Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh lớp 4 thông qua dạy học môn toán theo mô hình trường học mới (VNEN)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2



KHƯƠNG THỊ TỰ



RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 4
THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN TOÁN
THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI (VNEN)

Chuyên ngành: Giáo dục học (Bậc tiểu học)
Mã số: 60 14 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS VŨ QUỐC CHUNG





HÀ NỘI, 2015



2


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị, các em và
các bạn. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn
chân thành tới:
PGS. TS Vũ Quốc Chung, người thầy kính mến đã hết lòng giúp đỡ, dạy
bảo, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học
tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin được trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy cô Phòng đào tạo sau
đại học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô, học sinh tham gia dạy và học theo
mô hình trường học mới Trường tiểu học Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội
đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát và thực nghiệm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ở bên
cạnh động viên và giúp đỡ tôi học tập làm việc và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 1 năm 2015
Người thực hiện luận văn



Khương Thị Tự


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi và
không trùng lặp với các đề tài khác.

Hà Nội, ngày 5 tháng 1 năm 2015


Khương Thị Tự


4

MỤC LỤC
Lời cảm ơn…………………………………………………………….…… 2
Lời cam đoan………………………………………………………….…… 3
Mục lục……………………………………………………………… 4
Danh mục biểu bảng, Sơ đồ, hình ảnh………………………………… ……8
Danh mục viết tắt………………………………… ………………….….….9
Mở đầu……………………………………………………….…………… 10
1. Lý do chọn đề tài……………………………………….…………………10
2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………… ………11
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu……………………………………….11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………… …11
5. Giả thuyết khoa học……………………………………………………….12
6. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………… 12
7. Những đóng góp của luận văn…………………………………………….12
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN……….……………… 13
1.1. Cơ sở lí luận………………………………………………… ……… 13
1.1.1. Một số biểu hiện của kỹ năng tự học………………………………13
1.1.1.1. Khái niệm và bản chất của tự học……………………… ….13
1.1.1.2. Một số biểu hiện của kĩ năng tự học…………………………16
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa dạy học và tự học…………………………18
1.1.2. Biểu hiện của kỹ năng tự học của học sinh lớp 4……………… 19
1.1.2.1. Kỹ năng tự học của học sinh lớp 4………………….……… 19



5

1.1.2.2. Một số biểu hiện của kỹ năng tự học của học sinh lớp 4 trong
môn Toán…… ……………………………….……21
1.1.3. Một số biểu hiện của rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh lớp 4 21
1.1.4. Đặc điểm của VNEN……………… ……………………….…….24
1.1.4.1. Mục tiêu và đặc điểm của VNEN…………… …………… 24
1.1.4.2. Cấu trúc các môn học và hoạt động giáo dục trong
VNEN……………………………………………………………………… 25
1.1.4.3. Tổ chức và quản lý lớp học trong VNEN………… ……… 26
1.1.4.4. Cấu trúc bài học của sách Hướng dẫn học Toán 4 theo
VNEN…………… …………………………………………………………31
1.1.5. Biểu hiện phát triển kỹ năng tự học Toán của học sinh lớp 4 trong
VNEN………………………………………………………… 33
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN……………………………………………………34
1.2.1. Một số chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về dạy học môn Toán
lớp 4 trong VNEN……………………… ……… ……………………… 34
1.2.1.1. Nội dung dạy học môn Toán lớp 4 – VNEN…………………34
1.2.1.2. Kế hoạch dạy học môn Toán lớp 4 – VNEN……………… 35
1.2.1.3. Phương pháp dạy học môn Toán lớp 4 – VNEN………… 35
1.2.2. Thực trạng triển khai tổ chức dạy học môn Toán lớp 4 – VNEN…39
1.2.2.1. Về môi trường lớp học……………………………………….39
1.2.2.2. Về hoạt động của mạng lưới cộng đồng………….………….40
1.2.2.3. Về góc Toán và đồ dùng học tập toán……………………….41
1.2.2.4. Về học sinh………………………….……………………….42


