Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Ôn tập ngữ văn 11 học kì I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.98 KB, 38 trang )



A, Đề 01: Phân tích đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” (Trích: Thượng kinh kí sự- Lê Hữu Trác)
I, Mở bài
- Giới thiệu những nét chính về tác giả: Lê Hữu Trác là một danh y đồng thời là một nhà văn, nhà thơ. Sự
nghiệp của ông được tập hợp trong công trình “Hải thượng y tông tâm lĩnh”. Tác phẩm gồm 66 quyển, biên
soạn trong 40 năm, vừa mang giá trị y học - là công trình nghiên cứu y học xuất sắc nhất trong thời trung đại
của Việt Nam, vừa mang giá trị văn học sâu sắc.
- Giới thiệu đoạn trích: “ Vào phủ chúa Trinh” là một đoạn trích trong tác phẩm Thương kinh ký sự của
danh y Lê Hữu Trác. Đoạn trích là một bức tranh sinh động về quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ
Chúa, đồng thời thấy được một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng lãn ông Lê Hữu Trác và nghệ
thuật viết kí sự bậc thầy của ông.
II, Thân bài
1, Quang cảnh nơi phủ Chúa:
a, Phủ chúa là một chốn thâm nghiêm, kín cổng cao tường, vô cùng xa hoa, tráng lệ.
- Từ cửa sau để đến được nơi ở của chúa phải qua rất nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối
tiếp nhau”.
- Thiên nhiên: hài hòa, thơ mộng. Trong phủ chúa, khắp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít,
danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.
- Kiến trúc: xinh đẹp, lộng lẫy, tráng lệ…
+ Phủ chúa có điếm “Hậu mã quân túc trực”, một công trình kiến trúc kiểu cách, biểu thị cho chốn tráng lệ,
xa hoa. Điếm được làm bên hồ, có “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ”, với những cái “cột và bao
lơn lượn vòng”.
+ Nhưng không chỉ có vậy, qua “cửa lớn” sau điếm Hậu Mã, đi theo hành lang phía tây, người đọc còn thấy
được hai công trình kiến trúc to lớn và uy nghi khác. Đó là nhà “Đại đường” (hay còn gọi là Quyền bồng)
và Gác tía. Cả nhà “Đại đường” và “Gác tía” đều là những nơi xa hoa, lộng lẫy, “thật là cao và rộng” và ánh
lên ánh sáng hào nhoáng của sơn son thếp vàng.
- Đồ vật: từ mâm vàng, chén bạc, đến những vật như kiệu của vua chúa, đồ nghi trượng, bàn ghế, sập, võng,
cột, hết thảy đều là những thứ nhân gian chưa từng thấy.
- Đồ ăn: toàn những của ngon, vật lạ cũng là “chưa tùng thấy trong nhân gian”.
- Lộng lẫy, xa hoa nhất trong phủ chúa phải kể đến nội cung, nơi ở của cha con thế tử.


+ Nội cung của thế tử là một chốn thâm cung.
+ Đường đi: từ ngoài đi qua năm, sáu lần trướng gấm, tối om, “không thấy cửa ngõ gì cả”.
+ Quang cảnh: “nệm gấm”, “màn là”, “đèn sáp” lấp lánh, “ghế rồng sơn son thếp vàng”, “xung quanh lấp
lánh, hương hoa ngào ngạt”.
- Sự giàu sang của phủ chúa khiến tác giả cũng phải ngỡ ngàng mà thốt lên: “Cả trời Nam sang nhất là đây”.
Vốn sinh trưởng trong một gia đình quan lại
 !"#
- Tất cả những gì thường thấy chỉ xuất hiện trong cung vua thì nay đều hiện diện ở phủ chúa. Trong phủ
chúa, chúa được gọi là thánh thượng, lệnh chúa ban xuống được xem là thánh chỉ, ngọc thể của chúa được
gọi là thánh thể, Mọi đồ nghi trượng, các chức quan đều giống như ở chốn cung đình.
- Muốn đến phủ chúa phải có thánh chỉ, có thẻ mới được vào.
- Phủ chúa có cả một “guồng máy” phục vụ đông đúc, tấp nập (giảng văn)
- Lời nói: kính cẩn, lễ phép và không được phạm vào lệ “kị húy”. (Thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể
yết kiến, hầu mạch Đông cung thế tử, hầu trà, )
- Khám bệnh cho thế tử phải tuân theo một loạt những phép tắc: Bắt đầu là đứng ở xa chờ đợi, tiếp đó khi
được thế tử cho phép trước khi xem bệnh, thầy thuốc phải quỳ lạy bốn lạy. Muốn được ngồi bắt mạch và
xem thân hình bệnh nhân để chẩn đoán thì cần phải được sự cho phép của thế tử. Khi xem bệnh xong, trước
khi đi ra còn phải lạy bốn lạy nữa.
$%&: Với việc chọn lọc được những chi tiết đặc sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ, tác giả đã ghi lại trong
đoạn trích một bức tranh phủ chúa chân thực, có “hồn” và sống động. Đó là một chốn cao sang, uy quyền
tột đỉnh với cuộc sống hưởng lạc xa hoa. Bức tranh phủ chua cũng là bức tranh chân thực về cuộc sống của
giai cấp trống trị VN trong những năm chế độ phong kiến đang suy tàn.
'#()*+," -./Vẻ đẹp của một lương y giỏi, có kiến thức y học uyên thâm, giàu kinh nghiệm,
có lương tâm và y đức cao quý; Vẻ đẹp của một nhân cách thanh cao, khinh thường danh lợi quyền quý,
1
thủy chung với mong ước được bạn bạn cùng thiên nhiên, trọng nếp sống thanh đạm, giản dị nơi quê nhà.
Thể hiện:
01)23%4&"1"54 627"8+#
Thấy rõ cảnh giàu sang, lộng lẫy nơi phủ chúa nhưng tỏ ra dửng dưng trước cuộc sống vương giả ở đây và
không đồng tình với nó: một cuộc sống quá đầy đủ tiện nghi, xa hoa nhưng lại thiếu khí trời và không khí tự

do.
*1)23%4&"1"599:)8,;<#
=Sự khác nhau trong cách chữa bệnh cho thế tử của các vị thầy thuốc khác và quan Chánh đường với LHT.
+ Cách chữa bệnh của các vị thầy thuốc khác và quan Chánh đường là “có bệnh thì trước hết phải đuổi
bệnh. Khi đã đuổi cái tà đi rồi thì hãy bổ, thì mới là các phép đúng đắn nhất”.
+ LHT lí giải căn bệnh của thế tử là do “ở trong chốn màn che, trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên phủ
tạng yếu đi ( ) nguyên khí đã hao mòn, tồn thương quá mức. Đó là căn bệnh có nguồn gốc từ cái xa hoa,
no đủ, hưởng lạc trong phủ chúa. Bệnh từ trong mà phát ra, do nguyên khí bên trong không vững mà âm hỏa
đi càn. Cho nên cách chữa không phải là “công phạt” mà là “không bổ thì không được”.
- Diễn biến tâm trạng:
+ Đưa ra những luận giải hợp lí và có thể chữa trị hiệu quả ngay căn bệnh của thế tử nhưng nếu chữa khỏi
ngay bị danh lợi ràng buộc, không thể “về núi”. Để tránh được chuyện này, ông đã nghĩ đến “phương thuốc
hòa hoãn”, chữa bệnh cầm chừng, vô thưởng vô phạt. Nhưng nếu làm thế thì lại trái với y đức, trái lương
tâm, phụ lòng ông cha. Hai suy nghĩ này giằng co, xung đột nhau. Cuối cùng, lương tâm, phẩm chất trung
thực của người thầy thuốc đã chiến thắng. Tác giả đã gạt sang một bên sở thích cấ nhân để làm tròn trách
nhiệm và lương tâm người thầy thuốc. Khi đã quyết, ông dám nói thẳng và chữa thật căn bệnh của thế tử.
Ông kiên quyết bảo vệ quan điểm của mình dù ý kiến đó không đồng thuận với ý kiến của các lương y và
quan Chánh đường.
 Chân dung một nhân cách trong sạch giữa dòng đục của cuộc sống nơi phủ chúa.
3, Nghệ thuật.
Nghệ thuật viết kí sự chân thực và sắc sảo:
- Quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực.
- Tả cảnh sinh động.
- Đan xen tác phẩm thơ ca tạo cho tác phẩm đậm chất trữ tình.
- Tạo nhiều chi tiết đặc sắc.
Có thể nói tới Lê Hữu Trác, thể kí văn học đích thực ra đời.
III, Kết luận
- Khái quát lại nội dung.
- Mở rộng vấn đề
B, Một số đề văn khác.

II, Đề bài
1, Đề 01:
Từ hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích, anh (chị) có suy nghĩ gì về nhân cách, khí tiết của một số kẻ
sĩ thời phong kiến. Theo anh (chị), nhân cách đó có thể giúp ích được gì cho con người trong cuộc sống hiện
nay khi đất nước tiến lên hiện đại hoá, hội nhập cùng thế giới?
2, Đề 02
Từ hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, anh chị có suy nghĩ gì về người thầy
thuốc hiện nay?
3, Đề 03
Trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, theo anh (chị) chi tiết nào là đặc sắc nhất. Hãy viết lời bình cho chi
tiết này trong một đoạn văn ngắn.
II, Hướng dẫn:
1, Đề 01:
* Nhân cách, khí tiết của một số kẻ sĩ thời phong kiến qua hình tượng nhân vật “tôi” trong đoạn trích.
- Khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do, trọng nếp sống thanh đạm, hoà mình cùng thiên nhiên.
+ Không mảy may dung động trước tiền tài lợi lộc dù cuộc sống giàu sang, hưởng thụ đang nằm trong tầm
tay.
+ Không những thế còn tỏ thái độ khinh thường cảnh giàu sang, quyền quý.
- Là những người có đức độ, lương tâm. Vì người khác sẵn sàng chịu khổ, sẵn sàng hi sinh sở thích của
riêng mình.
2
* Tác động của vẻ đẹp nhân cách ấy đối với con người ngày nay.
- Giúp con người không vì tiền tài, danh vọng mà lãng quên tất cả.
- Có tác dụng tích cực trong việc giáo dục tinh thần “tương thân tương ái” trong xã hội ngày nay.
2, Đề 02:
* Vẻ đẹp của lương y Lê Hữu Trác.
Có tài, có tâm, có y đức.
* Người thầy thuốc trong xã hội hiện nay.
- Những mặt tích cực:
+ Về tài năng

+ Về y đức
- Những mặt tiêu cực.
+ Chạy theo đồng tiền mà lãng quên y đức.
+ Vô tâm, vô cảm,
3, Đề 03
Chi tiết: Thế tử - một đứa bé ốm yếu, bệnh tật – ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc – một cụ già
– quỳ dưới đất lạy bốn lạy, rồi cười và ban một lời khen “Ông này lạy khéo” là một trong những chi tiết đặc
sắc nhất của đoạn trích.
- Nó cho ta thấy quyền uy tối thượng nơi phủ Chúa.
- Biến tất cả những lễ nghi trong phủ chúa thành một trò hề.
>?@AAB
CDE/5%FG8HIJK
ALM
Trong lịch sử văn học Việt Nam, HXH là một hồn thơ độc đáo: nhà thơ nữ viết về phụ nữ, trào phúng
mà đậm chất trữ tình, đậm đà bẳn sắc đân gian, tục mà thanh. Sáng tác của XH gồm cả chữ H và chữ N
được tập hợp trong tập “Lưu hương kí”, ngoài ra có trên dưới 40 bài thơ Nôm nữa cũng được tương truyền
là của bà. Nổi bật lên trong sáng tác của XH là tiếng nói thương cảm của nữ sĩ đối với người phụ nữ, là lời
khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng hạnh phúc của họ trong xã hội xưa. Và trong thế giới nghệ thuật vô
cùng độc đáo ấy, “Tự tình (II)” là bài thơ tiêu biểu nhất. Nằm trong chùm thơ tự tình gồm ba bài, được sáng
tác khi nữ sĩ đã bước vào cuộc đời làm lẽ, bài thơ đã thể hiện tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất trước
duyên phận éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của nhà thơ. Đồng thời, tìm hiểu tác phẩm ta
cũng thấy được tài năng nghệ thuật bậc thầy của nữ sĩ.
AA
E3):
* Câu 01:
Khung cảnh nhân vật trữ tình xuất hiện:
+Thời gian: “đêm khuya”, khoảng thời gian tâm tư con người sâu lắng nhất. Trong cô đơn, đối diện với
chính mình, NVTT cảm nhận được đầy đủ nhất, sâu sắc nhất, thấm thía nhất, cảnh cô đơn, nỗi bất hạnh của
chính bản thân mình.
+Không gian: mênh mông, vắng lặng càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của NVTT.

- Cảm nhận của nhân vật trữ tình: nghe thấy tiếng trống cầm canh từ xa vọng lại văng vẳng nhưng lại dồn
dập, liên hồi. “Trống canh dồn” không chỉ báo hiệu bước đi dồn dập, vội vã, gấp gáp của thời gian mà còn
thể hiện tâm trạng rối bời, buồn bã của nhân vật trữ tình, một con người luôn khao khát tình yêu, hạnh phúc
mà phải chịu cảnh sống cô đơn. Thời gian vật lí đã hòa cùng thời gian tâm lí.
*Câu 02: nỗi đau đớn, xót xa, cay đắng, bẽ bàng của nhà thơ trước tình cảnh và duyên phận của mình.
-Câu thơ có lẽ là độc đáo vào bậc nhất của thơ xưa khi viết về người phụ nữ sử dụng thơ Đường.
-Nói về nhan sắc của mình mà dùng hai từ “hồng nhan”, có lẽ nhân vật trữ tình đã tự ý thức được mình là
một người phụ nữ có tài năng, nhan sắc. Nhưng ý thức được không phải để sung sướng, tự hào mà trái lại,
càng thêm ngậm ngùi cay đắng. Nhờ sự cách kết hợp từ độc đáo của XH, ta thấy được nhan sắc con người
thật mỉa mai, rẻ rúng biết bao. Thật là mỉa mai khi từ “hồng nhan”, từ dùng để chỉ nhan sắc của người phụ
nữ lại được kết hợp với từ “cái”, từ dùng chỉ đồ vật tầm thường. Cụm từ “cái hồng nhan” gợi cho ta một nỗi
đau khi người phụ nữ cùng với nhan sắc của mình đã bị “đồ vật hoá”, coi thường, bị người ta khinh thường,
vứt bỏ. Nhưng đâu chỉ có thế, khi hạ bút đặt một chữ “trơ” trước “cái hồng nhan”, nữ sĩ còn nhân lên gấp
bội nỗi đau đớn, tủi nhục ấy. Bởi “trơ” là lẻ loi, trơ trọi, mà “trơ” cũng là phơi ra, bày ra. Phơi ra, bày ra “cái
hồng nhan”, thật là bẽ bàng, tủi hổ. Câu thơ sử dụng nghệ thuật: đảo ngữ, đặt từ “trơ” lên đầu câu, kết hợp
3
với cách ngắt nhịp độc đáo 1/3/3 hiếm thấy trong thơ Đường, càng khiến nỗi đau thêm thấm thía, bi kịch
thêm cay đắng, xót xa. Phải đau, phải tủi hổ, bẽ bàng đến thế nào mới viết nên được một câu thơ như vậy.
Bốn chữ “Trơ cái hồng nhan” đã nén chặt nỗi đau ghê gớm của người phụ nữ về duyên phận, làm nên cái
nét riêng dường như chỉ có ở XH.
-Nhưng câu thơ không chỉ cho ta thấy nỗi đau mà còn cho ta thấy bản lĩnh XH. Dù duyên phận éo le, dù tâm
trạng có tủi hổ, bẽ bàng nhưng XH vẫn vững vàng, thách thức với nó. Bởi “trơ” không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng
mà còn là thách thức. “Trơ nước non” là trơ ra, thách thức với cả nước non, với một không gian rộng lớn.
Chữ “trơ” trong trường hợp này đồng nghĩa với chữ “trơ” trong bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của Bà
Huyện Thanh Quan.
'#3I: Bi kịch được nhấn mạnh và khắc hoạ sâu hơn làm cho nhân vật trữ tình càng thấm thía
hơn nỗi đau duyên phận.
* Câu 03:
- Trong đêm khuya, sống trong sự cô đơn, trong tâm trạng bẽ bàng, tủi hổ, XH tìm tới rượu với mong muốn
lãng quên hiện thực đau buồn.

