Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, Giá trị lịch sử và thời đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.7 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
MÔN TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao.
Giá trị lịch sử và thời đại


Giảng viên: PGS. TS Trần Minh Trưởng
Học viên: Phạm Thị Hoa
Ngành: Hồ Chí Minh học K6 (2010)
Hà Nội, tháng 4 năm 2012
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới. Người còn là một nhà ngoại giao kiệt xuất, từng giữ cương vị Bộ trưởng
Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh, sự hình thành và
phát triển tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh gắn liền với quá trình khảo sát thế giới,
tích lũy tri thức và gắn liền với hoạt động lý luận, thực tiễn cách mạng của Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hệ thống những
nguyên tắc, quan điểm của Người về thế giới và thời đại, về đường lối đối ngoại
của Đảng, chiến lược, sách lược ngoại giao của Nhà nước Việt Nam.
1. Cơ sở và quá trình hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
Cơ sở hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là sản phẩm kết hợp truyền thống văn hóa
dân tộc và truyền thống ngoại giao Việt Nam, tinh hoa văn hóa phương Đông,
phương Tây và kinh nghiệm ngoại giao thế giới. Trên nền tảng ấy, với những phẩm
chất và trí tuệ tinh tường được tôi luyện trong quá trình lao động, học tập, tranh đấu
trong hoạt động cách mạng, đã hình thành nên nhân cách ngoại giao – văn hóa Hồ
Chí Minh.
Truyền thống văn hóa dân tộc
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên ở một dân tộc có truyền thống văn hóa lâu


đời. Ngay từ nhỏ, Người đã được sống trong một cái nôi ứng xử trọng nghĩa tình,
cởi mở, thích giao thiệp, tính cộng đồng cao… Trong đó, chủ nghĩa yêu nước là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lịch sử, đi đôi với sự hình thành, phát triển quốc gia –
dân tộc. Từ trong công cuộc dựng nước và giữ nước, đã biểu hiện nền văn hóa
chính trị mà nội dung chủ yếu là coi trọng độc lập, tự chủ và thân dân, đề cao tư
2
tưởng nhân nghĩa, hòa mục trong việc trị quốc, yên dân. Trong truyền thống văn
hóa dân tộc, thì truyền thống ngoại giao cũng có giá trị lâu đời.
Có thể nói, tư tưởng truyền thống ngoại giao của Việt Nam là ngoại giao
hòa bình, hữu nghị, nhân văn với các dân tộc khác. Nhà sử học Phan Huy Chú đã
đúc kết lịch sử bang giao của đất nước ta: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với láng
giềng là việc lớn”. Ông cha ta luôn đề cao chính sách đoàn kết “láng giềng thân
thiện”, chính sách ngoại giao nhu viễn, “ngoại giao công tâm” đánh vào lòng
người, đề cao tư tưởng nhân nghĩa, hòa mục trong việc trị quốc an dân… Nhìn
chung, ngoại giao Việt Nam từ xưa đã có truyền thống tự tôn dân tộc, điều đó có
tác động rất lớn đến sự hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh cũng tiếp thu tư tưởng hướng ngoại của các bậc sĩ phu yêu
nước cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Đó là tư tưởng “xuất dương cầu viện” sang
Nhật nhờ đào tạo thanh niên, đồng thời tìm kiếm sự giúp đỡ của Nhật để đánh đuổi
Pháp của Phan Bội Châu. Phan Chu Trinh hướng về nước Pháp với mong muốn
dựa vào Pháp để đánh đổ triều đình phong kiến và thực hiện khai hóa nước nhà
“chấn hưng dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”. Dù thất bại, dù Nguyễn Ái Quốc
không tán thành quan điểm đó, song các hoạt động hướng ngoại đó cũng là nhân tố
tích cực, tiến bộ vì nó phá bỏ tư tưởng truyền thống “bế quan tỏa cảng”, đặt cơ sở
cho thiên hướng ngoại giao với bên ngoài, hòa nhập với thế giới.
Bên cạnh những nhân tố chủ quan tác động, thì chính trí tuệ, tài năng xuất
chúng của Hồ Chí Minh đã tạo nên phong cách, phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh. Quá trình khảo sát thực tiễn, hoạt động cách mạng, sự tiếp xúc với các nền
văn hóa trên thế giới khiến Người tích lũy được tri thức và kinh nghiệm để từ đó
vận dụng trong ứng xử, trong hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách ngoại

giao. Đó có thể nói chính là tố chất ngoại giao thiên bẩm của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh tiếp thu văn hóa của nhiều nước phương Đông, phương Tây và
kinh nghiệm ngoại giao thế giới
3
Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng “thế giới đại đồng”, “tứ hải
giai huynh đệ” trong Nho giáo. Đó là tư tưởng xây dựng một thế giới đại đồng
không có chiến tranh, mọi người sống với nhau hòa mục, không có sự phân biệt
nước lớn, mà chỉ có sự hòa đồng giữa con người với con người, con người với
thiên nhiên.
Hồ Chí Minh còn nghiên cứu kỹ phép dùng binh của Tôn Tử để hình thành
nên bài học ngoại giao để thắng địch: dùng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu. Thứ
hai là đánh bằng ngoại giao, thứ ba mới là đánh bằng binh.
Người cũng đề cao những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và các quyền con
người trong cách mạng tư sản Pháp và Mỹ.
Thời đại Hồ Chí Minh bước vào hoạt động chính trị, những năm đầu thế kỷ
20, chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn thế
giới. Nhu cầu mở rộng thị trường, thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ngày càng lớn,
nên gắn liền với việc gây chiến tranh xâm lược. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ
thống thế giới, xác lập sự thống trị, nô dịch thực dân đối với các dân tộc trên phạm
vi thế giới. Khi đó sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa
muốn giành thắng lợi, không thể hành động riêng rẽ mà phải có quan hệ với nhau,
phối hợp đoàn kết cùng nhau chống kẻ thù chung. Bối cảnh thời đại chủ đạo này đã
có tác động mạnh mẽ tới phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam. Điều đó
cũng chi phối sự hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Nhân tố có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến sự hình thành tư tưởng ngoại
giao Hồ Chí Minh đó là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ quốc tế.
Trong đó, quan điểm về đoàn kết giai cấp vô sản thế giới, về vấn đề hợp tác giúp
đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc thuộc địa và tinh thần quốc tế vô sản trong sáng được
Mác – Lênin nêu ra trong luận thuyết của mình. Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng
sản”, Mác – Ăngghen nêu rõ: vô sản giai cấp toàn thế giới đều là anh em. Muốn