6


1.2.2.5. Về giáo viên………………………………………………….44
KẾT LUẬN CHƯƠNG I………………………………… ……………….46
CHƯƠNG II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC
CHO HỌC SINH LỚP 4 THÔNG QUA MÔN TOÁN THEO
VNEN…………………………………………………………………… …47
2.1. Vận dụng và phát huy vai trò của hội đồng tự quản để hỗ trợ học sinh tự
học cá nhân………………………………………………………………… 47
2.1.1. Tác dụng của hội đồng tự quản đối với quá trình tự học………… 47
2.1.2. Hoạt động của hội đồng tự quản trong hỗ trợ học sinh tự học cá
nhân……………………………………………………………………… 48
2.2. Vận dụng và phát huy vai trò của hội đồng tự quản để hỗ trợ học sinh tự
học theo nhóm……………………………………………………………….54
2.2.1. Tác dụng của tổ chức học tập theo nhóm đối với quá trình tự học của
học sinh………………………………………………………………………54
2.2.2. Hoạt động của hội đồng tự quản trong hỗ trợ học sinh tự học theo
nhóm ……………………………………………………………………….55
2.3. Vận dụng và phát huy vai trò của hội đồng tự quản để hỗ trợ học sinh tự
kiểm tra, đánh giá……………………………………………………………60
2.3.1. Các loại hình kiểm tra, đánh giá………………………………… 61
2.3.1.1. Kiểm tra, đánh giá thường xuyên…………………………….61
2.3.1.2. Kiểm tra, đánh giá định kì……………………………………62
2.3.2. Hoạt động của hội đồng tự quản trong việc hỗ trợ học sinh tự kiểm
tra, đánh giá………………………………………………………………….62
KẾT LUẬN CHƯƠNG II………………………………………………… 71


7

CHƯƠNG III: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM… ………………….……… 72

3.1. Mục đích thực nghiệm………………………………… ………………72
3.2. Đối tượng thực nghiệm………………………… …………………… 72
3.3. Thời gian thực nghiệm……………… ……………………………….72
3.4. Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm………………………….72
3.5. Kết quả thực nghiệm……………………………………………………73
3.5.1. Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm…………….…………………73
3.5.2. Kết quả kiểm tra sau thực nghiệm…………………………………73
KẾT LUẬN CHƯƠNG III……………………………………………… 75
Kết luận chung……………………………………………………………….76
Ý kiến đề xuất……………………………………………………………… 77
Tài liệu tham khảo………………………………………………………… 79
Phụ lục……………………………………………………………………….80


8


DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG , SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH

STT Tên biểu bảng, sơ đồ, hình ảnh Trang
1 Bảng 1.1 : Mối quan hệ giữa thầy (dạy) và trò (tự học) 19
2 Bảng 1.2: Bảng kế hoạch học tập mẫu 22
3 Hình 1.3: Hội đồng tự quản lớp 4E, Trường Tiểu học Tả
Thanh Oai
28
4 Hình 1.4: Góc Toán lớp 4A, Trường Tiểu học Tả Thanh Oai 29
5 Hình 1.5: Lô gô quy định các hình thức hoạt động của học
sinh
32
6 Bảng 1.6: Kết quả khảo sát góc Toán 41

7 Bảng 1.7: Kết quả khảo sát học sinh 43
8 Hình 2.1: Biểu đồ “Đánh giá hiệu quả của các hình thức học
tập”
55
9 Bảng 3.1. Kết quả kiểm tra học sinh trước thực nghiệm 73
10 Bảng 3.2. Kết quả kiểm tra học sinh sau thực nghiệm 74







9

DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
STT Từ, cụm từ Viết tắt
1 Giáo viên GV
2 Học sinh HS
3 Kiểm tra, đánh giá KT, ĐG
4 Mô hình trường học mới VNEN





















10

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI, thế kỷ mà sự
tiến bộ không ngừng của khoa học – công nghệ với những bước nhảy vượt
bậc một năm bằng hàng thế kỷ trước đó. Nếu không muốn tụt hậu với thời
đại, kịp thời nắm bắt những tri thức khoa học kĩ thuật tiên tiến, mỗi con người
phải không ngừng học hỏi, vươn lên tự hoàn thiện mình. Mục tiêu của giáo
dục Việt Nam là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp. Về cách học, khuyến khích học
sinh lấy tự học là chính, học tập một cách chủ động và sáng tạo, học tập suốt
đời. Mục tiêu này đã được giáo dục xác định và theo đuổi nhiều năm. Tuy
nhiên, nền giáo dục hiện tại theo đánh giá chung của toàn xã hội vẫn chưa
thực hiện được. Đại đa số học sinh hiện nay vẫn học một cách thụ động, máy
móc, nhất nhất học theo ý thầy và khả năng ứng dụng vào cuộc sống chưa
cao. Chính vì vậy mà phần lớn sản phẩm của giáo dục và đào tạo vẫn bị xã
hội phê bình là: thụ động, rập khuôn, máy móc, lý thuyết, khả năng ứng phó
với sự thay đổi cuộc sống chưa tốt, ý thức và trách nhiệm cộng đồng chưa

cao. Trước nhu cầu tất yếu của xã hội, giáo dục cần đi tìm lời giải cho bài
toán nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, nâng cao các năng lực nhận
thức, thực hành, vận dụng, giao tiếp,… cho học sinh nói riêng.
Để chuẩn bị cho đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục sau năm
2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thí điểm nhiều chương trình dạy
học mới, trong đó có Mô hình trường học mới gọi tắt là VNEN thí điểm ở cấp
Tiểu học. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, VNEN là kiểu mô hình nhà trường
tiên tiến, hiện đại. Mô hình này dựa trên kết quả và thành tựu đổi mới giáo
dục của quốc tế; vận dụng cách làm của giáo dục Colombia một cách sáng
tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam. Mô