- Kết quả: hiện thực đau buồn không những không được lãng quên, mối sầu trong long không những không
được tiêu tan, giải tỏa mà trái lại càng lúc càng trào dâng mạnh mẽ. Bởi say rồi lại tỉnh, hiện thực chỉ được
láng quên trong chốc lát, khi tỉnh lại nỗi đau ấy lại càng thấm thía hơn.
- Cụm từ “Say lại tỉnh”: một lần nữa cho ta thấy tài năng sử dụng và kết hợp từ ngữ của Bà chúa thơ Nôm
(“lại”: quay lại, lặp ,lại) → cum từ được cấu tạo theo lối khép kín, gợi lên cái vòng luẩn quẩn, trở đi trở lại,
bế tắc trong tâm trạng và số phận XH. Nữ sĩ tìm đến hương rượu mong muốn được say để quên đi hiện thực
nhưng càng say lại càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận rõ ràng hơn.
* Câu 04:
- XH tìm tới trăng nhưng trăng cũng không giúp đem lại niềm vui cho nữ sĩ. Thậm chí, còn khiến nhà thơ
thêm buồn khi soi chiếu vào cuộc đời mình.
→ Câu thơ là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Trăng và người đồng nhất. Đối diện với đêm khuya, với
vầng trăng lạnh, nữ sĩ như chìm ngập trong cô đơn của nỗi đau duyên phận. Hai câu thơ đa nói rõ hơn thực
cảnh và cũng là thực tình của XH.
N#3F: ngoại cảnh hòa cùng tâm cảnh. Hình ảnh thiên nhiên cũng chính là hình ảnh con người.
- Thiên nhiên:
+ Rêu là sinh vật nhở bé, hèn mọn, yếu mềm và chỉ có từng đám nhỏ nhưng cũng không chịu mềm yếu mà
nó phải mọc xiên, lại còn “xiên ngang mặt đất”.
+ Đá chỉ có mấy hòn nhưng không cam chịu sự nhỏ bé mà phải vùng lên vén trời “đâm toạc chân mây” để
hờ, để oán.
→ Thiên nhiên: sức sống mạnh mẽ, không cam chịu số phận mà phẫn uất vùng lên phản kháng. Sự phẫn
uất, phản kháng đó của đá, của rêu cũng chính là sự phẫn uất, phản kháng trong tâm trạng con người. Nếu
như đá kia, rêu kia không cam chịu thân phận hèn kém, yếu mềm, vươn lên vạch đất, vạch trời mà oán thì
nữ sĩ cũng đâu cam chịu một duyên phận ngán ngẩm trớ trêu, nữ sĩ cũng mạnh mẽ vươn lên phản kháng lại
số phận để tìm cho mình hạnh phúc.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng động từ mạnh “xiên”, “đâm” kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” thể hiện sự bướng bỉnh, ngang
ngạnh.
+ Đảo ngữ
+ Đối
→ Nhấn mạnh hình ảnh thiên nhiên và tâm trạng con người.

- Thể hiện phong cách và tạo nên nét đặc sắc trong thơ XH:
+ Hai câu thơ cho ta thấy đặc điểm cá tính con người XH: bản lĩnh, mạnh mẽ, không chấp nhận số phận,
hoàn cảnh.
+ Từ ngữ được sử dụng trong hai câu thơ thể hiện rõ nét những nét riêng trong phong cách nghệ thuật của
bà chúa thơ Nôm. “Xiên ngang”, “đâm toạc” là cách dùng từ “rất XH”. Nữ sĩ đặc biệt thành công trong việc
sử dụng các từ làm phụ ngữ “mỏi mắt dòm”, “rơi lõm bõm”, “chín mõ mòm”, “khua lắc cắc”, “vỗ long
bong”, những phụ ngữ này góp phần làm cảnh vật trong thơ XH bao giờ cũng sinh động và căng tràn sức
sống, một sức sống mãnh liệt ngay cả trong những tình huống bi thảm nhất.
4#39;/
4
Như vậy, hai câu luận đã thể hiện sâu sắc bản lĩnh, cá tính của XH. Nhưng dù có gắng gượng vươn lên thì
cuối cùng vẫn là rơi vào bi kịch. Bài thơ khép lại bằng một lời than cho duyên phận của mình của nhân vật
trữ tình trong tâm trạng chán trường, buồn tủi.
* Câu 07:
-Câu thơ bộc lộ rõ tâm trạng chán chường, ngán ngẩm của XH khi ý thức rõ sự trôi chảy của thời gian, đời
người với bao xót xa, nuối tiếc. Trong câu thơ XH đã sử dụng hai từ “xuân” và hai từ “lại” với các tầng ý
nghĩa khác nhau ( ) góp phần quan trọng trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình.
-XH ngán lắm rồi “Xuân đi, xuân lại lại”, ngán lắm rồi sự trở lại của mùa xuân, bởi sự trở lại của mùa xuân
đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Với nhịp điệu đều đều, dàn trải câu thơ là một tiếng thở dài ngao
ngán, một nỗi chua chát khôn nguôi. Hình ảnh “Xuân đi, xuân lại lại” gợi cho người đọc về sự ra đi của biết
bao mùa xuân, tuổi trẻ tàn phai thế mà tình yêu vẫn không đến.
-Cô thiếu nữ XH khao khát tình yêu, náo nức đón chờ tình yêu là thế mà cuối cùng cái nhận được thật là ít
ỏi, chẳng đáng là bao. Chỉ là một mảnh tình (vốn đã nhỏ bé)→ (bị) san sẻ → (trở thành) tí con con (có mà
như không). Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến được sử dụng trong câu thơ có tác dụng nhấn mạnh sự nhỏ bé
dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn, hoàn cảnh càng xót xa hơn. Câu thơ là tiếng thở dài buông xuôi
trước dòng đời của nữ sĩ.
Hai câu thơ được viết ra từ tâm trạng của một con người khi đã mang thân đi làm lẽ nhưng tầm khái quát lại
lớn hơn một hoàn cảnh lấy chồng chung. Nó là nỗi lòng của người phụ nữ xưa khi hạnh phúc với họ là một
chiếc chăn quá hẹp. Họ càng khao khát hạnh phúc thì càng thất vọng, ước mơ càng lớn thì thực tại càng
mỏng manh.

- Nghệ thuật:
+ Thơ Đường luật nhưng mang đậm nét dân tộc, dân gian.
+ Từ ngữ giản dị mà đa nghĩa, giàu sức gợi.
+ Các biện pháp đảo ngữ, đối, được sử dụng thành công
→ in đậm cá tính mà mang phong cách riêng độc đáo của XH.
Bài thơ mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc khi khẳng định quyết tâm vượt lên trên số phận và khao
khát tha thiết, mãnh liệt của người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, tình yêu dù rơi vào hoàn cảnh bi kịch
nhất.
'J5" -+OPQ 4,"8IJ@AABR#
a, Số phận bất hạnh.
- Tuy có chồng mà phải sống trong cảnh cô đơn. Một mình xuất hiện giữa đêm khuya để dãi bày tâm trạng.
- Có nhan sắc nhưng không được trân trọng mà bị khinh thường, mỉa mai , rẻ rúng.
-Hạnh phúc mà họ nhận được quá nhỏ bé, mỏng manh.
b, Là những con người giàu bản lĩnh.
- Vững vàng, thách thức trước duyên phận.
- Phẫn uất, phản kháng trước số phận của mình.
c, Có gắng gượng vươn lên thì cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch.
Bài thơ mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc khi khẳng định quyết tâm vượt lên trên số phận và khao khát tha
thiết, mãnh liệt của người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, tình yêu dù rơi vào hoàn cảnh bi kịch nhất.
STULVT
W;X4Y"3%#
E2Z"
- Bức tranh phong cảnh mùa thu:
+ Mang vẻ đẹp cổ điển của mùa thu ngàn đời.
+ Điển hình cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam.
- Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Khuyến:
+ Tình yêu thiên nhiên tha thiết.
+ Tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kếm phần sâu sắc.
'"[F
- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ.

- Nghệ thuật gieo vần.
\1)[F+G"!]#
CDE/5%FG8H31%^K#
ALM
5
1, Cách 1: giới thiệu từ tác giả rồi thu gọn lại đến bài thơ.
- Giới thiệu Nguyễn Khuyến: là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam thời trung đại. Sáng tác của ông
gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng còn lại khoảng trên 800 bài gồm cả thơ, văn, câu đối, nhưng chủ
yếu là thơ. Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bạn bè; phản ánh cuộc sống
của những con người cực khổ, thuần hậu, chất khác; châm biếm, đả kích bọn thực dân phong kiến, đồng
thời bộc lộ tấm lòng ưu ái với dân, với nước. Và bài thơ “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) được trích từ chùm
thơ viết về mùa thu gồm ba bài: là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất trong thế giới nghệ thuật
phong phú ấy của nhà thơ.
-Được sáng tác sau khi nhà thơ đã cáo quan về ở ẩn, bài thơ đã vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh
điển hình cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết, tâm trạng
thời thế của thi nhân. Đồng thời, qua tác phẩm ta cũng thấy được nghệ thuật tả cảnh, tả tình và khả năng sử
dụng tiếng Việt tài tình của Nguyễn Khuyến.
2, Cách 2:
Không biết tự bao giờ, mùa thu đã trở thành đề tài muôn thuở, gần gũi và quen thuộc của thơ ca. Mùa thu
huyền diệu, mùa thu chan chứa yêu thương đã được thể hiện ở tất cả các góc cạnh khác nhau qua ngòi bút
thi nhân. Có khi mùa thu xuất hiện như một cô gái đáng yêu nhu mì và nhút nhát “Em không nghe mùa thu
– Lá thu rơi xào xạc – Con nai vàng ngo ngác – Đạp trên lá vàng khô”, có khi lại xuất hiện trong tình yêu
rộn rã, vui sướng, vồ vập của nhân vật trữ tình “Đây mùa thu tới, mùa thu tới – Với áo mơ phai dệt lá
vàng”, để rồi khi bước vào thơ Nguyễn Khuyến, bước vào thơ của “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”,
mùa thu kiều diễm, hoa lệ ấy đã trở thành một cô thôn nữ dân dã mà say đắm lòng người. Chỉ bằng một
chùm thơ viết về mùa thu gồm ba bài, Nguyễn Khuyến đã thâu tóm được tất cả những gì là đặc trưng nhất
của vẻ đẹp mùa thu vùng ĐBBB.Và trong chùm thơ thu nức danh ấy, “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) là “tiêu
biểu hơn cả” và “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh VN”. Khám phá thế giới nghệ thuật của bài
thơ, người đọc không chỉ được đắm chìm vào không gian thu rất riêng của vùng ĐBBB mà còn thấy được
tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết, tâm trạng thời thế, thấy được nghệ thuật tả cảnh, tả tình và khả năng

sử dụng tiếng Việt tài tình của thi nhân.
AA3
E\X4+,"5%^4,"31%^%"G()*+_)`_)`8
%a)-.
- Với thi đề, thi liệu: quen thuộc. Đó là vẻ đẹp của thu thủy (nước thu), thu thiên (trời thu). Chúng ta tưởng
chừng gặp lại ý thơ của người xưa “thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”. Đó còn là các thi liệu thu diệp (lá
thu), ngư ông (người câu cá).
- Câu cá mùa thu cũng sử dụng đắc địa bút pháp của thơ cổ điển, lấy cái động để thức dậy cái tĩnh. Phải là
một không gian tĩnh lặng tới mức gần như tuyệt đối mới có thể thấy rõ cái hơi gợn tí của sóng biếc mặt ao
và chút khẽ đưa của là lá vàng. Tĩnh đến độ cả con người và thiên nhiên cùng như giật mình bởi âm thanh
cá đâu đớp động dưới chân bèo.
' Nhưng cảnh trong câu cá mùa thu đâu chỉ có vậy, nhắc đến cảnh thu trong tác phẩm còn là nhắc đến một
mùa thu “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh VN”. Hồn quê xứ sở đã thấm vào hồn thơ để tạo nên
một ấn tượng đặc biệt, giống như ta thấy Huế khi nghe điệu mái nhì, mái đẩy, thấy sông nước Nam Bộ
mênh mông khi nghe câu lí, câu hò. Đọc Câu cá mùa thu, ta thấy ngay trước mắt mình mùa thu nơi ĐBBB
với những nét riêng tiêu biểu mà mùa thu ở những vùng miền khác không có được. Với cách đón nhận cảnh
thu độc đáo: từ gần đến cao xa, rồi từ cao xa trở lại gần, ( ) Nguyễn Khuyến đã tạo nên một bức tranh mùa
thu với những đặc điểm nổi bật nhất của cảnh thu vùng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam.
a, Một bức tranh mùa thu đẹp, trong trẻo, bình dị, quen thuộc, thanh sơ, dịu nhẹ nhưng cũng rất đỗi nên thơ.
- Cảnh vật: ao thu, lá vàng, thuyền câu, ngõ trúc, bầu trời, tầng mây, → những cảnh vật bình dị, gần gũi,
quen thuộc ở làng quê. Cái tài của NK là từ những vật bình dị ấy nhà thơ đã khám phá ra những vẻ đẹp hết
sức nên thơ: cái ao làng bình thường → ao thu nước trong veo (“Ao thu”, sáng tạo rất mới của Nguyễn
Khuyến tạo một cảm giác thơ mộng ngay từ đầu bài thơ, Cảm nhận từ “trong veo”); sóng trong ao → sóng
biếc; lá rụng → lá vàng khẽ đưa trước gió, )
- Màu sắc:
+ Màu sắc chủ đạo làm nền cho bức tranh thu ấy là màu xanh: xanh trong của nước, xanh biếc của sóng,
xanh lục của bèo, xanh rợp của trúc,
+ Và giữa các “điệu xanh” ấy, Nguyễn Khuyến đã điểm xuyết vào một chấm vàng nhỏ của chiếc lá vàng
khẽ bay trước gió và màu trắng của đám mây lơ lửng giữa bầu trời xanh ngắt làm cho bức tranh thu càng
6

thêm đa dạng. Sự hòa phối về màu sắc của bức tranh đã đạt đến sự “thú vị” tạo nên một không gian thu
xanh mang sắc thu quê.
- Đường nét:
Đường nét được miêu tả trong bức tranh thơ cũng là những đường nét rất riêng, mang vẻ đẹp nên thơ của
mùa thu vùng đồng bằng BB. Đó là những đường gợn của làn sóng ao thu, những nét uốn lượn của chiếc lá
vàng rơi, đó cũng là những đường bao thanh mảnh, quanh co của rặng trúc và sự lơ lửng của những đám
mây giữ bầu trời.
\X4+,"5%^bF)[+ "cd"G) !%e#
- Không gian tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng.
+ “Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo”
+ Các chuyển động: sóng hơi gợn, mây lơ lửng, lá khẽ đưa → những chuyển động rất nhẹ, rất khẽ, không đủ
tạo âm thanh.
+ Tiếng cá đớp mồi → càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật.
- Sử dụng nhiều gam màu lạnh với độ xanh trong của nước, độ xanh biếc của sóng, xanh ngắt của trời, →
gợi buồn da diết.
'()*+3%e"fW;@JB/
* Một tâm hồn thanh cao, gắn bó, yêu tha thiết cảnh vật quê hương, đất nước.
Đi câu thực chất chỉ là cái cớ để nhà thơ đón nhận cảnh thu, trời thu vào cõi lòng. Không có tình yêu thiên
nhiên tha thiết làm sao nhà thơ có thể viết được về mùa thu hay như thế?
* Một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc.
- Không gian: tĩnh lặng và đượm buồn → một tâm trạng không yên, một tâm sự đau buồn trước hiện tình
đất nước của nhà thơ.
+ Những gam màu lạnh: cái buồn hắt hiu của cảnh vật, cái lạnh trong tâm trạng con người. (Vậy, cái lạnh
của trời thu, nước thu đã thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính cái lạnh từ cảnh vật?)
+ Khi tìm hiểu bài thơ, có người cho rằng Từ “vèo” trong câu thơ: “lá ” có phần không hợp lý: lá vàng khẽ
đưa trước gió không thể có độ “ vèo” khi bay. thực ra điều đó có vẻ không hợp lý ấy lại rất lô gíc, rất thống
nhất tâm trạng. Nó không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn cho ta thấy tâm trạng thời thế của thi nhân, một tâm
trạng không yên, một tâm sự đau buồn trước hiện tình đất nước: thời thế thay đổi quá nhanh, thoáng chốc
non sông đã lọt vào tay kẻ thù mà mình không làm được gì để giúp nước, giúp đời. (Tâm trạng NK giống
tâm trạng Tản Đà khi ông viết “Vèo trong lá rụng

+ Tiếng cá đớp động dưới chân bèo: là tiếng giật thột trong lòng nhà thơ khi ông ngồi trầm tư trên mảnh ao
làng nghĩ về thời cuộc. Nghe tiếng cá đớp động dưới chân bèo mà tưởng như tiếng non sông đang gọi mình.
N"[F
- Ngôn ngữ: giản dị, trong sáng đến kì lạ, có khả năng diễn đạt những biể hiện rất tinh tế của sự vật, những
uẩn khúc thầm kín, khó giãi bày trong tâm trạng con người.
- Vần “eo”, tử vận, khó làm được sử dụng rất thần tình, diễn tả không gian vắng lặng, thu nhỏ dần, phù hợp
với tâm trạng đầy uẩn khúc của nhà thơ.
- Nghệ thuật lấy động tả tĩnh,
CD'/ “Trong hoàn cảnh đất nước đang bị giặc ngoại xâm, tấm lòng yêu nước phải được thể hiện cụ thể
bằng những hành động chống lại kẻ thù chứ không phải như Nguyễn Khuyến trong “Câu cá mùa thu” đã
không dám đứng lên dùng ngòi bút đánh giặc mà chỉ gửi gắm kín đáo vào cảnh vật. Hành động như vậy chỉ
có thể có ở những kẻ ham sống, sợ chết, không có lòng yêu nước”.
Ý kiến của anh (chị) về nhận xét trên.
\Aghgijg
2Z"Y
EC1"1"G8#
“Bài ca ngất ngưởng” là một tác phẩm kiệt xuất của NCT. Được hoàn thành vào năm Nguyễn Công Trứ cáo
quan về hưu (1848), bài hát nói nổi tiếng này vừa mang tính chất “hồi kí” của một cuộc đời nhiều thăng
trầm, sóng gió nhưng không ít vinh quang, vừa như bức chân dung tự họa về một cá tính mạnh mẽ, một con
người xuất chúng dám lấy cách sống ngang tàng, ngông ngạo, trái khoáy như một phương diện khẳng định
bản ngã, vừa như một tuyên ngôn cho lối sống phóng khoáng, tận hưởng những thú vui ở đời, đối lập giữa
cá nhân (những kẻ có tài) với xã hội tầm thường, cổ lỗ.
'J !"H1aKH"b" M"K4,"8#
17"7"1)27"H"b" M"K#
7
- Là tạo nên những cái khác thường:
+ là thái độ đề cao bản thân, xem mình cao hơn người khác.
+ là thái độ khinh đời ngạo nghễ.
+ cố tình làm những điều khác thường, trái khoáy để thách thức, trêu ngươi, chọc tức những người, những
gì mình ghét.

