Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Ẩn số một bài ca dao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.21 KB, 4 trang )

ẨN SỐ MỘT BÀI CA DAO
Phương Vân
Không chỉ đi tìm cái đẹp, thi sĩ còn khao khát gửi cái đẹp đến cho đời.
Thi sĩ thường vô tâm nhưng cái đẹp thì ít khi dễ tính. Vì thế mà nhiều lúc
thơ thật khó hiểu. Về phía người đọc thì lại hay chủ quan là đã hiểu rồi, nhất
là những bài thơ có quá nhiều độc giả. Lại lắm khi người đọc đem cái đã có
để hiểu cái chưa có. Từ đó, thay vì nỗ lực khai quật một ẩn số , ta lại đem
một đáp số có sẵn để gi ãi mã một văn bản vốn tinh khôi. B ài ca dao quen
thuộc đến cũ càng là một trường hợp như thế:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo m ăng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Bài ca dao thật dễ khiến ta hiểu rằng đó là hình ảnh người phụ nữ tảo
tần, chịu thương, chịu khó. Yêu chong, thương con, con c ò ấy phải vất vả cả
ban đêm, thời gian mà lẽ ra con cò tạm thời ở yen trong mái ấm gia đ ình.
Rồi giữa mịt mù của bóng đêm quái ác, con cò đã lâm nạn. Cò kêu cứu
nhưng đồng thời không sợ chết, miễn l à:
“Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”
Đến đây, bài ca dao trở thành lời răn dạy về lẽ sống chết ở đời:
- Chết vinh hơn sống nhục
(Tục ngữ)
- Đến điều sống đục sao bằng thác trong
(Truyện Kiều)
Cũng lạ. Nếu phải tảo tần v ì chồng con rồi tử nạn thì cái chết ấy có thể
xưm như một hành vi “tựu nghĩa”, con cái về sau sẽ ngẩng cao đầu. Cớ chi
cò mẹ lại sợ cò con đau lòng? Không phải nỗi đau mất mẹ mà ở đây là danh
dự , là phẩm tiết, có thể để lại tai tiếng cho gia đ ình, làm tổn thương cả dòng
tộc và trong thời gian là “di chứng tật nguyền” cho những thế hệ mai sau .


Rồi lại nữa, nếu vì chồng con mà cò mất mạng thì trước phút chết tại sao cò
lại chỉ lo nghĩ đến đ àn con mà không mảy may nghĩ đến chồng . Tình mẫu
tử có đấy còn đạo phu phụ ở đâu? Không có một tín hiệu n ào trong văn bản
thông báo con cò này là con cò góa phụ.
Đó đây nghe chừng không ổn.
Biết đâu tác giả khuyết danh n ào đó có tư tưởng tiến bộ, có trái tim
cận nhân tình nên không chịu nổi những định kiến ng àn đời tưởng là chân lí
nhưng lại bất cận nhân tình. Từng thấu hiểu những oan khuất của ng ười phụ
nữ trong xã hội cũ, tác giả khuyết danh đ ã lên tiếng? Đọc lại bài ca dao:
“Con cò mà đi ăn đêm”
Con cò nhỏ bé, bóng đêm mênh mang. Màu lông tr ắng bạch của nó
với màu đen đặc quánh của đêm sâu tạo nên cái đối lập đến tàn nhẫn. Người
đọc cảm động và lo sợ cho cò. Quy luật liên tưởng làm màn hình vỏ não
chớp nháy liên tục.
-Nửa đêm giờ tí canh ba…
- Dặm khuya ngất tanh mù khơi…
Con cò sợ ma chết lẫn ma sống…
Thêm nữa, dòng thơ sáu âm tiết toàn là những thanh bằng. Cánh c ò
lướt nhẹ qua đêm lặng lẽ quá chăng, đôi chân gầy của c ò trên đường khuya
lặng lẽ quá chăng mà dòng thơ tịnh êm đến thế? Dòng thơ lại tuyệt không
coa một từ tượng thanh. Đêm, êm hơi đến rợn người…Đôi mắt của cò không
có khả năng quan sát trong bóng tối. Tính nghịch lí củ a vấn đề ngưng kết
trong chữ “mà”. Trong tiếng Việt, “mà” là một kết từ , nó xuất hiện thì
những gì được nói sau đó thì sẽ trái ngược với điều được nói trước đó (Dốt
mà thi đỗ, giàu mà kiết…). Sự xuất hiện của từ “mà” đã ngầm nêu một tình
huống có vấn đề, ngầm báo động một tr ường hợp khác thường. Vậy cái
không thể xảy ra đã xảy ra. Con cò đi đâu, làm gì, trong đêm tối? Bí ẩn nằm
ở chữ “ăn đêm”. Ngờ rằng việc ăn đêm của cò không minh bạch cho lắm (!).
Lại nhớ câu nói khác lạ m à tuyệt vời củaCharles Baudelaire: “Đ êm tối là
thời gian của kẻ cướp vầ thi nhân”. Cò đi ăn trộm về nuôi chồng con đang