11

hình này đã được UNICEF, UNESCO, Ngân hàng Thế giới ủng hộ và đánh
giá cao. Đặc điểm nổi bật của VNEN là chuyển đổi quá trình dạy học trong
mô hình trường học hiện hành theo hướng rèn luyện kỹ năng tự học của học
sinh thông qua việc thay đổi tài liệu học tập và tổ chức quá trình học của học
sinh trong môi trường Sư phạm tương tác giữa học sinh và học sinh, giáo viên
và học sinh, tạo không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện.
Có thể thấy mô hình thực nghiệm Trường mới Việt Nam với định
hướng cốt lõi là học sinh Tự học – Tự quản – Tự rèn luyện được coi là một
trong những giải pháp có ưu thế cho sự thay đổi giáo dục Việt Nam.
Chính vì những lí do trên mà chúng tôi chọn đề tài “Rèn luyện kỹ
năng tự học cho học sinh lớp 4 thông qua dạy học môn Toán theo mô
hình trường học mới (VNEN)”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh lớp 4
thông qua dạy học môn Toán theo mô hình trường học mới (VNEN).
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

– Đối tượng nghiên cứu: Các hình thức phương pháp tổ chức dạy học
môn Toán lớp 4 nói chung và phương pháp, quá trình tổ chức dạy học môn
Toán lớp 4 trong VNEN nói riêng.
– Khách thể nghiên cứu: Sách Hướng dẫn học Toán 4, học sinh, giáo
viên một số trường đang thí điểm VNEN.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Nghiên cứu tài liệu về năng lực tự học của học sinh tiểu học và tài
liệu về VNEN.
– Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học khi học toán nói
chung và học toán theo VNEN nói riêng.


12

– Khảo sát thực trạng việc dạy và học môn Toán lớp 4 theo tài liệu Hướng
dẫn học Toán 4 trong VNEN ở một số nơi thuộc phạm vi dự án.
– Đề xuất các các biện pháp rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh
lớp 4 thông qua môn Toán theo VNEN.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng và phát huy được vai trò của Hội đồng tự quản để hỗ trợ
học sinh tự học và kết hợp với tự kiểm tra đánh giá thì đề tài sẽ góp phần hình
thành và phát triển được kỹ năng tự học cho học sinh lớp 4 thông qua dạy học
môn Toán theo VNEN.
6. Phương pháp nghiên cứu
– Nghiên cứu tài liệu, tổng hợp và phát triển lý luận.
– Khảo sát thực tế.
– Phương pháp thực nghiệm.
– Phương pháp thống kê và xử lí số liệu.
7. Những đóng góp của luận văn
Đề xuất các biện pháp rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh lớp 4

thông qua môn Toán theo VNEN để đảm bảo mục tiêu Tự học – Tự quản –
Tự rèn luyện của mô hình, góp phần nhỏ bé trong việc xây dựng hệ thống căn
cứ khoa học và thực tế để xây dựng VNEN từ mô hình thực nghiệm đi lên mô
hình chính thức.


13

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Một số biểu hiện của kỹ năng tự học
1.1.1.1. Khái niệm và bản chất của tự học
Có nhiều khái niệm khác nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa
tiêu biểu:
Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự
học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong
thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh
nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến
tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo của
chủ thể.
– Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ biên, coi “Tự học là việc
hoàn thành các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy”
– Theo tác giả Lê Khánh Bằng thì tự học (self learning) là tự mình suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một
lĩnh vực khoa học nhất định.
– Theo GS. Đặng Vũ Hoạt và PGS. Hà Thị Đức trong cuốn “Lý luận dạy
học đại học” thì “Tự học là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm
vững hệ thống tri thức và kĩ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp
hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã

được quy định. Tự học có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học nhưng nó có
tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá nhân.
Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của
mỗi người do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích luỹ
kiến thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự
tiến bộ của xã hội”.


14

Theo GS.TS. Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp ) và
có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi
cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực,
khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng
say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi v.v ) để
chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành
sở hữu của mình”. (Nguyễn Cảnh Toàn, Quá trình dạy – tự học, NXB Giáo
dục, 1997)
Từ những quan điểm về tự học nêu trên, chúng tôi đi đến định nghĩa về
tự học như sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc
lập tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành
động của chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định.
Về các cấp độ của tự học, xin được nhắc lại các cấp độ đã được thống
nhất trong nhiều tài liệu nghiên cứu đi trước:
Cấp độ 1: Tự học hoàn toàn (học với sách, không có thầy bên cạnh)
Học với sách, không có thầy bên cạnh thường được hiểu là tự học.
Nhưng hiểu như vậy thì hơi hẹp. Bởi hoạt động dạy của người thầy thực chất
chỉ là ngoại lực tác động đến người học. Sự tác động này phải kết hợp được
với nội lực của người học thì mới đạt được hiệu quả.