(Khác thường: thái độ khác thường, việc làm khác thường, lời nói khác thường).
- Là phát huy tận độ tài năng để phò vua, giúp nước, là coi thường được mất, khen chê.
”Ngất ngưởng” là một lối sống, một cách sống, thái độ sống tích cực của kẻ sĩ quân tử, đấng trượng phu
tuy có pha chút phóng túng nhưng về cơ bản vẫn là vì nước, vì dân.
87M  M"J !"#
-Lối sống “ngất ngưởng” của NCT được hình thành, xuất phát từ chính bản thân của cuộc sống nhà thơ
trước cuộc đời. Sống trong cái thời chế độ phong kiến suy tàn, triều thần có nhiều phe cánh, lắm kẻ đó kị,
xúc xiểm, gièm pha thì Nguyễn Công Trứ, một con người vốn rất có ý thức về tài năng của mình lại đầy
nhiệt huyết giúp đời, giúp nước ắt phải tìm cho mình một lẽ sống riêng, một thái độ sống, một quan niệm
sống riêng để chơi ngông với giới quan lại bất tài, vô dụng, để có thể vượt lên trên thói đời đen bạc, đặt
mình lên trên cái môi trường quan lại tầm thường dung tục đang vây bọc lấy ông.
Vì thế, có thể nói rằng tạo cho mình một lối sống riêng, lối sống “ngất ngưởng” khinh đời ngạo nghễ, thực
chất chỉ là phản ứng của một kẻ sĩ quân tử, một đấng trượng phu trước một môi trường tầm thường, dung
tục để thể hiện bản lĩnh cá nhân của mình và có thể phát huy được tận độ tài năng giúp nước, giúp đời.
N\`[H1aKH"b" M"K4,"1+k%#
H"b" M"K&4#@Dl3)mB
*Biểu hiện
- Kiêu hãnh, tự hào về sự có mặt của mình trên cõi thế; tự đề cao vao trò lớn lao của mình trong trời đất:
không có việc gì là không phải phận sự của ta.
- Tự khen mình: “ông Hi Văn tài bộ” một cách tự cao, tự đại, hơn nhiều kẻ khác.
- Nói việc làm quan là tự chui vào lồng (bị giam hãm, mất tự do)  lối nói ngông (nhà nho bám quan
hãnh diện).
- Khoe tài năng hơn người:
- Khoe danh vị xã hội hơn người:
Ngất ngưởng: làm trái với lễ nghĩa khiêm tốn của nhà nho, ngang nhiên khoe tài, khoe trí. Nhưng đó không
phải là thói khoe khoang hợm hĩnh mà chỉ là để khoe cái cốt cách tài tử, phóng túng của mình mà thôi. Và
ẩn chứa đằng sau đó là một cái tôi ý thức về tài năng và danh vị bản thân.
*Vì sao NCT lại cho rằng việc ra làm quan là tự chui vào lồng (vào nơi bị gian hãm,mất tự do) nhưng lại
vẫn ra làm quan.
Làm quan không chỉ là vinh mà còn là nợ.

(Hs cần giải thích để thấy rằng việc NCT ra làm quan không chỉ đơn thuần vì danh vị của bản thân mà quan
trọng hơn là vì dân, vì nước).
H"b" M"K94n,bo#
Thể hiện ở việc làm cố tình làm cho chướng mắt để trọc tức, trêu ngươi.
H"b" M"K9%2 #
* Lối sống hưởng thụ, khác người.
* Quan niệm sống, thái độ sống coi thường sự được mất, khen chê ở đời.
d, Lời tổng kết cả một đời ngất ngưởng.( ba câu cuối)
- Khẳng định mình là một người tài năng, nổi tiếng, hiển hách có thể sánh ngang với Trái Nhạc, Hàn
Tín, những con người tài năng xuất chúng đời Hán, Tống ở TQ
- Khẳng định mình là một bề tôi trung thành, luôn giữ trọn đạo nghĩa vua tôi.
- Khẳng định: “trong triều ” tức khẳng định trong triều không ai như mình, bằng mình. Điều đó làm nổi bật
sự đối lập giữa NCT với đám quan lại đương thời.
pC1"17""b" M""fa"4X#
-Trước hết, lối sống ngất ngưởng phải là lối sống của một con người có tài như Nguyễn Công Trứ. Lối sống
đó đã tạo ra những sự đối lập với lối sống của xã hội pk lúc bấy giờ:
+Một lối sống ngang tàng, ngông ngạo, phóng khoáng, tự do đối lập với xã hội tầm thường, cổ lỗ.
+Một lối sống hưởng thụ, tận hưởng những thú vui ở đời đối lập với xã hội phong kiến nhiều chế định khắt
khe.
+Một lối sống khẳng định cá nhân trong cái xã hội lấy khuôn phép, tôn ti trật tự để xóa nhòa mọi bản sắc.
8
Như vậy, lối sống đó nhằm giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc để được sống tự do, đề cao cá tính và
khẳng định bản ngã con người, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp cho đời một cách sống chủ động, tự tin,
ung dung, thoải mái. Cách sống đó, mới nhìn qua, có vẻ “ngất ngưởng” thái quá, nhưng nếu đặt vào hoàn
cảnh xã hội phong kiến lúc đó và vào con nguời tài hoa – khí phách NCT thì lại thấy hoàn toàn hợp lí và rất
tự nhiên như vốn nó là vậy. Như chính ông đã tự nói về mình một cách đầy bản lĩnh, tự hào:
“Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Đó là một sự ý thức sâu sắc về giá trị cá nhân, một tuyên ngôn khẳng định cá tính. Và như vậy, NCT đã rất
hài lòng, thậm chí còn kiêu hãnh với cái “ngất ngưởng” của mình.
5,Nghệ thuật.

Trong “Bài ca ngất ngưởng” để tạo nên một “cái tôi” ngông ngạo, một lối sống “ngất ngưởng”, con người
cá nhân, tự do Nguyễn Công Trứ đã tìm đến thể hát nói, một thể thơ tự do, phóng khoáng để khẳng định
mình, để tạo nên một “cái tôi”, một lối sống “ngất ngưởng” trong một bức chân dung tự họa bằng thơ độc
đáo, sống động và thú vị.
Tóm lại:
- “Ngất ngưởng” là một phong cách sống có bản lĩnh, có cá tính, trung thực, thẳng thắn, ý thức rất rõ về bản
thân.
- Mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc: giải phóng con người khỏi những ràng buộc để được sống tự do, đề cao cá
tính và khẳng định bản ngã con người.
\C[F+#
Đề 01: Phân tích bài thơ “Bài ca ngất ngưởng”.
Đề 02: Học xong tác phẩm bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, anh (chị) có suy nghĩ gì về cách sống
của nhà thơ? Theo anh (chị) thế hệ trẻ hôm nay có nên sống theo cách sống của Nguyễn Công Trứ? Lí giải
vì sao?
Đề 03: Trong xã hội hiện nay có một số bạn trẻ cố tình tạo cho mình một cách sống khác thường để khẳng
định cái “tôi” cá nhân của mình. Vậy theo anh (chị) họ tạo cho mình một cách sống như vậy có hợp lí
không? Hãy so sánh với cách sống “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ để làm sáng tỏ.
Đề 04: “Dù ở trong thời đại nào thì lối sống của Nguyễn Công Trứ trong bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” cũng
không thể chấp nhận được. Đó thực chất là lối sống lập dị của một kẻ tự cao, tự đại, ngông cuồng”. Ý kiến
của anh (chị).
Đề 05: Lối sống “ngất ngưởng” của NCT với lối sống lập dị của một số người trong xã hội hiện nay.
\AgqCAr\sAU
2Z"Y
A#W11"G1+k%#
“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” (Sa hành đoản ca) được CBQ được sáng tác trong những lần Cao Bá Quát đi
thi hội qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như: Quảng Bình, Quảng Trị. Mược hình ảnh người đi khó
nhọc trên bãi cát, nhà thơ đã thể hiện sự chán ghét con đường mưu cầu danh lợi mà ông buộc phải theo đuổi
và niềm khao khát đổi mới trong hoàn cảnh bế tắc của xã hội nhà Nguyễn trì trệ, bảo thủ lúc bấy giờ.
AAJ !"3GF4PJ#
EJ !"3GF4PJ4,"3)m

* Hình tượng nhân vật trữ tình trong bốn câu đầu là hình ảnh của người lữ khách đi trên bãi cát.
- Bãi cát mà khách đang đi: nối tiếp nhau trải dài tới vô tận. Đó là một không gian mênh mông tới rợn ngợp,
hoang vắng tới vô cùng, không biết đâu là điểm bắt đầu, đâu là điểm kết thúc. Không gian đó mở ra con
đường xa tắp, bất tận, nhiều trắc trở, khó nhọc. Đó là Những bãi cát, cồn cát trải dài bao la của thiên nhiên
miền Trung khắc nghiệt.
- Tình thế:
+ Đi một bước như lùi một bước.
+ Mặt trời đã lặn mà không dừng lại được, vẫn phải tất tả đi.
- Tâm trạng: mệt mỏi, sốt ruột, căng thẳng, buồn nản, cô đơn, lạc lõng, hoang mang. Giọt nước mắt cho ta
thấy rõ tâm trạng bế tắc của người lữ khách.
* Hình ảnh của người lữ khách đi trên bãi cát cũng chính là hình ảnh một con người đi trên con đường đời
mịt mù, chông gai, nhọc nhằn, gập ghềnh, trắc trở trong xã hội phong kiến o bế, trì trệ, tương lai mù mịt
nhưng không dừng lại được mà vẫn phải bước đi, bước đi trong bế tắc và vô vọng.
'J !"3GF4PJ4,"713;+#
9
* Khách, nhân vật trữ tình, lí giải nguyên nhân vì sao mình lại không thể từ bỏ con đường đầymịt mù,
chông gai, nhọc nhằn, gập ghềnh, trắc trở mà mình đang đi.
- Nguyên nhân thứ nhất (câu 5 – 6): vì không những “không học được ông tiên có phép ngủ kĩ” mà còn
trèo non, lội nước mãi.
Nghệ thuật: sử dụng điển tích. Nhắc lại cách hành sử của người xưa trước thói đời đen bạc để khẳng định
cách hành sử của mình. (Người xưa: Hạ Hầu Ấn nhắm mắt ngủ say là “nhắm mắt làm ngơ, mặc kệ sự đời,
mặc thây kẻ thức” để khỏi nhọc lòng trước những thăng trầm, trắc trở, rước họa vào thân; CBQ: không học
được người xưa, học phép tiên để vừa đi vừa ngủ, có nghĩa nhà thơ từ chối lối sống đó một cách cao ngạo.
Ông đối lập với hiện thực nhưng không quy lưng với hiện thực, dù hiện thực đó có đen tối đến mức nào)
NVTT không thể từ bỏ con đường mà mình đang đi vì anh ta không thể bỏ mặc cuộc đời, hơn nữa vì cuộc
đời thêm một lần nữa anh ta khẳng định sẽ tiếp tục dấn thân vào con đường đầy chông gai mà mình đã chọn.
- Nguyên nhân thứ hai (bốn câu tiếp): CBQ nêu lí do mấu chốt: sở dĩ ông không thể từ bỏ được con đường
mình đang đi bởi đó là con đường công danh, con đường duy nhất để lập thân thời phong kiến.
Công danh là lí tưởng lập thân của tư tưởng Nho giáo và đã trở thành lí tưởng lập thân của nam nhi thời
phong kiến. Dã làm thân nam nhi thì phải khẳng định vị thế tồn tại của mình giữa cuộc đời, phải phấn đấu

để có công danh để thi thố tài “kinh bang tế thế”, để thực hiện lí tưởng” tề gia trị quốc bình thiên hạ” giúp
ích cho đời. Đến thời CBQ, lí tưởng này tuy đã lỗi thời và không còn sâu sắc nữa nhưng vẫn là con đường
lập thân duy nhất của đấng nam nhi khi xã hội chưa tìm ra được hướng đi mới tiến bộ hơn. Ta hiểu vì sao
mang trong mình bao nhiêu hoàn bão, CBQ đã không thể thoát khỏi cái vòng danh lợi tầm thường dù nhà
thơ vô cùng chán ghét nó.
* Tâm trạng nhân vật khách khi đi trên con đường đời, con đường công danh.
đau đớn, chán nản, tự trách bản thân vì tự mình hành hạ thân xác của mình theo đuổi công danh, không học
được sự thảnh thơi để xa lánh chốn trần ai.
* Nhận thức của CBQ về công danh và kẻ sĩ đương thời:
-Xưa: công danh là lý tưởng đẹp, là cái đích để những người quân tử hướng tới với mong muốn lập thân,
giúp nước, giúp đời.
-Tới thời CBQ: công danh đã bị biến tướng, trong cái thời đảo điên, nó không còn là lý tưởng đẹp của kẻ sĩ
như xưa kia mà đã trở thành một miếng mồi ngon cho kẻ sĩ đương thời và biến họ thành những kẻ ham danh
lợi. Với loại người này, công danh có một sức cám dỗ ghê gớm, nó cũng là một thứ rượu ngon dễ làm say
lòng người mà ai cũng cố giành giật lấy để mưu cầu lợi ích cá nhân bần tiện của mình. Và khi tìm tới công
danh, đa phần những kẻ đó đều bị nó cám dỗ trở nên mê muội “nguời say vô số, tỉnh bao người”. Cả một xã
hội đang sống giữa cơn mê và quá hiếm người tỉnh để nhận ra sự nguy hại của nó.
Những trăn trở, suy tư về danh lợi, về kẻ sĩ đương thời đã cho ta thấy sự chán ghét con đường mưu cầu
danh lợi tầm thường của nhà thơ trước sự xuống cấp của khoa cử, học thuật thời Nguyễn. Đồng thời làm nổi
bật vẻ đẹp nhân cách của CBQ.
NJ !"3GF4PJ4,"),&8#
* Đi trên con đường cùng. Đồng nghĩa với nó là con đường đời, đường công danh mà NVTT đang đi đã
lên tới đỉnh điểm của sự bế tắc và cùng đường không lối thoát.
* Tâm trạng nhân vật trữ tình:
+ Băn khăn
+ Bi quan
+ Cùng đường, bế tắc (không thể đi tiếp, không thể quay lại), không tìm ra lối thoát.
* Câu kết: Lời thức tỉnh, giục giã bản thân của người đi trên cát phải quyết định dứt khoát, tìm con đường đi
mới cho cuộc đời. Câu thơ thể hiện khao khát thay đổi cuộc sống đương thời, khao khát một sự đổi mới của
nhà thơ.

