Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Bài văn mẫu lớp 9 thuyết minh về chiếc nón lá việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.41 KB, 14 trang )

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam
Dàn bài
Mở Bài:
Cách 1:
– Chiếc nón lá rất thân thuộc với dân tộc ta
– Đi cùng tà áo dài, chiếc nón lá làm tăng thêm vẻ dịu dàng, duyên dáng cho
người phụ nữ Việt Nam.
Cách 2:
“Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”
(Bài thơ đan nón – Nguyễn Khoa Điềm)
Đã từ lâu chiếc nón lá đã đi vào nhiều bài thơ, bài ca Việt Nam và trở thành
biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ thanh mảnh, nhẹ nhàng của chiếc nón
bài thơ, cùng với tá áo dài bay trong gió đã làm tôn lên vẻ đẹp của người con gái.
Cách 3:
“Người xứ Huế yêu thơ và nhạc lễ
Tà áo dài trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ trong tay
Thầm bước lặng, những khi trời dịu nắng”
Ai đã từng qua miền Trung nắng lửa không thể không biết đến nón bài thơ
xứ Huế. Chiếc nón lá ấy đã trở thành biểu tượng văn hóa của một vùng đất nhiều
truyền thống. Và cũng từ lâu, chiếc nón lá trở thành biểu tượng cho người phụ nữ
Việt Nam. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với chiếc nón lá nhẹ nhàng và tà áo
dài tha thướt đã đi vào thơ ca, nhạc họa của biết bao thế hệ.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Thân Bài:
1/ Nguồn gốc:
Chiếc nón lá có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón lá đã


được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lữ, thạp đồng Đào Thịch vào khoảng
2500 – 3000 năm trước công nguyên.
Từ xa xưa, nón lá đã hiện diện trong đời sống hằng ngày của người Việt
Nam trong cuộc chiến đấu giữ nước, qua nhiều chuyện kể và tiểu thuyết. Trải qua
những năm tháng chiến tranh ác liệt, nghề chằm nón vẫn được duy trì và tồn tại
đến ngày nay. Ở Huế hiện nay có một số làng nghề chằm nón truyền thống như
làng Đồng Di (Phú Vang), Dạ Lê (Hương Thủy) đặc biệt là làng nón Phủ Cam
(Huế), Những làng nghề này đã tạo ra các sản phẩm công phu cũng là một trong
những điểm thu hút khách du lịch.
2/ Nguyên vật liệu, cách làm:
a/ Chọn lá, sấy lá, ủi lá:
Để làm được một chiếc nón lá đẹp, người làm nón phải tỉ mỉ từ khâu chọn lá,
phơi lá, chọn chỉ đến độ tinh xảo trong từng đường kim mũi chỉ. Lá có thể dùng lá
dừa hoặc lá cọ.
- Lá dừa: để có được lá dừa làm nón phải mua từ trong Nam. Lá chuyển về
chỉ là lá thô. Để lá có độ bền về thời gian cũng như màu sắc phải chọn lọc, phân
loại lá và đem xử lí qua lưu huỳnh. Dẫu chọn lá có công phu nhưng nón làm bằng
lá dừa vẫn không thể tinh xảo và đẹp bằng nón làm bằng lá cọ.
- Lá cọ: làm nón bằng lá cọ phải công phu hơn, lá phải non vừa độ, gân lá
phải xanh, màu lá phải trắng xanh. Nếu lá trắng và gân lá cũng trắng thì lá đã già
làm nón không đẹp. Một chiếc nón đạt tiêu chuẩn phải có màu trắng xanh với
những gân lá vẫn còn màu xanh nhẹ, mặt lá phải bóng, khi nón đan lên phải nổi
những gân lá màu xanh đẹp mắt. Để đạt được tiêu chuẩn ấy thì phải tuân thủ đúng
qui trình. Sấy khô phải đúng kĩ thuật, sấy trên bếp than (không phơi nắng). Sau đó
lại phải phơi sương tiếp từ 2 đến 4 giờ cho lá mềm. Rồi dùng một búi vải và một
miếng gang đặt trên bếp than có độ nóng vừa phải để ủi sao cho từng chiếc lá được
phẳng. Mỗi chiếc lá đều được chọn lựa kĩ càng và cắt với cùng độ dài là 50cm (lá
cọ).