Thật vậy, qua theo dõi, quan sát, có thể thấy ngay trong cùng một lớp
học, với các học sinh cùng độ tuổi, tất cả đều không có những bất thường về
tâm sinh lí cùng hoạt động theo một tài liệu hướng dẫn học tập như nhau
nhưng kết quả đạt được của mỗi em là khác nhau. Sự khác nhau này phần
nhiều là do nội lực của từng em. Cụ thể, những em chịu khó đọc, tìm hiểu,
thực hiện các bước học tập đầy đủ như hướng dẫn sẽ có kết quả tốt hơn những
em không tuân thủ nghiêm túc quá trình hoạt động.


15

Sách cũng chính là sản phẩm của các tác giả viết ra, cùng một quyển
sách nhưng sự tiếp thu và kiến thức mỗi người thu nhận được sau khi đọc
xong là không giống nhau. Học với sách thì khó khăn hơn khi học với thầy và
nếu có thắc mắc thì không có người để hỏi. Nhưng có như vậy, thì người học
mới cố gắng động não để tìm hiểu, giải đáp những thắc mắc của mình, thậm
chí tra cứu thêm những tài liệu có liên quan khác. Cách làm việc này có thể
mất thời gian hơn, song phải động não nhiều và người học quen dần với tác
phong “làm việc độc lập với sách”. Có như vậy thì người học mới rèn luyện
cho mình được năng lực tự học, tự học suốt đời vì không phải lúc nào cũng có
thầy bên cạnh.
Vậy nên tự học có thể diễn ra khi có thầy, có sách, cả khi không có thầy,
không có sách. Trong trường hợp này, khả năng đạt hiệu quả cao là khó khăn,
vì người học chỉ có thể học tập nhờ cọ xát và trải nghiệm trong thực tiễn. Đặc
biệt, đối với học sinh tiểu học, mức độ tự học hoàn toàn không thầy không
sách càng khó khăn hơn. Do đó, trước hết phải học một cách có hệ thống với
thầy, sau đó với sách, nắm chắc kiến thức cơ bản một cách có hệ thống, từ đó
tự mình sưu tầm tài liệu và mở rộng kiến thức bản thân một cách có chiều sâu
hơn.
“Tự học hoàn toàn” là mức độ mỗi người học cần đạt đến để có thể “Tự

học suốt đời” nhưng trước hết phải biết “Tự học có hướng dẫn”.
Cấp độ 2: Tự học có hướng dẫn
Tự học có hướng dẫn là hình thức hoạt động tự lực của người học để
chiếm lĩnh tri thức và hình ảnh kỹ năng tương ứng dưới sự hướng dẫn, tổ
chức, chỉ đạo của giáo viên thông qua tài liệu hướng dẫn tự học.
Có hai mức độ tự học có hướng dẫn:
Mức độ 1: Người học có sự hỗ trợ trực tiếp của thầy và sách giáo khoa, có thể
thông qua các phương tiện, công cụ hỗ trợ việc dạy học như máy tính, máy chiếu…


16

Mức độ 2: Người học có sách giáo khoa và có giáo viên ở xa hướng dẫn
tự học bằng tài liệu hoặc bằng các phương tiện thông tin viễn thông khác.
Hướng dẫn tự học chủ yếu là hướng dẫn tư duy trong việc chiếm lĩnh kiến
thức, hướng dẫn tự phê bình về tính cách trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
1.1.1.2. Một số biểu hiện của kỹ năng tự học
Biểu hiện của kỹ năng tự học là:
* Người học biết xác định mục đích học tập. Trước tiên, để quá trình tự
học diễn ra thành công người học cần thiết lập cơ sở định hướng của hành
động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn mà chủ thể có thể sử dụng nó để
thực hiện một hành động xác định nào đó. Nó có chức năng nhận thức đối
tượng, vạch kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh hành động theo kế hoạch. Để có
được cơ sở định hướng, người học phải trả lời được các câu hỏi:
- Học nhằm mục đích gì? Học vì yêu thích môn học, vì trách nhiệm với
gia đình và xã hội, hay vì để được khen, được đánh giá cao…
- Thái độ học tập ra sao? Học với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời
hợt qua loa
- Học như thế nào? Người học nên chọn phương pháp nào là phù hợp
với bản thân.