N"[F#
- Nhân vật trữ tình được khắc họa rõ nét ấn tượng nhờ được đặt vào những hình ảnh thơ vừa mang ý nghĩa
tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Tóm lại: Bài ca ngắn đi trên bãi cát là khúc ca bi phẫn, u buồn khắc hoạ khá thành công hình tượng một con
người cô đơn nhưng kì vĩ trên bước đường gian truân, mờ mịt đi tìm chân lí. Người ra đi vừa quả quyết,
vừa tuyệt vọng, quên mình vì lí tưởng nhưng bế tắc, hoang mang vì không tìm được lối thoát. Điều đó thể
hiện sự phản kháng âm thầm nhưng quyết liệt với hiện thực xã hội phong kiến thời Nguyễn và lời cảnh bào
một sự đổi thay tất yếu trong tương lai.
10
LWt\AH\AgqCAr\sAUK
Trong số những nhà thơ tài năng và có bản lĩnh ở thế kỉ XIX, CBQ được tôn thờ là “thánh Quát”
(Thần Siêu, thánh Quát). Ông là một nhà thơ lớn, thơ văn của ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ
phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng những điều khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi
mới của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Và nổi tiếng nhất trong những vần thơ độc đáo ấy của ông là tác
phẩm “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” (Sa hành đoản ca). Được sáng tác trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội
qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng, bài thơ đã bộc lộ sự chán ghét của nhân vật trữ tình đối với con
đường mưu cầu danh lợi tầm thường và niềm khao khát đổi mới cuộc sống trong hoàn cảnh xã hội nhà
Nguyễn “xuống cấp”, mục nát lúc bấy giờ.
Nổi lên từ đầu bài thơ là hình tượng bãi cát dài nối tiếp tới vô tận với không gian rợn ngợp, hoang
vắng tới vô cùng, không biết đâu là điểm đầu, đâu là điểm kết, mở ra một con đường xa tắp nhiều trắc trở và
khó nhọc. Xuất hiện trên bãi cát mênh mông đó là bóng một con người nhỏ bé đang bước đi từng bước nặng
nề, mệt nhọc. Từng bước chân đi trên cát dường như trở nên vô nghĩa, thời gian đâu có chờ đợi ai bao giờ:
“Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
Trong tình thế ấy, trong hoàn cảnh ấy thật không có gì khó khăn, cực khổ hơn: mặt trời đã lặn, bóng đêm đã
xuất hiện nhưng người lữ khách vẫn bước đi tất tả mà không dừng lại được. Sự khó nhọc, vất vả giữa cồn
cát mênh mông và tâm trạng đau khổ của tác giả như đang bộc lộ hết ra ngoài: nước mắt lã chã rơi. Giọt
nước mắt ấy là sự mệt mỏi, căng thẳng, cô đơn, lạc lõng, hoang mang và buồn nản trong sự bế tắc đến cùng
cực của nhân vật trữ tình. Bãi cát ở đây ngoài ý nghĩa tả thực còn có ý nghĩa tượng trưng cho con đường đời
mịt mờ xa hút đầy chông gai, trắc trở trong xã hội phong kiến o bế, trì trệ mà con người buộc phải dấn thân

vào. Ngay cả con người trong cuộc hành trình này cũng mang tính biểu trưng. Đó là con người đi trên con
đường đời , đi tìm lí tưởng, mục đích đích thực có ý nghĩa cho cuộc đời giữa cuộc đời mịt mờ không xác
định được phương hướng nhưng không dừng lại được mà vẫn phải bước đi, dù phải bước đi trong bế tắc, vô
vọng.
Vì sao đây? Tại sao “anh ta” vẫn phải bước tiếp rên con đường mà biết trước rằng không có đích
đến? Vì “anh ta” không học được phép ngủ của ông tiên. Xưa Hạ Hầu Ấn nhắm mắt ngủ say là “nhắm mắt
làm ngơ, mặc kệ sự đời, mặc thây kẻ thức” để khỏi nhọc lòng trước những thăng trầm, trắc trở, rước họa vào
thân nhưng CBQ thì hoàn toàn khác, nhà thơ đối lập với cuộc đời nhưng không quay lưng với cuộc đời,
không những thế vì cuộc đời thêm một lần nữa anh ta khẳng định sẽ tiếp tục dấn thân vào con đường đầy
chông gai, nhọc nhằn mà mình đã chọn. Tác giả bán rẻ thời gian và tuổi trẻ của mình chỉ để đi tìm cái đích
đến cho con đường mình đang đi, bởi đó là con đường công danh, con đường duy nhất để lập thân thời
phong kiến, con đường duy nhất để đấng nam nhi thể hiện tài “kinh bang tế thế” và lí tưởng “tề gia trị quốc
bình thiên hạ” giúp nước, giúp đời. Thoạt đầu đọc qua, ta tưởng như sáu câu thơ tiếp từ câu “Không học
được ông tiên phép ngủ “ có vẻ rời rạc với bốn câu thơ đầu, nhưng càng đi sâu ta mới thấy được sự liên
kết logic chặt chẽ trong từng ý thơ. Lúc đầu thể hiện tâm sự chán nản của khách, tự giận mình đã phải hành
hạ thân xác để theo đuổi công danh và vế sau là sự lí giải cho những suy nghĩ và hành động ấy.
Xưa nay, công danh là lí tưởng đẹp, là cái đích để các kẻ sĩ đương thời hướng tới với mong muốn
lập thân, giúp nước, giúp đời; nhưng thời CBQ đã hằn sâu vào trong tư tưởng của ông nhận định về sự biến
chất trong xã hội đảo điên vì danh lợi, công danh không còn là lí tưởng đẹp xưa kia nữa mà đã trở thành một
thứ có sức cám dỗ ghê gớm giống như một thứ rượu ngon:
“Đầu gió hơi men thơm quán rượu – Người say vô số, tỉnh bao người?”
Công danh đã biến những người quân tử thành những kẻ ham danh, ham tài, tranh giành, chém giết
nhau để mưu cầu lợi ích cá nhân bần tiện của mình; những con người ấy đã quá mê muội mà không có đủ
nhận thức để thấy được sự nguy hại của nó. Nói đến đây, tâm trạng nhân vật trữ tình càng nặng nề, sâu lắng
hơn, khách đã nhận ra rõ “cái đen”, “cái bẩn” của con đường công danh một khi bị biến tướng nhưng lại
không thể dừng chân được. Vì thế sự đau đớn, chán nản được tăng lên gấp bội lần:
“Bãi cát dài lại bãi cát dài

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!”
Trong những câu thơ trên, cách sử dụng nghệ thuật điệp từ của nhà thơ được phát huy đến cao độ,

nhấn mạnh vào suy nghĩ của người đọc về một bãi cát, một con đường dài không biết đâu là nơi đến. Và
giữa cái không gian bao la, hoang vắng ấy đột ngột xuất hiện một câu hỏi tu từ đầy thắc mắc, lo âu và trăn
11
trở: “Biết tính sao đây?”. Biết tính sao đây khi con đường công danh kia còn mờ mịt, gập ghềnh và chứa
đựng biết bao điều đáng sợ. Biết tính sao đây khi tiến lên là đường cùng và lùi lại cũng là đường cùng:
“Phía bắc muôn đợt”
Hai câu thơ đã diến tả thật đắc địa tình thế, tâm trạng của người lữ khách khi lâm vào tình cảnh bế tắc, cùng
đường, buộc phải chôn chân giữa những cồn cát mênh mông, giữa không gian rợn ngợp, chứa chất muôn
vàn những điều nguy hiểm. Và như thế, cũng có nghĩa, con đường đời, con đường công danh mà người lữ
khách đang đi cũng đã tới bước đường cùng, không lối thoát. Thật đau đớn khi phải cất lên “khúc cùng đồ”
khi trong mình vẫn còn biết bao khát vọng, ước mơ, vẫn còn bao khát khao được đóng góp sức mình để
giúp đời, giúp nước. Đọc những câu thơ này, ta thấu hiểu được những cảm xúc thấm đẫm nước mắt của nhà
thơ và càng căm giận hơn cái xã hội thối nát, bảo thủ đã kìm kẹp nhân tài, không tạo cơ hội cho họ có điều
kiện được giúp nước, giúp đời cho dù họ đã nhận về mình phần thua thiệt. Về cuối bài, mọi cảm giác khó
thở trên gần như tan biến khi nhân vật trữ tình đặt câu hỏi “ Anh còn đứng làm chi trên bãi cát”. Câu hỏi đó
là gì nếu không phải là một lời thúc giục, giục giã bản thân của nhân vật trữ tình. Giục giã bản thân mình
phải dứt khoát đoạn tuyệt với con đường công danh, với con đường cùng, với “cái bẫy” mà mình đang đi
cùng bao nỗi băn khoăn, phiền muộn để tìm ra một con đường đi mới có ý nghĩa hơn với cuộc đời. Lời thúc
giục ấy cũng cho ta thấy niềm khao khát mãnh liệt, cháy bỏng muốn đổi mới cuộc sống của nhà thơ. Đây là
sự khởi đầu mới của một tư tưởng mới đang hình thành trong tâm tưởng của con người giàu lòng yêu nước,
thương dân CBQ. Cái tư tưởng ấy dù lúc này mới chỉ bắt đầu mờ nhoà, chưa rõ nét nhưng theo thời gian nó
đã được CBQ trả lời dứt khoát khi đứng lên chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn chuyên chế sau
này. Đứng dưới lá cờ nghĩa với hai dòng chữ lớn: “Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn – Mục Dã, Minh
Điền hữu Võ Thang” (Ở Bình Dương, Bồ Bản không có những ông vua tốt như Nghiêu Thuấn – Thì ở Mục
Dã, Minh Điền có những người chống lại như Võ Thang), sinh mạng CBQ có thể mất đi, nhưng nhà thơ có
thể mãi kiêu hãnh, tự hào khi đã giải quyết được khối mâu thuẫn lớn đã đè nặng trên cuộc đời mình trong
bao nhiêu năm mò mẫm tìm đường mà chưa tìm ra lối thoát.
“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” (Sa hành đoản ca) được xây dựng với hình tượng thơ độc đáo, mới mẻ,
sáng tạo và đa nghĩa vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc biểu lộ sự chán ghét
của một người trí thức đối với con đường công danh khoa cử của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Nhịp điệu bài

thơ cũng góp phần diễn tả thành công những cảm xúc của nhân vật trữ tình và vào việc thể hiện nội dung,
truyền tải tư tưởng của tác giả.
Ngày nay, đọc “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”, thế hệ trẻ chúng ta càng hiểu thêm và càng tôn kính hơn
tấm lòng yêu nước, yêu dân sắc son của CBQ. Nhìn lại quá khứ, chúng ta lại càng tin hơn vào tương lai của
đất nước khi với mọi người hai từ công danh đã được trả về đúng với ý nghĩa của nó. Dưới ánh sáng của
Đảng, của tư tưởng HCM, những kẻ sĩ, quân tử, những người có đức có tài không còn phải mò mẫm tìm
đường bất cứ lúc nào cũng có thể đem tài đức của mình phục vụ nhân dân, đất nước mà không cần phải băn
khoăn, do dự. Riêng đối với bản thân, học “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” đã cho em hiểu sâu sắc hơn về hai
chữ “công danh”, bài thơ đã giúp em hiểu được làm người phải sống thế nào cho đáng sống. Vì vậy, trong
vườn hoa văn học Việt Nam, với em (và có lẽ với nhiều người), “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”, mãi mãi là
một trong những bông hoa thơ đẹp nhất.
Bài viết của học sinh Nguyễn Thị Vân Anh
lớp 10A3 năm học 2010 -2011.
“Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này
không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những
ranh giới ấy ”
(Mùa lạc, Nguyễn Khải)
Nếu như một ngày nào đó đứng trước bạn là những con người bị dồn tới bước đường cùng hay
những con người có thể nay mai sẽ trở về với cát bụi, hay bất cứ một người nào, bạn hãy đọc cho họ nghe
những lời này. Lúc đó, không chỉ bạn đã làm một việc tốt khi truyền cho họ một ngọn lửa của niềm tin mà
quan trọng hơn là bạn còn tự thắp cho mình một ngọn lửa của tình yêu cuộc sống!
uvAwLxCyTzW{RRCzUL|gUgULuLE}p~#
:)E:
|.LT•wgqAC€•
12
ACa‚G1"5&.%G4["ƒHai đứa trẻ#
E1"5&.%#
-Thạch Lam (1910 - 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn TườngLân,quê gốc ở
Quảng Nam nhưng được sinh ra tại Hà Nội. Thuở nhỏ ông sống ở quê ngoại Cẩm Giàng - Hải Dương, sau
khi học xong bậc thành chung ông sống ở Hà Nội viết văn, làm báo.

-Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một
nhưng cũng là một tên tuổi rất đáng coi trọng. Ông là một trong số ít các nhà văn đương thời khá tự giác về
quan điểm nghệ thuật và điều đáng quý hơn là TL có quan điểm nghệ thuật tiến bộ, lành mạnh. Trong đó,
ông đặc biệt khẳng định chức năng cao quý của văn chương đối với cuộc sống. Trong tiểu luận ,
TL viết  !"#$!"%&'(
$)*+,,-".,/(01,,#2
3(4'$!).5Và ở chỗ khác
ông cũng khẳng định67'*8,9:*;,%&<=>
:0$/'&?@(#'& A5 Điều này lí giải tại sao mặc dù là thành
viên của nhóm Tự lực văn đoàn (một văn đoàn sáng tác theo khuynh hướng văn học lãng mạng do Nhất
Linh, anh trai Thạch Lam, và một số nhà văn khác sáng lập vào năm 1933), song trước sau văn phong
Thạch Lam vẫn chẩy riêng biệt một giòng. Đề tài quen thuộc của nhóm Tự Lực văn đoàn là những cảnh
sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly mang mầu sắc cải lương, là những phản kháng yếu ớt trước sự
trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái lại, đã hướng ngòi
bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện
ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của
tiết đông mưa phùn gió bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng Trong khung cảnh ấy, các
nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số kiếp lầm than - Đó là mẹ Lê, người đàn bà
nghèo khổ, đông con, góa bụa ở phố chợ Đoàn Thôn, là bác Dư phu xe ở phố Hàng Bột, là Thanh, Nga với
bà nội và cây hoàng lan trong một làng quê vùng ngoại ô, là cô Tâm hàng xén với lối đường quê quen thuộc
trong buổi hoàng hôn Tất cả những cảnh, những người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét đơn sơ,
thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực
Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố hiện thực tuy nhân vật không dữ dội như Chí Phèo, lão Hạc
của Nam Cao, hay bị đày đọa như chị Dậu của Ngô Tất Tố Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch
Lam, chính là ở lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân vật Thạch
Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam Đọc văn Thạch Lam
rõ ràng ta thấy yêu con người, quý trọng con người hơn. Và cũng từ đó ta thương cảm, nâng niu, chắt gạn
từng chút tốt đẹp trong mỗi một con người.
-Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởi ở đó tài năng, phong cách
nghệ thuật của nhà văn được bộc lộ một cách trọn vẹn. Ông là nhà truyện ngắn xuất sắc, tài hoa “Nói đến

Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài” (Nguyễn Tuân). Xuất hiện trên văn
đàn, TL là một trong số ít người mở đường cho lối viết “Truyện không có chuyện”, mỗi tác phẩm của ông
không phải được xây dựng bởi nhưng cốt truyện cầu kì, giàu kịch tính mà “truyện” thường được tạo bằng
việc đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ, tinh tế với
sự đan cài của hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình. Bằng một giọng điệu riêng, giọng điệu trữ tình
trong truyện ngắn, mỗi truyện ngắn của TL đều như một bài thơ trữ tình đầy thương xót chứa đựng biết bao
tình cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người.
'4["ƒH)X4(K#
-Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được in trong tập “Nắng trong vườn” (1938) là một trong những truyện ngắn
đặc sắc, rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của TL. Truyện giống như một áng văn xuôi được
dệt bởi những cảm xúc thấm đẫm chất trữ tình. Tác phẩm có cốt truyện rất đơn giản, là kiểu truyện không có
chuyện, không có mâu thuẫn, xung đột gay cấn. Nó giống như một bài thơ trữ tình đầy thương xót và ẩn
hiện kín đáo, lặng lẽ sau mỗi hình ảnh, mỗi dòng chữ là tâm hồn TL đôn hậu, giàu tình yêu thương với mọi
biến thái tinh vi của lòng người và tạo vật mà ông vô cùng trân trọng và yêu mến.
-Bối cảnh của truyện là một phố huyện nghèo tiêu điều, xơ xác với những con người nghèo khổ, bất hạnh
được lấy nguyên mẫu từ phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), là quê ngoại của TL và cũng là nơi nhà văn
sống thời thơ ấu.
-Tóm tắt:
+“ Hai đứa trẻ” là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian
hàng vặt ở một phố huyện gần một cái ga xép. Đêm đêm những bóng người bình thường cũng lù mù đi qua
13
trước gian hàng. Những bóng người ấy cũng lù mù như nhiều chấm lửa ở những nguồn sáng quanh quất nơi
phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và những luồng sáng mạnh của
một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ chuyến tàu đêm kéo qua ra mới chịu
đóng cửa hàng.(Tóm tắt của Nguyễn Tuân).
+ “Hai đứa trẻ” kể về những sinh hoạt thường ngày về một chiều, một đêm nơi phố huyện: Hai đứa trẻ, một
chị một em, theo lời mẹ dặn, trông coi một cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, lời lãi chẳng được bao nhiêu, và ngày
nào cũng ngồi chờ chuyến tàu đêm khởi hành từ Hà Nội đi qua rồi mới đóng cửa hàng đi ngủ. Trong lúc chờ
tàu, hai chị em cô bé ngắm nhìn, lắng nghe quang cảnh, nhịp điệu phố huyện diễn ra trước mắt, từ lúc hoàng
hôn cho đến tận đêm khuya.

