Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận môn luật kinh tế đề tài công ty hợp danh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.87 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:
CÔNG TY HỢP DANH
Môn học: Luật Kinh tế
TP. Hồ Chí Minh, 02/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:
CÔNG TY HỢP DANH
Môn học: Luật Kinh tế
Giảng viên phụ trách: ThS.Vương Tuyết Linh
Nhóm thực hiện: 3
Nguyễn Ngọc Quý
Nguyễn Vũ Hoài Nhân
Lê Thị Hồng Mến
Đinh Thái Minh Thư
Nguyễn Thị Ngân
TP. Hồ Chí Minh, 02/2014
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY HỢP DANH 1
1. Lịch sử hình thành công ty hợp danh 2
2. Khái niệm, phân loại công ty hợp danh 3
3. Một số đặc điểm của công ty hợp danh 3
4. Các điều luật về công ty hợp danh 5
5. Ưu điểm và nhược điềm công ty hợp danh 11
CHƯƠNG II. THỰC TIỄN VỀ CÔNG TY HỢP DANH Ở VIỆT NAM 13
1. Nhận thức của xã hội đối với loại hình công ty hợp danh 13


3. Thực trạng đăng ký kinh doanh của công ty hợp danh 13
3. Hạn chế về công ty hợp danh 14
CHƯƠNG III. NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ GIÚP HOÀN THIỆN 19
1. Một số giải pháp 19
2. Một số kiến nghị 22
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
iệc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tập trung bao cấp sang phát triển nền kinh tế thị
trường hàng hóa nhiều thành phần đã tạo nên bước ngoặt lớn trong sự đi lên của
nền kinh tế đất nước Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết cho tình hình mới
của nền kinh tế đất nước, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những thay đổi kịp
thời và hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước cũng như thế giới.
V
Luật doanh nghiệp mới đầu ban hành chỉ đề cập tới hai loại hình công ty chủ yếu là
công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Sau một thời gian thực hiện Luật doanh
nghiệp thực tế cho thấy hai loại hình doanh nghiệp này phù hợp với thực tiễn đầu tư và kinh
doanh ở Việt Nam, nhưng vẫn chưa bao quát được hết loại hình công ty quan trong nhất theo
yêu cầu phát triển kinh doanh ngày càng đa dạng, phong phú. Chính vì thế ngày 12-6-1999
Luật doanh nghiệp mới đã bổ sung thêm một số loại hình doanh nghiệp trong đó có sự xuất
hiện của loại hình doanh nghiệp mới là công ty hợp danh.
Sự góp mặt của loại hình doanh nghiệp này đã mở rộng sự lựa chọn hơn nữa cho các
nhà kinh doanh, thu hút được nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, mở rộng hợp tác quốc tế
trong quá trình hội nhập. Mặt khác, việc góp sức, góp vốn, góp kinh nghiệm từ nhiều nhà đầu
tư sẽ góp phần tăng sức cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn mạnh.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY HỢP DANH
1. Lịch sử hình thành công ty hợp danh
1.1 Trên thế giới
Hợp danh theo nghĩa rộng xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử. Những chỉ dẫn đầu tiên
tới hình thức này là trong Bộ luật Hammurabi của Babylon, khoảng năm 2300 trước Công

nguyên. Người Do Thái, vào khoảng những năm 2000 trước Công nguyên đã hình thành
thuật ngữ shutolin (một dạng hợp danh phi thương mại). Sau này, những hợp danh mang tính
chất thương mại của người Do Thái hình thành từ những đoàn hội buôn.
1
Ở châu Âu, luật về hợp danh hình thành từ tập quán của các thương nhân. Người Pháp
dùng các thuật ngữ như societas, societe en common dite để chỉ các hình thức hợp danh.
Societas là hình thức hợp danh chỉ bao gồm các thành viên hợp danh, còn societe en common
dite bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.
2
Hợp danh được quy định trong Luật La mã (ví dụ như Bộ luật Justinian) với những
điều khoản rất tương đồng với luật hiện đại. Người La mã cũng hình thành nên những quy
định về đại diện, nền tảng của rất nhiều quy định của luật về hợp danh ngày nay. Ví dụ, Luật
La mã có quy định qui facit per alium facit per se - người thực hiện hành vi thông qua hành
vi của người khác cho bản thân người đó. Luật La Mã cũng xác định sự lựa chọn tự nguyện
của những người cộng tác với nhau bản chất của hợp danh, và nguyên tắc được gọi tên
delectus personas - sự lựa chọn của cá nhân, cho đến nay vẫn là thành tố mang tính trung tâm
của luật về hợp danh.
3
Ở Mỹ, luật pháp về công ty hợp danh chỉ mới được áp dụng sau khi Mỹ giành được
độc lập năm 1776.Và đến đầu thế kỉ XIX, công ty hợp danh đã trở thành loại hình kinh doanh
quan trọng nhất ở Mỹ. Ngày nay thì các đạo luật về công ty hợp danh đã tương đối hoàn
chỉnh và chi tiết hơn rất nhiều so với thời nó mới bắt đầu hình thành.
Người phương Đông cũng không xa lạ với phường, hội, cuộc và đủ loại liên kết bạn
buôn. Tuy nhiên mô hình hội người (societas) theo dân luật – thương luật hay mô hình hợp
danh (partnership) theo pháp luật Anh – Mỹ mới chỉ được du nhập trong một, hai thế kỷ trở
lại đây.
4
1.2 Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, hoạt động thương mại có từ lâu, chúng được điều chỉnh bằng thông lệ
và tập quán thương mại. Loại hình công ty hợp danh lại ra đời khá muộn so với các nước trên

thế giới. Ngay từ đầu nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, chịu ảnh hưởng nặng nề của chế
độ phong kiến, rồi sau đó là thuộc địa của các cường quốc phương Tây mà ảnh hưởng lớn và
kéo dài hơn cả là sự đô hộ của thực dân Pháp. Là thuộc địa của Pháp, nên có thời kỳ luật
thương mại của Pháp được áp dụng trong từng vùng lãnh thổ khác nhau. Mãi đến năm 1931,
1 Denis Clifford and Ralph Warner, 2006, Form A Partnership, 7th edition, Nolo Press, 2006. tr.8
2 Denis Clifford and Ralph Warner, 2006, Form A Partnership, sđd. tr.21
3 Denis Clifford and Ralph Warner, 2006, Form A Partnership, sđd. tr.23
4 Khoa Luật – ĐHQG Hà nội, 2006, Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật Kinh tế (Tập 1: Luật Doanh nghiệp),
NXB ĐHQG Hà nội, 2006. tr.52
6
Luật về công ty được quy định lần đầu tại Việt Nam trong "Dân luật thi hành tại các tòa Nam
án Bắc Kỳ", thì mới xuất hiện các mô hình công ty dưới tên gọi "hội buôn", "hội người", "hội
vốn", "hội đồng lợi"…nhằm phân biệt chúng với các hội khác không kinh doanh mà bản chất
chính là các doanh nghiệp tư nhân hay công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong đó công ty hợp
danh xuất hiện dưới hình thức là “Hội buôn” được chia làm hai loại Hội hợp danh và Hội hợp
tư.
Đến năm 1954, miền Bắc đã lấy kinh tế quốc dân làm chủ đạo, thực hiện nền kinh tế
tập trung, các thành phần kinh tế ngoài quốc danh vẫn không được thừa nhận. Và những quy
định của pháp luật về các loại hình công ty nói chung, công ty hợp danh nói riêng là không hề
tồn tại vào thời điểm này. Trước năm 1975, thì ở miền Nam loại hình công ty hợp danh được
ghi nhận trong Bộ Luật Thương Mại, cơ bản cũng giống như những quy định của pháp luật
Pháp.
Đến thời kỳ đổi mới năm 1990 luật pháp Việt Nam mới cho ra đời Luật công ty 1990,
Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật doanh nghiệp 1999. Nhưng mãi đến Luật doanh nghiệp
2005 với 11 điều mới hi vọng cung cấp đủ cho giới thương nhân thêm một mô hình để lựa
chọn cho phù hợp với ý tưởng kinh doanh của họ.
2. Khái niệm, phân loại công ty hợp danh
Mỗi quốc gia trên thế giới có có cách quy định khác nhau về công ty hợp danh, nhưng
tựu chung lại về bản chất ta đều thấy những biểu hiện sau: Đây là loại hình công ty đối nhân,
và yếu tố nhân thân của các thành viên công ty luôn được đặt ra đầu tiên. Công ty có thể có tư