đói chăng? Không đư ợc, cái “nghề” một đêm bằng ba năm làm ấy chỉ dành
cho đấng mày râu. Không là kẻ cướp, không là kẻ trộm, cò vẫn có thể đi ăn
cắp vặt. Cứ cho là như thế thì tại sao trước lúc “xáo măng”, cò lại không hề
nghĩ đến chồng như đã nói ở trên? Rõ ràng là một ẩn số bí hiểm (!)… Bài lục
bát sáu dòng mà đã cóa 4 dòng biến thể:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm…
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào…
Vần lục bát không bình thường bởi có chuyện không b ình thường.
Nếu thế thì cái cành mềm kia sẽ là cạm bẫy hay một đối t ượng nào đó mà
còn vô phúc “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”. Chợt nhớ lại b ài học được truyền
tụng cho người phụ nữ:
“Chim khôn tìm cành mà đậu…”
Ngơ ngác, thật thà, cò lộn cổ xuống ao; lại th êm bóng tối tàn nhẫn nên
mắt của cò không còn nhìn xa, trông r ộng. Cò không dủ khôn lanh. Có mấy
ai thiệt thà, hiền lành, yếu đuối như cò mà lại khôn lanh đâu? Bị bắt quả
tang, cò không còn đường chạy chối, đành van xin:
“Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo m ăng”
Cò kêu cứu đồng thời kêu oan. Lại gặp “ông”,người mà trước đây
từng vu oan,giáng họa cho cò:
Cái cò, cái vạc, cái nông
Sao mày dậm lúa nhà ông hỡi cò!
- Không, không tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi
Có thể là “ông”- cường hào địa chủ quen thói đổ vạ cho ng ười để
kiếm ăn. Vô phúc cho ai hi ền lành, thấp cổ, bé miệng mà bị ông vớ
được…Chuyện “dậm lúa” năm x ưa có lẽ cuối cùng cũng qua được, còn
chuyện “ăn đêm” của cò lần này thì không còn đường chạy chối. “Ông”

cũng có thể là một anh trương tuần làm nhiệm vụ gác đêm ở đầu thôn cuối
xóm đã bắt gặp một chuyện động trời. “Ông” cũng c òn có thể là một nhân
vật phiếm chỉ, , đại biểu của dư luận nghiệt ngã, lạnh lùng. Có dư luận nào
lại buông tha cho dâm phụ? Cho d ù ai đi nữa cũng chẳng bao giờ đứng về
phía con cò. Đi trước thời đại như Hồ Xuân Hương, lá chắn cho người phụ
nữ, cũng đứng về phía ai đó “không chồng m à chửa”, chưa thấy một lần bà
đứng về phía người đàn bà ngoại tình (!). Thế thì con con cò bị người ta
“thịt” mất. Dư luận tha hồ xẻ thịt, lột da ng ười đàn bà ăn đêm bất chính.
Nhưng vì sao người đàn bà lại làm chuyện tày trời đến thế? Nếu soi bằng
nguyên lí nhân quả của luận lí học th ì “Không có gì xảy ra mà không có
nguyên nhân vì sao nó x ảy ra như thế”. Đã nhiều lần người đàn bà than thở
về người chồng không “đáng tấm chồng”:
- Chồng em nó chẳng ra gì…
- Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây…
Bao lần báo động, làng nước vẫn im. Ngày ấy, người đàn ông thì sống
sao cũng được, làm gì cũng được. Họ có quyền giày xéo, cày xới, dẫm nát số
phận người vợ mà vẫn không sao. Còn người phụ nữ, người vợ thì đạo tam
tòng của Tống Nho là cái vòng kim cô đã thắt trên đầu. Họa hiếm gặp được
anh chồng biết điều thì người vợ nơi thôn cùng xóm v ắng may ra còn thở
được. Mười hai bến nước con cò đã rơi vào bến đục và cứ thế triệu triệu con
cò suốt ngàn năm câm nín. Con c ò ăn đêm là con cò toan phá bẻ xiềng gông,
con cò “nổi loạn”, con cò trả thù số phận. Chẳng cần chồng hiểu v ì chồng
chẳng ra gì. Cò chỉ sợ cho con. Cò con lớn lên rồi cò cháu, cò chắt, sau này.
Cò lo sợ hậu duệ của nó có bị dư luận xỉ vả mà tủi nhục với làng nước,
không ngóc đầu lên được. Cò mong được xáo nước trong là thế. Nhưng ở
một nền văn minh lúa n ước với hệ tư tưởng phong kiến sắc lạnh, bủa vây th ì
nỗi niềm và ước mong của cò vẫn cứ lạnh lùng tan trong bóng đêm mịt mù
ngất lạnh. Cò con đâu thấu hiểu cho mẹ, ng ười mẹ từng cúi đầu câm lặng,
nhẫn nhục nuôi con, lòng dạ lúc nào cũng sáng trong, trong như nước trong

nguồn chảy ra. Cò con cứ hiểu cò mẹ qua mạng lưới “ viễn thông vô tuyến”
và tự phát sóng khắp làng trên xóm dưới rồi ghê gớm hơn là thành một thứ
“bia miệng nghìn năm”. Cò mẹ là nạn nhân hay thủ phạm? Vẫn c òn đó
những chuyện muôn đời không nói năng. Uẩn khúc của con c ò là một ẩn số,
một ẩn số có khả năng đa nghiệm!
Nhưng dù sao thì cuối cùng cò cũng ít nhiều nói được nên lời,
còn hiểu được uẩn khúc của cò hay không là một chuyện khác. Nếu nói như
một nhà hiện sinh học phương Tây thì “ Kêu lên đau thương là vượt qua đau
thương rồi” (Nommer le malheureux c’ét le dépasser). Có phải v ì thế mà hai
dòng lục bát cuối cùng, một chúc thư của cò, không cần biến thể nữa mà trở
lại trật tự bình thường. Cò đã có một chút nhẹ nhõm chăng”
“Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”
Bài đã dăng Văn học và tuổi tre, số 35 và 36, Xuân Kỉ Mão - 1999

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×