tiến hành cách mạng vô sản, giai cấp công nhân thế giới cũng phải tập hợp, đoàn
kết lại. Mác đưa ra khẩu hiệu: “Giai cấp vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”. Sau
4
này, căn cứ vào đặc điểm thời đại, Lênin phát triển thành khẩu hiệu “Giai cấp vô
sản toàn thế giới và các dân tộc thuộc địa liên hiệp lại”. Điều đó có ý nghĩa quyết
định phương pháp luận, dựa trên cơ sở đó để xác định đối tác quan hệ, trong việc
hoạch định chủ trương, đường lối đối ngoại: đâu là bạn, đâu là đồng minh, đâu là
kẻ thù.
Có thể nói, lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã trang bị cho Hồ Chí Minh
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận về quan hệ quốc tế và tư tưởng ngoại giao.
Đặc biệt, cơ sở thực tiễn là cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành
công có tác động rất lớn đến sự hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Cách
mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới nổ ra và
giành thắng lợi, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử. Về quan hệ quốc tế, với sự
ra đời của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới, mở ra chương mới trong quan hệ
quốc tế khác biệt hoàn toàn với quan hệ quốc tế thời kỳ trước đó: quan hệ bình
đẳng giữa các dân tộc; giữa hai ý thức hệ TBCN và XHCN.
Cách mạng tháng Mười Nga và hoạt động của Nhà nước Xô Viết đã cung
cấp cho cách mạng thế giới nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có bài học
về đối ngoại, ngoại giao. Sự kiện nước Nga xô viết tạm thời ký Hòa ước Bretlitốp
(3 - 3 - 1918) với chính phủ Đức với các điều kiện nặng nề cho phía Nga, nước Nga
phải cắt cho Đức và Thổ Nhĩ Kỳ một phần lãnh thổ rộng 750.000 km2 với hơn 50
triệu dân, phải giải ngũ quân đội và bồi thường cho Đức 6 tỷ Mác, để có thời gian
củng cố chính quyền. Đây là bài học về sự nhân nhượng cần thiết và có nguyên tắc.
Sau này, khi nguy cơ chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, để tránh cùng một lúc
phải đối đầu với nhiều kẻ thù (Đức – Nhật), đồng thời có thêm thời gian chuẩn bị
chiến tranh, Liên Xô lại ký với Đức Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau (23 - 8 -
1939). Bài học “hòa để tiến” đã được Đảng ta và Hồ Chí Minh vận dụng trong cách
mạng Việt Nam sau này với chỉ thị “hòa để tiến” ngày 9 - 3 - 1946 của Trung ương
Đảng, Hiệp định sơ bộ 6 - 3 - 1946 và Hiệp ước 14 - 9 - 1946 mà Hồ Chí Minh đã

ký với Chính phủ Pháp.
5
Rõ ràng, với Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác – Lênin cùng
các giá trị văn hóa, nhân văn dân tộc và thế giới, những kinh nghiệm đúc rút từ nền
chính trị quốc tế, thông qua hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú đã hòa quyện
trong mối liên hệ biện chứng, là cội nguồn của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Quá trình hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh:
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đã dần hình thành trong nhận thức và được
thể hiện sinh động trong hoạt động trực tiếp của Người qua hai thời kỳ cơ bản:
Thời kỳ khảo sát thế giới, tích lũy tri thức, kinh nghiệm về quan hệ ngoại
giao và tích cực xây dựng quan hệ với lực lượng Đồng minh chống phá xít, giành
độc lập
Đây là thời kỳ hình thành những nhận thức ban đầu, tích lũy kiến thức, kinh
nghiệm về quan hệ quốc tế, rút ra những kết luận ban đầu về thế giới, thời đại, về
quan hệ dân tộc – giai cấp, quốc gia – quốc tế; là những vấn đề rất quan trọng trong
việc hình thành nên tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh. Thời kỳ này bắt đầu từ
việc ra đi tìm đường cứu nước, với hành trình khảo sát thực tiễn khắp năm châu,
cùng với quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm, sự nhận thức về thế giới và thời
đại của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã từng bước sáng tỏ. Đặc biệt khi tiếp
cận với những nguyên lý về đoàn kết giai cấp, tinh thần quốc tế vô sản trong học
thuyết Mác – Lênin, tư tưởng của Người đã định hình về đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc nói chung, về chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và các vấn
đề có tính nguyên tắc, quan điểm khi xử lý các mối quan hệ quốc tế. Từ nhận thức
đó, Người vận dụng vào việc xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam, đưa
cách mạng Việt Nam dần đến thắng lợi.
Thời kỳ từ sau khi nước nhà giành được độc lập, Hồ Chí Minh chỉ đạo việc
hoạch định đường lối đối ngoại, chính sách ngoại giao với tư cách là người lãnh
đạo cao nhất của Đảng và là Nguyên thủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Có thể nói, thời kỳ này dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những
quan điểm, nguyên tắc trong đường lối đối ngoại của Đảng, trong chính sách ngoại