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
b/ Chuốc vành, lên khung lá, xếp nón:

Với cây mác sắt, người thợ làm nón (thường là đàn ông làm ở khâu này)
chuốt từng nan tre sao cho tròn đều và có đường kính rất nhỏ, thường chỉ nhỉnh
hơn đường kính que tăm một chút. Sau đó uốn những nan tre này thành những
vòng tròn thật tròn đều và bóng bẩy từ nhỏ đến lớn. Mỗi cái nón sẽ cần 16 nan tre
uốn thành vòng tròn này đặt từ nhỏ đến lớn vào một cái khung bằng gỗ có hình
chóp. Sau đó người thợ sẽ xếp lá lên khung, người xếp lá phải khéo và đều tay
không để các phiến lá chồng lên nhau hay xô lệch.
Kể về quá trình làm nón lá mà không kể đến nón bài thơ xứ Huế là một thiếu
xót. Đặc biệt nón bài thơ của xứ Huế rất mỏng vì chỉ có hai lớp: lớp lá trong gồm
20 lá, lớp lá ngoài cùng gồm 30 lá và lớp bài thơ được đặt nằm ở giữa. Khi xây lá
lợp lá, người thợ phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều
lớp hay xô lệch để nón đạt được sự thanh và mỏng. Khi soi lên ánh nắng, ta đọc
được bài thơ, nhìn thấy rõ hình cầu Tràng Tiền hay chùa Thiên Mụ. Chính những
chi tiết này đã tạo nên nét đặc trưng cho nón bài thơ xứ Huế.
c/ Chằm nón:
Sau khi xếp lá cho đều và ngay ngắn lên vành, người ta bắt đầu chằm nón.
Nón được chằm bằng sợi nilông dẻo, dai, săn chắc và phải có màu trắng trong suốt.
Các lá nón không được xộc xệch, đường kim mũi chỉ phải đều tăm tắp. Khi nón đã
chằm hoàn tất người ta đính thêm vào chớp nón một cái “xoài” được làm bằng chỉ
bóng láng để làm duyên cho chiếc nón. Sau đó mới phủ lên nón lớp dầu nhiều lần,
phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền.
Ở vòng tròn lớn bằng nan tre dưới đáy hình chóp, khoảng nan thứ ba và thứ
tư, người thợ sẽ dùng chỉ kết đối xứng hai bên để buộc quai. Quai nón thường được
làm bằng lụa, the, nhung,…với màu sắc tươi tắn như tím, hồng đào, xanh thiên
lí, càng làm tăng thêm nét duyên cho người đội nón.
Chiếc nón đẹp không chỉ ở đường kim, mũi chỉ mà còn ở dáng nón. Chiếc
nón còn đẹp bởi đây là sản phẩm đặc trưng mang nét văn hóa truyền thống được
tạo nên bởi đôi tay khéo léo của những người thợ ở các làng nghề.
3/ Công dụng:
Từ làng Chuông ở Tây Hồ đến Ba Đồn những chiếc nón lá trải đi khắp nẻo

đường và trở thành thân quen trong đời sống thường nhật của người phụ nữ. Chiếc
nón lá không chỉ là vật dụng thiết thân, người bạn thủy chung với người lao động
dùng để đội đầu che mưa, che nắng khi ra đồng, đi chợ, là chiếc quạt xua đi những
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
giọt mồ hôi dưới nắng hè gay gắt mà còn là vật làm duyên, tăng nét nữ tính của
người phụ nữ. Buổi tan trường, hình ảnh những cô nữ sinh với tà áo trăng tinh khôi,
nghiêng nghiêng dưới vành nón lá là lúm đồng tiền làm duyên đã làm say lòng, là
cảm hứng nghệ thuật của bao văn nhân, nghệ sĩ,…
Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên
dáng thể hiện nét dịu dàng, mềm mại kín đáo của người phụ nữ Việt Nam đã nhiều
lần xuất hiện và đều nhận được những tràng pháo tay tán thưởng của khán giả.
4/ Bảo quản:
Muốn nón lá được bền lâu chỉ nên đội khi trời nắng, tránh đi mưa. Sau khi
dùng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón
giòn và ố vàng làm làm mất tính thẩm mĩ và giảm tuổi thọ của nón.