cách pháp nhân hoặc không có tùy theo quy định của mỗi nước. Thành viên trong công ty có
thể chỉ có thành viên hợp danh hoặc có cả thành viên góp vốn. Nhưng điểm chung trong quy
định của pháp luật các nước là không có sự tách bạch về tài sản của công ty với tài sản của
các thành viên hợp danh và các thành viên này phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các
nghĩa vụ của công ty.
Tóm lại, có thể xây dựng một khái niệm khái quát về công ty hợp danh như sau: Công
ty hợp danh là một dạng liên kết mang bản chất đối nhân, thường không có tư cách pháp
nhân. Các thành viên trong công ty có thể chỉ có thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô
hạn hoặc bao gồm cả thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của
mình vào công ty.
Tại Việt Nam, theo Khoản 1 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định công ty hợp
danh là doanh nghiệp trong đó:
Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh
dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh). Vì bản chất của công ty hợp danh (general
partnership) đúng nghĩa là sự liên kết của các thương nhân đơn lẻ (sole trader hay sole
proprietorship) để kinh doanh dưới một tên hãng chung. Vì vậy, công ty hợp danh phải có từ
hai thành viên trở lên, nếu không thì sẽ vẫn chỉ là thương nhân đơn lẻ. Ngoài các thành viên
hợp danh, có thể có thành viên góp vốn.
Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
về các nghĩa vụ của công ty;
7
Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi
số vốn đã góp vào công ty.
Như vậy, nếu căn cứ vào tính chất thành viên và chế độ chịu trách nhiệm tài sản, thì
công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp có thể được chia thành hai loại:
Loại thứ nhất là những công ty giống với công ty hợp danh theo pháp luật các nước,
tức là chỉ bao gồm những thành viên hợp danh (chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản của công ty).
Loại thứ hai là những công ty có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn (chịu
trách nhiệm hữu hạn). Loại công ty này pháp luật các nước gọi là công ty hợp vốn đơn giản

(hay hợp danh hữu hạn), và cũng là một loại hình của công ty đối nhân.Với quy định về công
ty hợp danh, Luật Doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của các loại hình công ty đối nhân ở
Việt Nam hiện nay.
3. Một số đặc điểm của công ty hợp danh
Luật pháp mỗi nước đều đưa ra những quy chế pháp lý riêng cho công ty hợp danh.
Tuy nhiên, tựu chung lại, các quy định đều tương đối đồng nhất với nhau ở một số đặc điểm
cơ bản sau:
Thứ nhất, yếu tố nhân thân của các thành viên hợp danh luôn giữ vai trò quan trọng và
quyết định trong việc hình thành và hoạt động của công ty.
Thứ hai, về chế độ trách nhiệm của các thành viên trong công ty. Nếu trong công ty
hợp danh có bản chất đối nhân tuyệt đối, thì trách nhiệm của tất cả các thành viên là vô hạn
và liên đới trước mọi nghĩa vụ của công ty. Đây là một đặc trưng cơ bản của công ty hợp
danh nói riêng và công ty đối nhân nói chung.
Ngoài chế độ trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh, loại hình công ty hợp
danh có bản chất đối nhân tương đối còn có chế độ trách nhiệm hữu hạn của các thành viên
góp vốn. Vốn góp bao nhiêu thì trách nhiệm tương ứng bấy nhiêu đối với các khoản nợ của
công ty.
Thứ ba, tư cách pháp lý của thành viên hợp danh không thể chuyển nhượng hay để lại
thừa kế (trừ khi được các thành viên đồng ý). Điều này xuất phát từ bản chất đối nhân của
công ty. Vì thế, khi một thành viên ra khỏi công ty, hoặc chết thì công ty đó có thể sẽ phải
giải thể.
Thứ tư, tên gọi của công ty hợp danh phản ánh mối liên hệ chặt chẽ giữa các thành
viên hợp danh, và thường liên quan đến nhân thân của thành viên.
Công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam có những đặc điểm sau:
 Công ty có tư cách pháp nhân.
 Công ty phải có từ hai cá nhân trở lên tham gia thành lập bao gồm thành viên hợp
danh, thành viên góp vốn ( có thể có).
 Thành viên hợp danh phải là người có trình độ, có uy tín nghề nghiệp, chịu trách
nhiệm vô hạn đối với các hoạt động của mình.
8

 Thành viên góp vốn là thành viên chỉ góp vốn vào công ty và chịu trách nhiệm hữu
hạn trong phần vốn góp của mình.
 Tài sản của công ty độc lập với cá nhân, tổ chức khác và chịu trách nhiệm bằng chính
tài sản đó. Một tổ chức có tài sản độc lập có nghĩa là tài sản của nó được hình thành theo quy
định tương ứng của pháp luật và đương nhiên thuộc về sở hữu của tổ chức, tất cả các tài sản
của tổ chức đều mang danh của tổ chức đó. Thực tế hiện nay, có công ty hợp danh đã nhân
danh mình đăng ký sở hữu tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký như quyền sử dụng
đất, công trình xây dựng, phương tiện vận tải…Các tài sản đó đương nhiên thuộc quyền sở
hữu của công ty và hoàn toàn tách biệt với tài sản cá nhân của từng thành viên.
 Công ty hợp danh và các thành viên hợp danh của công ty phải chịu trách nhiệm vô
hạn. Đây là một vấn đề liên quan đến trách nhiệm của công ty hợp danh và các thành viên
hợp danh trong công ty hợp danh. Có ý kiến cho rằng, công ty hợp danh không thể là “một
pháp nhân” với lý do là thành viên công ty hợp danh “có trách nhiệm vô hạn”. Tuy nhiên,
quan điểm hiện đại cho rằng cần và có thể tách bạch rõ “tài sản độc lập” của pháp nhân công
ty hợp danh với trách nhiệm hữu hạn hay vô hạn của thành viên và công ty hợp danh. Do vậy,
Luật doanh nghiệp năm 2005 đã khẳng định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Thông thường, công ty hợp danh là tập
hợp các cá nhân là những người có chuyên môn cao, có uy tín và họ dùng chuyên môn, uy tín
của mình vào hoạt động kinh doanh cũng như làm nền tảng quyết định sự thành công trong
kinh doanh. Do đó, họ phải dùng toàn bộ tài sản của mình để bảo đảm chất lượng dịch vụ mà
họ cung cấp cho thị trường. Tùy thuộc vào điều lệ công ty, các thành viên hợp danh phải chịu
trách nhiệm vô hạn ngay từ đầu trong các hoạt động của mình hay chỉ phải thực hiện khi tài
sản của công ty không đủ thanh toán các khoản nợ. Như vậy, chủ nợ có quyền căn cứ vào
điều lệ công ty yêu cầu thành viên công ty hợp danh thanh toán nợ cho mình bằng tài sản của
thành viên công ty hợp danh không đưa vào kinh doanh.
 Thành viên của công ty hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc
thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác. Đối với công ty hợp danh, không có bộ máy
quản lý tập trung, các thành viên hợp danh trực tiếp quản lý điều hành công ty. Vì vậy, bất kỳ
thành viên hợp danh nào cũng có quyền đại diện cho công ty; ngược lại, công ty cũng có
quyền đại diện cho các thành viên hợp danh. Khi một thành viên của công ty ký kết một hợp