6
giao của Nhà nước được giữ vững. Những quan điểm, nguyên tắc đó vừa phù hợp
với thực tại lịch sử, vừa giữ bản sắc truyền thống Việt Nam, vừa phù hợp với luật
pháp và quy ước quốc tế. Do đó, vừa phát huy được tiềm năng sức mạnh dân tộc,
vừa tận dụng được sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Đó là sự vận động,
kết hợp hài hòa giữa nhân tố sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo nên sức
mạnh tổng lực khả dĩ có thể thực hiện thắng lợi công cuộc kháng chiến chống xâm
lược Pháp, Mỹ và công cuộc tái thiết xây dựng đất nước. Đó đồng thời cũng là quá
trình hình thành, hoàn thiện nên tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
2. Nội dung tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
Một là, tư tưởng giữ vững đường lối ngoại giao độc lập tự chủ.
Độc lập, tự chủ là tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh.
Độc lập, tự chủ là dựa vào sức mình là chính, định ra những chủ trương, chính
sách, biện pháp nhằm giải quyết công việc của đất nước, không chịu bất cứ một sức
ép nào từ bên ngoài.
Mức độ độc lập tự chủ trong ngoại giao phụ thuộc vào thực lực chính trị,
kinh tế, quân sự… của đất nước và phụ thuộc vào cả trình độ tư duy, kinh nghiệm,
phương pháp, khả năng ứng xử… của Đảng và lãnh tụ trong hoạt động và chỉ đạo
ngoại giao song quan trọng nhất là thực lực. Hồ Chí Minh nói “Nếu tự mình không
có thực lực làm cơ sở thì không thể nói gì đến ngoại giao”
1
.
Điều này đặc biệt được thể hiện rất rõ trong bối cảnh giữa những năm 60,
mâu thuẫn Trung – Xô ngày càng sâu sắc, cả hai nước lớn đều yêu cầu ta phải tỏ
thái độ “nhất biên đảo”, trong khi công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và sự
nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam phụ thuộc vào sự viện trợ quân sự, kinh tế
rất lớn của cả hai nước. Mặt khác, Mỹ lợi dụng tình hình đó để chơi con bài Trung
Quốc chống Liên Xô và phe XHCN, đặc biệt Mỹ luôn đưa ra các điều kiện “đánh
đổi” để ép Việt Nam. Trong điều kiện đó, làm thế nào để giữ được đường lối ngoại
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000, tập 3, tr. 459
7
giao độc lập tự chủ là vấn đề vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, với kinh nghiệm, trí tuệ
và sự khôn khéo trong đường lối và hoạt động ngoại giao, Hồ Chí Minh đã lãnh
đạo Đảng và Nhà nước ta vượt qua những thử thách, giữ vững đường lối ngoại giao
độc lập, tự chủ, duy trì hài hòa mối quan hệ với cả Liên Xô và Trung Quốc trong
khi hai nước có bất đồng sâu sắc. Người còn nhiều lần vận động hai nước Xô –
Trung hãy gạt bỏ mâu thuẫn để tăng cường sức mạnh chống chủ nghĩa đế quốc,
đồng thời cũng tỏ rõ ý thức tự chủ về lập trường, quan điểm và đường lối đối ngoại
của Việt Nam là không chịu bất cứ sức ép nào từ bên ngoài. Qua việc xử lý mối
quan hệ Việt – Trung – Xô, những giải pháp tháo gỡ bất đồng giữa Việt Nam và
các nước lớn, chúng ta thấy ở Hồ Chí Minh có sự hội tụ đầy đủ giữa kinh nghiệm,
tài năng, bản lĩnh và uy tín của một nhà ngoại giao lỗi lạc. Đó là thành công lớn về
mặt ngoại giao của Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh.
Có thể nói, xuất phát từ sự chỉ đạo mềm dẻo nhưng kiên định của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về đường lối ngoại giao độc lập tự chủ, mà vấn đề quốc tế hóa cuộc
chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam không thực hiện được, mưu đồ lôi kéo Liên hợp
quốc can thiệp vào Việt Nam của Mỹ bị thất bại. Chúng ta đã hoàn toàn chủ động
khống chế phạm vi cuộc chiến tranh, chủ động đánh và đàm với Mỹ.
Ta cũng cần chú ý, tư tưởng độc lập tự chủ của Hồ Chí Minh trong quan
điểm ngoại giao không phải là tự cô lập, mà Người thường xuyên chỉ đạo phải gắn
liền độc lập tự chủ với đoàn kết quốc tế. Vấn đề là dù trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng không để sứ mạng của dân tộc bị lệ thuộc vào một nước khác, cho dù đó là
những nước đồng minh. Nắm vững nguyên tắc độc lập tự chủ, theo Hồ Chí Minh,
cũng không có nghĩa là thực hiện đường lối máy móc, cứng nhắc mà phải “biết
cương, biết nhu”, giải quyết bất đồng thông qua đàm phán để đi đến thống nhất.
Hai là, kết hợp dân tộc với quốc tế, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tinh thần độc lập tự chủ “đem sức ta mà giải
phóng cho ta”, tự lực cánh sinh dựa vào sức mình là chính, coi sức mạnh bên trong
bao giờ cũng là yếu tố quyết định. Đồng thời, Người cũng khẳng định: cách mạng