Kết Bài:
– Chiếc nón lá là biểu tượng của phụ nữ Việt Nam, là một sản phẩm truyền
thống và phổ biến trên khắp mọi miền đất nước.
– Nhiều người Việt xa nước, nơi đất khách quê người trông thấy hình ảnh
chiếc nón lá họ có cảm giác quê hương đang hiện ra trước mắt.
Nón lá là hình ảnh bình dị, thân quen gắn liền với tà áo dài truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam. Từ xưa đến nay, nhắc đến Việt Nam du khách nước ngoài
vẫn thường trầm trồ khen ngơị hình ảnh chiếc nón lá – tượng trưng cho sự thanh
tao của người phụ nữ Việt. Nón lá đã đi vào ca dao, dân ca và làm nên văn hóa tinh
thần lâu đời của Việt Nam.
Bài văn tham khảo 1:
Bạn có còn nhớ trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, chiếc nón lá hiện lên rất
tự nhiên, gần gũi:
Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên

Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên
Như vậy mới thấy được rằng nón là là biểu tượng cho sự dịu dàng, bình dị,
thân thiện của người phụ nữ Việt từ ngàn đời nay.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Chiếc nón lá ra đời từ rất lâu, khoảng 2500 - 3000 năm TCN. Lịch sử hình
thành và lưu giữ cho đến ngày nay đã chứng tỏ được sự bền vững của sản phẩm
này. Chiếc nón lá hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của người dân việt, đặc biệt
là người phụ nữ; hiện diện trong những lời kể của bà, của mẹ và hiện diện trong
các cuộc thi gìn giữ nét đẹp văn hóa.
Nhắc đến nón lá thì chắc chắn mọi người sẽ nghĩ đến ngay đến Huế, mảnh
đất nên thơ, trữ tình có tà áo dài và nụ cười duyên của cô gái Huế. Huế cũng được
biết là nơi sản xuất nón lá với nhiều thương hiệu nổi tiếng. Những làng nghề làm
nón lá ở Huế đã thu hút không ít khách du lịch ghé thăm và chọn sản phẩm này
làm quà.
Để làm được chiếc nón lá đẹp thì người làm cần phải tinh tế, tỉ mỉ từ khâu
lựa chọn nguyên liệu, cách phơi lá, cách khâu từng đường kim mũi chỉ. Người ta
vẫn bảo làm ra một chiếc nón lá cần cả một tấm lòng là vì vậy.
Nón lá có thể được làm từ lá dừa hoặc lá cọ. Mỗi loại lá lại mang đến sự
khác nhau cho sản phẩm. Thường thì những sản phẩm nón làm từ lá dừa có nguồn
gốc từ Nam Bộ, vì đây là nơi trồng dừa nhiều. Tuy nhiên làm từ lá dừa sẽ không
đẹp và tinh tế như lá cọ. Lá cọ có độ mềm mại, chắc chắn hơn. Khi lựa chọn lá
cũng phải chọn những chiếc lá có màu xanh, bóng bẩy, có nổi gân để tạo nên điểm
nhấn cho sản phẩm. Quá trình phơi cho lá mềm để dễ làm cũng cần từ 2-4 tiếng, lá
vừa mềm vừa phẳng.
Khâu làm vành nón là khâu vô cùng quan trọng để tạo khung chắc chắn cho
sản phẩm. Người dùng cần phải lựa chọn nan tre có độ mềm và dẻo dai. Khi chuốt
tre thì cần phải chuốt tỉ mỉ để đến khi nào có thể uốn cong mà không sợ gãy. Sau
đó người dùng sẽ uốn theo những đường kính từ nhỏ đến lớn tạo thành khung cho
nón lá sao cho tạo thành một hình chóp vừa vặn.

Khi đã tạo khung và chuẩn bị lá xong đến giai đoạn chằm nón. Đây là giai
đoạn giữ cho khung và lá bám chặt vào nhau. Thường thì người làm sẽ chằm bằng
sợi nilong mỏng nhưng có độ dai, màu trắng trong suốt.
Lúc chiếc nón đã được khâu xong thì người dùng bắt đầu quết dầu làm bóng
và phơi khô để dầu bám chặt vào nón, tạo độ bền khi đi nắng mưa.