-Những nội dung cần chú ý khi học tác phẩm:
+Bức tranh phố huyện nghèo nàn, tiêu điều, xơ xác với những kiếp người tàn tạ, nghèo khổ, sống cuộc sống
lay lắt, bế tắc, quẩn quanh.
+Cảnh đợi tàu của chị em Liên.
+Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
+Sự đan cài giữa hai yếu tố lãng mạn và trữ tình.
+Những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm.
+Hình tượng ánh sáng và bóng tối.
AA12Z"F
b)DE: J%`"G4["ƒHai đứa trẻ&.%#
Thạch Lam (1910-1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi là Nguyễn Tường Lân) là nhà văn có biệt
tài về truyện ngắn. Ông là nhà truyện ngắn xuất sắc, tài hoa “Nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến
truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài” (Nguyễn Tuân). Xuất hiện trên văn đàn, TL là một trong số ít người
mở đường cho lối viết “Truyện không có chuyện”, mỗi tác phẩm của ông không phải được xây dựng bởi
nhưng cốt truyện cầu kì, giàu kịch tính mà “truyện” thường được tạo bằng việc đi sâu vào khai thác thế giới
nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ, tinh tế với sự đan cài của hai yếu tố lãng mạn
và trữ tình. Bằng một giọng điệu riêng, giọng điệu trữ tình trong truyện ngắn mỗi truyện ngắn của TL đều
như một bài thơ trữ tình đầy thương xót chứa đựng biết bao tình cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm
của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người. Và truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được in trong
tập “Nắng trong vườn” (1938) là một trong những truyện ngắn đặc sắc, rất tiêu biểu cho phong cách nghệ
thuật độc đáo ấy của ông. Lấy bối cảnh là một phố huyện nghèo nàn, tiêu điều, xơ xác, Thạch Lam đã thể
hiện tình cảm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ, quẩn quanh và sự cảm thông, trân trọng
trước những mong ước của những con người nghèo khổ ấy về một cuộc sống tươi sáng hơn.
1, Tác phẩm được mở đầu bằng những câu văn chậm dãi, giàu chất thơ, chất nhạc, với những âm
thanh, hình ảnh báo hiệu một ngày tàn. Đó là “Tiếng trống thu không trên cái chòi canh của huyện nhỏ; từng
tiếng một vang xa để gọi buổi chiều”, là vầng mặt trời ở phương tây “đỏ rực như lửa cháy”, là “những ánh
mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” và “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”.
Cảnh phố huyện khi chiều buông xuống thật gần gũi, quen thuộc, êm ả và đẹp mộng mơ. Có lẽ chỉ trong văn
của TL mới có những buổi chiều quê như thế. Đọc tác phẩm, ta làm sao có thể quên được “một buổi chiều
êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, và ngay cả tiếng

muỗi vo ve hay cái mùi riêng, cái mùi ẩm mốc nơi phố huyện cũng gợi cho chúng ta biết bao xao xuyến.
Cảnh phố huyện lúc chiều tàn thật đẹp nhưng nhạt nhoà, tiêu điều, xơ xác và cũng thật buồn. Để làm nổi bật
lên cái nhạt nhoà, tiêu điều, xác xơ ấy, TL đã điểm vào đó “cảnh tàn” của một phiên chợ quê nghèo trước
khi màn đêm buông xuống. Lúc này “chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng
mất”, chỉ còn một số người về muộn đang thu xếp hàng hoá và nói chuyện với nhau thêm ít câu nữa (Chắc
là những lời than thở) rồi khuất dần vào những ngõ quê ngập đầy bóng tối. Họ để lại phía sau một mặt đất
đầy rác rưởi toàn những “vỏ buởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía”, những đồ phế thải thảm hại của một phiên chợ
nghèo. Họ đi khỏi, những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ vội ùa ra để bòn mót, nhưng làm sao chúng có
thể kiếm được gì từ những đồ phế loại tồi tàn ấy. Người này trông vào người kia để sống nhưng tất cả chỉ
trông vào vô vọng! Suốt một ngày chợ phiên mà chị em Liên không bán được gì ngoài vài thứ lặt vặt, nhỏ
mọn. Ngày chợ phiên còn vậy, những ngày thường thì sẽ ra sao?
Theo bước đi của thời gian, những đặc trưng nơi phố huyện càng được thể hiện rõ hơn khi màn đêm
buông xuống. Phố huyện vào đêm thật êm đềm và tĩnh mịch. Chất thơ, chất lãng mạn trong ngòi bút của TL
đã đem đến cho phố huyện những vẻ đẹp thật nên thơ khi chiều xuống, đêm về. Giữa muôn ngàn vì sao lấp
lánh trên bầu trời cao của một đêm mùa hạ “êm như nhung” là những làn gió nhẹ thoảng đùa qua kẽ lá, là
những cánh hoa bàng, từng đợt một, rơi khe khẽ rụng xuống vai Liên, là tâm hồn thơ ngây, mộng mơ của
14
hai đứa trẻ dõi theo bầu trời xa xăm để tìm con vịt và sông Ngân Hà, tất cả những chi tiết ấy, hình ảnh ấy
hiện lên thật đẹp, thật thơ, thật mộng qua tâm hồn giàu tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước của nhà
văn đất Quảng.
Nhưng sẽ còn là mờ nhạt nếu khi nói đến bức tranh u ám của phố huyện mà không kể đến bóng tối
nơi đây. Có thể nói ít có tác phẩm nào trong thế giới nghệ thuật của TL mà hình ảnh bóng tối lại được miêu
tả đậm đặc, trở đi, trở lại như một ám ảnh không dứt như trong truyện ngắn này. Toàn bộ câu chuyện được
đặt trong một cuộc tương tranh giữa bóng tối và ảnh sáng. Mở đầu là “phương tây đỏ rực như lửa cháy” và
“những đám mây ánh hồng như những hòn than sắp tàn”, “Dãy tre làng nền trời”. Ánh sáng vẫn còn
nhưng yếu thế, bóng tối mới xuất hiện nhưng bắt đầu lấn át. Rồi cứ từng bước bóng tối ngập dần, đậm dần,
lan tràn khắp cả phố huyện. Ánh mặt trời đã tắt, ánh sáng giữa màn đêm nơi phố huyện xuất hiện với tần số
khá cao nhưng nhỏ nhoi, yếu ớt. Chúng chỉ là những khe ánh sáng, đốm sáng, vệt sáng, quầng sáng, của
những ngọn đèn, của ngàn sao và của những con đom đóm. Thạch Lam đã dùng ánh sáng để tả bóng tối.
Bóng tối của màn đêm ngự trị và bao trùm toàn phố huyện: đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy

bóng tối, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng
sẫm đen hơn nữa”, Như vậy, hiện lên trong tác phẩm, bóng tối được tác giả miêu tả thật ấn tượng. Nó
không chỉ là đêm tối của thiên nhiên, của không gian và thời gian mà còn là bóng tối của cuộc đời, của
những kiếp người nơi phố huyện. Nó đã trở thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc, đầy ám ảnh làm nổi
bật cái cảnh “đen tối” của mỗi kiếp người, của những cư dân phố huyện. Vậy những con người nghèo khổ
ấy là những ai? Họ được nhà văn miêu tả như thế nào?
2, Trong cái phông của một khung cảnh bóng tối dày đặc những cư dân phố huyện hiện lên là những
mảnh đời của những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện
thoáng qua, chỉ như một cái bóng. Tất cả họ không được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân,
số phận, nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống một cách
âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ lay lắt, tội nghiệp đáng thương.
+Mẹ con chị Tí có lẽ là điển hình cho cuộc sống ngoi ngóp, quẩn quanh, lay lắt của phố huyện này.Ngày mò
cua bắt tép, tối đến lại ra sân ga bày hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì mà vẫn cứ
phải đi. Đó đâu phải là sự sống thực sự mà chỉ là sự cầm cự, cầm chừng trong vô vọng mà thôi. Cách chị
trả lời câu hỏi của Liên: không trực tiếp trả lời ngay mà còn làm thêm để chõng xuống đất, bày biện các bát
uống nước mãi rồi mới chép miệng: “Ối chao, sớm muộn mà có ăn thua gì” đã cho ta thấy nhịp sống chập
chạp, lẩn quẩn của mẹ con chị Tí. Cuộc đời của mẹ con chị thu lại trên cái chõng hàng nước tồi tàn với ngọn
đèn con giữa màn đêm dày đặc, mênh mông của phố huyện.
+Bác phở Siêu lưng vốn có vẻ khá hơn nhưng nguy cơ lại lớn hơn bởi phở của Bác là “một thứ quà xa xỉ”, ở
cái đất nghèo này liệu có mấy người có đủ tiền ăn khi mà ngay cả chị em Liên, đời sống có vẻ khá hơn,
cũng chỉ dám nhìn mà mơ ước?
+Vợ chồng bác xẩm với manh chiếu rách tồi tàn, với cái thau trắng để trước mặt, góp chuyện bằng mấy
tiếng đàn bầu ế ẩm bật lên trong đêm yên lặng. Thằng con nhỏ thì “bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt
những rác bẩn vùi trong cát bên đường”.
+Và trong đám cư dân ấy, dễ sợ nhất là bà cụ Thi, một bà cụ già “hơi điên” lại nghiện rượu với tiếng cười
khanh khách, ghê sợ, với cái dáng hình lảo đảo đi lần vào bóng tối. Cụ là “cái sản phẩm nhỡn tiền của cuộc
sống mòn mỏi ở cái phố huyện này” (Chu Văn Sơn) và mặc dù chỉ xuất hiện trong mấy dòng truyện ít ỏi
nhưng con người ấy đã ám ảnh người đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành.
+Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đời sống buồn thảm, tối tăm ấy là hình bóng của chị em Liên. Hai đứa trẻ
xuất hiện âm thầm bên cái “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu” (mẹ Liên thuê từ khi cả gia đình dọn từ Hà Nội về

đây vì thầy Liên mất việc) mà khách hàng là những người khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổi một bánh
xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp người lay
lắt nhưng cuộc sống của Liên cũng cầm chừng không kém. Nỗi khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗi khổ vật
chất của những người khác, đó là bi kịch tinh thần bởi họ khổ mà không biết mình khổ còn Liên đã thực sự
thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác.
Mỗi người, mỗi cảnh đời, mỗi số phận, nhưng đều là những con người nhỏ bé, tội nghiệp, ai cũng
sống âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ, giống như những cái bóng lầm lũi, lặng lẽ trong cái bóng tối bao trùm và
ngự trị tất cả phố huyện. Họ đang sống nhưng là sống một cuộc sống lê vào bóng tối. Cuộc sống đó không
chỉ có sự nghèo đói, tội nghiệp, đáng thương mà nó còn là một cuộc sống tẻ nhạt, quẩn quanh, không tương
lai, không lối thoát. Cảnh phố huyện chiều tối hôm nay cũng giống như hôm qua và sẽ lặp lại trong ngày
mai, nhịp sống của những người dân nghèo nơi phố huyện này ngày nào cũng như ngày nào lặp đi, lặp lại
một cách đơn điệu, buồn tẻ: chiều nào chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”, tối nào bác Siêu bán
15
phở cũng nhóm lửa, gia đình bác xẩm cũng chờ khách, người nhà cụ thừa, cụ lục cũng đi gọi người đánh tổ
tôm, chị em Liên cũng “ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng” và ngày nào cũng vậy “cứ chập tối,
mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một lần”, Như vậy, “chừng ấy con người trong bóng tối” ngày này qua ngày
khác sống quẩn quanh, tù túng trong cái “ao đời bằng phẳng” (Xuân Diệu). Hình ảnh những con người này
khiến ta nhớ đến cuộc sống đơn điệu, nhạt nhẽo “cơm mai rồi lại cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm”
của cô Quỳnh, cô Giao trong tác phẩm BC& của Xuân Diệu, nhớ đến những câu thơ của Huy Cận
trong tác phẩm D&E%&,: “Quẩn quanh mãi với vài ba dáng điệu, – Tới hay lui cũng ngần ấy mặt người.
– Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười, - Môi nhắc lại cũng ngần ấy chuyện”.
Thật đáng thương cho những con người phải sống một cuộc sống lay lắt, ảm đạm, nơi “bùn lầy,
nước đọng”. Những thân phận, những con người nhỏ bé ấy đang sống lay lắt, nghèo khổ, đang héo mòn nơi
phố huyện tối tăm. Họ đang sống cuộc sống của những kiếp người tàn tạ nhưng không mất đi hi vọng và
niềm tin vào cuộc sống. Trong bóng tối mênh mông, dưới sự bủa vây của cuộc sống, nghèo nàn, không lối
thoát, họ vẫn ước mơ, vẫn mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày”. Dù ước mơ,
mong đợi đó của họ thật mơ hồ, xa xăm, không biết bao giờ mới đến nhưng nó đã khẳng định dù trong hoàn
cảnh nào, con người vẫn không thôi ước mơ về những điều tốt đẹp. Thấy được điều này, chúng ta sẽ hiểu
được vì sao, đêm nào chị em Liên (cùng với nhiều người dân nghèo) cũng cố thức để đợi đoàn tàu đêm đi
qua phố huyện.

3, Chị em Liên đêm nào cũng cố thức để đợi tàu không phải là để bán được hàng vì Liên biết dù khi
đoàn tàu đến thì cũng “không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay bao
thuốc lá là cùng”. Hai chị em cố thức đợi tàu là vì cớ khác, bắt nguồn từ chính cuộc sống hiện tại và những
kí ức đẹp trong quá khứ của chị em Liên. Ngày tháng, quanh năm sống giữa những cảnh đời, những kiếp
người khốn khổ, đầy bóng tối, chị em Liên luôn thấm sâu một nỗi buồn nên chúng luôn khao khát muốn
thoát khỏi cuộc sống tù túng tối tăm ấy và con tàu là phương tiện duy nhất để chúng có thể gửi gắm ước mơ.
Không những thế, đoàn tàu là phương tiện giúp hai chị em được sống lại kí ức của tuổi thơ, kí ức của một
thời phong lưu, gia đình có của ăn của để. Có lẽ chính vì vậy, chuyến tàu được TL tập trung bút lực miêu tả
một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian, qua tâm trạng mong chờ của hai đứa trẻ.
Dấu hiệu đầu tiên của đoàn tàu là sự xuất hiện của người gác ghi. Tiếp theo là Liên trông thấy “ngọn
lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma chơi”, rồi cô nghe thấy tiếng còi xe lửa “kéo dài ra theo ngọn gió”. Sau
đó, “hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”, kèm theo “một là khói bừng sáng trắng
lên đằng xa”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”. Thế rồi, “tàu rầm rộ đi tới”, “các toa đèn sáng trưng”,
“những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh”, Đoàn tàu tới đã đem đến cho
phố huyện một thế giới khác hẳn, thế giới của ánh sáng và âm thanh, một thế giới biểu tượng cho sự sống
mạnh mẽ, sự giàu sang, hoa lệ. Dù chỉ đến trong chốc lát rồi lại vun vút lao vào bóng tối nhưng đoàn tàu ấy
đã giúp chị em Liên (và có thể không ít người dân phố huyện) bỗng chốc được thoát ra khỏi cuộc sống cuộc
sống mỏi mòn, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh của cái phố huyện nghèo để được sống trong mơ tưởng về
một thế giới huyên náo, vui vẻ, đầy ánh sáng và sự giàu sang. Riêng đối với chị em Liên, chuyến tàu đêm
còn gợi nhớ về những kỉ niệm của ngày xưa sung sướng, nhớ về Hà Nội “một vùng sáng rực lấp lánh”, nhớ
lại những ngày bố còn đi làm, mẹ nhiều tiền, được đi chơi bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Và
như vậy, đợi tàu đối với hai đứa trẻ đâu phải là một việc làm vô nghĩa, khác người, nó là biểu hiện của niềm
khao khát được thoát khỏi “chỗ tối” để tìm tới “ánh sáng”, khao khát được thoát khỏi cuộc sống nghèo nàn
để tìm tới sự giàu sang. Nó là món ăn tinh thần không thể thiếu, là nơi để chị em Liên (và nhiều người dân
phố huyện) gửi gắm ước mơ được sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nhưng cuộc thoát li, dù chỉ bằng tưởng tượng cũng chỉ diễn ra trong chốc lát, khi “chiếc đèn xanh treo trên
toà sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”, phố huyện lại trở về với khung cảnh quen thuộc hàng ngày
của nó, bóng tối và sự im lặng lại bao bọc lấy tất cả. Phố huyện chính thức chấm dứt mọi hoạt động khi
đoàn tàu đêm đi qua. Cùng với sự nuối tiếc, nỗi buồn chán lại quay trở lại trong tâm trạng của Liên. Hình
ảnh ngọn đèn leo lét của chị Tí chập chờn trước khi cô ngập chìm vào giấc ngủ “yên tĩnh”, “tịch mịch và