* Người học biết lập kế hoạch. Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu người học
xác định được mục tiêu, nội dung và phương pháp học. Muốn vậy, người học
phải xây dựng được kế hoạch học tập. Trên cơ sở bộ khung đã được thiết lập
đó, người học có thể tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức một cách dễ dàng. Trong
quá trình lập kế hoạch người học phải chú ý một số điểm sau:
- Thứ nhất, người học phải xác định tính hướng đích của kế hoạch. Đó
có thể là kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí kế hoạch cho từng môn, từng
phần. Kế hoạch phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm,
từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình.


17

- Thứ hai, khi lập kế hoạch, người học phải chọn đúng trọng tâm, cần
xác định được cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời
gian công sức cho nó.
* Người học biết xác định nội dung học tập. Trong vô số những kiến
thức cần chiếm lĩnh, người học cần xác định được nội dung nào là cần thiết
cho việc tự học.
* Người học biết lựa chọn tài liệu, đồ dùng, phương tiện học tập. Ngày
nay rất nhiều tài liệu có thể giúp học sinh tự học, tuy nhiên để tự học hiệu quả
người học cần biết lựa chọn tài liệu, đồ dùng cũng như phương tiện phù hợp
với khả năng tiếp nhận, phù hợp với trình độ, phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh gia đình.
* Người học biết thu thập thông tin từ các tài liệu đã lựa chọn. Trong
việc tiếp cận các thông tin, người học cần biết lựa chọn và chủ động tiếp nhận
thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định
như đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, làm thí
nghiệm… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin
một cách thông minh và linh hoạt.

* Người học biết xử lý thông tin từ các tài liệu đã lựa chọn: việc xử lý
thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự
gia công, xử lý mới có thể sử dụng được. Quá trình này có thể được tiến hành thông
qua các kỹ năng ghi chép, phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh…
* Người học biết vận dụng tri thức, thông tin: thể hiện qua việc vận
dụng thông tin tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực
hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình huống, viết bài thu hoạch…
* Người học biết trao đổi, phổ biến thông tin: việc trao đổi kinh
nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức thông qua các hình thức: thảo luận, thuyết
trình, tranh luận… là công việc cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức.


18

* Người học biết tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm. Khi người học
tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự đánh giá được
năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái gì mình
chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. Để có kỹ năng tự
kiểm tra, đánh giá, học sinh cần:
- Tự trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa bằng cách xác định yêu cầu
của câu hỏi, dự kiến câu trả lời, tái hiện các kiến thức liên quan, tập trình bày
câu trả lời trước nhóm hoặc trước lớp để tìm ra chỗ sai từ đó khắc phục.
- Tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết hoặc thảo luận cùng bạn bè.
- Làm các bài tập của thầy cô giao cho, hoặc các bài tập bản thân tự tìm
kiếm sau đó tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh nghiệm…
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa dạy học và tự học
Mỗi mô hình dạy học thường có 3 thành tố trọng tâm, quan trọng đó là
THẦY – TRI THỨC – TRÒ (ngoài ba thành tố này còn các thành tố khác như
cơ sở vật chất, cộng đồng,… nhưng ở đây chúng tôi tập trung tìm hiểu, nhấn
mạnh mối quan hệ giữa ba thành tố kể trên). Trong mối quan hệ này, thầy

thực hiện việc dạy, trò thực hiện việc học để chiếm lĩnh tri thức. Ba thành tố
này có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Ở mỗi thời kì, mỗi
quan điểm giáo dục khác nhau thì vai trò của chúng cũng khác nhau. Theo
quan điểm dạy học truyền thống, thầy đóng vai trò trung tâm, truyền thụ tri
thức cho trò. Theo quan điểm dạy học hiện đại, đặc biệt coi trọng và phát triển
tự học thì trò trở thành trung tâm. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi tập
trung nghiên cứu mối quan hệ thầy – tri thức – trò theo quan điểm lấy trò
(việc học của trò) là trung tâm.
Như trên đã nói, tự học thực chất là một quá trình mà ở đó trò tự nghiên
cứu, tự tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình. Như vậy, tự học nhấn
mạnh đến vai trò nội lực của trò. Thầy với việc dạy là ngoại lực tác động vào quá


19

trình tự học của trò. Nội lực bao giờ cũng là yếu tố giữ vai trò quyết định đối với
sự phát triển của trò. Sự tác động của thầy dù quan trọng đến mấy vẫn là ngoại
lực hỗ trợ, thúc đẩy, tạo điều kiện cho trò tự học, tự phát triển và trưởng thành.
(Xem bảng 1.1)
THẦY (DẠY) TRÒ (TỰ HỌC)
Thầy hướng dẫn Trò tự đọc, tìm hiểu tài liệu, sách vở, đồ
dùng dạy học
Thầy tổ chức hoạt động học Trò tự thể hiện hoạt động học, tự trao
đổi, hợp tác đối thoại với bạn, với thầy
Thầy hỗ trợ trò cách tự học, cách
giải quyết vấn đề, cách xử lí tình
huống
Trò tự giải quyết vấn đề, tự xử lí tình
huống
Thầy là chuyên gia về việc học Trò là người tự học.