Đi dọc miền đất nước, không nơi nào chúng ta thấy sự hiện diện của chiếc
nón lá. Nó là người bạn của những người phụ nữ khi trời nắng hoặc trời mưa.
Không chỉ có công dụng che nắng, che mưa mà nón lá còn xuất hiện trong các tiết
mục nghệ thuật, đi đến các nước bạn trên thế giới. Nét đẹp văn hóa của nón lá
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
chính là nét đẹp cần được bảo tồn và gìn giữ. Nhắc đến nón lá, chắc chắn chúng ta
sẽ nghĩ ngay đến tà áo dài Việt Nam, bởi rằng đây là hai thứ luôn đi liền với nhau,
tạo nên nét đặc trung riêng của người phụ nữ Việt Nam từ ngàn đời nay.
Để giữ chiếc nón lá bền với thời gian thì người dùng cần phải khéo léo, bôi
dầu thường xuyên để tránh làm hỏng hóc, sờn nón.
Chiếc nón lá Việt Nam là sản phẩm của người Việt, làm tôn thêm vẻ đẹp của
người phụ nữ, và khẳng định sự tồn tại lâu đời của sản phẩm này.
Bài văn tham khảo 2:
Trên đất nước Việt Nam có khoảng trên năm mươi dân tộc được chia ra
nhiều vùng miền khác nhau. Nhưng có ba khu vực chính: Bắc – Trung –Nam.
Ở mỗi miền có phong tục tập quán riêng. Nếu nói về trang phục thì chiếc áo
tứ thân và vật dụng đi kèm là nón quai thao sẽ là đại diện cho người Bắc. Còn ở
miền Trung và miền Nam thì có áo dài nói chung áo bà ba nói riêng và người bạn
đồng hành với chúng không ai khác chình là chiếc nón lá thân quen. Nó làm chiếc
áo dài hay áo bà ba thêm phần duyên dáng và dịu dàng, tôn thêm nét đẹp cho người
phụ nữ Việt.
Chiếc nón lá là một nhân tố của lịch sử lâu đời. Tiền nhân của nón lá được
chạm khắc trên chiếc trống đồng Ngọc Lữ, thạp đồng Đào Thịch từ khoảng 2500 –
3000 trống đồng năm trước công nguyên. Trải qua biết bao thời kì chống giắc
ngoại xâm, nghề chằm nón vẫn được duy trì và tồn tại cho đến nay. Và hiện nay

các làng làm nghề chằm nón như làng Đồng Di (Phú Vang), Dạ Lê (Hương Thủy)
và ở Phủ Cam (Huế) là làng nón đặc biệt nhất,… những làng nghề này đã tạo ra
các sản phẩm công phu và nó cũng là một trong những điểm thu hút khách du lịch.
Một chiếc nón lá đẹp phải trãi qua rất nhìu công đoạn. Trước tiên là khâu
chọn lá, phơi lá, chọn chỉ đến mức tinh xảo trong từng mũi kim. Lá làm nón có thể
dùng lá dừa hay lá cọ.
Lá dừa: để có được lá dừa thì phải mua từ trong Nam. Lá được vận chuyển
và được làm trước khi chuyển đến nơi. Sau đó, chọn lọc lá để xử lí với lưu huỳnh
nhằm đảm bảo được độ bền về thời gian và màu sắc của lá. Dẫu việc chọn lá có
công phu nhưng chiếc nón làm ra cũng không sánh bằng nón được làm từ lá cọ.
Lá cọ: để khoác lên cho nón một chiếc áo với chật liệu tốt, người may phải
công phu hơn từ việc chọn lá cho đến việc may và khâu. Những chiếc lá cọ phải có
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
những yếu tố sau: lá non vừa độ, gân lá phải xanh, màu lá cũng trắng xanh. Nếu
gân và thân lá đều trắng thì chiếc nón làm ra sẽ không được đẹp.
Một chiếc nón đạt đầy đủ tiêu chuẩn là phải có màu trắng xanh với những
gân lá màu xanh nhẹ, mặt phải bóng, khi đan lên nón thì màu của gân nổi lên bề
mặt thì mới đẹp mặt. Để đạt được điều dó, phải làm đúng theo các qui trình một
cách tuân thủ.
