hai nguồn vốn
này. Nếu doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng nguồn
vôn tự có thì tính tự chủ cao, có được sự độc lập trong
việc sử dụng vôn phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh
doanh của mình mà ít chịu tác động từ những ý kiên,
quyết định của người cung cấp vôn cho doanh nghiệp.
Ngược lại, nếu doanh nghiệp đi vay quá nhiều so với
vốn tự có, doanh nghiệp có thế bị chi phôi bởi các điều
kiện do người cho vay đặt ra.
ở đây, cũng cần đề cập môi quan hệ giữa cân bằng
tài chính với tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Sự cân
bằng tài chính là điều kiện cơ bản để duy trì tự chủ tài
chính. Nếu tài chính doanh nghiệp mất cân bằng,
doanh nghiệp buộc phải sử dụng các biện pháp tài trợ
bất thường như kéo dài thòi hạn trả nợ, hoãn nợ hoặc
vay mới để trả cũ. Việc này sẽ dẫn đến sự phụ thuộc
của doanh nghiệp vào những người cho vay. Khi đó,
doanh nghiệp sẽ mất tự chủ trong hoạt động sản xuất,

kinh doanh của mình.
3.3. Khả năng thanh toán
Nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm hai loại:
nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn đi vay. Nguồn vốn
đi vay bao gồm vay dài hạn và vay ngắn hạn. Khả năng
hiểu là khả năng của doanh nghiệp có
w
ì'
Á
'■ V K". '
" “■0 ¡ậ&ệặp , .( ,
I J Ị
ki
* ■f -rWWỂ3ặ 1
' • ■* Ỗiiívi-Sk'
thể trả các khoản nợ đến hạn (nợ ngắn hạn và nợ dài
hạn đến hạn trả). Nội dung này của an ninh tài chính
doanh nghiệp phụ thuộc vào tính chất của tài sản dùng
để thanh toán, nghĩa là, phụ thuộc vào khả năng
chuyển đổi thành tiền của các tài sản sử dụng trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, khả
năng thanh toán phụ thuộc rất lớn vào vòng quay của
hàng tồn kho, các khoản phải thu của khách hàng, các
khoản phải trả khách hàng. Đối với thời gian ngắn, khả
năng thanh toán được đánh giá dựa trên tỷ lệ giữa các
khoản nợ ngắn hạn và các khoản nợ dài hạn đến hạn
trả với các loại tiền và tài sản có khả năng chuyển đổi
thành tiền của doanh nghiệp. Ngược lại, đối với thòi
gian dài, nội dung này chịu tác động của tình hình sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, sự biến động của

vốn chủ sở hữu, v.v.
Khả năng thanh toán là nội dung cơ bản để đánh
giá khả năng an ninh và bảo đảm tài chính doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp không có nguồn vốn cần
thiết để trả các khoản nợ đến hạn trong khi tổng số các
khoản nợ lớn hơn tổng tài sản của doanh nghiệp thì
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, an ninh tài
chính của doanh nghiệp không được bảo đảm. Và ngược
lại, khi doanh nghiệp có đủ nguồn vốn cần thiết để trả
các khoản nợ đến hạn, trong khi tổng tài sản của doanh
nghiệp lớn hơn tổng các khoản nợ thì an ninh tài chính
3.4. Hiệu quả kinh doanh.
Đây là nội dung phản ánh kết quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, thể hiện trình độ
sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được
kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất.
Kinh doanh có hiệu quả là nội dung quan trọng đối
với an ninh tài chính doanh nghiệp. Nó có ảnh hưởng
đến các nội dung khác của an ninh tài chính doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả sẽ
tạo điều kiện cho việc bổ sung vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp. Đây là tiền đề cơ bản cho việc tăng
cường tính ổn định và tự chủ tài chính của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, việc kinh doanh có hiệu quả cũng
sẽ tạo ra vốn để doanh nghiệp có khả năng thanh toán
các khoản nợ đến hạn. Ngược lại, việc kinh doanh kém
hiệu quả không những không làm tăng thêm vốn chủ
sở hữu, việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài gặp khó
khăn mà còn làm cho doanh nghiệp thiếu vốn để thanh
toán nợ. Do đó, doanh nghiệp sẽ không bảo đảm được

khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, phải trông
chờ nhiều vào nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN AN NINH
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, doanh
nghiệp luôn chịu tác động bởi các nhân tố khác nhau.
19
Đây cũng là những nhân tố ảnh hưởng tới an ninh tài
chính doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến an
ninh tài chính doanh nghiệp có thể chia thành hai
nhóm: các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
1. Các nhân tố bên trong:
Các nhân tố bên trong gồm: các nhân tố về kỹ thuật -
công nghệ sản xuất; nhân tố về năng lực quản lý của
người lãnh đạo doanh nghiệp; nhân tố về chính sách
huy động vốn và cấu trúc tài chính.
Các nhân tố về kỹ thuật - công nghệ sản xuất của
doanh nghiệp có ảnh hưởng gián tiếp và nhất định tới
an ninh tài chính doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có
trình độ kỹ thuật - công nghệ sản xuất hiện đại sẽ có
điều kiện nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
Từ đó, nâng cao khả, năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường dẫn đến an ninh tài chính
doanh nghiệp được nâng cao.
Yếu tố con người, tổ chức, chính sách luôn luôn có
tầm quan trọng đặc biệt đổì với công tác quản lý nói
chung và quản lý sản xuất, kinh doanh ở các doanh
nghiệp nói riêng. Tất cả các yếu tố này quy tụ lại ở
năng lực quản lý của người lãnh đạo và biểu hiện chất
lượng quản lý bằng hiệu quả trong kinh doanh. Đánh

giá vấn đề này thực hiện theo các nội dung sau: năng
lực đề ra sách lược trong kinh doanh có sức cạnh tranh
và khả năng đứng vững trong thị trường, đặc biệt là
20
chính sách đầu tư, kết cấu chi phí và chính sách huy
động vốn, cấu trúc tài chính; đưa ra được kê hoạch
triển khai các công việc hợp lý, rõ ràng; tạo nên một cơ
cấu tổ chức hợp lý, có hiệu quả, có sự phân định rõ
ràng trách nhiệm và quyền hạn giữa các nhân viên,
chuyên gia cũng như giữa các khâu, giữa các bộ phận
của guồng máy.v.v Năng lực quản lý của người lãnh
đạo có tầm quan trọng đặc biệt đôi với hoạt động sản
xuất, kinh doanh nói chung và đối VỚI việc bảo đảm an
ninh tài chính nói riêng của doanh nghiệp. Vì nêu
năng lực của người lãnh đạo yếu, bộ máy tổ chức không
hợp lý, các sách lược kinh doanh, chính sách tài chính
sẽ không phù hợp VỚI thực tế hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp, Từ đó, doanh nghiệp kinh
doanh không có hiệu quả, an ninh tài chính doanh
nghiệp không được bảo đảm.
Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm
nguồn vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Chính sách huy
động vốn của doanh nghiệp sẽ làm thay đổi kết cấu
giữa hai loại vốn này tức làm thay đổi cấu trúc tài
chính của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp luôn tìm
cách xây dựng một cấu trúc tài chính hợp lý với đặc
điểm, thực trạng kinh doanh của mình. Chính sách này
có ảnh hưởng rất lớn đến an ninh tài chính doanh
nghiệp. Nếu doanh nghiệp huy động vốn vay càng lớn
th ì :doanh nghiệp càng có lợi, vì khi đó chủ sở hữu chỉ

m ột lượng vốn ít nhưng được sử dụng một
lượng tài sản lớn. Đặc biệt, khi doanh nghiệp tạo ra lợi
nhuận trên tiền vay lớn hơn so với tiền lãi phải trả thì
phần lợi nhuận dành cho chủ sở hữu gia tăng rất
nhanh. Khi đó, an ninh tài chính doanh nghiệp sẽ có
khả năng được bảo đảm. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp
tạo ra một lượng lợi nhuận không đủ bù đắp tiền lãi
vay thì vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm sút. Đặc biệt, khi
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, chi phí trả lãi vay
càng lớn; tình hình tài chính khó khăn thì doanh
nghiệp không có khả năng hoàn trả các khoản nợ gôc
và lãi vay thì rủi ro mất khả năng thanh toán càng lớn.
An ninh tài chính doanh nghiệp sẽ không được bảo
đảm. Do vậy, trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các
nhà quản lý doanh nghiệp cần cân nhắc thận trọng khi
sử dụng chính sách huy động vôn của mình để bảo đảm
an ninh tài chính doanh nghiệp.
2. Các nhân tố bên ngoài:
Các nhân tố bên ngoài tác động tới an ninh tài
chính doanh nghiệp bao gồm: trạng thái phát triển của
nền kinh tê; sự biến động của thị trường; chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Trạng thái phát triển kinh tế là một nhân tố quan
trọng tác động tới an ninh tài chính doanh nghiệp. Khi
nền kinh tê phát triển ổn định, có tăng trưởng bền
vững, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói
chung và tình hình tài chính của doanh nghiệp nói
22
riêng sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển. Ngược lại,
nền kinh tế suy thoái, lạm phát cao, giá trị đồng nội tệ