Thầy đánh giá trò trong suốt quá
trình và cuối quá trình học theo
quan điểm động viên, khuyến
khích. Kết quả đánh giá là một
trong những căn cứ để điều chỉnh
quá trình dạy sao cho phù hợp nhất
với trò.
Trò tự đánh giá mình, tham gia đánh giá
bạn cùng với thầy.

Bảng 1.1 : Mối quan hệ giữa thầy (dạy) và trò (tự học)
1.1.2. Biểu hiện của kỹ năng tự học của học sinh lớp 4
1.1.2.1. Kỹ năng tự học của học sinh lớp 4
Trước kia, khi nói đến kỹ năng tự học, kỹ năng điều chỉnh hoạt động học
của lứa tuổi tiểu học, nhiều nhà khoa học và nhà sư phạm tỏ ra nghi vấn. Tuy
nhiên, đến nay nhiều nhà khoa học đã chỉ ra rằng học sinh tiểu học đã có kỹ


20

năng thực hiện và điều chỉnh hoạt động học của mình. Chính điều này đã tạo
ra kỹ năng tự học ngày càng rõ ràng ở các em, nhất là khi quá trình dạy học
được tổ chức theo quan điểm lấy người học làm trung tâm, tập trung rèn luyện
cách học cho học sinh.
Thứ nhất, học sinh tiểu học có tính tò mò, có lòng ham hiểu biết, việc
kích thích sự tò mò ham hiểu biết này góp phần tạo động cơ tự tìm hiểu, tự
học cho các em.
Thứ hai, trí tưởng tượng của học sinh tiểu học phát triển rất mạnh và có
tính rõ ràng. Chính vì thế các em hoàn toàn có thể tưởng tượng ra một kết quả
mong muốn nào đó khi phải giải quyết vấn đề hay xử lí tình huống trong học

tập, tạo tiền đề cho quá trình tự tìm hiểu, tự học, tự hành động tìm ra tri thức.
Thứ ba, học sinh tiểu học có khả năng rút kinh nghiệm. Khi gặp một vấn
đề hay một tình huống phải giải quyết có tính tương tự với những vấn đề, tình
huống mà các em đã gặp trong quá khứ, các em có khả năng nhớ lại và giải
quyết nhanh hơn.
Thứ tư, ngôn ngữ của học sinh tiểu học ngày càng phát triển. Càng về
cuối cấp Tiểu học các em càng có kỹ năng biểu đạt rõ ràng về mặt ngữ pháp,
có kỹ năng diễn đạt ý nghĩ của mình một cách mạch lạc. Đây là một trong
những yếu tố để các em có thể đọc sách, trao đổi tương tác với bạn, với thầy
cô trong quá trình tự học.
Thứ năm, học sinh tiểu học có kỹ năng thực hiện các thao tác trí tuệ cơ
bản (so sánh, khái quát hoá, rút ra kết luận) để tự học.
Thứ sáu, học sinh tiểu học ở giai đoạn lớp 1, 2, 3 đã được làm quen và
chuẩn bị cho việc tự học cho nên lên lớp 4 kỹ năng tự học có thể được hình
thành và phát triển.
Với tất cả những điều kiện nêu trên cho phép học sinh tiểu học nói chung
và học sinh lớp 4 nói riêng thực hiện được các hoạt động tự học môn Toán


21

dưới sự hướng dẫn hợp lí của giáo viên và hỗ trợ của các tài liệu, đồ dùng
phương tiện dạy học cần thiết.
1.1.2.2. Một số biểu hiện của kỹ năng tự học của học sinh lớp 4 trong môn
Toán
Biểu hiện của kỹ năng tự học của học sinh lớp 4 trong môn Toán là:
- Biết xác định mục tiêu cho việc học Toán lớp 4.
- Tự đọc sách để nắm bắt kiến thức trong sách giáo khoa.
- Tự làm bài tập trong sách giáo khoa.
- Biết tự đánh giá khả năng lĩnh hội kiến thức của mình qua việc đối