Sấy khô phải đúng kĩ thuật, sấy trên bếp than (đối với lá cọ thì không phơi
nắng). Sau đó thì phơi sương từ 2 đến 4 giờ cho lá mềm ra. Rồi dùng một búi vải
và một miếng gang đặt trên bếp than có độ nóng vừa phải để ủi sao cho từng chiếc
lá được phẳng. Mỗi chiếc lá phải được chọn lựa kĩ càng và cắt với cùng độ dài là
50cm (lá cọ).
Với cây mắc sắt, những người thợ làm nón (thường là đàn ông) chuốt từng
nan tre sao cho tròn đều và có đường kính rất nhỏ, thường chỉ lớn hơn que tăm một
chút. Sau đó uốn nan tre này thành những vòng tròn từ lớn đến bé và đều được
bóng bẩy. Mỗi cái nón sẽ có 16 nan tre đã được uốn vòng như thế này. Những
vòng ấy sẽ được đặt vào một khung bằng gỗ hình chóp theo vị trí từ dưới lên từ lớn
đến bé. Sau đó người thợ sẽ xếp lá lên khung, người xếp lá phải khéo và đều tay để

những chiếc lá không bị chồng lên nhau hoặc xô lệch.
Kể về quá trình làm nón mà không nhắc đế nghệ thuật làm nón bài thơ ở
Huế thì thật thiếu xót. Đặt biệt nón bài thơ của xứ Huế rất mỏng vì chỉ có hai lớp lá
với lớp lá thứ nhất chỉ gồm hai mươi lá, còn lớp ngoài chỉ có ba mươi lá và lớp bài
thơ thì được chèn ở giữa. Khi xây lá lợp lá, người làm phải thật sự khéo léo sao
cho khi chêm lá sẽ không làm cho lá bị chồng lên nhau hay bị xô lệch, như vậy thì
chiếc nón lá của chúng ta sẽ có được độ thanh và mỏng. Khi soi nón dưới ánh nắng,
người ta sẽ thấy được bài thơ, hay nhìn rõ được chiếc cầu Tràng Tiền hoặc chùa
Thiên Mụ. Chính những chi tiết đó đã tạo được nét đặc sắc riêng của nón bài thơ ở
xứ Huế. Khi đội nón bài thơ người đội nó chắc hẳn hãnh diện lắm vì đã mang trên
mình những danh lam thắng cảnh hay một bài thơ mang đậm sắc Việt.
Sau khi xếp lá cho đều và ngay ngắn lên vành, người ta bắt đầu chằm nón.
Nón được chằm bằng những sợi nilông dẻo, dai và săn chắc có màu trắng trong
suốt. Các nón lá không được xộc xệch, đường kim chỉ phải đều. Khi nón lá được
chằm hoàn tất người ta đính thêm cho chớp nón một cái “xoài” được làm bằng chỉ
bóng láng để làm duyên cho nón. Sau khi cho nón một điểm nhấn, thì người thợ sẽ
phủ lên nón lớp dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền. Ở hai vòng
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
tròn lớn bằng nan tre phần dưới của hình chóp, khoảng nan thứ ba và thứ tư, người
thợ sẽ dùng chỉ đôi kết đối xứng hai bên để buộc quai.
Quai nón thường được làm bằng lục, the, nhung, với màu sắc tươi tắn như
tím, hồng đào, xanh thiên lí, càng làm cho nón thêm phần xinh xắn và càng làm
tăng độ duyên dáng cho người đội nón. Chiếc nón lá cũng giống như người phụ nữ
Việt Nam, không chỉ đẹp ở từng chi tiết mà còn đẹp ở cách thể hiện ở phần dáng
nón. Những người thợ đã gởi gắm vào từng “đứa con’ những hình ảnh mang nét
truyền thống văn hóa dân tộc.
Từ Bắc vào Nam, từ làng Chuông ở Tây Hồ đến Ba Đồn, những chiếc nón lá
trải đi khắp các nẻo đường và trở nên thân quen trong đời sống thường nhật của
người phụ nữ. Chiếc nón không chỉ là vật dụng thân thiết, mà còn là người bạn
thủy chung với người lao động đội nắng dầm mưa, đội nón ra đồng, đội nón đi

chợ,… nón còn là những chiếc quạt xua đi những mệt mõi, mồ hôi dưới nắng hè
gây gắt mà còn làm tăng nét duyên và tăng thêm nét nữ tính của người phụ nữ. Vào
mỗi buổi tan trường, hình ảnh những cô nữ xinh với tà áo dài trắng tinh khôi,
nghiêng nghiêng dưới vành nón lá là lúm đồng tiền làm duyên đã làm say lòng, là
cảm hứng nghệ thuật của bao văn nhân, nghệ sĩ,… Trong nghệ thuật, tiết mục múa
nón của các cô gái dưới bộ áo dài duyên dàng thể hiện nét dịu dàng, mềm mại kím
dáo của người phụ nữ Việt Nam đã nhiều lần xuất hiện và đều nhận được những
tràng pháo tay tán thưởng của khán giả.