đồng với tổ chức, cá nhân ngoài công ty thì hợp đồng đó có hiệu lực đối với công ty và các
thành viên hợp danh khác trong công ty mà không phụ thuộc vào việc những thành viên này
có đồng ý hay không. Vì vậy, đây là một đặc điểm quan trọng của công ty hợp danh.
 Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
4. Các điều luật về công ty hợp danh
4.1. Thực hiện góp vốn và cấp giấy chứng nhận phần góp vốn:
Theo “Điều 131, Luật doanh nghiệp 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009”:
 Thành viên hợp danh và thành viên góp vốn phải góp đủ và đúng hạn số vốn như đã
cam kết.
 Thành viên hợp danh không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết gây thiệt hại
cho công ty phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho công ty.
9
 Trường hợp có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam
kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty;
trong trường hợp này, thành viên góp vốn có liên quan có thể bị khai trừ khỏi công ty
theo quyết định của hội đồng thành viên.
 Tại thời điểm góp đủ vốn như đã cam kết, thành viên được cấp giấy chứng nhận
phần vốn góp.
4.2. Tài sản của công ty hợp danh:
Theo “Điều 132, Luật doanh nghiệp 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009”:
 Tài sản góp vốn của các thành viên đã được chuyển quyền sở hữu cho công ty.
 Tài sản tạo lập được mang tên công ty.
 Tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do các thành viên hợp danh thực hiện nhân
danh công ty và từ các hoạt động kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh đã đăng ký của
công ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện.
 Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
4.3. Hạn chế đối với quyền của thành viên hợp danh:
(5)
 Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp
danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh

còn lại.
 Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người
khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục
vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
 Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp
của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp
danh còn lại.
4.4. Chấm dứt tư cách thành viên hợp danh:
(6)
a) Tư cách thành viên hợp danh chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
 Tự nguyện rút vốn khỏi công ty.
 Chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết.
 Bị Toà án tuyên bố là mất tích, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng
lực hành vi dân sự.
 Bị khai trừ khỏi công ty;
 Các trường hợp khác do Điều lệ công ty quy định.
b) Thành viên hợp danh có quyền rút vốn khỏi công ty nếu được Hội đồng thành viên
chấp thuận. Trong trường hợp này, thành viên muốn rút vốn khỏi công ty phải thông báo bằng
văn bản yêu cầu rút vốn chậm nhất sáu tháng trước ngày rút vốn; chỉ được rút vốn vào thời
điểm kết thúc năm tài chính và báo cáo tài chính của năm tài chính đó đã được thông qua.
c) Thành viên hợp danh bị khai trừ khỏi công ty trong các trường hợp sau đây:
 Không có khả năng góp vốn hoặc không góp vốn như đã cam kết sau khi công ty đã có
yêu cầu lần thứ hai.
 Vi phạm quy định tại Điều 133 của Luật này.
5 Điều 133, Luật Doanh Nghiệp 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009
6 Điều 138, Luật Doanh nghiệp 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009
10
 Tiến hành công việc kinh doanh không trung thực, không cẩn trọng hoặc có hành vi
không thích hợp khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của công ty và các thành viên
khác.

 Không thực hiện đúng các nghĩa vụ của thành viên hợp danh.
d) Trong trường hợp chấm dứt tư cách thành viên của thành viên bị hạn chế hoặc bị
mất năng lực hành vi dân sự thì phần vốn góp của thành viên đó được hoàn trả công bằng và
thoả đáng.
e) Trong thời hạn hai năm kể từ ngày chấm dứt tư cách thành viên hợp danh theo quy
định tại điểm a và điểm d khoản 1 điều này thì người đó vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã phát sinh trước ngày chấm
dứt tư cách thành viên.
f) Sau khi chấm dứt tư cách thành viên, nếu tên của thành viên bị chấm dứt đã được sử
dụng làm thành một phần hoặc toàn bộ tên công ty thì người đó hoặc người thừa kế, người
đại diện theo pháp luật của họ có quyền yêu cầu công ty chấm dứt việc sử dụng tên đó.
4.5. Tiếp nhận thành viên mới:
Theo “Điều 139, Luật doanh nghiệp 2009”:
 Công ty có thể tiếp nhận thêm thành viên hợp danh hoặc thành viên góp vốn; việc tiếp
nhận thêm thành viên mới của công ty phải được Hội đồng thành viên chấp nhận.
 Thành viên hợp danh hoặc thành viên góp vốn phải nộp đủ số vốn cam kết góp vào
công ty trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được chấp thuận, trừ trường hợp Hội đồng
thành viên quyết định thời hạn khác.
 Thành viên hợp danh mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty, trừ trường hợp thành viên đó
và các thành viên còn lại có thỏa thuận khác.
4.6. Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh:
(7)
Thành viên hợp danh có các quyền sau đây:
 Tham gia họp, thảo luận và biểu quyết về các vấn đề của công ty; mỗi thành viên hợp
danh có một phiếu biểu quyết hoặc có số phiếu biểu quyết khác quy định tại Điều lệ công ty;
 Nhân danh công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh đã
đăng ký; đàm phán và ký kết hợp đồng, thoả thuận hoặc giao ước với những điều kiện mà
thành viên hợp danh đó cho là có lợi nhất cho công ty;
 Sử dụng con dấu, tài sản của công ty để hoạt động kinh doanh các ngành, nghề kinh

doanh đã đăng ký; nếu ứng trước tiền của mình để thực hiện công việc kinh doanh của công
ty thì có quyền yêu cầu công ty hoàn trả lại cả số tiền gốc và lãi theo lãi suất thị trường trên
số tiền gốc đã ứng trước;
 Yêu cầu công ty bù đắp thiệt hại từ hoạt động kinh doanh trong thẩm quyền nếu thiệt
hại đó xảy ra không phải do sai sót cá nhân của chính thành viên đó;
 Yêu cầu công ty, thành viên hợp danh khác cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh
của công ty; kiểm tra tài sản, sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty bất cứ khi nào nếu
xét thấy cần thiết;
7Điều 134, Luật doanh nghiệp 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009
11
 Được chia lợi nhuận tương ứng với tỷ lệ vốn góp hoặc theo thoả thuận quy định tại
Điều lệ công ty;
 Khi công ty giải thể hoặc phá sản, được chia một phần giá trị tài sản còn lại theo tỷ lệ
góp vốn vào công ty nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ khác;
 Trường hợp thành viên hợp danh chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết thì người
thừa kế của thành viên được hưởng phần giá trị tài sản tại công ty sau khi đã trừ đi phần nợ
thuộc trách nhiệm của thành viên đó. Người thừa kế có thể trở thành thành viên hợp danh nếu
được Hội đồng thành viên chấp thuận;
 Các quyền khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
Thành viên hợp danh có các nghĩa vụ sau đây:
 Tiến hành quản lý và thực hiện công việc kinh doanh một cách trung thực, cẩn trọng
và tốt nhất bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa cho công ty và tất cả thành viên;
 Tiến hành quản lý và hoạt động kinh doanh của công ty theo đúng quy định của pháp
luật, Điều lệ công ty và quyết định của Hội đồng thành viên; nếu làm trái quy định tại điểm
này, gây thiệt hại cho công ty thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
 Không được sử dụng tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá
nhân khác;
 Hoàn trả cho công ty số tiền, tài sản đã nhận và bồi thường thiệt hại gây ra đối với
công ty trong trường hợp nhân danh công ty, nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác
để nhận tiền hoặc tài sản khác từ hoạt động kinh doanh các ngành, nghề đã đăng ký của công