chiếu với bạn hoặc trao đổi với bạn bè hoặc nhờ thầy cô đánh giá.
- Biết tìm tòi kiến thức ngoài sách giáo khoa để củng cố và nâng cao
kiến thức đã chiếm lĩnh được từ sách.
1.1.3. Một số biểu hiện của rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh lớp 4
Cái khó của việc tự học là bản thân học sinh phải có nội lực thích học,
yêu thích môn học, xuất phát từ mục đích bản thân, học cho ai, học vì cái gì.
Vì vậy Rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh lớp 4 là giúp cho học sinh lớp
4 có kỹ năng tự tạo động lực cho bản thân, biết xác định rõ mục đích học tập,
lên kế hoạch học tập và thực hiện nó một cách hiệu quả. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, muốn học sinh có ý thức tự học thì trước hết học sinh phải
yêu thích môn học đó. Vì vậy GV cần tạo cho HS niềm say mê môn học. GV
có thể dùng tiết dạy để giới thiệu về môn học, về những giá trị của môn học
trong thực tiễn bằng những ví dụ minh họa cụ thể nhằm kích thích động cơ
học tập ở các em. Kể chuyện về cuộc đời nhà toán học như giáo sư Ngô Bảo
Châu hoặc nêu những tấm gương tự học mà học giỏi.
Thứ hai, GV cần hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ
ban đầu. Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, GV không cần phải dạy ngay
mà cần giới thiệu sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một


22

cách khái quát nhất để HS hiểu và từ đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học
tập phù hợp. GV phải làm cho HS hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng
dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể và HS hoàn toàn có thể phấn đấu
thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế hoạch thời gian được xây dựng chi
tiết. Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy mỗi chương, GV sẽ cung cấp nội
dung và thời gian học và kiểm tra để HS nắm rõ. Đồng thời, GV có thể cho
HS đánh dấu vào trong sách bài nào học ngày nào, đến tiết nào sẽ kiểm tra.
Muốn HS tự xây dựng kế hoạch học tập thì GV phải là người cung cấp đầy đủ

kế hoạch dạy và học của bộ môn. (Bảng 1.2)
Nội dung Mục tiêu Nhiệm vụ/ Bài tập Hoạt động cụ thể

Thời gian
1.
2.
3.
….


Bảng 1.2: Bảng kế hoạch học tập mẫu
Thứ ba, GV hướng dẫn cho HS cách tìm và đọc sách hoặc tài liệu liên
quan đến môn học. GV cần nhấn mạnh cho HS thấy rằng, kiến thức môn học
không chỉ gói gọn trong nội dung SGK, trong bài giảng của GV mà đến từ
nhiều nguồn khác nhau. Do đó, GV cần giới thiệu cho HS những cuốn sách
hay, những tài liệu bổ ích liên quan đến môn học và khuyến khích các em tự
tìm kiếm, tự phân tích và tổng hợp kiến thức.
Thứ tư, GV nên dạy cho HS cách ghi chép và nghe giảng vì đây là
những kỹ năng học tập vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình


23

học tập của HS. Trình độ nghe và ghi chép của người học ở mỗi môn học
khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào đặc thù của từng môn học và phương
pháp giảng dạy của từng giáo viên. HS thường mang lối học thụ động, quen
tách việc nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí nhiều HS chỉ chờ GV đọc
mới có thể ghi chép được nội dung bài học, nếu ngược lại thì bỏ trống vở.
Điều này khiến HS có tâm lí ức chế, ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến
thức. Để khắc phục vấn đề này này, GV nên xây dựng bộ giáo trình mẫu, bên

cạnh nội dung của bài học có chừa khoảng trắng cho HS ghi chép những vấn
đề mà GV mở rộng. Đối với các vấn đề mà HS còn chưa rõ, có thể đánh dấu
để hỏi lại GV hoặc tìm hiểu thêm. GV phải rèn luyện cho HS cách ghi chép
nhanh bằng các hình thức gạch chân, tóm lược bằng sơ đồ hình vẽ những ý
chính. Đối với các vấn đề quan trọng, GV cần nhấn mạnh, lặp lại nhiều lần để
HS tiếp thu dễ dàng hơn.
Thứ năm, GV hướng dẫn cách học bài. GV nên giới thiệu và hướng dẫn
cho HS tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Benjamin S.Bloom.
Theo cách phân chia trong thang nhận thức của Bloom, HS có thể học cách
phân tích, tổng hợp, vận dụng tri thức vào từng tình huống thực tiễn, học cách
nhận xét, đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức khác… Cách tự học theo
mô hình các nấc thang nhận thức của Bloom sẽ giúp cho HS có thể học được
cách rèn luyện được năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng và phát triển tư
duy sáng tạo trong việc tìm ra những hướng tiếp cận mới đối với các vấn đề
khoa học.
Thứ sáu, GV yêu cầu học sinh tự kiểm tra và đánh giá kết quả học tập
của mình thông qua việc đối chiếu kết quả học tập với bạn hay trao đổi thảo
luận trong nhóm bạn, hoặc có thể nhờ thầy cô kiểm tra đánh giá.
Thứ bảy, GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS ở tiết học tiếp theo. Để
phát huy tối đa năng lực tự học và thúc đẩy HS tận dụng hết thời gian tự học,


24

GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS. Có như thế, các em mới định hướng
được cụ thể các nhiệm vụ mình cần làm tiếp theo. Sau khi đã tiếp nhận được
kiến thức cũ, các em có thể tìm hiểu kiến thức mới. Khi có sự chuẩn bị trước
ở nhà, việc học trên lớp sẽ trở nên có hiệu quả hơn rất nhiều.
Vấn đề tự học ở HS là một vấn đề không hề đơn giản. Muốn hoạt động
học tập đạt kết quả cao, đòi hỏi HS phải tự giác, không ngừng tìm tòi học hỏi.