đầy bóng tối”.
Miêu tả cảnh đợi tàu cảu hai đứa trẻ, TL đã thể hiện tấm lòng trân trọng, nâng niu khát vọng vươn ra
ánh sáng, vượt thoát ra khỏi cuộc sống tù túng, quẩn quanh, chật hẹp, không cam chịu cái hiện tại tầm
thường, nhạt nhẽo đang vây quanh mình của hai đứa trẻ và cũng là của những người dân nghèo nơi phố
huyện.
- Gửi gắm bức thông điệp cho tất cả mọi người:
+ Đừng bao giờ để cuộc sống của mình chìm trong cái “ao đời phẳng lặng”. Đã sống là phải sống cho ra
sống, phải không ngừng khao khát và xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa.
16
+ Những con người đang phải chịu một cuộc sống tối tăm, mòn mỏi, nghèo nàn, tù túng hãy tìm cho mình
một lối thoát, hãy cố vươn ra ánh sáng, hướng tới một cuộc sống sáng tươi.
Chỉ bằng một cốt truyện giản đơn miêu tả tâm hồn của hai đứa trẻ trong một cái phố huyện nhỏ khi chiều
xuống, đêm về, TL đã gieo vào lòng người đọc biết bao nỗi niềm cảm thương, dịu ngọt. Đọc Hai đứa trẻ
giúp ta thấy yêu mến thêm cuộc sống, con người, thương mến hơn những cảnh đời bất hạnh. Để kết thúc bài
viết này, tôi xin trích lời của Nguyễn Tuân khi viết về tác phẩm: 7$&#F7G,*,$HA/B
I,5J/4KC&C%&L(M93/'NO$
,555J%&,8,$HO%&'(N&&L$O
/%&8,P.8, 5 7G,*,$HA(Q#?I?B&)CQ
%&''!=&+A5
b)D'/J !"$"G171"#
Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách viết truyện ngắn độc đáo
của TL. Được lấy nguyên mẫu từ phố huyện Cẩm Giàng (là quê ngoại của TL và cũng là nơi nhà văn sống
thời thơ ấu), tác phẩm kể về những sinh hoạt thường ngày về một chiều, một đêm nơi phố huyện: Hai đứa
trẻ, một chị một em, theo lời mẹ dặn, trông coi một cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, lời lãi chẳng được bao nhiêu,
và ngày nào cũng ngồi chờ chuyến tàu đêm khởi hành từ Hà Nội đi qua rồi mới đóng cửa hàng đi ngủ.
Trong lúc chờ tàu, hai chị em cô bé ngắm nhìn, lắng nghe quang cảnh, nhịp điệu phố huyện diễn ra trước
mắt, từ lúc hoàng hôn cho đến tận đêm khuya. Đọc tác phẩm, có lẽ ấn tượng sâu đậm nhất đối với người đọc
là hình ảnh cái bóng đêm bao bọc lấy cái phố huyện nghèo và những kiếp người bất hạnh nơi đây.
Trong cuộc đời cầm bút ngắn ngủi của mình, TL đã để lại cho đời nhiều tác phẩm hay độc đáo như
Sợi tóc, nhà mẹ Lê, nhưng trong các tác phẩm đó, ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả

đậm đặc, trở đi trở lại, như một ám ảnh không dứt trong truyện ngắn này. Với việc được lặp đi, lặp lại
nhiều lần (không dưới ba mươi lần), cái bóng đêm ấy đã trở thành hình tượng bóng tối đầy ấn tượng, hàm
chứa ý nghĩa sâu sắc. Nó bao trùm lên cảnh vật và con người và trở thành một ám ảnh, một sự hăm doạ như
một quái vật đè nặng lên cảnh vật và nhưng cảnh đời nơi phố huyện. Nó được tác giả miêu tả rất nhiều ở
những trạng thái khác nhau: Bóng tối đến với tiếng trống thu không từ trên chòi cao, bóng tối sắp đến với
những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tối đến với dãy tre làng đen lại, bóng tối đến với tiếng
muỗi vo vo, bóng tối đến với những viên đá nhỏ trên con đường mấp mô, bóng tối trùm lên đường phố và
các ngõ huyện… Như vậy, ở đây, bóng tối như một cái gì hãi hùng đang hoạt động, đang thâm nhập, đang
len lỏi, luồn lách, bám sát vào mọi cảnh vật, mọi trạng thái hoạt động của phố huyện nghèo và của những
con người nơi đây. Nó giao tranh mạnh mẽ với ánh sáng (Toàn bộ câu chuyện là cuộc giao tranh giữa bóng
tối và ánh sáng). Tác phẩm mở đầu bằng “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng
như hòn than sắp tàn, dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”, ánh sáng vẫn còn nhưng
yếu thế, bóng tối mới xuất hiện nhưng đã bắt đầu lấn át. Rồi cứ từng bước bóng tối ngập dần, đậm dần, lan
tràn khắp cả phố huyện. Ánh mặt trời đã tắt, ánh sáng giữa màn đêm nơi phố huyện xuất hiện với tần số khá
cao nhưng nhỏ nhoi, yếu ớt. Chúng chỉ là những khe ánh sáng, đốm sáng, vệt sáng, quầng sáng, từ ngọn
đèn của chị tí, từ ngọn đèn trong quán của chị em Liên, từ bếp lửa bác Siêu, từ ngàn sao trên trời và những
con đom đóm, Thạch Lam đã dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối. Bóng tối của màn đêm ngự trị và bao
trùm toàn phố huyện: đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối, “tối hết cả, con đường thăm
thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”, tất cả chìm vào
trong đêm tối mênh mông, dày đặc. Đó đâu phải chỉ là đêm tối của thiên nhiên, của không gian và thời gian
mà còn là bóng tối của cuộc đời, của những kiếp người nơi phố huyện. Và vì thế, khi xuất hiện trong những
trang viết của TL, ánh sáng (và âm thanh), bóng tối (và sự tĩnh mịch) còn mang giá trị biểu trưng sâu sắc. Ở
đây ánh sáng là dấu hiệu của sự sống, của ước mơ còn bóng tối là dấu hiệu của sự hư vô, của cuộc sống
nghèo nàn, tăm tối. Hiểu được điều này, ta hiểu được vì sao những con người nơi đây, đặc biệt là Liên, lại
ham ánh sáng đến thế. Mỗi lần nhớ lại, mơ tưởng về “Hà Nội xa xăm”, Liên cũng chỉ nhớ về những âm
thanh và những luồng ánh sáng.
Trong kí ức của Liên, Hà Nội là “một vùng sáng rực lấp lánh” “Hà Nội nhiều đèn quá”, “Hà Nội
sáng rực vui vẻ và huyên náo”, cái ánh “sáng rực vui vẻ và huyên náo” ấy nó là thế giới của một cuộc sống
giàu sang, khác hẳn hoàn toàn với cuộc sống hiện thực nghèo khổ, tối tăm mà Liên đang sống. Và còn tất cả
những con người khác: Chị Tí, bác Siêu, dù bị bóng tối của cuộc sống tù đọng vây quanh nhưng họ vẫn

thắp lên quanh mình những luồng ánh sáng, dù chúng thật yếu ớt, nhỏ nhoi nhưng chỉ cần từng ấy thôi cũng
đủ cho ta thấy được những con người nơi đây đều ham ánh sáng. Họ thắp lên những ngọn lửa quanh mình
phải chăng chính là thắp lên những khao khát, ước mơ để cùng nhau ngồi trong bóng tối mong đợi “một cái
17
gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày”. Ước mơ, mong đợi đó của họ thật mơ hồ, xa xăm và không
biết bao giờ mới đến nhưng nó đã khẳng định dù trong hoàn cảnh nào, con người vẫn không thôi ước mơ về
những điều tốt đẹp. Cảnh chị em Liên (cùng những người dân phố huyện) cố thức để được nhìn thấy, nghe
thấy chuyến tàu đêm chạy qua càng khẳng định rõ hơn điều đó.
Chuyến tàu được miêu tả trong tác phẩm là “hoạt động cuối cùng của đêm khuya”, nó xuất phát từ
Hà Nội và chạy qua phố huyện hàng đêm. Chị em Liên (cùng những người dân phố huyện) cố thức chờ đợi
nó không phải là để cố bán thêm được ít hàng vì Liên biết dù khi đoàn tàu đến thì cũng “không trông mong
còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay bao thuốc lá là cùng”, chị em Liên cố thức đợi
tàu là vì cớ khác, là vì muốn được sống trong cái thế giới đầy ánh sáng và âm thanh mà đoàn tầu mang tới
để có thể thoát khỏi (dù chỉ trong chốc lát) cuộc sống nghèo nàn, tối tăm, lay lắt nơi đây, để được sống trong
thế giới của sự sống giàu sang, hoa lệ.
b)DN/ \$"::$"2)-4,"X4+["„,G%
919,G%227")*+8 "" -Z3"„,+[#
E\X4+["„,4,"):%::G$"2)-#
\$"::,+G"I4…:+["„,#
-Bức tranh phố huyện trong Hai đứa trẻ hiện lên đầy ấn tượng với nhiều ám ảnh day dứt. Trong bức tranh
đó, không phải không có những nét đẹp thơ mộng, êm ả của một buổi chiều quê gần gũi, quen thuộc ( )
Nhưng nổi lên và bao trùm tất cả vẫn là cảnh tàn lụi, hiu hắt, buồn lặng trong “cái giờ khắc của ngày tàn”.
Thời gian, không gian, ánh sáng, âm thanh đều đang lầm lũi đi vào bóng tối. Bóng tối đang nhấn chìm dần
ánh mặt trời trong cơn hấp hối, bóng tối làm cho “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền
trời”, bóng tối làm cho “đường mấp mô thêm” và “những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên tối”, bóng tối
trải rộng dần theo bước đi của thời gian dưới tiếng gọi của tiếng trống thu và của dàn nhạc ếch nhái kêu ran
ngoài đồng ruộng. Được lặp đi, lặp lại nhiều lần (không dưới ba mươi lần) trong tác phẩm, hình ảnh bóng
tối đã trở thành một hình tượng nghệ thuật đầy ấn tượng, hàm chứa ý nghĩa sâu sắc. Có thể nói, ít có tác
phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại, như một ám ảnh không dứt trong
truyện ngắn này. Tác phẩm được mở đầu bằng dấu hiệu của một ngày tàn và kết thúc bằng một “đêm tĩnh

mịch và đầy bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm ngự trị tất cả: đường phố và các con ngõ dần
dần chứa đầy bóng tối, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào
làng lại càng sẫm đen hơn nữa”; một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan,
không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối; ngay cả đoàn tàu từ Hà Nội mang theo cả một thế
giới của ánh sáng và âm thanh thì cũng chỉ lướt qua trong phút chốc rồi cũng đi vào đêm tối tất cả đều
chìm vào trong đêm tối mênh mông, dày đặc. Đó đâu phải chỉ là đêm tối của thiên nhiên, của không gian và
thời gian mà còn là bóng tối của cuộc đời, của những kiếp người nơi phố huyện.
\$"2)-4^%:P"," -†‚2"[+#
Trong cái bóng tối dày đặc bao phủ kín mít cả cái phố huyện nghèo nàn ấy là những con người sống trong
tăm tối. Họ lặng lẽ, âm thầm như những cái bóng giữa màn đêm. Đó là hình ảnh của những kiếp người tàn
(bên cạnh một ngày tàn, một phiên chợ tàn và các đồ vật tồi tàn), những cuộc đời nhỏ bé, tội nghiệp trong
xã hội cũ. Vậy họ là những ai?
+Đó là mẹ con chị Tí, những con người điển hình cho cuộc sống ngoi ngóp, quẩn quanh, lay lắt của phố
huyện này. Ngày mò cua bắt tép, tối đến lại ra sân ga bày hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không
được gì mà vẫn cứ phải đi. Đó đâu phải là sự sống thực sự mà chỉ là sự cầm cự, cầm chừng trong vô vọng
mà thôi. Cách chị trả lời câu hỏi của Liên: không trực tiếp trả lời ngay mà còn làm thêm để chõng xuống
đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép miệng: “Ối chao, sớm muộn mà có ăn thua gì” đã cho ta
thấy nhịp sống chập chạp, lẩn quẩn của mẹ con chị Tí. Cuộc đời của mẹ con chị thu lại trên cái chõng hàng
nước tồi tàn với ngọn đèn con giữa màn đêm dày đặc, mênh mông của phố huyện.
+Đó là bác phở Siêu. Bác phở Siêu lưng vốn có vẻ khá hơn nhưng nguy cơ lại lớn hơn bởi phở của Bác là
“một thứ quà xa xỉ”, ở cái đất nghèo này liệu có mấy người có đủ tiền ăn khi mà ngay cả chị em Liên, đời
sống có vẻ khá hơn, cũng chỉ dám nhìn mà mơ ước?
+Đó là vợ chồng bác xẩm với manh chiếu rách tồi tàn, với cái thau trắng để trước mặt, góp chuyện bằng
mấy tiếng đàn bầu ế ẩm bật lên trong đêm yên lặng. Thằng con nhỏ thì “bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch
nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”.
+Và trong đám cư dân ấy, dễ sợ nhất là bà cụ Thi, một bà cụ già “hơi điên” lại nghiện rượu với tiếng cười
khanh khách, ghê sợ, với cái dáng hình lảo đảo đi lần vào bóng tối. Cụ là “cái sản phẩm nhỡn tiền của cuộc
18
sống mòn mỏi ở cái phố huyện này” (Chu Văn Sơn) và mặc dù chỉ xuất hiện trong mấy dòng truyện ít ỏi
nhưng con người ấy đã ám ảnh người đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành.

+Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đời sống buồn thảm, tối tăm ấy là hình bóng của chị em Liên. Hai đứa trẻ
xuất hiện âm thầm bên cái “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu” (mẹ Liên thuê từ khi cả gia đình dọn từ Hà Nội về
đây vì thầy Liên mất việc) mà khách hàng là những người khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổi một bánh
xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp người lay
lắt nhưng cuộc sống của Liên cũng cầm chừng không kém. Nỗi khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗi khổ vật
chất của những người khác, đó là bi kịch tinh thần bởi họ khổ mà không biết mình khổ còn Liên đã thực sự
thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Hằng ngày phải sống trong cái
bóng tối dày đặc của phố huyện, của những kiếp người nghèo khổ, tâm hồn Liên luôn thấm đẫm một nỗi
buồn, và không biết tự bao giờ 7'R'%&-(B!"/:,A. “Không sợ nó
nữa” nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mấy từ “Không sợ nó nữa” mà gợi cho ta bao liên tưởng, bao nỗi xót xa! Sống
mãi trong bóng tối rồi cũng thành quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có một cái
gì thật tội nghiệp, cam chịu qua hai từ “quen lắm” được TL dùng. Tuổi thơ của Liên và tâm hồn ngây thơ,
non trẻ của cô bé đã bị vùi sâu trong bóng tối của cuộc đời đến mức thành chai sạn.
Mỗi người, mỗi cảnh đời, mỗi số phận, nhưng đều là những con người nhỏ bé, tội nghiệp, ai cũng sống âm
thầm, nhẫn nhục, lam lũ, giống như những cái bóng lầm lũi, lặng lẽ trong cái bóng tối bao trùm và ngự trị
tất cả phố huyện. Họ đang sống nhưng là sống một cuộc sống lê vào bóng tối. Cuộc sống đó không chỉ có sự
nghèo đói, tội nghiệp, đáng thương mà nó còn là một cuộc sống tẻ nhạt, quẩn quanh, không tương lai, không
lối thoát. Cảnh phố huyện chiều tối hôm nay cũng giống như hôm qua và sẽ lặp lại trong ngày mai. Nhịp
sống của những người dân nghèo nơi phố huyện này ngày nào cũng như ngày nào lặp đi, lặp lại một cách
đơn điệu, buồn tẻ: chiều nào chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”, tối nào bác Siêu bán phở cũng
nhóm lửa, gia đình bác xẩm cũng chờ khách, người nhà cụ thừa, cụ lục cũng đi gọi người đánh tổ tôm, chị
em Liên cũng “ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng” và ngày nào cũng vậy “cứ chập tối, mẹ Liên lại
tạt ra thăm hàng một lần”, Như vậy, “chừng ấy con người trong bóng tối” ngày này qua ngày khác sống
quẩn quanh, tù túng trong cái “ao đời bằng phẳng” (Xuân Diệu). Hình ảnh những con người này khiến ta
nhớ đến cuộc sống đơn điệu, nhạt nhẽo “cơm mai rồi lại cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm” của cô
Quỳnh, cô Giao trong tác phẩm BC& của Xuân Diệu, nhớ đến những câu thơ của Huy Cận trong tác
phẩm D&E%&,: “Quẩn quanh mãi với vài ba dáng điệu, - Tới hay lui cũng ngần ấy mặt người. - Vì quá
thân nên quá đỗi buồn cười, - Môi nhắc lại cũng ngần ấy chuyện”.
'i6%89,91%227")*+8$]"c8.
Thật đáng thương cho những con người phải sống một cuộc sống lay lắt, ảm đạm, nơi “bùn lầy, nước đọng”.