ty mà không đem nộp cho công ty;
 Liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của
công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty;
 Chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp vào công ty hoặc theo thoả thuận quy định tại
Điều lệ công ty trong trường hợp công ty kinh doanh bị lỗ;
 Định kỳ hàng tháng báo cáo trung thực, chính xác bằng văn bản tình hình và kết quả
kinh doanh của mình với công ty; cung cấp thông tin về tình hình và kết quả kinh doanh của
mình cho thành viên có yêu cầu;
 Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
4.7. Quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn:
(8)
Thành viên góp vốn có các quyền sau đây:
 Tham gia họp, thảo luận và biểu quyết tại Hội đồng thành viên về việc sửa đổi, bổ
sung điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung các quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn, về tổ
chức lại và giải thể công ty và các nội dung khác của Điều lệ công ty có liên quan trực tiếp
đến quyền và nghĩa vụ của họ;
 Được chia lợi nhuận hằng năm tương ứng với tỷ lệ vốn góp trong vốn điều lệ công ty;
 Được cung cấp báo cáo tài chính hằng năm của công ty; có quyền yêu cầu Chủ tịch
Hội đồng thành viên, thành viên hợp danh cung cấp đầy đủ và trung thực các thông tin về
tình hình và kết quả kinh doanh của công ty; xem xét sổ kế toán, sổ biên bản, hợp đồng, giao
dịch, hồ sơ và tài liệu khác của công ty;
 Chuyển nhượng phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác;
8 Điều 140 Luật Doanh Nghiệp 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009
12
 Nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác tiến hành kinh doanh các ngành, nghề
đã đăng ký của công ty.
 Định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách để thừa kế, tặng cho, thế chấp, cầm cố và
các hình thức khác theo quy định của Pháp luật và Điều lệ công ty; trường hợp chết hoặc bị
Tòa tuyên bố là đã chết thì người thừa kế thay thế thành viên đã chết trở thành thành viên góp
vốn của công ty. Vậy, việc rút vốn hay chuyển nhượng vốn của thành viên góp vốn ra khỏi

công ty tùy thuộc rất nhiều vào Điều lệ công ty, thông thường phải được đa số thành viên hợp
danh đồng ý.
 Khi công ty giải thể hoặc phá sản được chia một phần giá trị tài sản còn lại của công ty
tương ứng với tỷ lệ vốn góp trong vốn điều lệ công ty;
 Các quyền khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
Thành viên góp vốn có các nghĩa vụ sau đây:
 Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi
số vốn đã cam kết góp;
 Không được tham gia quản lý công ty, không được tiến hành công việc kinh doanh
nhân danh công ty;
 Tuân thủ Điều lệ, nội quy công ty và quyết định của Hội đồng thành viên;
 Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
So sánh thành viên hợp danh và thành viên góp vốn:
 Giống nhau:
9
 Đều là thành viên của công ty hợp danh, có thể là cá nhân từ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự.
 Đều phải góp đủ và đúng hạn số vốn như đã cam kết.
 Được chia lợi nhuận theo tỉ lệ vốn góp hoặc theo thoả thuận quy định tại điều lệ công
ty.
 Chịu trách nhiệm về các khoản nợ, nghĩa vụ tài sản khác của công ty.
 Có quyền tham gia họp thảo luận, biểu quyết tại hội đồng thành viên về tình hình, các
vấn đề liên quan đến quyền lợi và nhiệm vụ của mình.
 Được chia một phần giá trị tài sản còn lại tương ứng với tỉ lệ góp vốn vào công ty khi
công ty giải thể hoặc phá sản.
 Đều có quyền yêu cầu công ty cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh của công ty.
 Khác nhau:
Thành viên hợp danh Thành viên góp vốn
Chủ thể - Thành viên hợp danh phải là cá nhân. - Thành viên góp vốn là cá nhân hoặc tổ chức.
Tính chất thành viên - Công ty hợp danh bắt buộc ít nhất hai

thành viên.
- Công ty hợp danh có thể có hoặc không có
thành viên góp vốn.
Trình độ chuyên môn - Thành viên hợp danh cần phải có trình
độ chuyên môn, hiểu biết sâu rộng về
nghành nghề kinh doanh của công ty.
- Thành viên góp vốn không cần phải có trình độ
chuyên môn, hiểu biết về nghành nghề kinh
doanh.
Trách nhiệm trong kinh - Chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới. - Chịu trách nhiệm hữu hạn.
9 Tham khảo: />danh-350863.html
13
doanh
Ràng buộc quyền và
nghĩa vụ
- Thành viên hợp danh không được làm
chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành
viên hợp danh của công ty khác,
không được quyền nhân danh cá nhân
hoặc thành viên khác thực hiện kinh
doanh cùng nghành nghề với công ty
đó.
- Được quyền nhân danh công ty tiến
hành các hoạt động kinh doanh.Thành
viên hợp danh có quyền yêu cầu triệu
tập họp Hội đồng thành viên để thảo
luận và quyết định công việc kinh
doanh công ty.
- Có quyền như một thành viên trong công ty
đối vốn

- Thành viên góp vốn không được các quyền
này.
Chuyển nhượng vốn Chuyển nhượng vốn khó khăn hơn. Vì
chỉ dược chuyển nhượng vốn khi được
sự đồng ý của tất cả các thành viên
trong công ty
Được chuyển nhượng vốn theo quy định của
Pháp luật.
4.8. Tổ chức quản lý của công ty hợp danh:
a) Hội đồng thành viên:
(
10
)
Thẩm quyền của hội đồng thành viên: Yêu cầu triệu tập họp hội đồng thành viên để
thảo luận và quyết định công việc kinh doanh của công ty.
Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh của công ty. Nếu
Điều lệ công ty không quy định thì quyết định các vấn đề sau đây phải được ít nhất ba phần
tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận:
 Phương hướng phát triển công ty.
 Sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty.
 Tiếp nhận thêm thành viên hợp danh mới.
 Chấp nhận thành viên hợp danh rút khỏi công ty hoặc quyết định khai trừ thành viên.
 Quyết định dự án đầu tư.
 Quyết định việc vay và huy động vốn dưới hình thức khác, cho vay với giá trị bằng
hoặc lớn hơn 50% vốn điều lệ của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định một tỷ lệ
khác cao hơn.
 Quyết định mua, bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn vốn điều lệ của công ty, trừ
trường hợp Điều lệ công ty quy định một tỷ lệ khác cao hơn.
 Quyết định thông qua báo cáo tài chính hằng năm, tổng số lợi nhuận được chia và số
lợi nhuận chia cho từng thành viên.

 Quyết định giải thể công ty.
b. Triệu tập họp Hội đồng thành viên:
11
10 Điều 135, Luật Doanh Nghiệp 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009
11 Điều 136, Luật Doanh Nghiệp 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009
14
 Chủ tịch Hội đồng thành viên có thể triệu tập họp Hội đồng thành viên khi xét
thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của thành viên hợp danh. Trường hợp Chủ tịch Hội
đồng thành viên không triệu tập họp theo yêu cầu của thành viên hợp danh thì thành
viên đó triệu tập họp Hội đồng thành viên.
 Thông báo mời họp có thể bằng giấy mời, điện thoại, fax, telex hoặc các
phương tiện điện tử khác. Thông báo mời họp phải nêu rõ mục đích, yêu cầu và nội
dung họp, chương trình và địa điểm họp, tên thành viên yêu cầu triệu tập họp. Các tài
liệu thảo luận được sử dụng để quyết định các vấn đề quy định tại khoản 3 Điều 135
của Luật này phải được gửi trước đến tất cả thành viên; thời hạn gửi trước do Điều lệ
công ty quy định.
 Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc thành viên yêu cầu triệu tập họp chủ toạ
cuộc họp. Cuộc họp của Hội đồng thành viên phải được ghi vào sổ biên bản của công
ty. Nội dung biên bản phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên, địa chỉ trụ sở chính, số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, nơi đăng ký kinh doanh;
b) Mục đích, chương trình và nội dung họp;
c) Thời gian, địa điểm họp;
d) Họ, tên chủ toạ, thành viên dự họp;
đ) Các ý kiến của thành viên dự họp;
e) Các quyết định được thông qua, số thành viên chấp thuận và nội dung cơ
bản của các quyết định đó;
g) Họ, tên, chữ ký của các thành viên dự họp.
5. Ưu điểm và nhược điểm công ty hợp danh
a. Ưu điểm:

 Một là, xuất phát từ bản chất đối nhân nên Công ty hợp danh có thể kết hợp
được uy tín cá nhân của nhiều người (Các thành viên công ty) để tạo dựng hình ảnh
cho công ty.
 Hai là, Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh
mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng, đối tác kinh
doanh. Việc điều hành quản lý công ty không quá phức tạp do số lượng các thành viên
ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin tưởng nhau.
b. Nhược điểm:
 Mô hình này buộc thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn, tức là không
giới hạn được rủi ro trong số vốn đã góp vào kinh doanh, và liên đới, tức là có thể phải
gánh chịu cả rủi ro cho hành vi của bạn buôn.
 Việc quản lí cơ sở kinh doanh có thể khó khăn, vì tất cả các thành viên hợp
danh đều có quyền dự họp, thảo luận và biểu quyết, thậm chí mỗi thành viên có thể có
một phiếu biểu quyết với cách thức dân chủ có thể so sánh được với các hợp tác xã, cơ
chế đồng thuận này có làm cho việc quyết định kinh doanh đôi khi trở nên mất thời
gian.
 Việc rút lui, bán lại phần vốn góp trong cơ sở kinh doanh không dễ dàng, vì cần
phải được các thành viên hợp danh còn lại chấp nhận, Điều 133.3, Điều 134.1a Luật
doanh nghiệp.
15
 Thêm nữa, hợp danh cũng phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp như các công
ty khác, bởi vậy mô hình này không mang lại một ưu thế đáng kể nào về thuế đối với
người kinh doanh. Những điều trên đây góp phần lí giải tại sao hợp danh không được
giới kinh doanh chào đón.
16
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN VỀ LOẠI HÌNH CÔNG TY HỢP DANH
1. Nhận thức của xã hội đối với loại hình công ty hợp danh
Loại hình công ty hợp danh chỉ mới được quy định từ Luật doanh nghiệp 1999 với 4
điều và đến nay là Luật doanh nghiệp 2005 với vẻn vẹn 11 điều luật nên đối với xã hội còn
khá mới mẻ. Nhiều người chưa nhận thức được bản chất của nó nên còn xem công ty hợp

danh là một trong những loại hình doanh nghiệp đại diện cho chủ sỡ hữu tư nhân. Các nhà
kinh doanh khi tìm hiểu pháp luật cũng dễ dàng nhận ra những điểm yếu: Đó là công ty hợp
danh không thể trở thành một bên của hợp đồng kinh tế theo pháp luật về hợp đồng của Việt
Nam; khả năng huy động vốn hạn chế; những tranh chấp liên quan đến việc thành lập, tổ
chức và hoạt động dễ xảy ra. Với công ty hợp danh, các nhà đầu tư chỉ có vỏn vẹn hai lựa
chọn:
 Chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản và chia sẻ quyền quản lý với ít nhất là 1
người khác (Thành viên hợp danh).
 Chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản nhưng không có quyền quản lí công ty
(Thành viên góp vốn).
Với các nhà đầu tư, đây là những sự chọn lựa không thu hút và khó chấp nhận mạo
hiểm đầu tư với những rủi ro cao.
Những người kinh doanh chưa nhận thức được vai trò của việc Luật doanh nghiệp ghi
nhận thêm một loại hình doanh nghiệp mới, không hiểu rõ về công ty hợp danh. Do đó, một
số nhóm kinh doanh, hộ kinh doanh có thể có điều kiện để chuyển thành công ty hợp danh
nhưng không muốn chuyển đổi. Điều kiện để được chuyển đổi là: Có từ 2 trụ sở kinh doanh
trở lên, thường xuyên tuyển lao động. Do vậy, nhiều nhóm kinh doanh, hộ kinh doanh đã cố
gắng phá vỡ 1 trong 2 điều kiện trên để không chuyển thành công ty hợp danh. Họ chưa thấy
rõ được lợi ích mang lại của công ty hợp danh: Góp phần làm văn minh hóa hành vi kinh
doanh; ở vị trí một công ty, công ty hợp danh mang lại một số quyền mà các mô hình kinh
doanh không có được.
2. Thực trạng đăng ký kinh doanh của các công ty hợp danh
a. Số lượng đăng ký kinh doanh ít ỏi
Theo số liệu từ Trung tâm thông tin doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, báo cáo
Đăng ký kinh doanh từ 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương . Đến ngày 01/07/2013:
trong tổng số 40.523 doanh nghiệp, cả nước có 40.523 doanh nghiệp thành lập mới, trong đó
có 249 doanh nghiệp nhà nước, 542 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
và 39.732 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Và chỉ có 12 công ty hợp danh (chiếm 0,03%).
Số lượng công ty hợp danh đã được thành lập theo Luật doanh nghiệp có thể rất
khiêm tốn nhưng trong thực tiễn kinh doanh Việt Nam không thiếu những mô hình liên kết

với những đặc trưng có thể so sánh được với hợp danh (hiểu theo nghĩa rộng là mọi thỏa
thuận hùn vốn, tạo lập tài sản, kinh doanh chung, chia sẻ điều hành và lỗ lãi…). Điển hình
là:
17
 Các hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài (phổ biến trong
viễn thông, thăm dò dầu khí, dịch vụ giáo dục…)
 Các hợp danh đấu thầu của hai hay nhiều đơn vị dự thầu.
 Tổ hợp các nhà đầu tư (consortium).
 Các liên kết đa dạng dưới tên gọi hợp đồng liên kết kinh doanh (doanh nghiệp có
quyền sử dụng đất liên kết với người khác nhằm khai thác dự án chung cư, trung tâm
thương mại, cho thuê…).
b. Lý do của thực trạng đăng ký kinh doanh công ty hợp danh hiện nay:
Nếu được quyền tự do lựa chọn, người ta có thể ngần ngại trước mô hình công ty hợp
danh theo Luật doanh nghiệp 2005 bởi những lẽ dưới đây:
 Buộc thành viên chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới.
 Việc quản lí cơ sở kinh doanh có thể gặp khó khăn vì tất cả các thành viên hợp danh
đều có quyền dự họp, thảo luận và biểu quyết, thậm chí mỗi thành viên có thể có một
phiếu biểu quyết với cách thức dân chủ có thể so sánh được với các hợp tác xã, cơ
chế đồng thuận này làm cho việc quyết định kinh doanh đôi khi trở nên mất thời gian.
 Việc rút lui, bán lại phần vốn góp trong cơ sở kinh doanh không dễ dàng vì cần phải
được các thành viên hợp danh còn lại chấp nhận.
 Ngoài ra, các quy định về công ty hợp danh của Luật doanh nghiệp còn mang tính
nguyên tắc, nếu thiếu thỏa thuận chi tiết thì xung đột lợi ích giữa các thành viên khó
có thể được điều hòa ổn thỏa. Bên cạnh đó, công ty hợp danh cũng phải chịu thuế như
những công ty khác nên mô hình này không mang lại một ưu thế đáng kể nào về thuế
đối với người kinh doanh.
 Bên cạnh đó cũng do ảnh hưởng xã hội nhìn nhận chưa đúng, chưa sâu sắc bản chất
pháp lý của công ty hợp danh. Thời gian chưa đủ đài để cho các nhà đầu tư lựa chọn
mô hình này (mới được quy định trong Luật).
 Pháp luật chưa có những quy định cụ thể. Pháp luật kinh tế chưa đồng bộ, chưa tạo ra

được môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư. Số lượng các nhóm kinh doanh, hộ
kinh doanh đông và được tổ chức gần giống công ty hợp danh lại ngần ngại chuyển
đổi mô hình hoạt động.
 Thành viên hợp danh phải có chứng chỉ hành nghề phù hợp với ngành nghề đăng ký
kinh doanh của công ty hợp danh. Việc xin cấp chứng chỉ hành nghề không đơn giản.
3. Hạn chế về công ty hợp danh
a. Về quy định thành lập công ty
Trong điều 130 Luật doanh nghiệp Việt Nam 2005 đã cho phép các nhà đầu tư có thể
thành lập công ty hợp danh nhưng lại quy định phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài
thành viên hợp danh có thể có các thành viên góp vốn.
Trong khi đó, Luật cũng quy định thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ
chuyên môn và uy tín nghề nghiệp, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các
nghĩa vụ của công ty, còn thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty. Như vậy, từ những phân tích trên, trong công ty hợp
danh có cả thành viên góp vốn chỉ cần có một thành viên hợp danh và một thành viên góp
vốn là đủ tin cậy đối với các đối tác khác của công ty.
18
Nói quy định đó hạn chế vì giả sử một công ty hợp danh có 2 thành viên hợp danh là A
và B. Công ty này đang phát triển nhanh. Nếu A mất mà trong 6 tháng theo quy định của
Pháp luật mà B không tìm được người thay thế A thì không lẽ công ty đó không được tồn tại
phải bị giải thể. Chưa nói đến việc tìm được người thay thế không hề dễ dàng vì nhiều lý do
như: Người đó phải có uy tín và trình độ chuyên môn, đang không làm chủ bất kì doanh
nghiệp tư nhân nào, được sự đồng thuận của Hội đồng thành viên và khi tìm được người có
đầy đủ các tiêu chí đó rồi nhưng liệu người đó có muốn hợp tác với công ty hay không nữa.
Như vậy thấy rằng việc thay thế hay kết nạp thêm thành viên mới không hề đơn giản với loại
hình công ty hợp tác với nhau dựa vào sự tin tưởng lẫn nhau để hoạt động.
b. Hạn chế về tư cách pháp nhân
Theo điều 84 Bộ Luật dân sự: Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các
điều kiện:
 Được thành lập hợp pháp.

 Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
 Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản
đó.
 Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Vậy tư cách pháp nhân mang lại cho doanh nghiệp lợi ích gì? Giáo sư Jean Claude Ricci
dẫn ra đây hai lợi ích cơ bản sau đây:
Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được đơn giản hóa.
Pháp nhân cho phép đơn giản hóa pháp luật. Chúng ta hãy đặt giả thiết là không có pháp nhân
mà chỉ có các thể nhân. Khi đó, mỗi thể nhân thành viên đều sẽ phải tham gia vào việc ký kết
các giao dịch pháp lý. Hậu quả sẽ rất phức tạp.
Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được ổn định lâu dài. Đây
là một yếu tố hết sức quan trọng. Người ta thường hay nói rằng, pháp nhân không gặp phải
những thay đổi bất ngờ như thể nhân. Thời gian tồn tại của một pháp nhân thường dài hơn
cuộc sống của một con người. Và hoạt động của pháp nhân có thể kéo dài, thậm chí rất dài.
Pháp nhân không bị ảnh hưởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó.
Nếu đối chiếu bản chất của loại hình công ty hợp danh vào hai lợi ích được dẫn ra trên,
thì có thể thấy sự không phù hợp cơ bản khi quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân.
Đối chiếu với lợi ích thứ nhất, công ty hợp danh không cần đến tư cách pháp nhân để làm
đơn giản hóa pháp luật. Bản chất của các quy định của công ty hợp danh là tôn trọng tính
thỏa thuận giữa các thành viên hợp danh và các nguyên tắc về đại diện. Số lượng thành viên
hợp danh trong công ty hợp danh rất ít. Đặc biệt, theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm
2005, mô hình công ty hợp danh ở Việt Nam là mô hình đóng kín giữa những thân hữu có thể
tin tưởng lẫn nhau. Một thành viên có quyền đại diện cho các thành viên còn lại trong việc ký
kết giao dịch với bên thứ ba mà không gặp trở ngại nào.
Đối chiếu với lợi ích thứ hai, khác với các loại hình công ty cổ phần hay công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh trong trường hợp gặp sự cố đối với thành viên hợp danh thì
có thể chấm dứt sự tồn tại của nó. Chẳng hạn, nếu công ty hợp danh chỉ có hai thành viên hợp
danh mà một người đột ngột qua đời thì công ty hợp danh đứng trước nguy cơ giải thế rất cao
nếu thành viên còn lại không tìm được người để tiếp tục hợp danh.
19

Xét từ góc độ lợi ích của thành viên hợp danh, thì sự tồn tại của tư cách pháp nhân của
công ty hợp danh và chế độ chịu trách nhiệm vô hạn không mang lại lợi ích lớn. ở một chừng
mực nào đó, nó còn là sự cản trở.
Ở hầu hết các nước, do việc xác định hợp danh là sự liên kết của hai hay nhiều người
cùng hùn vốn, tạo tài sản chung, chia sẻ quyền điều hành, cùng chịu lỗ hưởng lãi nên pháp
luật đề cao sự thỏa thuận, không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh. Với điều kiện như vậy,
pháp luật nhiều nước không đánh thuế thu nhập đối với công ty hợp danh, từng thành viên
chịu thuế với phần thu nhập cá nhân của riêng mình. Lợi ích của những cá nhân tham gia vào
hợp danh thông thường là những cá nhân này sẽ không phải chịu thuế hai lần (double
taxation). Khác với loại hình hợp danh ở các nước khác, công ty hợp danh ở Việt Nam do có
tư cách pháp nhân nên đương nhiên phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận
sau thuế chia cho thành viên hợp danh có thể sẽ bị đánh thuế một lần nữa. Lợi ích của các
thành viên rõ ràng là bị ảnh hưởng lớn, trong khi họ đồng thời phải chịu chế độ trách nhiệm
vô hạn về các nghĩa vụ của công ty.
Trong một nỗ lực giải quyết tính kém hấp dẫn của mô hình công ty hợp danh. Dự thảo
Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định thành viên hợp danh không phải nộp thuế thu nhập cá
nhân đối với phần lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp của công ty hợp danh. Tuy
nhiên, cách xử lý này bị phản đối gay gắt, và ngày 20/11/2007, Quốc hội khóa XII đã thông
qua Luật Thuế thu nhập cá nhân, với quy định thành viên hợp danh vẫn phải chịu thuế thu
nhập cá nhân.
c. Hạn chế về quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh
 Hạn chế về vấn đề thừa kế phần vốn của thành viên hợp danh đã chết hoặc
mất tích:
Sự hình thành của công ty hợp danh dựa trên quan hệ đã có giữa các thành viên. Đây
chính là một đặc trưng cơ bản phân biệt nó với các loại hình công ty khác - các loại hình công
ty không có tính chất đối nhân mà chỉ có tính chất đối vốn. Ở Luật doanh nghiệp, nhà làm
Luật đã quá chú trọng đến điểm này vì thế coi việc góp vốn, sở hữu vốn góp với việc trở
thành thành viên công ty hợp danh hoàn toàn khác nhau. Điểm h, khoản 1 điều 139 quy định:
"Trường hợp thành viên hợp danh chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì người thừa kế
của thành viên được hưởng phần giá trị tài sản tại công ty sau khi đã trừ đi phần nợ thuộc

trách nhiệm của thành viên đó. Người thừa kế có thể trở thành thành viên hợp danh nếu được
Hội đồng thành viên chấp thuận."
Như vậy, để trở thành thành viên hợp danh của công ty phải được Hội đồng thành viên
chấp thuận, nếu không họ sẽ bị buộc bán phần vốn góp của mình cho công ty hoặc cho thành
viên hợp danh của công ty. Luật sẽ giải quyết như thế nào nếu trong trường hợp người đó
không bán được phần vốn của mình (công ty không có khả năng mua và những người khác
cũng không muốn mua)? Họ có thể được coi là chủ nợ của công ty hay bắt buộc phải tìm
người mua khác? Rõ ràng trong cố gắng tạo thuận lợi cho thành viên công ty hợp danh, quy
định này lại gây khó khăn cho họ khi chuyển nhượng vốn.
 Hạn chế về tư cách cá nhân của thành viên hợp danh:
Thành viên hợp danh phải là cá nhân. Vậy, theo Luật doanh nghiệp, thành viên hợp
danh không thể là pháp nhân. Tại sao một pháp nhân không thể là thành viên hợp danh của
20
công ty hợp danh? Trong thực tế pháp lý nhiều nước trên thế giới, nhất là trong lĩnh vực tín
dụng, bất động sản hay thương mại quốc tế, phần lớn là công ty hợp danh do các thành viên
là pháp nhân thành lập. Vì vậy, chúng ta nên xem xét lại khi chỉ cho phép cá nhân là thành
viên hợp danh.
 Hạn chế về vấn đề sau khi công ty hợp danh phá sản:
Đối với công ty hợp danh, ngay cả khi các thành viên hợp danh đã làm xong thủ tục
phá sản, và công ty đã được xóa tên khỏi sổ đăng ký kinh doanh, thì các thành viên hợp danh
vẫn phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty
(
12
)
. Tuy nhiên, ở đây lại phát
sinh một số vấn đề như sau:
Giả sử, thành viên hợp danh đang có các khoản nợ cá nhân bên ngoài khác. Vậy trong
trường hợp công ty hợp danh vẫn chưa thanh toán hết nợ thì họ sẽ phải thanh toán nợ của
công ty trước hay thanh toán nợ cá nhân của họ trước? Trong Luật pháp Việt Nam vẫn chưa
quy định rõ điều này.