8
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, muốn giành được thắng lợi, cách
mạng Việt Nam phải tranh thủ được sự ủng hộ giúp đỡ của cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò quyết định của sức mạnh dân tộc. Đó là sự
tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, truyền thống và hiện đại, là sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, sức mạnh của dân tộc ta
được phát huy ở mức cao, nhờ đó đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử
thách hiểm nghèo.
Mặt khác, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế cho dân tộc mình, Hồ Chí Minh đồng
thời cũng nhắc nhở phải hoàn thành tốt nghĩa vụ quốc tế, coi “giúp bạn là tự giúp
mình”, nhất là với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia. Hồ Chí Minh là người
Việt Nam đầu tiên phá thế đơn độc của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân
dân Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng
và nhà nước Việt Nam. Về chính trị đối ngoại, Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng
quan hệ quốc tế với phương châm “làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều
bạn đồng minh hơn hết”. Để tập hợp lực lượng quốc tế, phải căn cứ vào mục tiêu
cách mạng của từng thời kỳ. Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng chủ
trương “Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”. Sau
khi ta giành được chính quyền và tiến hành kháng chiến kiến quốc, Đảng xác định:
“Mục đích của ta lúc này là tự do, độc lập… bạn của ta trong giai đoạn này là tất
cả những nước nào, những dân tộc hay lực lượng nào trên thế giới tán thành mục
đích ấy, cùng ta chung một ý chí ấy”
2
.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao sự đoàn kết giữa các lực lượng tiến bộ trên
thế giới: “đoàn kết chặt chẽ với nhau thành một mặt trận thống nhất mạnh mẽ” tạo
thành sức mạnh để thực hiện các mục tiêu cách mạng của thời đại. Người nói: “có
sức mạnh cả nước một lòng đó lại có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ
có một sức mạnh thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng”
3

.
2
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, t.8 , tr. 437
3
Dẫn theo Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2008, tr. 127
9
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy sự nhất trí giữa lợi ích dân tộc với quốc tế,
đó chính là sự hội tụ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh toàn
diện cho Việt Nam. Ngay sau khi giành được chính quyền, năm 1946, Hồ Chí Minh
đã tính tới việc tranh thủ hợp tác kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài bằng chính sách
mở cửa và hợp tác, kể cả của Pháp, để xây dựng đất nước, từ đó tranh thủ sự ủng hộ
bên ngoài đối với nền độc lập của Việt Nam. Thực tế, trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã ra sức vận động để hình thành một Mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam nhằm khắc phục hạn chế về tiềm lực kinh tế,
quân sự và cô lập kẻ thù ở khắp mọi nơi, hạn chế sức mạnh chiến tranh của Mỹ ở
chính nước Mỹ. Ngay những người cầm đầu Chính phủ Mỹ cũng phải thừa nhận,
cùng với chiến tranh Việt Nam, có một cuộc chiến tranh ngay trong lòng nước Mỹ.
Phong trào phản kháng cuộc chiến tranh cuả Mỹ ở Việt Nam đã thu hút đông đảo
chính giới và các tầng lớp nhân dân Mỹ tham gia. Đã có hơn năm ngàn giáo sư đại
học và nhiều nghị sĩ quốc hội ký vào bản kiến nghị đòi chấm dứt chiến tranh. Phong
trào xuống đường của sinh viên, phong trào xé thẻ quân dịch của thanh niên, phong
trào ủng hộ hòa bình Việt Nam của các bà mẹ Mỹ, những cuộc tự thiêu phản đối
chiến tranh của những người Mỹ yêu tự do… Điều đó đã tạo nên sức ép to lớn, cùng
với những thất bại về quân sự, buộc Nhà Trắng phải từng bước xuống thang chiến
tranh, ngồi vào bàn đàm phán hòa bình. Việc kết hợp các lực lượng đối ngoại đã phát
huy được sức mạnh tổng hợp, làm cho chính nghĩa của dân tộc ta càng thêm tỏa
sáng, tiếp thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta.
Ba là, phát huy truyền thống hòa hiếu dân tộc, giương cao ngọn cờ độc
lập và hòa bình, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ.
Do vị trí địa lý, ở bên cạnh một nước lớn, có tư tưởng bành trướng, bá quyền

nên chính sách ngoại giao nhất quán của cha ông ta trở thành truyền thống, đó là
chính sách ngoại giao hòa hiếu, khôn khéo: vừa đánh, vừa đàm.
10
Phát huy truyền thống ngoại giao của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhiều lần tuyên bố “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức
là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”
4
.
Đầu năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Chúng tôi muốn hòa bình ngay
để máu người Pháp và Việt ngừng chảy. Những dòng máu đó chúng tôi đều quý
như nhau”
5
.
Năm 1949, trả lời một nhà báo Mỹ hỏi sau khi đã độc lập, Việt Nam sẽ hoan
nghênh tư bản ngoại quốc không? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời: “Bất kỳ nước
nào (gồm cả nước Pháp) thật thà muốn đem tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với
mục đích làm lợi cả hai bên, thì Việt Nam sẽ rất hoan nghênh”, còn nếu “mong đưa
tư bản đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam, thì Việt Nam sẽ kiên quyết cự tuyệt”
6
.
Nhìn chung, bản chất của nền ngoại giao của nước Việt Nam là hòa bình. Nỗ
lực phấn đấu cho hòa bình ở Việt Nam, ngăn chặn chiến tranh xảy ra là bản chất và
tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh. Bản thông cáo đầu tiên về chính sách đối
ngoại của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3 – 10 – 1945, đề ra mục
tiêu tham gia giữ gìn hòa bình thế giới: “đối với các nước Đồng minh, Việt Nam
mong muốn duy trì hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương
trợ, để xây dựng nền hòa bình thế giới lâu dài”. Người cũng tận dụng mọi cơ hội
có thể để giữ nền hòa bình cho Việt Nam. Ngay trong bối cảnh tháng 12 – 1946,
Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư, kêu gọi bằng mọi phương tiện để xây dựng tình
hữu nghị với chính phủ Pháp. Năm 1947, trong Thư gửi Chính phủ, Quốc hội và