Muốn nón lá được bền chỉ nên đội dưới nắng, không nên đi trong mưa. Sau
khi dùng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá
nón giòn và ố vàng làm mất tính thẩm mĩ và giảm tuổi thọ của nón. Nón lá là một
những bề mặt của đất nước Việt Nam ta, vì thế hãy giữ gìn nó thật kĩ tránh làm
hỏng nón. Hãy yêu quý cái nét truyền thống lấu đời đó, nón lá sẽ là một người bạn
luôn sát cánh cùng chúng ta dẫu có nắng mưa gian khổ.
Bài tham khảo 3:
Nón nầy che nắng che mưa
Nón nầy để đội cho vừa đôi ta
Ca dao
Tôi là chiếc nón lá Việt Nam không xa lạ với con người, ngày nay ở hải
ngoại chỉ thấy nón lá xuất hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón và áo
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
dài duyên dáng mền mại kín đáo của thiếu nữ Việt Nam nổi bật bản sắc văn hoá
dân tộc, áo dài và nón lá là nét đặc thù của đàn bà Việt Nam, chắc chắn không ai
chối cãi. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét đẹp riêng.
Tôi dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc
Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khỏang 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời
sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời
sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng
nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Họ hàng nhà nón được chia thành nhiều loại khác
nhau qua từng giai đoạn lịch sử:

Nón dấu: nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa
Nón gò găng hay nón ngựa: sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi
cỡi ngựa
Nón rơm: nón làm bằng cộng rơm ép cứng
Nón quai thao: người miền Bắc thường dùng trong lễ hội
Nón cời: nón rách
Nón Gõ: Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa
Nón lá Sen: cũng gọi là nón liên diệp
Nón thúng: thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.
Nón khua: Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa
Nón chảo: thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan còn dùng
Nón cạp: nón xuân lôi đại dành cho người có tang
Nón bài thơ: ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu
thơ v.v
Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng tới tôi, nhưng ít người
để ý đến tôi có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu cm. Tôi tuy giản dị rẻ
tiền nhưng để tạo nên tôi cần người thợ phải khéo tay. Nghề chằm nón không chỉ
dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp
chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan
vành một cách công phu; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người
phụ nữ thì chằm nức vành. Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ
được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lợp lá, người ta
phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể
thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và miền Trung trong
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
các làng quê sau vụ mùa. Vì sao ở các tỉnh miềnNamkhông thấy người ta chằm
nón? Tuy vật liệu làm nên tôi rất đơn giản nhưng chúng không xuất hiện ở miền
Nam nên không có nghề chàm nón.
Ngày nay dù đã phát triển nhưng trên những cánh đồng lúa xanh tươi ngoài
Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che nắng, giống như

con công đang xòe cánh.
Người ta chặt những bé lá còn búp, cành bé lá có hình nan quạt nhiều lá đơn
chưa xoè ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho những vùng quê
có người chằm nón. Ở Quảng Nam ngày xưa vùng Bà Rén chuyên buôn bán nón lá,
từ đó phân phối đến các chợ như chợ Hội An, có khu bán nón lá nhiều loại.