Những thân phận, những con người nhỏ bé ấy đang sống lay lắt, nghèo khổ, đang héo mòn nơi phố huyện
tối tăm. Họ đang sống cuộc sống của những kiếp người tàn tạ nhưng không mất đi hi vọng và niềm tin vào
cuộc sống. Trong bóng tối mênh mông, dưới sự bủa vây của cuộc sống, nghèo nàn, không lối thoát, họ vẫn
ước mơ, vẫn mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày”. Dù ước mơ, mong đợi đó
của họ thật mơ hồ, xa xăm, không biết bao giờ mới đến nhưng nó đã khẳng định dù trong hoàn cảnh nào,
con người vẫn không thôi ước mơ về những điều tốt đẹp. Và cái mơ ước thật bình dị nhưng cũng thật cao
quý, đáng trân trọng đó của họ được TL gửi gắm kín đáo vào những suy nghĩ, việc làm, hành động và mơ
ước của Liên.
Như chúng ta vừa nói ở trên hằng ngày phải sống trong cái bóng tối dày đặc của phố huyện, của những kiếp
người nghèo khổ, tâm hồn Liên luôn thấm đẫm một nỗi buồn, và không biết tự bao giờ 7'
R'%&-(B!"/:,A nhưng Liên “quen lắm” với bóng tối không có nghĩa là cô hoàn
toàn cam chịu sống trong cái bóng tối ấy suốt cả cuộc đời. Sống mãi trong bóng tối, Liên càng khao khát
hướng về ánh sáng, cô theo dõi, tìm kiếm ánh sáng từ mọi phía: từ “ngàn sao lấp lánh trên trời” đến “từng
hột sáng lọt qua phên nứa”, Liên rung động trước cái ánh sáng xanh nhỏ li ti lẫn trên kẽ lá của những con
đom đóm, rồi mơ tưởng đến ánh sáng của quá khứ, của những kỉ niệm về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng
rực vui vẻ và huyên náo” đã lùi xa tít tắp. Để rồi cuối cùng bùng lên thành niềm khao khát mãnh liệt như là
một nhu cầu bức thiết về tình thần không thể thiếu được: đêm đêm thức đợi chuyến tàu đêm đi qua phố
huyện. Chuyến tàu đêm đi qua phố huyện là chuyến tàu xuất phát từ Hà Nội chạy qua phố huyện hàng đêm
đem theo một thế giới của ánh sáng và âm thanh với “các toa đèn sáng trưng”, “đồng và kền lấp lánh”, “cửa
kính sáng”. Đêm đêm Liên và em (cùng với nhiều người dân nghèo phố phuyện) thức để đợi tàu là để được
trong chốc lát, thoát ra khỏi cuộc sống buồn chán, nghèo nàn, tối tăm, bế tắc, quẩn quanh nơi phố huyện, để
được sống với một cuộc sống khác hẳn, một cuộc sống nhộn nhịp, huyên náo và đầy ánh sáng biểu trưng
cho sự sung túc, giàu sang. Ta hiểu vì sao đêm nào Liên cùng em cùng thức để đợi chuyến tàu đi qua trong
19
niềm háo hức và nuối tiếc khi nó xa xa mãi rồi mất hút giữa màn đêm. Bởi đó là thế giới của ao ước, một ao
ước nhỏ nhoi giống như ảo ảnh, nhưng như thế cũng đã là những phút giây bừng sáng, hạnh phúc trong cả
một ngày dài buồn chán, tẻ nhạt giữa cái phố huyện xơ xác, tiêu điều. Không thấm đượm một tấm lòng nhân
ái sâu xa, không có một tâm hồn nhạy cảm giàu chất thơ thì không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát
ánh sáng của những con người sống trong bóng tối.
Chỉ với một chi tiết miêu tả hành động gắng thức để đợi tàu của chị em Liên, TL đã thể hiện tấm lòng trân

trọng, nâng niu khát vọng vươn ra ánh sáng, vượt thoát ra khỏi cuộc sống tù túng, quẩn quanh, chật hẹp,
không cam chịu cái hiện tại tầm thường, nhạt nhẽo đang vây quanh mình của hai đứa trẻ và cũng là của
những người dân nghèo nơi phố huyện.
Đồng thời qua chi tiết ấy, phải chăng TL đã gửi gắm bức thông điệp cho tất cả mọi người:
+ Đừng bao giờ để cuộc sống của mình chìm trong cái “ao đời phẳng lặng”. Đã sống là phải sống cho ra
sống, phải không ngừng khao khát và xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa.
+ Những con người đang phải chịu một cuộc sống tối tăm, mòn mỏi, nghèo nàn, tù túng hãy tìm cho mình
một lối thoát, hãy cố vươn ra ánh sáng, hướng tới một cuộc sống sáng tươi.
b)Dp/ .‡"31&.%4["ƒH)X4(K
Thạch Lam (1910 – 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực Văn đoàn. Hàng loạt những truyện ngắn của
ông ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân ái , như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước
những số phận bất hạnh, những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu chuyện của ông
bóng hình kỷ niệm của những ngày tháng đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ Thạch Lam. Hai đứa trẻ, tác phẩm
thấm đượm tình người, như minh chứng tiêu biểu cho một tấm lòng nhân ái.
Là một cây bút của nhóm tự lực văn đoàn nhưng không giống như những người anh của mình, văn TL luôn
chảy một dòng riêng biệt. Ngay từ rất sớm nhà văn đã ý thức rõ hơn hết về thiên chức của người cầm bút
chân chính. Trong tiểu luận , TL viết 
 !"#$!"%&'($)*+,,-"
.,/(01,,#23(4'
$!).5Và ở chỗ khác ông cũng khẳng định67'*8,9
:*;,%&<=>:0$/'&?@(#'&
A5 Quan niệm ấy đã thể hiện trên từng trang văn, từng dòng cảm xúc ở Hai đứa trẻ, làm nên phẩm chất
hàng đầu ở văn Thạch Lam, làm người đọc được sống cùng thế giới của lòng nhân ái.
Eb%‡"31,Gˆ4,")X4(4 6;) !`[Mtình cảm xót
thương đối với những con người sống trong cảnh nghèo khổ, quẩn quanh, không tương lai, không lối
thoát.
-Bối cảnh của Hai đứa trẻ là một phố huyện nghèo tiêu điều, xơ xác với những cảnh đời bất hạnh hiện lên
qua tâm hồn của một cô bé tên Liên khi chiều xuống, đêm về. Qua tâm hồn của cô bé, nhà văn đã kín đáo
gửi gắm nỗi niềm thương cảm của mình đối với những cảnh đời khốn khổ:
+Trước hết tình thương của tác giả hướng về những người buôn bán nhỏ trong buổi chợ quê nghèo xơ xác.

Dưới ngòi bút của TL những con người đó hiện lên sao mà đáng thương, tội nghiệp đến thế. “Chợ đã vãn từ
lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất” vậy mà họ, mặc dù đòn gánh đã xỏ xẵn vào quang, vẫn còn cố
nán lại để nói với nhau thêm ít câu nữa. Vậy họ nói với nhau những gì? Nhà văn không nói nhưng nhìn vào
những phế thải thảm hại còn vương lại trên đất của một ngày chợ phiên chúng ta có thể đoán biết được
ngay.
20
Những lời nói đó là gì nếu không phải là nhưng lời than thở khi cả một ngày bươn bả có lẽ họ chẳng bán
được gì. Rồi đây cuộc sống sẽ ra sao khi ngày chợ phiên mà tình cảnh của họ còn éo le như vậy?
+Từ những người bán hàng, những người mẹ, người chị không tuổi không tên, tấm lòng nhân ái của nhà văn
lại hướng về những đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ. Tuổi thơ của chúng rồi sẽ thế nào khi sau buổi chợ tàn
nào chúng cũng “lom khom cúi trên mặt đất đi lại tìm tòi” những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có
thể dùng được của những người bán hàng để lại. Nhưng làm sao chúng có thể kiếm được gì khi mà những
thứ lẫn trong đất cát kia chỉ là những “lá mía, lá nhãn, vỏ bưởi, vỏ thị” với cái mùi âm ẩm.
+Nhân vật thứ ba mà nhà văn hướng tới là mẹ con chị tí ( )
+Tiếp đến là bà cụ Thi, bác Siêu và vợ chồng bác xẩm( )
+Nhưng nhân vật được ông dành cho “chút lệ thầm kín”, dành tình yêu thương nhiều nhất trong những con
người nghèo khổ ấy có lẽ là hai chị em Liên và An. Tình thương của nhà văn dành cho hai chị em không
phải là tình thương cho những đứa trẻ có cuộc sống nghèo nàn về vật chất (vì dù sao chúng cũng chưa phải
là loại cùng đinh nhất trong xã hội. “Thầy Liên mất việc, cả gia đình phải chuyển từ Hà Nội về quê, nhưng
dầu sao, chúng cũng là những “ông bà chủ” của một cửa hàng tạp hoá, dù nó chỉ nhỏ xíu ở phố huyện) mà
tình thương ấy nhà văn tập trung vào đời sống tinh thần của hai đứa trẻ, đặc biệt là Liên. Ở cái tuổi hiếu
động, đầy mơ ước đẹp đẽ, nhưng các em lại không được sống với tuổi thơ mà bị giam hãm vào một cuộc
sống đơn điệu, tẻ nhạt, tù túng và ngưng đọng. Ngay từ đầu tác phẩm, ta bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên
lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều xuyên thấu
vào tâm hồn ngay thơ của chị”, “chị thấy lòng buồn mang mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Một tâm
hồn trẻ thơ như thế mà “buồn mang mác trước cái giờ khắc của ngày tàn” thì thật thấm thía biết bao, đáng
cho ta suy nghĩ biết bao về cảnh sống lúc bấy giờ nơi phố huyện. Rồi cảnh “từ khi nhà Liên dọn về đây
đêm nào Liên và em cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố xung
quanh” Rồi “hai chị em Liên đúng sững nhìn theo bà cụ thi đi lần vào bóng tối” và “vợ chồng bác xẩm
ngủ gục trên manh chiếu rách tự bao giờ” Đến cả cuộc đời Liên cũng âm thầm đi vào bóng tối lúc nào cô

cũng không hề hay biết “'R'%&-(B!"/:,A. “Không sợ nó nữa”
nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mấy từ “Không sợ nó nữa” mà gợi cho ta bao liên tưởng, bao nỗi xót xa! Sống mãi
trong bóng tối rồi cũng thành quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có một cái gì
thật tội nghiệp, cam chịu qua hai từ “quen lắm” được TL dùng. Tuổi thơ của Liên và tâm hồn ngây thơ, non
trẻ của cô bé đã bị vùi sâu trong bóng tối của cuộc đời đến mức thành chai sạn. Một câu văn ngỡ như bình
thường mà hàm chứa biết bao dư vị, cay đắng, xót xa. Phải yêu thương con người bao nhiêu thì TL mới có
thể viết được những câu chữ như thế.
Miêu tả những người dân nơi phố huyện, TL không chỉ tập trung vào cái nghèo, cái đói, tội nghiệp, đáng
thương mà bằng trái tim nhân hậu, bằng tấm lòng nhân ái bao la, nhà văn còn đi sâu vào diễn tả một cuộc
sống tẻ nhạt, quẩn quanh, không tương lai, không lối thoát của những con người nghèo khổ ấy. Cảnh phố
huyện chiều tối hôm nay cũng giống như hôm qua và sẽ lặp lại trong ngày mai. Nhịp sống của những người
dân nghèo nơi phố huyện này ngày nào cũng như ngày nào lặp đi, lặp lại một cách đơn điệu, buồn tẻ: chiều
nào chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”, tối nào bác Siêu bán phở cũng nhóm lửa, gia đình bác
xẩm cũng chờ khách, người nhà cụ thừa, cụ lục cũng đi gọi người đánh tổ tôm, chị em Liên cũng “ngồi trên
chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng” và ngày nào cũng vậy “cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một
lần”, Như vậy, “chừng ấy con người trong bóng tối” ngày này qua ngày khác sống quẩn quanh, tù túng
trong cái “ao đời bằng phẳng” (Xuân Diệu). Hình ảnh những con người này khiến ta nhớ đến cuộc sống đơn
điệu, nhạt nhẽo “cơm mai rồi lại cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm” của cô Quỳnh, cô Giao trong
tác phẩm BC& của Xuân Diệu, nhớ đến những câu thơ của Huy Cận trong tác phẩm D&E%&,:
“Quẩn quanh mãi với vài ba dáng điệu, - Tới hay lui cũng ngần ấy mặt người. - Vì quá thân nên quá đỗi
buồn cười, - Môi nhắc lại cũng ngần ấy chuyện”.
'`[M7I+1[&.%GP"+k%b)*+" -Z3"„,M+
[/
- Cần cù, chịu thương chịu khó (chị Tí ngày mò cua bắt ốc, tối đến dọn một hàng nước; hai chị em Liên thay
mẹ trông coi gian hàng tạp hoá ).
- Giàu lòng thương yêu (Liên cảm thương trước cảnh những đứa trẻ con nhà nghèo nhặt nhạnh những thứ
còn sót lại ở chợ )
N`[M7I5%a"3"434Y"Gˆ46P"%," 6P"" -
Z3"„,8)3G%227")*+$]"c8#
-Những con người nghèo khổ nơi đây không mất đi hi vọng và niềm tin vào cuộc sống.

21
-Niềm mong ước đó thể hiện rõ nhất trong khao khát của Liên và cảnh đợi tàu.
(Xem trong QCST và QCSU khi nói về nội dung này)
b)D~/()*+3%e3GF.:4,"4["ƒH)X4(K#
Trong số những người dân trong phố huyện nghèo, Liên là nhân vật được tác giả khắc hoạ rõ nét và sâu đậm
nhất. Khi tìm hiểu nhân vật này cần chú ý làm nổi bật một số điềm sau đây:
:‰$27" ;,‰ Liên là một cô bé mới trên dưới mười tuổi, không còn là một đứa
trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn. Cũng như những người dân nghèo nơi phố huyện, cuộc sống của
gia đình của cô bé cũng hết sức nghèo túng, khó khăn. Vì cha mất việc mà cả gia đình Liên phải dọn từ Hà
Nội về sống ở vùng quê nghèo khó này. Hàng ngày, mẹ đi làm hàng xáo để nuôi cả gia đình và đã thuê một
gian nhà ọp ẹp của bà lão móm nơi phố huyện để làm một gian hàng tạp hoá nhỏ giao cho chị em Liên bán,
tăng thêm thu nhập.
=.:%2a‚ˆ%Š)5%)"#
:%2a‚$3%e&5%;#
‹Vùng đất mà Liên đang sống là một phố huyện nghèo nàn, tiêu điều, xơ xác. Được tác giả miêu tả qua cảm
nghĩ của Liên, cái phố huyện nghèo xác xơ ấy chỉ hiện lên trong một khoảng thời gian ngắn từ khoảng năm
giờ chiều đến chín giờ khuya, nhưng chỉ cần một “LÁT CẮT” ấy thôi, ta cũng có thể cảm nhận hết được cái
tiêu điều, cái buồn nơi phố huyện. Tác phẩm được mở đầu bằng dấu hiệu của một ngày tàn với “tiếng trống
thu không ”, với “phương tây ” và “dãy tre làng ”, “tiếng ếch nhái ”. Trong khoảnh khắc ấy, đôi mắt
liên ngập đầy dần bóng tối, “cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị” và chị
thấy “lòng buồn mang mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Nhìn ra vạn vật xung quanh, giữa một phiên
chợ đã vãn, Liên cảm nhận được “một mùi ẩm mốc bốc lên”, cái mùi quen thuộc, cái mùi riêng của đất của
quê hương này.
+Khi màn đêm buông xuống: tâm hồn ngây thơ của cô bé hướng vào các ngọn đèn và các vì sao. Lúc này,
phố huyện qua con mắt của Liên ngập chìm trong bóng tối. (Cần phân tích cụ thể).
=.%2a‚"‡"4ƒk: 8")e"5%G6P"," -"„,9_#
+Tình yêu thương của Liên trước hết dành cho những đứa trẻ con nhà nghèo sống ở ven chợ.
+Mẹ con chị Tí.
+Bà cụ Thi điên,
a9,91) !7"%227")*+$]"c8# Khao khát đó thể hiện ở:

+Nỗi thèm khát được quay trở về cuộc sống sung sướng, hạnh phúc xưa kia. Hàng đêm, nhìn gánh phở bác
Siêu, món quà xa xỉ với mọi người dân phố huyện, Liên lại nhớ về quá khứ (Phân tích thêm).
+Thể hiện sâu sắc nhất ở cảnh đợi tầu.
-Tấm lòng nhân đạo của TL qua việc miêu tả vẻ đẹp tâm hồn của Liên.
-Từ vẻ đẹp tâm hồn của Liên rút ra bài học nhân sinh, liên hệ với chính mình.
-Nghệ thuật xây dựng nhân vật: đi sâu vào thế giới nội tâm với những biến thái tinh vi trong tâm hồn nhân
vật kết hợp với giọng văn nhỏ nhẹ, lời văn giàu chất thơ.
b)Dl/)2")!…n%.:#
Cảnh đợi tàu của chị em Liên được tác giả miêu tả trong đoạn ba và cũng là đoạn văn cuối cùng của tác
phẩm. Miêu tả cảnh đợi tàu của hai đứa trẻ, tác giả đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm. Để làm nổi bật cảnh
này cần đáp ứng được các yêu cầu sau:
*gƒ9;dŒ),&GˆG6+m%2G+m1+k%)`b) !7I+14`
,"4,"3%4&".:G5%F) !737ƒb  M"):4[#
-Phần 01và phần 02: Tâm trạng buồn của Liên trước quang cảnh của thiên nhiên và những cảnh đời nơi phố
huyện lúc chiều muộn và khi trời tối hẳn.
+Tâm trạng liên trước quang cảnh thiên nhiên. (Lúc chiều muộn: cảnh tàn lụi; Khi trời tối hẳn: ngập chìm
trong bóng tối).
+Tâm trạng của Liên trước cuộc sống con người: (Lưu ý: cần làm nổi bật được 2 đặc điểm của cuộc sống
của những con người nơi đây: nghèo khổ, đáng thương, tội nghiệp và một cuộc sống tẻ nhạt, quẩn quanh,
không tương lai, không lối thoát).
-Phần một và phần hai của tác phẩm là bước chuẩn bị cho phần thứ ba. Trước cuộc sống bế tắc, tù túng,
quẩn quanh, nghèo nàn nơi phố huyện, cuối cùng chị em Liên đã tìm được một lối thoát: ngày ngày ngồi đợi
chuyến tàu đêm đi qua phố huyện.
05)!…n%.:#@+m4Y"3%B
-Nguyên nhân đợi tàu.
22
-Tâm trạng đợi tàu:
+Khi đoàn tàu chưa đến.
+Khi đoàn tàu đến. (Đoàn tàu được miêu tả như thế nào? Nó đã mang đến những gì cho phố huyện? Tâm
trạng của chị em Liên).