nhân dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “nhân dân Việt
Nam chỉ muốn có hòa bình, một nền hòa bình thực sự, để kiến thiết quốc gia với sự
cộng tác của những người bạn Pháp chân chính”
7
. Những quan điểm đó của Hồ
Chí Minh đã đặt nền móng cho tư tưởng đa phương hóa, đa dạng hóa công tác đối
ngoại của Đảng và nhà nước ta hiện nay.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000 , tập 5, tr. 30
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000 , tập 5, tr. 19
6
Tạp chí Quan hệ quốc tế, số 5 – 1991, tr. 46
7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000 , tập 5, tr. 11
11
Bốn là, phối hợp ngoại giao với chính trị, quân sự thông qua hoạt động
quốc tế của Đảng, ngoại giao của nhà nước và ngoại giao nhân dân, tạo nên từ
sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định kết hợp chặt chẽ ngoại giao với chính trị, quân
sự, coi ngoại giao là một mặt trận. Đảng ta xác định “Sau vấn đề phòng thủ, ngoại
giao là một vấn đề cần yếu cho một nước độc lập”
8
. Năm 1944, khi lực lượng ta
còn yếu, Người đã nói “Nếu mình chưa có lực lượng làm cơ sở thì hãy khoan nói
đến ngoại giao”
9
.
Đường lối đối ngoại luôn xuất phát từ đường lối chính trị, phục tùng và phục vụ
đường lối chính trị. Sức mạnh ngoại giao cũng tùy thuộc vào nội lực quốc gia “Thực

lực là cái chiêng mà ngoại giao như là cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn”
10
.
Ngoại giao liên hệ chặt chẽ với quân sự. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13
(1 - 1967) ra Nghị quyết về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao đã phân tích “Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hiện nay, đấu tranh quân sự và đấu tranh
chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường,
làm cơ sở thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành trên bàn
hội nghị cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường, mà trong tình hình quốc
tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao
giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”.
Dưới sự chỉ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh và nghị quyết của Đảng, trong
kháng chiến chống Mỹ, ta đã thực hiện phối hợp đấu tranh có hiệu quả trên ba mặt
trận: quân sự, chính trị, ngoại giao; đã huy động được sức mạnh của ngoại giao nhà
nước với ngoại giao nhân dân và hoạt động quốc tế của Đảng để giành thắng lợi.
Ngoại giao nhân dân được triển khai ngay từ cuộc kháng chiến lần thứ nhất,
nhưng đạt tới đỉnh cao trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, là một bước phát triển
mới độc đáo và sáng tạo của ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
8
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.8, tr. 290
9
Dẫn theo, Chủ tịch Hồ Chí Minh – Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb. Sự thật, H. 1987, tr. 115
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000 , tập 4, tr. 126
12
Ngoại giao nhân dân là lực lượng, binh chủng quan trọng của mặt trận ngoại giao.
Đó là công việc của nhiều ngành, nhiều cấp “Ta có hai mặt công tác quan trọng là
nội chính và ngoại giao… Đây không phải chỉ là các đại sứ quán, tổng lãnh sự
quán là những cơ quan chuyên môn phụ trách, mà còn các tổ chức khác như ngoại
thương, văn hóa, thanh niên, phụ nữ, công đoàn cũng đều làm ngoại giao cả”

11
. Tư
tưởng ngoại giao nhân dân được hình thành từng bước. Năm 1948, ta giành thắng
lợi quân sự trên các chiến trường, nhưng về ngoại giao, thế giới chưa biết nhiều về
cuộc chiến đấu của ta. Bác Hồ đã chỉ đạo tổ chức một đoàn cán bộ (gồm 10 người)
ra nước ngoài tuyên truyền về cuộc kháng chiến, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân
thế giới. Đây là đoàn công tác ngoại giao nhân dân đầu tiên của nước ta cử ra nước
ngoài. Đến Đại hội lần thứ II, Đảng cộng sản Đông Dương, năm 1951, lần đầu tiên
đưa ra khái niệm “ngoại giao nhân dân”, nêu lên nhiệm vụ phát triển ngoại giao
nhân dân rộng rãi. Vì vậy, ngoại giao Hồ Chí Minh là ngoại giao mang tính nhân
dân sâu sắc.
Năm là, kiên định về mục tiêu, linh hoạt về sách lược, luôn luôn giữ thế
tiến công nhưng biết nhân nhượng, thỏa hiệp đúng lúc, đúng nguyên tắc để
giành thắng lợi từng bước, đi tới thắng lợi hoàn toàn.
Mục tiêu nhất quán của Hồ Chí Minh là “phấn đấu xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần vào sự nghiệp
cách mạng thế giới”.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của cách mạng, căn cứ vào tương quan
lực lượng và tình hình quốc tế, mục tiêu chung đó thường được cụ thể hóa thành
mục tiêu từng bước và có sự điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp với diễn biến của
tình hình, điều quan trọng là mục tiêu từng bước phải tạo cơ sở vững chắc để tiến
đến mục tiêu cuối cùng. Đó là mục tiêu độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng là nhà ngoại giao biết thương lượng, nhân
nhượng, thỏa hiệp đúng lúc, theo tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Vì vậy,
11
Dẫn theo Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2008, tr. 168
13
Người thường nhắc nhở cán bộ ta: trong đấu tranh ngoại giao phải kiên trì, chớ nôn
nóng. Kẻ thù dù thất bại, buộc phải xuống thang, nhưng vì thể diện, nó cũng chỉ
xuống thang dần dần. Ta cũng phải biết thắng từng bước.