Và nếu giả sử công ty hợp danh còn khoản nợ lớn, vậy thì việc phân chia trả nợ bằng
tài sản cá nhân đối với các thành viên hợp danh sẽ như thế nào nếu số lượng tài sản giữa các
thành viên hợp danh là không đồng đều nhau? Nếu một người đã trả hết bằng tài sản của
mình nhưng công ty vẫn còn nợ một số tiền rất lớn và những người kia vẫn có khả năng trả
nợ, vậy có công bằng không khi chịu trách nhiệm vô hạn mà sẽ có người chịu nhiều hơn?
Như vậy thì ai cũng sẽ tìm cách để tẩu tán tài sản của mình, chuyển tài sản của mình cho
người thân đứng tên. Liệu chỉ với điều lệ của công ty có đủ giá trị pháp lý và cưỡng chế để xử
lý những vụ việc như thế này?
 Hạn chế về vấn đề tổ chức lại công ty hợp danh:
Luật doanh nghiệp đã có quy định về việc chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn
sang công ty cổ phần hoặc ngược lại và chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên, song không có một điều khoản nào quy định việc chuyển đổi công ty dành cho công ty
hợp danh, mặc dù Luật Doanh Ngiệp thừa nhận công ty hợp danh là một loại hình doanh
nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, nhà đầu tư cũng có thể có nhu cầu chuyển đổi trong trường
hợp sau đây:
 Công ty hợp danh sang công ty trách nhiệm hữu hạn.
 Công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty hợp danh.
 Công ty hợp danh sang doanh nghiệp tư nhân.
d. Hạn chế không được phát hành bất kỳ chứng khoán nào
Không có cơ sở lý luận và thực tiễn xác đáng khi vẫn tiếp tục cấm công ty hợp danh
phát hành các loại chứng khoán như quy định của LDN 1999 trong khi LDN 2005 đã thừa
nhận công ty hợp danh là pháp nhân.
Hiện nay theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 tất cả các loại hình doanh nghiệp
có tư cách pháp nhân đều được phát hành trái phiếu trừ công ty hợp danh. Nguyên nhân của
sự khác nhau về quyền phát hành chứng khoán giữa công ty hợp danh với các loại hình doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005 xuất phát từ tính chất
đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh. Thực tế, lý do này là chưa
12Khoản 1, điều 90 Luật phá sản 2004.
21
thỏa đáng. Cổ phiếu đem lại quyền sở hữu và quyền quản trị công ty cho chủ sở hữu cổ phần

là các cổ đông. Trái phiếu đem lại trái quuyền cho chủ sở hữu trái phiếu đó, họ trở thành chủ
nợ của công ty và việc phát hành trái phiếu chỉ ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ty.
Có vậy, việc Pháp luật không cho phép công ty hợp danh phát hành cổ phiếu là hoàn
toàn phù hợp với bản chât của công ty này.
Nhưng việc phát hành trái phiếu để huy động vốn không ảnh hưởng đến tính chất đóng
và hạn chế tiếp nhận thành viên mới cuả công ty hợp danh. Thêm vào đó, đứng từ góc độ
quuyền lợi của những nhà đầu tư có thể thấy chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của các thành
viên hợp danh chính là một bảo đảm pháp lý an toàn và quan trọng trong vần đề bảo vệ quyền
và lợi ích của những nhà đầu tư.
22
CHƯƠNG III. NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ GIÚP HOÀN THIỆN
1. Một số giải pháp
a. Về quy định thành lập công ty
Pháp luật Việt Nam nên nhìn nhận vấn đề này dưới một góc độ có khoa học tạo ra một
cơ chế thông thoáng, mềm dẻo hơn. Chẳng hạn thay vì cần tới hai thành viên hợp danh, ta có
thể chỉ cần một thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về chuyên môn và chịu trách nhiệm vô
hạn và một thành viên góp vốn đầu tư tiền thì đã đủ độ tin cậy đối với các đối tác khác của
công ty.
Chúng ta có thể tham khảo các quy định về việc thành lập công ty hợp danh ở các
nước khác trên thế giới, từ đó sửa đổi bổ sung để phù hợp hơn trong lĩnh vực kinh doanh hiện
nay.
b. Về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh
Do sự xác định hợp danh là dựa trên sự tin tưởng giữa hai hay nhiều người hùn vốn,
tạo tài sản chung, chia sẻ quyền hành, cùng chịu lỗ hưởng lãi nên Pháp luật đề cao sự thỏa
thuận, không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh. Nói cách khác, khế ước giữa các bên đã xác
lập ra hợp danh, chứ không phải giấy chứng nhận của cơ quan Đăng ký kinh doanh. Với
những đặc thù như vậy các thành viên chỉ phải chịu thuế trên phần thu nhập cá nhân của riêng
mình. Tuy nhiên, trong dự thảo Luật thuế thu nhập cá nhân đã từng kiến nghị quy định thành
viên hợp danh không phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với phần lợi nhuận sau thuế thu
nhập doanh nghiệp của công ty hợp danh, nhưng đã bị phản đối trong Quốc hội khóa 12.

Như vậy, ta có thể thấy mô hình công ty hợp danh của nước ta chưa có sức hấp dẫn
cao. Tham chiếu đạo Luật ở một số nước thì nhiều nước không đánh thuế thu nhập công ty
đối với hợp danh, từng thành viên chịu thuế với phần thu nhập cá nhân của riêng mình. Chính
vì thế nước ta nên điều chỉnh trong việc thu thuế đối với công ty hợp danh cũng như thành
viên công ty hợp danh. Cụ thể như:
 Không cần quy định về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh, tức là công ty
hợp danh sẽ không có tư cách pháp nhân. Và các thành viên hợp danh sẽ là những
người đứng tên trong các hợp đồng giao dịch của công ty. Tuy nhiên điều này sẽ gặp
trở ngại nếu như các công ty hợp danh mà có số lượng thành viên hợp danh nhiều.
 Nếu quy định về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh thì sẽ không tính thuế
thu nhập cá nhân với phần lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp của công ty
hợp danh. Hoặc thay vào đó ta có thể điều chỉnh mức thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với các công ty hợp danh ở mức thấp hơn như 10 -15% điều này sẽ khiến
nhiều nhà đầu tư lựa chọn loại hình doanh nghiệp này hơn mà vẫn đảm bảo công
bằng vì những thành viên hợp danh tuy có lợi nhưng nếu kinh doanh thuê lỗ họ sẽ
phải chịu trách nhiệm vô hạn
c. Về quy định quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh
Những quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh hiện nay còn quá sơ
sài và rất khó để áp dụng trong các trường hợp cụ thể, nếu chỉ sử dụng các điều luật của công
ty cũng sẽ khó để giải quyết. Cho nên cần bổ sung những quy định chi tiết hơn hoặc các văn
bản áp dụng Luật, như:
23
 Không nhất thiết quy định thành viên hợp danh là người tiến hành quản lý ( là
giám đốc). Bởi lẽ, các thành viên hợp danh là những người có chuyên môn, nghiệp vụ
giỏi, nhưng chưa chắc họ có khả năng quản lý và điều hành doanh nghiệp một cách tốt
nhất, do họ dành nhiều thời gian để nghiên cứu chuyên môn hơn là học cách tổ chức
quản lý của một doanh nghiệp.
 Đặt ra điều kiện nhất định để giải quyết vấn đề thừa kế vốn của thành viên hợp
danh như xây dựng một thủ tục bắt buộc, buộc các bên phải đi đến thỏa thuận cuối
cùng. Cần thiết cho người thừa kế chọn có muốn tham gia công ty hay không, nếu