+Khi nó đi qua.
-Ý nghĩa của cảnh đợi tàu.
-Tấm lòng nhân đạo của TL, và bức thông điệp mà tác giả gửi gắm. Có thể liên hệ tới bản thân mình và xã
hội ngày nay.
b)D•/ŽI9;!+"P[IG•"%&4,"4["ƒ)X4(#
Đây là một đặc điểm quan trọng trong phong cấch viết truyện ngắn của TL và sự kết hợp giữa hai yếu tố này
trong tác phẩm được thể hiện khá rõ. Khi phân tích, cần chú ý làm nổi bật các nội dung chính sau:
*Sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn khi miêu tả bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện.
-Yếu tố hiện thực: một bức tranh thiên nhiên xơ xác, tiêu điều, tàn lụi lúc chiều tàn; một bức tranh thiên
nhiên ngập chìm trong bóng tối khi đêm xuống.
-Yếu tố lãng mạn: bức tranh được miêu tả bằng những câu văn “êm, nhẹ”, giàu chất nhạc, chất thơ và mang
những vẻ đẹp riêng (Điều không hề thấy trong các sáng tác của các nhà văn hiện thực lúc bấy giờ).
+Một bức tranh gần giũ, quen thuộc, thanh bình, êm ả, đẹp mộng mơ khi chiều xuống.
+Một bức tranh êm đềm, thơ mộng lúc đêm về.
*Sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn khi miêu tả cuộc sống con người nơi phố huyện.
-Yếu tố hiện thực: Cần làm nổi bật được 2 đặc điểm của cuộc sống của những con người nơi đây: nghèo
khổ, đáng thương, tội nghiệp và một cuộc sống tẻ nhạt, quẩn quanh, không tương lai, không lối thoát.
-Yếu tố lãng mạn:
+Sống trong nghèo khổ nhưng những người dân phố huyện không hề bị chi phối bới cái đói, cái nghèo, của
bat cơm, manh áo mà lao vào bon chen giành dật sự sinh tồn (những điều thường thấy trong sáng tác của
các nhà văn hiện thực) mà họ luôn quan tâm tới nhau, tạo nên một không khí chan hoà, ấm áp tình người.
(Chú ý vào tình thương của Liên đối với những người dân phố huyện, đặc biệt là đối với nhưngx đứa trẻ con
nhà nghèo).
+Sống trong nghèo khổ nhưng họ luôn mơ ước có một cuộc sống tốt đẹp hơn, luôn hướng về một tương lai
tươi sáng. Ước mơ đó của họ thể hiện rõ nhất ở cảnh đợi tàu. Cảnh đợi tàu và ý nghĩa biểu trưng của hình
ảnh đoàn tàu là ánh sáng đẹp của tác phẩm được viết bằng ngòi bút đậm chất lãng mạn của nhà văn. (Nếu
như ngòi bút lãng mạn của NT đã tạo nên HC, một con người đẹp nhất đại diện cho cái chân, thiện, mĩ thì
ngòi bút lãng mạn của TL đã đem đến cho người đọc một niềm tin tưởng sâu sắc vào ý thức vượt lên trên
hoàn cảnh sống của con người mà điều này lại có ý nghĩa rất lớn đối với mỗi chúng ta, không chỉ ở thời của
TL, thời của chúng ta mà mãi mãi về sau, điều đó vẫn sẽ còn nguyên giá trị.)

:)D'/
gT••TS‘gi’A“V#
I, Nguyễn Tuân.
(Xem trong sgk, về tác giả Nguyễn Tuân sẽ có bài riêng lớp 12)
II, Tác phẩm “Chữ người tử tù”.
-Xuất xứ: được in lần đầu trên tạp chí “Tao đàn” với tên gọi “Dòng chữ cuối cùng”. Sau được in trong tập
“Vang bóng một thời” (1940) với tên gọi “Chữ người tử tù”.
III, Yêu cầu về tri thức cần nắm được khi học tác phẩm.
1,Về nội dung.
-Hình tượng Huấn Cao.
-Hình tượng viên quản ngục.
-Cảnh cho chữ.
-Quan niệm thẩm mĩ và tấm lòng yêu nước kín đáo của nhà văn.
2,Về nghệ thuật
Tình huống truyện độc đáo, thủ pháp đối lập, tạo không khí cổ xưa, ngôn ngữ giàu tính tạo hình.
IV,12Z"F
b)DE: J !"b,
23
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là nhà văn có phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác trong nền văn xuôi Việt
Nam hiện đại. Tự nhận mình là “nghệ sĩ sáng tạo ngôn từ” suốt cuộc đời ông đã công phu đến khổ hạnh
“đóng dấu ấn cá thể lên từng con chữ”, để mỗi trang viết đều có thể là một “tờ hoa”, nhiều tác phẩm “gần
đạt tới sự hoàn m‘”. Trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám, ông đều có những
tác phẩm xuất sắc, đặc biệt là tùy bút và truyện ngắn. Và “Chữ người tử tù” in trong “Vang bóng một thời”
xuất bản năm 1940 là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất trong thế giới nghệ thuật xuất sắc ấy của nhà
văn. Bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, người đọc sẽ được sống trong Trong tác phẩm, nổi bật
nhất là hình tượng nhân vật ông Huấn Cao. Ông là “chấm son đỏ”, là ánh hào quang tỏa sáng trong toàn bộ
thiên truyện. Được miêu tả trong tác phẩm, ông Huấn vừa mang vẻ đẹp của một nghệ sĩ tài hoa, vừa là một
trang anh hùng dũng liệt, ông hội tụ đủ vẻ đẹp của tài năng phi thưởng, khi phách phi phàm và thiên lương
trong sáng.
Nói tới nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường nhắc tới tình huống, giọng điệu và nhân vật. Trong đó,

nhân vật được coi là hệ sương sống vận hành cốt truyện, đặc biệt là những nhân vật trung tâm trực tiếp phát
ngôn cho tư tưởng của nhà văn và chủ đề của tác phẩm. Trong V:WX, Huấn Cao chính là nhân vật
như vậy.
EJ !"
b,%2" -"[7c,.
-Chất tài hoa nghệ sĩ của ông Huấn gắn liền với tài viết chữ Hán trong nghệ thuật Thư pháp, một bộ môn
nghệ thuật có từ cổ xưa và rất cao siêu. Chữ trong thư pháp được cấu tạo trên nền khối riêng và được bằng
bút lông. Người viết thư pháp phải là người vừa có tài, vừa có tâm, vừa có tâm hồn nghệ sĩ. (Vì vậy mà ta
thấy tài năng hội hoạ nhiều nhưng hoạ sĩ có tài thi pháp lại vô cùng hiếm hoi). Chữ trong nghệ thuật thư
pháp không phải là sản phẩm của sự khéo tay, quen việc, thạo nghề của một người thợ mà trái lại với nhà
thư pháp, mỗi lần đặt bút là một lần sáng tạo, mỗi nét bút là một sự tập trung, kết tụ trinh hoa và tâm huyết
của người nghệ sĩ. Trong cảm hứng sáng tạo đặc biệt, những con chữ hiện lên với những nét đậm, và nét
nhạt; mềm mại và sắc nét, rắn rỏi mà bay lượn khiến cho người xem như đang được chiêm ngưỡng một kiệt
tác hội hoạ được “vẽ” bằng trí tuệ và những rung động từ trái tim chứ không phải được vẽ từ những gì nhìn
thấy. Chữ trong nghệ thuật thư pháp vì thế vừa có hình, vừa có hồn, in đậm cá tính, nhân cách của người
viết.
-Biểu hiện:
Ngay từ đầu thiên truyện, tài năng phi tường của HC đã được NT thể hiện gián tiếp qua ý nghĩ của VQN và
lời kể của thầy thơ lại. Sống trong thế giới ngục tù, sau những bức tường dày dặn, những cánh của xà lim
vững chắn “nơi nguơif ta sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc” vậy mà ngục quan và thầy thơ lại cũng phải nghe
vang danh phi thường của ông Huấn, người có tài viết chữ nhanh, chữ đẹp nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn”,
“ngoài cái tài viết chữ tốt lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục” khiến cho ngục quan kiêng dè, kính nể và
thầy thơ lại cảm phục. Có thể nói, danh thơm về tài năng đã khiến ông Huấn trở thành huyền thoại ngay từ
khi còn đang sống. Chính vì vậy khi mới đọc nghĩa chữ thánh hiền, ngục quan đã có sở nguyện một ngày
kia được treo riêng trong nhà mình một đôi câu đối do chính tay ông HC viết. “Chữ ông HC vuông lắm, đẹp
lắm”. Đó là “những nét chữ vuông tươi tắn nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”.
Vì vậy, có được chữ ông Huấn chẳng khác nào có báu vật trên đời. Nhưng báu vật có thể mua được bằng
tiền, cướp được bằng quyền, còn ông Huấn “nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình cho
chữ bao giờ”. Chữ ông Huấn còn quý hơn cả báu vật. Ta hiểu vì sao ngục quan lại bất chấp an nguy liều
mình biệt đãi Huấn Cao để xin chữ. Cái đẹp của chữ ông Huấn khiến nguời ta có thể sống vì nó, chết vì nó.

b,," -$9”+1:""b9b#
Con người rất đỗi tài hoa ấy lại là một chính nhân quân tử với khí phách phi phàm. Vẻ đẹp ấy được thể hiện
rõ nét ngay trong lần đầu tiên trực tiếp xuất hiện của ông. Mặc dù đang phải ở trong tư thế của một tử tù bị
giải đến nhà lao tỉnh Sơn chờ ngày thụ án nhưng trước sự thị uy, nạt nộ của bọn lính, ông vẫn thản nhiên
cùng các bạn đồng chí rỗ mạnh thang gông xuống nền đá tảng trước cửa ngục nhà giam. Thái độ và hành
động ấy của ông là một hành động, thái độ ngang tàng, thể hiện khí phách cao đẹp của những con người coi
thường cường quyền bạo ngược. “Rỗ gông” là hành động biểu thị sự tự do. Huấn Cao đã cho ta thấy dù bị
xiềng xích về thể xác nhưng ông hoàn toàn tự do về tinh thần, và ông muốn làm gì là làm bằng được bất
chấp khó khăn đến đâu và có được phép hay không.
Trong hoàn cảnh tử tù chờ ngày thụ án, ông vẫn giữ được cốt cách của người anh hùng, ung dung nhận sự
biệt đãi của VQN, “thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc
chưa bị giam cầm”. Trước thái độ nhũn nhặn ân cần của VQN “ngài cần gì xin cứ dạy, tôi cố gắng chu tất”,
HC khinh miệt đến điều, xưng “ta” gọi quản ngục là “nhà ngươi” và đuổi quản ngục ra khỏi nhà lao bằng
24
một giọng điệu dõng dạc “Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây” dù biết trước thái
độ khinh bạc và câu nói đó của mình có thể kèm theo “một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo
của ngục quan bị sỉ nhục”. Không những thế, trong con mắt của ông, những kẻ đại diện cho chính quyền
thống trị đương thời chỉ là những kẻ tiểu nhân và những việc làm của chúng chỉ là những việc làm của
những kẻ “tiểu nhân thị oai”. Thấy được khí phách và bản lĩnh hơn người ấy của ông, tả hiểu vì sao khi bị
HC đuổi khỏi nhà lao, VQN không hề tức giận, trái lại, còn suy tôn, ca ngợi HC trong suy nghĩ của mình.
Trong suy nghĩ của mình, ngục quan biết rõ ông Huấn là “người chọc trời quấy nước”, và y cũng thừa hiểu
với những con người như thế thì “đến trên đầu, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa”, đứng trước ông
Huấn, VQN thấy mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù nhỏ bé. Hình ảnh ông Huấn hiện lên thật đẹp biết bao.
Một con người văn võ toàn tài, từng bất bình, vì nhân dân đứng lên dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều đình,
giờ đây chí lớn không thành bị gian trong ngục tối, trở thành một kẻ tử tù, chờ ngày bị xử tội vậy mà vẫn
ung dung, ngang tàng, lẫm liệt. Chân dung Huấn Cao tỏa sáng ánh hào quang của một người anh hùng nghĩa
kiệt “bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
b," -$: 8"4,"71"#
Nếu chỉ có vẻ đẹp của tài năng phi thường, khí phách phi phàm, nhân vật HC chỉ có thể “vang bóng một
thời”. Cái để hình tượng này sống mãi với muôn đời chính là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng. Thiên

lương là bản tính tốt tự nhiên của con người. Với thầy thơ lại và VQN, thiên lương là tấm lòng yêu quý trân
trọng cái đẹp cái tài của họ. Với HC, thiên lương thể hiện ở: ý thức của ông trong việc sử dụng cái tài và
tấm lòng trân trọng những con người biết sống vì cái đẹp. Là một người trọng nghĩa, khinh lợi cho nên mặc
dù có tài viết chữ nhưng không phải ai ông Huấn cũng cho chữ. Ông không bao giờ “vì vàng ngọc hay
quyền thế” mà ép mình cho chữ bao giờ, suốt đời ông mới chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường
cho ba người bạn. Vì vậy, trước khi nhận ra tấm lòng của quản ngục: ông Huấn coi y chỉ là tiểu nhân cặn
bã nên đối xử rất cao ngạo nhưng khi nhận rõ tấm lòng “ Biệt nhỡn liên tài” và “sở thích cao quý” và “tâm
nguyện” của viên ngục quan này,HC đã vô cùng ân hận “thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong
thiên hạ”. Sự ân hận chân thành của HC cho ta thấy lẽ sống của ông: sống là phải xứng đáng với những tấm
lòng, phụ tấm lòng cao đẹp của người khác là tội lỗi không thể tha thứ được. Chính vì vậy, HC đã bằng lòng
cho chữ quản ngục. Đó không phải là sự ban ơn trả nghĩa, lại càng không phải là sự phô diễn tài năng mà là
sự đền đáp của một tấm lòng đối với một tấm lòng.
Z4,"5,P/7I"b"P113%G9”+1^"#
HC là một nhân vật được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn theo kiểu lý tưởng hóa. Nhưng sự vận động
trong hình tượng này khiến nhân vật dường như dần ly tâm khỏi địa hạt lãng mạn. Đúng như nhận xét của
một số nhà nghiên cứu: HC xuất hiện trong vầng hào quang sáng chói của chủ nghĩa lãng mạn nhưng sẽ ở
lại trong tâm trí độc giả như một con nguời. Vẻ đẹp của nhân vật này được phát lộ trọn vẹn trong cảnh cho
chữ với sự thống nhất giữa cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng. Ở đoạn văn này, nhà văn đã tập trung tinh
hoa bút lực tạo nên một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”.
*Cho chữ vốn là một việc làm thanh cao nên thường diễn ra ở nơi thư phòng trăng thanh, gió mát hoặc giữa
thiên nhiên lộng ngát hương hoa còn ở đây, nó lại diễn ra giữa chốn ngục tù, trong căn buồng gian chật hẹp,
ẩm ướt, hôi hám, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Và người nghệ sĩ tài hoa đang say
mê tô điểm từng con chữ không phải là một người tự do mà là một kẻ tử tù và chỉ sáng sớm tinh mơ ngày
mai là đã bị giải vào kinh chịu án tử hình. Người xin chữ lại là quản ngục, người đại diện cho cái trật tự xã
hội đương thời, đương thực thi chức trách ở nhà ngục tỉnh Sơn. Hai người hoàn toàn đối lập nhau về bình
diện xã hội. Việc HC chưa từng vì ràng buộc quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ lại chấp nhận cho chữ
lần thứ tư trong đời mà người được nhận chữ lại là quản ngục. Đó đâu phải là chuyện trả công hay thanh toán
nợ nần mà là tấc lòng của kẻ tri âm dành cho người tri kỉ. Ta thấy ở đây cái Tâm đang điều khiển cái tài, cái
tài đang phụng sự cái tâm. Chúng đang hòa nhập vào nhau để tạo nên cái đẹp nghệ thuật. Sự thống nhất của
cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng là lý tưởng thẩm mĩ của NT, là chuẩn mực để ông đánh giá nhân cách

con nguời. Đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo: cuộc gặp gỡ giữa tử tù và quản ngục, nhưng
cũng là cuộc hội ngộ giữa những kẻ “liên tài tri kỷ”, NT đã làm nổi bật vẻ đẹp thiên lương của HC, người
ngay cả cái chết cũng không hề biết sợ, nhưng lại sợ “phụ một tấm lòng”.
HC không chỉ cho chữ mà còn cho quản ngục lời khuyên về đạo lí làm người: “Ta khuyên thầy quản nên và
rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Những lời di huấn thiên liêng đó của HC cho ta thấy
quan niệm của NT: cái đẹp có thể ra đời ở mọi nơi nhưng không thể chung sống với cái xấu, cái ác bởi bản
chất của cái đẹp là cái thiện. Cái đẹp của văn chương nghệ thuật không thể tách rời cái đẹp của tình người.
*Miêu tả vẻ đẹp của HC trong sự thống nhất giữa cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng, NT cũng đã tạo nên
một cuộc đổi ngôi kì diệu về tư thế, vị thế của các nhân vật trong cảnh cho chữ. Hình ảnh HC cổ đeo gông,
25

×