Sáu là, xử lý đúng đắn, linh hoạt, mềm dẻo quan hệ với các nước lớn, ưu
tiên mối quan hệ láng giềng và khu vực.
Trong quan hệ quốc tế, các siêu cường thường giữ vai trò chi phối đối với
chính sách các nước yếu hơn. Xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn giữ
một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta. Nguyên
tắc cơ bản là: nắm vững lợi ích dân tộc, giữ vững độc lập tự chủ, không chịu sức
ép, tác động của bất cứ nước nào.
Trong giai đoạn 1945 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra các
đối sách kịp thời, ứng phó mau lẹ và hiệu quả với lực lượng của năm nước lớn và
bốn đạo quân nước ngoài trên 30 vạn người có mặt ở Việt Nam. Nhờ vậy, đã bảo
vệ được thành quả cách mạng, giữ vững chính quyền nhân dân non trẻ, phát triển
được tiềm lực đất nước. Năm 1954, tại Hội nghị Giơnevơ, các nước lớn tìm cách áp
đặt giải pháp bất lợi cho nhân dân ba nước Đông Dương. Trong kháng chiến chống
Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc từ mâu thuẫn đi đến đối địch. Cả hai bên đều giúp đỡ
ta và đều muốn lợi dụng ta để hòa hoãn với Mỹ. Mỹ cũng khai thác mâu thuẫn Xô
– Trung để ép ta, đòi thương lượng với ta trên thế mạnh. Dưới sự chỉ đạo của tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, ta đã xử lý khéo léo, đúng đắn mối quan hệ với cả
ba nước lớn. Kết quả là vẫn giữ được đoàn kết, vẫn tranh thủ được viện trợ to lớn
của Liên Xô và Trung quốc cho Việt Nam, vẫn buộc Mỹ phải xuống thang, ngồi
vào bàn thương lượng không điều kiện với ta, để đi tới chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Việt Nam.
Trong quan hệ với các nước lớn, Hồ Chí Minh hết sức tránh đối đầu chừng
nào còn có thể tránh được, tìm ra điểm tương đồng giữa ta với họ, cũng như hiểu
quan hệ giữa họ với nhau, không để Việt Nam “bị kẹp” trong xung đột nước lớn,
tranh thủ các nước lớn nào có thể tranh thủ được, hết sức tránh gây căng thẳng, đối
14
đầu và thực hiện phương châm “không gây thù oán với một ai”. Hồ Chí Minh luôn
am hiểu các nước lớn là đồng minh, cũng như nước lớn là đối phương, biết được
chiến lược cơ bản của họ, hiểu bản chất nền chính trị, ngoại giao nước lớn. Đồng
thời, tạo dựng được mối quan hệ thỏa đáng; giải quyết quan hệ trước mắt, lâu dài

và luôn đặt quan hệ này trong tổng thể các mối quan hệ khu vực, toàn cầu, không
ngừng mở rộng tập hợp lực lượng quốc tế. Hồ Chí Minh không bỏ lỡ cơ hội nào để
hòa giải với nước Pháp. Ngay sau khi hòa bình lập lại, năm 1954, đứng trước khả
năng phải đương đầu với đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm
triển khai quan hệ đối ngoại trên nhiều hướng. Người luôn tìm kiếm cơ hội hòa
bình với nước Mỹ. Người nêu chủ trương “trải thảm đỏ” hay “nhịp cầu vàng” để
quân đội Mỹ rút về nước. Nhìn chung, chính sách của ta với các nước lớn phải dựa
trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, vừa hợp tác vừa đấu tranh và bảo đảm lợi ích
chính đáng của dân tộc.
Giữ cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
giành ưu tiên cho mối liên hệ với các nước láng giềng gần gũi trong khu vực, trước
hết là Lào và Campuchia cùng chiến đấu chống kẻ thù chung.
Quan hệ với các nước láng giềng luôn có tầm quan trọng đặc biệt đối với
nước ta, vì trước hết phải xây đắp và củng cố mối quan hệ hòa bình, hữu nghị với
các nước láng giềng có chung biên giới. Đó là cơ sở để mở rộng bang giao với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Với nước láng giềng Trung Quốc, vốn có quan hệ lịch sử lâu đời với Việt
Nam, bằng những hoạt động liên tục, không mệt mỏi suốt nửa thế kỷ, Người đã rất
quan tâm phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc, xây đắp nên mối
quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Người từng nói: “Trung Quốc là một
nước vĩ đại, hùng cường và đẹp đẽ. Nền văn hóa lâu đời và ưu tú của Trung Quốc
đã có ảnh hưởng sâu xa ở Châu Á và trên thế giới”
12
. Trong thời kỳ hoạt động ở hải
ngoại, Nguyễn Ái Quốc quan tâm sâu sắc và ủng hộ nhiệt thành sự nghiệp cách
12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000 , tập 8, tr. 2
15
mạng của nhân dân Trung quốc. Người thường xuyên thăm viếng Trung Quốc từ
năm 1950 đến khi qua đời, am hiểu sâu sắc văn hóa Trung Quốc, kết nối thân tình