Bé lá non lúc khô có màu trắng xanh, người mua phải phơi lá vào sương
đêm cho lá bớt độ giòn vì khô, mở lá từ đầu tới cuồng lá, cắt bỏ phần cuối cùng,
dùng lưỡi cày cũ hay một miếng gan, đặt trên nồi than lửa nóng đỏ, dùng cục vải
nhỏ độn giống như củ hành tây, người ta đè và kéo lá nón thẳng như một tờ giấy
dài màu trắng, có nổi lên những đường gân lá nhỏ, lựa những lá đẹp để làm phần
ngoài của nón. Người ta dùng cái khung hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, có
6 cây sườn chính, khoảng cách giống nhau để gài 16 cái vành nón tròn lớn nhỏ
khác nhau lên khung. Cái khung này phải do thợ chuyên môn làm kích thước đúng
cỡ khi lợp lá và chằm nón xong, tháo nón ra dễ dàng. Tôi thường chỉ 16 vành tròn
làm bằng tre cật vót nhỏ đều nhau nối lại, tôi còn được thêu trên mình những bài
thơ nhẹ mỏng chỉ 2 lớp lá trong chen hình cảnh và các câu thơ, nón thường độ bền
lâu hơn dày có 3 lớp phần trong lót thêm loại lá đót, (loại cây này giống cây sậy,
khi trổ bông người ta lấy bông làm chổi) Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt lá
thừa nức miệng nón và làm quai, nón rộng đường kính thường 41cm, người ta phết
phía ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước mưa không thấm qua các lỗ kim vào
bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua 15 khâu, từ lên rừng hái lá, rồi
sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ
Thời gian chưa có chỉ cước người ta dùng bẹ lá cây thuộc loại thơm (hùm)
tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt của lá, dùng bàn chải,
chải lấy phần tơ dùng làm chỉ để chằm nón, hay dùng chỉ đoác. Nhưng sau nầy
phát triển người ta dùng cước nhỏ bằng nylon, chằm nón có đường nét thanh nhã
hơn. Họ hàng nón lá đã đi vào thi ca bình dân Việt Nam.
Nón em chẳng đáng mấy đồng,
Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Nón em nón bạc quai vàng
Thì em mới dám trao chàng cầm tay
Tiếc rằng vì nón quai mây
Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm
Nón quai thao, hay nón thúng các cô gái Bắc thời xưa chưa chồng thường
dùng, ngày nay đến Hà Nội không còn thấy ai đội nón quai thao, trên đường phố cổ
trầm mặc dưới bóng cây cổ thụ, thiếu nữ Hà Nội che dù màu, đội mũ lát, đội mũ
tân thời, nhưng vào thăm Văn Miếu sẽ thấy trình diễn văn hoá, hát quan họ, các cô
đều trang sức giống như thời xưa với chiếc nón quai thao (hình trên trong Văn
Miếu)
Thủa xưa con gái sau khi lập gia đình, bổn phận làm vợ, làm mẹ, họ chỉ chú
trọng đến niềm vui tận tụy làm tròn bổn phận trong gia đình, xao lãng những vẻ
đẹp bề ngoài
Chưa chồng nón thúng, quai thao
Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai
Chửa chồng, yếm thắm, đeo hoa
Chồng rồi, hai vú bỏ ra tầy giành.
Túa ống tơ ngà tha thướt gió
Vàng vàng lá lụa nắng tươi xinh
Khuôn hoa e lệ trong khuôn nón
Say mắt chàng trai tiếc gửi tình
Nhung dép cong nghiêm bước thẳng đường
Đâu ngờ tơ nón gió vương vương
Chàng về, mắt dắm sầu xa vắng
Cả một trời xuân nhạt nắng hường
Chiếc nón quai Thao Anh Thơ
Thân phận của những bóng hồng khi về chiều nhan sắc tàn phai:
Còn duyên nón cụ quai tơ
Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng
nghiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt giấu sau vành nón ấy mới cơ hồ e ấp,
rạo rực vì những bâng khuâng Mỗi thiếu nữ đều có một cái duyên để làm say
đắm người khác phái. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài
những điều đã được ca dao truyền tụng, Có nàng đẹp nhờ mái tóc thề hay cắt ngắn,
đôi chân mày cong vòng như vầng trăng non dưới vành nón lá:
Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón
Chiều mùa thu mây che có nắng đâu
Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh màu
Sẽ làm khô làn môi en dịu ướt
Còn ta mắt anh
Có sao đâu mà em phải cúi đầu từ khước
Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước
Thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau
Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào
Đôi chân bước anh nghe chừng sai nhịp.