suy giảm,v.v., sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động tài
chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện đó, an ninh tài
chính doanh nghiệp khó được bảo đảm. Chẳng hạn như,
trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á vừa
qua, an ninh tài chính doanh nghiệp của các nước nằm
trong tâm điểm của cuộc khủng hoảng như Thái Lan,
Inđônêxia, V.V., bị đe doạ, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt
là các ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán và đi đến phá sản.
Hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến nhiều
loại thị trường khác nhau như thị trường hàng hoá và
dịch vụ, thị trường tài chính, V.V Trong bối cảnh kinh
tế hiện nay, các thị trường này luôn có sự biên động
như biến động về giá cả, lãi suất, tỷ giá, về đối thủ
cạnh tranh, về người cung cấp hàng hoá,v.v Nhủng
biến động này ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới kết
quả hoạt động kinh doanh, tới tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Từ đó, sẽ tác động tới an ninh tài chính
doanh nghiệp. Chẳng hạn, sự gia tăng các đối thủ cạnh
tranh sẽ làm cho doanh nghiệp giảm thị phần trên thị
trường. Doanh thu bán hàng bị giảm và do đó lợi nhuận
của doanh nghiệp thu về cũng giảm, khả năng tài
chính của doanh nghiệp bị hạn chế. Nghĩa là, các nội
dung của an ninh tài chính doanh nghiệp như tự chủ
tài chính, khả năng thanh toán, hiệu quả kinh doanh
23
sẽ bị ảnh hưởng không có lợi.
Chính sách, pháp luật của Nhà nước là một trong
những nhân tố quan trọng tác động mạnh mẽ tới an
ninh tài chính doanh nghiệp. Bởi vì, Nhà nước quản lý

xã hội bằng pháp luật, các chính sách của Nhà nước
trong đó có chính sách tài chính như chính sách tài
khoá, chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách
lãi suất, v.v. ảnh hưởng sâu sắc tới doanh nghiệp. Sự
ổn định, rõ ràng, cụ thể của các loại chính sách này tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh
nói chung và tình hình tài chính của doanh nghiệp nói
riêng. Ngược lại, sự thay đổi thường xuyên các chính
sách của Nhà nước sẽ tạo ra nhiều rủi ro cho doanh
nghiệp và cùng với đó, vấn đề bảo đảm an ninh tài
chính doanh nghiệp sẽ trở nên khó khăn. Chẳng hạn,
đến năm 2006 - thời điểm Việt Nam hội nhập hoàn
toàn vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) -
thuế suất thuế nhập khẩu của tất cả các mặt hàng từ
các nước trong khu vực nhập vào Việt Nam phải giảm
xuống còn từ 0% đến 5%. Khi đó, các doanh nghiệp Việt
Nam nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng phải đối
mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong
khu vực có trình độ công nghệ hiện đại hơn, tiềm lực tài
chính mạnh hơn và giá cả hàng hoá rẻ hơn, V.V Việc
sản xuất, kinh doanh, tình hình, tài chính của doanh
nghiệp nhà nướe sẽ gặp bất lợi và ảnh hưởng xấu tới an
ninh tài chính.
Ngoài các yếu tố cơ bản trên, các nhân tố khác của
môi trường bên ngoài doanh nghiệp như: sự ổn định
của thể chê chính trị, môi trường văn hóa - xã hội, sự
tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, V.V., cũng có những
ảnh hưởng nhất định tới an ninh tài chính doanh
nghiệp.
III. CÁC TIÊU THỨC ĐÁNH GIÁ AN NINH

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Đánh giá thực trạng an ninh tài chính doanh
nghiệp để đưa ra phương hướng, phương châm, giải
pháp bảo đảm an ninh tài chính doanh nghiệp là vấn
' .
đề đang được quan tâm hiện nay. Để đánh giá thực
trạng an ninh tài chính doanh nghiệp, người ta thường
sử dụng các chỉ tiêu thông dụng phản ánh tình hình tài
chính, kết quả sản xuất, kinh doanh và sử dụng các
phương pháp phân tích khác nhau.
1. Các chi tiêu đánh giá an ninh tài chính
doanh nghiệp :
1.1. Chỉ tiêu về vốn lưu chuyển thuần
Vốn lưu chuyển thuần trong doanh nghiệp có thể
tính theo hai công thức sau:
Vốn lưu Vốn Nợ Tài sản cố định
chuyển - chủ sở + dài - và đầu tư dài
thuần hữu hạn hạn
25

×