không thì công ty hợp danh phải có trách nhiệm chuyển giao phần vốn đó cho người
thừa kế theo thỏa thuận.
 Quy định rõ về việc sau khi công ty hợp danh phá sản, thành viên hợp danh sẽ
phải trả nợ cá nhân hay nợ công ty hợp danh trước? điều này phải được xuất phát theo
căn cứ từ thời gian phát sinh khoản nợ, cái nào phát sinh trước sẽ được thanh toán
trước.
 Quy định rõ ràng các thành viên hợp danh phải trả một khoản nợ là như nhau đối
với số nợ của công ty nếu ai không trả hết thì coi như nợ và phải có trách nhiệm
thanh toán; hoặc phải thỏa thuận rõ ràng trong điều luật công ty để khi phá sản
xảy ra thì có căn cứ để giải quyết. Điều này sẽ công bằng với các thành viên hợp
danh có dư khả năng trả nợ cho công ty, không thể để xảy ra trường hợp nếu công
ty phá sản thì bắt buộc phải kéo theo sự phá sản cuả các thành viên hợp danh.
d. Về việc chuyển đổi hình thức kinh doanh
Về vấn đề này cần có sự thống nhất giữa các nhà làm Luật để thiết lập ra các cơ chế
cũng như các quy định chuyển đổi sao cho phù hợp. Cần tạo điều kiện cho các hình thức
doanh nghiệp khác có nhu cầu chuyển đổi sang công ty hợp danh cũng như sự chuyển đổi của
công ty hợp danh sang các loại hình doanh nghiệp khác, nhằm giải quyết được một số vấn đề
mà công ty hợp danh đang gặp phải.
Chẳng hạn công ty hợp danh mà có thành viên không may qua đời, khi đó nếu công ty
không có đủ hai thành viên hợp danh thì theo quy định hiện nay thì buộc công ty đó phải giải
thể, điều này là rất không hợp lí, chúng ta có thể chuyển đổi công ty hợp danh này sang loại
hình doanh nghiệp tư nhân, bởi lẽ chúng là hai loại hình trách nhiệm vô hạn, nếu chuyển đổi
thì chỉ thay đổi cơ cấu nên việc chuyển đổi sẽ dễ dàng và thuận tiện, nếu doanh nghiệp tư
nhân muốn có thêm vốn, có thành viên góp vốn kinh doanh thì cũng có thể chuyển đổi sang
hình thức công ty hợp danh được. Ngoài ra còn có thể chuyển đổi từ công ty hợp danh sang
loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc từ công ty trách nhiệm hữa hạn sang công ty hợp
danh nếu Luật có những quy định rõ ràng.
Pháp luật nước ta nên có những quy định thông thoáng hơn về việc chuyển đổi này, từ
đó tạo điều kiện phát triển loại hình công ty hợp danh cũng như các loại hình doanh nghiệp
khác, thúc đẩy kinh doanh hiệu quả, hạn chế được nhiều rủi ro phá sản, thua lỗ, giải quyết

nhiều vấn đề về vốn…của các doanh nghiệp kinh doanh.
Tuy nhiên muốn đảm bảo lợi ích của những người có quyền và nghĩa vụ liên quan thì
Luật cần phải có những quy định rõ ràng và cụ thể hơn về việc chuyển đổi này.
e. Về đại diện cho công ty hợp danh
24
Khác với mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, về nguyên tắc
tất cả các thành viên hợp danh đều có quyền nhân danh tên hãng chung và đại diện cho hợp
danh trong các giao dịch. Hành vi của một công ty hợp danh có thể xác lập nghĩa vụ đối với
công ty, hành vi ấy có thể dẫn tới trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với các thành viên hợp
danh khác. Theo điều 137 khoản 1 Luật doanh nghiệp cũng có quy định các thành viên hợp
danh cũng có thể hạn chế quyền đại diện của một số thành viên, hạn chế này chỉ có giá trị với
bên thứ ba khi người đó biết về hạn chế đó. Song điều này vẫn còn nhiều bất cập bởi các
thành viên hợp danh đều muốn có quyền đại diện, hơn nữa theo quy định này thì chỉ hạn chế
quyền đại diện của một số thành viên, có nghĩa là số lượng thành viên có quyền đại diện
trong công ty không chỉ có một người, mà có thể là nhiều người nếu các thành viên không thể
thỏa thuận được với nhau về quyền đại diện.
Pháp luật nên có những quy định rõ ràng và cụ thể hơn về vấn đề này, nên thay đổi
quy định về thành viên hợp danh, không nhất thiết công ty hợp danh thì phải có 2 thành viên
hợp danh trở lên vì như vậy sẽ làm việc quản lí cũng như phân quyền trong công ty trở nên
khó khăn. Hoặc nếu bắt buộc công ty hợp danh phải có từ 2 thành viên hợp danh trở lên thì
có thể bầu ra một chủ tịch hội đồng thành viên đại diện cho công ty trong các giao dịch, như
vậy đồng thời cũng tạo thêm độ tin cậy cho đối tác.
f. Về hợp danh bắt buộc
Hiện nay Pháp luật chuyên ngành và tục lệ ở nhiều nước mô hình hợp danh trở nên bắt
buộc đối với một số dịch vụ nhất định, ví dụ kiểm toán độc lập, đại diện sở hữu trí tuệ, dịch
thuật có tuyên thệ trước tòa án, dịch vụ thiết kế công trình, cung cấp các dịch vụ y tế, giáo
dục và một số dịch vụ xem là nghề tự do khác. Sở dĩ có những quy định như vậy là bắt nguồn
từ truyền thống (người hành nghề tự do thường không được xem là thương nhân), phần được
lí giải bởi đặc trưng nghề nghiệp, tính trách nhiệm hữu hạn có thể áp dụng cho thương nhân,
song khó có thể chấp nhân với luật sư, bác sĩ, kiến trúc sư hay người đào tạo.

Hiện nay Pháp luật nước ta cũng rất để ý tới quy định những ngành nghề đòi hỏi trách
nhiệm cao, ý thức trách nhiệm cũng như tính cẩn trọng trong công việc đảm bảo chất lượng
dịch vụ là các loại hình trách nhiệm vô hạn, hoặc quy định vốn pháp định cao. Những năm
gần đây các ngành nghề như kiểm toán độc lập, dịch vụ khám chữa bệnh, dịch vụ pháp lí…
đang phát triển với nhiều hình thức khác nhau, như đối với nghành kinh doanh kiểm toán thì
có thể lựa chọn hình thức doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh, hoặc công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Nhưng điều đó lại làm cho việc đánh giá chất lượng
dịch vụ của các ngành nghề này trở nên rất khó khăn.
Phải chăng chúng ta nên có những quy định về trách nhiệm vô hạn đối với các ngành
nghề này cùng với thiết lập các quy định đòi hỏi những người hành nghề phải có tinh thần
trách nhiệm cao, có trình độ chuyên môn. Hoặc chúng ta có thể thực hiện hợp danh bắt buộc
đối với các ngành nghề này, khi có những quy định sửa đổi về thành lập công ty hợp danh,
chỉ cần một thành viên hợp danh và một thành viên góp vốn là đã đủ điều kiện để thành lập
công ty hợp danh. Điều này sẽ góp phần giúp các cơ quan, chính quyền quản lí dễ dàng hơn
các loại hình ngành nghề này, đông thời giúp người sử dụng dịch vụ đánh giá chất lượng dịch
vụ dễ dàng hơn.
2. Một số kiến nghị
25

×