Thu Nhất Phương
Ở Huế, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng từ xa xưa cho đến bây giờ như:
Phú Hồ, Phước Vĩnh, Dạ Lê, Triều Sơn, Nam Phổ, Kim Long, Dương Nỗ, Tân Mỹ,
Hương Sơ, Mỹ Lam, làng Chuồn, bên dòng sông Như Ý, thuộc xã Phú Hồ, huyện
Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế làm nón bài thơ dáng thanh mảnh, độ mỏng, màu
nón nhã nhặn người ta còn cắt những bức tranh với chùa Linh Mụ, cầu Trường
Tiền, con đò trên sông Hương và đặc biệt nhất là vài câu thơ chất chứa tâm hồn
xứ Huế.
Sông Hương lắm chuyến đò ngang
Chờ anh em nhé, đừng sang một mình
Ca dao
Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón

Mười sáu vành, mười sáu trăng lên
Nguyễn Khoa Điền
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ nép trong tay
Bích Lan
Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật "trang sức" của biết bao thiếu nữ.
lựa nón, lựa quai, cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công đến tận nơi
làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con
đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai
với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề.
Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ
Ngàn thông núi Ngụ đứng như mơ
Gió cầu vương áo nàng tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ
Nón bài thơ hiện hữu trên khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong
cuộc sống thường nhật của phụ nữ Huế, dùng nón lá nâng hay đựng xoài, cũng tạo
nên nét đẹp mỹ miều.
Anh về Bình Định ba ngày
Dặn mua chiếc nón lá dày không mua
Nón bài thơ đặc sản Huế nón Gò Găng ở Bình Định còn gọi là nón ngựa làm bằng
vành tre cật, chuốt nhỏ như tăm, đan thành ba lớp mê sườn; bên ngoài phủ lớp lá
kè non, chằm bằng những đường chỉ tàu trắng muốt và đều đặn. Trên đỉnh chóp
được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ long - lân - qui - phụng. Quai nón
được làm bằng lụa xanh hoặc đỏ, bản rộng và đều người ta chằm một chiếc nón
ngựa phải mất cả tháng trời dày công nhọc sức. Vì vậy giá thành rất đắt, nó chỉ
dành cho những người cao sang quyền quí, những chức sắc quan lại của triều đình.
Dần dần theo nhu cầu của giới bình dân, nón ngựa được cải biên thành ngựa đơn
rồi nón buôn, nón chũm, rẻ hơn nhiều. Các loại này đều không có chụp bạc, nó
được thay bằng những tua ngũ sắc ở chóp nón cho đẹp. Ở các vùng làm nón, ngày

cưới, nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng rể thì đội nón đi ngựa; còn những nhà
nghèo cũng ráng sắm đôi nón ngựa cho cô dâu chú rể đội đi trong ngày cưới. Vậy
nên có câu ca dao:
Cưới nàng đôi nón Gò Găng
Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Ngày nay các cô gái làm nón hầu như không còn giữ được phương pháp làm
nón ngựa nữa. Họ quen với công đoạn nhanh, giản tiện và dễ tiêu thụ của chiếc nón
trắng mảnh mai - một sản phẩm của quá trình cải cách lâu dài. Để làm loại nón này
phải qua nhiều công đoạn. Vấn sườn, lợp lá, chèn lá, chằm và nức. Việc làm lá đòi
hỏi nhiều tính tỉ mỉ và kinh nghiệm lâu năm.
Nghề nón là thuộc thị trấn Gò Găng, Nhơn Thành - An Nhơn. Nơi đây có
một chợ nón lớn họp thường ngày từ 3 - 4 giờ sáng. Cứ hết một đợt làm được 25 -
30 chiếc thì bà con các vùng phụ cận lại mang nón đến bán và mua sắm vật liệu
cho đợt sau. Mỗi tháng Gò Găng có thể cung cấp cho cả nước 50.000 chiếc nón.
Gần đây nón Gò Găng còn được xuất khẩu sang các nước láng giềng như Trung
Quốc, Lào, Cam-pu-chia dưới dạng cải biên cho hợp với xứ người. Như vậy, từ
vùng núi cao nguyên mưa nguồn gió dữ cho đến các miệt vườn miền Nam.
Nhớ nón Gò Găng
Vầng trăng đập đá
Sông dài sóng cả
Người quân tử,
Khăn điều vắt vai
Đời sống văn minh, phát triển nhưng dòng họ nhà nón lá vẫn thuần túy
nguyên hình của nó. Ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng mênh
mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời không đổi thay.

×