Ngoài ra, sự định hướng của người thầy đóng vai trò quyết định thúc đẩy sự
thành công trong việc chiếm lĩnh tri thức của người học.
1.1.4. Đặc điểm của mô hình VNEN
1.1.4.1. Mục tiêu và đặc điểm của mô hình VNEN
Dự án Mô hình Trường học mới tại Việt Nam (Dự án GPE–VNEN,
Global Partnership for Education–Vietnam Escuela Nueva) là một dự án về
sư phạm nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường tiên tiến,
hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của Giáo dục Việt Nam.
a) Mục tiêu tổng thể của Dự án
– Tạo điều kiện cho trẻ em thuộc các nhóm trẻ khó khăn hoàn thành
chương trình giáo dục tiểu học có chất lượng, thông qua việc đổi mới cách tổ
chức các hoạt động giáo dục và hoạt động dạy học (chuyển việc dạy học từ lối
truyền thụ kiến thức của giáo viên sang hướng dẫn hoạt động học cho học
sinh mà không làm thay đổi chuẩn kiến thức, kỹ năng và kế hoạch dạy học
của chương trình hiện hành) ở trường tiểu học.
– Rút ra những bài học thực tiễn có giá trị về đổi mới việc tổ chức các
hoạt động dạy và học trên toàn quốc (ở cấp Trung Ương và địa phương) nhằm
chuẩn bị cho đổi mới căn bản, toàn diện cả về chương trình, nội dung, phương
pháp và đánh giá cho chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015, đồng
thời để đạt được giáo dục có chất lượng và bền vững.



25

b) Quy mô của Dự án (Tính đến năm học 2012 - 2013)
Năm học 2011–2012, tổ chức dạy–học thử nghiệm tại 12 trường của 6
tỉnh khó khăn ở phía Bắc, Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.
Năm học 2012–2013, tổ chức dạy–học thử nghiệm mở rộng tại 1.447
trường của 63 Tỉnh (TP) trên toàn quốc. Cụ thể :

– Các tỉnh khó khăn, gồm 20 tỉnh, với 1.143 trường;
– Các tỉnh trung bình, gồm 21 tỉnh, với 282 trường;
– Các tỉnh (TP) thuận lợi, gồm 22 tỉnh (TP), với 22 trường.
1.1.4.2. Cấu trúc các môn học và hoạt động giáo dục trong VNEN
Như chúng ta đã biết, học sinh tiểu học hiện nay đang có 9 môn học bắt
buộc là Tiếng Việt; Toán; Đạo đức; Tự nhiên và Xã hội (1, 2, 3) hoặc Khoa
học lớp 4, 5; Thể dục, Âm nhạc, Mỹ thuật, Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5; Thủ
công lớp 1, 2, 3 hoặc Kỹ thuật lớp 4, 5. Ngoài ra, còn phải học các môn Tự
chọn (Ngoại ngữ, Tin học) và tham gia các hoạt động tập thể (02 tiết/tuần) và
các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (4 tiết/tháng).
Khi học theo các lớp trong mô hình trường học mới, học sinh chỉ còn
phải học 4 môn bắt buộc là Tiếng Việt; Toán; Ngoại ngữ (bắt đầu học từ lớp
3); Tự nhiên và Xã hội 1, 2, 3 hoặc Lịch sử và Địa lý, Khoa học lớp 4, 5. Nội
dung các môn học khác được chuyển sang Hoạt động giáo dục. Với sự thay đổi
cơ cấu các môn học, hoạt động giáo dục theo hướng dự án, học sinh không mất
cơ hội phát triển toàn diện; mặt khác việc tham gia các hoạt động học tập, giáo
dục tại trường trở nên nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn; Như vậy, mô hình góp
phần “giảm tải” cho học sinh từ sự thay đổi về cơ cấu các môn học. Với tư cách
là một hoạt động giáo dục, giáo viên có quyền hoặc sử dụng tài liệu hiện hành
hoặc không sử dụng (ví dụ: có thể cho tập hát một bài dân ca địa phương, có
thể cho xem các ca sỹ biểu diễn qua video, clip); có thể tổ chức dạy học trong
lớp, nhà đa năng, phòng chuyên dụng (phòng Giáo dục Âm nhạc, Phòng giáo

×