với nhân dân và lãnh đạo Trung Quốc, khéo xử lý quan hệ Việt – Trung trong sự
tương tác với các nước lớn khác, đồng minh hay đối phương của Việt Nam.
Người cũng hết sức coi trọng thiết lập mối quan hệ láng giềng với các nước
trong khu vực có chế độ chính trị khác nhau như Ấn Độ, Miến Điện, Inđônêxia…
Tóm lại, thiên tài ngoại giao Hồ Chí Minh là ở chỗ: trong những mối quan hệ
chồng chéo, phức tạp của bối cảnh quốc tế lúc đó, với tài ứng xử bình tĩnh, khôn
khéo, với đức độ chân thành, thiện chí toát ra từ cuộc đời trong sáng, giản dị, với sự
cảm hóa kỳ diệu, Hồ Chí Minh đã có thể vượt qua mọi trở ngại, khó khăn để thuyết
phục kẻ thù và chinh phục trái tim bạn bè bằng thái độ và tấm lòng nhân hậu vô biên.
3. Giá trị lịch sử và thời đại
Tên tuổi và tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với thời đại mới đầy biến cố của
lịch sử thế giới và Việt Nam, gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
cách mạng XHCN trên phạm vi thế giới. Trải qua hơn 60 năm của thực tiễn đấu
tranh trên trường quốc tế, cũng như lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
công cuộc kháng chiến kiến quốc ở nước ta, Người đã đúc kết nhiều nguyên lý,
quan điểm về ngoại giao có giá trị lịch sử to lớn. Nó góp phần làm nên thắng lợi
của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược. Tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh cũng là những nguyên lý soi sáng cho con đường cách mạng Việt
Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn có ý nghĩa to lớn
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới đầy biến động, trật tự thế
giới cũ đã thay đổi, tình hình thế giới đang chuyển biến phức tạp, chứa đựng nhiều
yếu tố bất trắc và thay đổi khôn lường. Bên cạnh những xu thế hòa bình thì ít có khả
năng xảy ra chiến tranh thế giới. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, dân
tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, khủng bố… còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất
16
phức tạp ngày càng tăng. Cuộc chạy đua về khoa học kỹ thuật vừa là động lực, vừa
là thách thức đối với các nước. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và tiểu vùng
Đông Nam á là nơi có sự đan xen về lợi ích và mâu thuẫn giữa các cường quốc trong
khu vực và thế giới, đặc biệt là về chủ quyền lãnh thổ và an ninh biển Đông.

Nhiệm vụ cách mạng của Việt Nam vẫn là tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc
tế là những yêu cầu đặt ra đối với tất cả các ngành, trong đó có đối ngoại, là nội
dung then chốt và cơ bản của chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn tới.
Đối với hoạt động đối ngoại, Đảng và nhà nước ta sớm nhận thức những
chuyển biến mới trong tình hình thế giới và thực hiện quá trình đổi mới tư duy đối
ngoại. Trong tình hình đó, chúng ta cần nắm vững tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh, vận dụng tốt để xác lập một đường lối, chính sách đối ngoại khôn khéo,
mềm dẻo, có khả năng thích ứng với những diễn biến phức tạp có thể xảy ra, theo
tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương thực hiện
đường lối đối ngoại theo nguyên tắc: giữ vững được độc lập, tự chủ, tranh thủ thời
cơ, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ song phương và đa phương, trên
nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng, cùng có lợi. Việt Nam sẵn sàng hợp tác và chủ động chọn đối tác hợp tác,
không phân biệt chế độ chính trị, nhưng chú trọng hợp tác với các nước láng giềng,
khu vực, trong khi hợp tác cần linh hoạt, nhưng phải chú ý giữ vững nguyên tắc: lấy
lợi ích dân tộc làm đầu, tuyệt đối không được có tư tưởng hợp tác với bất cứ giá nào.
Trong quan hệ hợp tác quốc tế, chú trọng quan hệ với những đối tác truyền thống,
thể hiện sự thủy chung trong sáng, hữu nghị trước sau như một của nhân dân ta.
Đường lối, quan điểm ngoại giao đó của Đảng ta thực hiện nhất quán trong
các Nghị quyết 13 của Bộ chính trị (1988), Nghị quyết 6 của Ban chấp hành TW
(1989) và được khẳng định tại Đại hội VII của Đảng, sau đó là Nghị quyết 3 của
TW (khóa 7 năm 1992), Đại hội VIII, IX, X của Đảng… Đại hội XI của Đảng
17
(2011) tiếp tục giữ vững nguyên tắc: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ, chủ động tích cực hội nhập quốc tế”. Đồng thời căn cứ vào tình hình cụ thể,
Đảng ta cũng bổ sung những nội dung mới: nâng cao vị thế của đất nước, vì lợi ích
quốc gia dân tộc; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng

đồng quốc tế, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; cùng các
nước xây dựng Asean thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn
vinh…
Có thể nói, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận và cũng là cơ
sở thực tiễn để Đảng ta xây dựng đường lối đối ngoại cho phù hợp. Hiện nay,
chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh một
cách toàn diện, sâu sắc hơn để vận dụng có hiệu quả hơn.
Trong thực hiện chỉ đạo chiến lược hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay cần thực hiện theo các nguyên tắc:
Một là, kiên định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ
Hiện nay, ở nước ta nguy cơ mất chủ quyền độc lập dân tộc vẫn còn tiềm ẩn
với nhiều hình thức mới. Các nước lớn, đặc biệt là các nước đế quốc không bao giờ
chịu từ bỏ âm mưu xâm lược, chiếm đoạt thị trường. Bài học về đường lối độc lập
tự chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hơn lúc nào phải được nhận thức và soi rọi vào
thực tiễn. Điều quan trọng nhất, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là trong bất kỳ điều
kiện, hoàn cảnh nào cũng phải đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết thảy. Độc lập tự
chủ, tự lực tự cường và phát huy nội lực vẫn là nguyên tắc cơ bản, là nền tảng
không thể thiếu được và liên hệ mật thiết với tranh thủ ngoại lực và hội nhập, hợp
tác quốc tế.
Hai là, giương cao ngọn cờ hòa bình và độc lập dân tộc, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại
18
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, bài học về giương cao ngọn cờ
hòa bình và độc lập dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo
tư tưởng Hồ Chí Minh để tiến hành thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa được thể hiện với những hình thái, nội dung mới.
Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 4 (khóa VIII) của Đảng đã khẳng định
“Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa
và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất

cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Trong xu thế quốc tế hóa hiện nay, cần phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập,
chủ động hợp tác với các nước, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức viện trợ
nhân đạo… nhằm khai thác triệt để tiềm năng về vốn, công nghệ, văn hóa trên
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Vận dụng tư tưởng ngoại
giao Hồ Chí Minh trong hoạt động đối ngoại hiện nay để nhận thức đúng đắn và
đầy đủ tính chất của thời đại, nhận biết những mâu thuẫn cơ bản, chiều hướng diễn
biến của thời cuộc để xác định và xây dựng vị trí phù hợp và có lợi cho mình để
tranh thủ và phát huy được các điều kiện và cơ hội thuận lợi mà tình hình mới đưa
lại, đồng thời hạn chế được những tác động tiêu cực “chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, bảo vệ môi trường”
13
. Trong đó, việc xử lý đúng đắn và hài hòa quan hệ của
Việt Nam với các nước láng giềng và nước lớn vẫn là vấn đề được coi trọng trong
chính sách đối ngoại của Việt Nam. Tiếp tục củng cố và phát triển quan hệ với các
nước bạn bè truyền thống, với các nước trong khu vực ASEAN…
Bài học về “dĩ bất biến, ứng vạn biến”
Theo Hồ Chí Minh “cái bất biến” trong công tác ngoại giao chính là phải
luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ, “cái vạn biến” là đường lối chiến lược, sách
lược ngoại giao trong từng thời kỳ, tùy từng đối tượng quan hệ mà đề ra đối sách
13
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2001, tr.
120
19
ngoại giao cho phù hợp, hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vận dụng linh hoạt
cả “cái bất biến” và “cái vạn biến” trong đường lối chiến lược cách mạng và nghệ
thuật ngoại giao để cuối cùng đạt được mục tiêu đã định, và phải biết tiến, biết lùi,
biết thắng từng bước.

Bài học về tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong công tác ngoại giao
của Đảng ta hiện nay là kiên định con đường tiến lên CNXH, đấu tranh chống diễn
biến hòa bình, thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng
văn minh. Ngoại giao phải góp phần thúc đẩy sự hợp tác kinh tế, khoa học, văn hóa
với tất cả các nước với tất cả các nước. Xác định rõ đâu là đối tác, đối tượng quan
hệ để có chính sách ngoại giao cụ thể, hợp tác với mức độ nhất định, tránh bị thua
thiệt về kinh tế, lai căng về văn hóa, lệ thuộc về chính trị…
Bốn là, thực hiện đường lối ngoại giao hòa bình, hữu nghị với tất cả các
nước, các dân tộc trên thế giới theo nguyên tắc: tôn trọng, bình đẳng và phát triển.
Ngay sau khi nước ta giành độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện
với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”. Đến 1954, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng ra tuyên bố: “Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả các
nước”… Kế thừa bài học ngoại giao đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày nay Đảng
và nhà nước ta tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối ngoại giao hòa bình, hữu nghị
với tất cả các nước, các dân tộc trên thế giới theo nguyên tắc: tôn trọng, bình đẳng
và phát triển.
KẾT LUẬN
Tóm lại, nghiên cứu, học tập tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh có giá trị lịch
sử và thời đại to lớn. Vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay, Đảng và nhà nước ta xác định xây dựng nền ngoại giao Việt Nam trong
thế kỷ XXI phải là nền ngoại giao tương xứng với tầm vóc văn hóa, lịch sử, vị thế
chính trị và kinh tế của đất nước ta, với những đóng góp của dân tộc ta cho sự
nghiệp chung của nhân dân thế giới. Ngoại giao phải đi đầu trong việc đưa đất
20
nước đến với thế giới, đem về cái lợi nhất cho đất nước và đưa đất nước chủ động
tham gia cùng cộng đồng quốc tế giải quyết vấn đề chung của thế giới, góp phần
nâng cao vai trò của đất nước trong mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế và an ninh ở
khu vực và trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb. Sự thật, H. 1987.
2. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, t.8
3. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2001.
4. Đảng cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000, tập 3
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000, tập 5
7. Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc
gia, H. 2002.
8. Tạp chí Quan hệ quốc tế, số 5 – 1991, tr. 46
9. Trần Minh Trưởng: Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ
1954 đến 1969, Nxb. Công an nhân dân, H. 2005.
21

×