Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Luận văn: Sử dụng tư liệu gốc phần lịch sử thế giới (thế kỉ XVI – giữa thế kỉ XIX) để biên soạn sách giáo khoa Lịch sử Trung học cơ sở sau năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 129 trang )



 !" #$%&
'( #$%%)*+#(
,-(./012
3.

4567/012
-
189:;<=>?@AB46
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển, nên vấn đề này
được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Trong
“Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2011 -2020” khẳng định: tiếp tục phấn
đấu đến năm 2020 cơ bản nước ta phát triển thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, chính trị, xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận….Để làm được
điều đó chiến lược nhấn mạnh: “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao, tập trung đổi mới cơ bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học và công nghệ”[65;8].
Chúng ta hướng tới đào tạo ra những con người mới năng động, sáng tạo, có năng
lực tự giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Con người đó được trang bị kiến thức
trong các lĩnh vực, có kĩ năng và khả năng học tập suốt đời.
Ở cấp THCS (Trung học cơ sở), mỗi môn học đều góp phần thực hiện mục
tiêu và nhiệm vụ giáo dục mà Đảng đề ra. Bộ môn Lịch sử ở trường THCS là môn
học với đặc trưng có ưu thế và sở trường trong giáo dục thế hệ trẻ bởi lịch sử không
chỉ là quá khứ mà còn là kết tinh giá trị các thế hệ trước để lại và thế hệ sau cần tiếp
nối và phát huy. Bộ môn Lịch sử cung cấp cho HS (học sinh) hệ thống tri thức cơ
bản về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới với các sự kiện cụ thể, nhằm dựng lại cho
HS bức tranh quá khứ của xã hội loài người đã xảy ra. Môn Lịch sử có tác dụng lớn
trong việc phát triển tư duy của HS, đặc biệt là tư duy độc lập, sáng tạo trong quá


trình lĩnh hội tri thức. Bản thân kiến thức lịch sử tự thân đã mang trong mình tính
giáo dục cao cho HS về phẩm chất đạo đức, tư tưởng, tình cảm. Do vậy, bộ môn
Lịch sử có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục truyền thống dân tộc,
tinh thần nhân văn – những giá trị dễ bị xói mòn trong cuộc sống hiện đại.
Môn Lịch sử có tầm quan trọng như vậy nhưng hiện nay chất lượng bộ môn
Lịch sử đang dần giảm sút. Muốn khắc phục và giải quyết vấn đề này, chúng ta cần
phải nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ GV (giáo viên) và đổi mới chương trình,
SGK (sách giáo khoa). Từ đó đáp ứng được yêu cầu phát triển nguồn nhân lực cho
công cuộc xây dựng đất nước, tiếp cận và học hỏi trình độ giáo dục của các nước
trên thế giới.
SGK là tài liệu cơ bản trong học tập của HS, là quy định về mức độ kiến thức,
kĩ năng HS cần đạt để giáo dục HS. Là thước đo phản ánh trình độ văn hóa, khoa
học của đất nước. SGK Lịch sử hiện nay có nhiều ưu điểm về nội dung và hình
thức. Về cơ bản SGK cung cấp đủ hệ thống tri thức lịch sử cho HS, song nhìn
chung vẫn còn nhiều hạn chế. CT (cấu tạo) SGK hiện nay gồm: bài viết và cơ chế
sư phạm, trong đó chủ yếu là phần bài viết, còn lại phần kênh hình, tư liệu, câu hỏi
và bài tập còn ít, mang tính chất minh họa là chủ yếu. Tư liệu lịch sử nói chung và
TLG (tư liệu gốc) nói riêng trong sách là còn hạn chế, chưa phong phú. Bản thân tư
liệu lịch sử có tác dụng bổ sung kiến thức, tạo điều kiện cho HS cụ thể hóa kiến
thức, làm phong phú nội dung lịch sử, đặc biệt TLG có tác dụng làm cho HS nhìn
nhận, làm việc với tri thức lịch sử được chân thực, tránh “hiện đại hóa” lịch sử. Đó
cũng là cở sở thiết thực trong việc giúp HS so sánh, phân tích, tổng hợp… tìm ra
bản chất sự kiện lịch sử, tạo ra cái nhìn khách quan, toàn diện, khoa học về vấn đề
lịch sử.
Thực tế cho thấy, SGK Lịch sử hiện nay còn ít và chưa chú trọng việc đưa
TLG vào BS (biên soạn) và giảng dạy. SGK hiện nay vẫn nặng nề, đưa các ý kiến
chủ quan của người viết sách vào nội dung để HS học. Từ đó dẫn đến tình trạng HS
không thích học môn Lịch sử, thậm chí nhiều HS không đọc hay tìm hiểu nội dung
bài học trong sách làm cho việc học lịch sử chỉ là nhằm chống đối, học để trả bài
cho qua, chứ không vì mục đích yêu thích hay trau dồi kiến thức.

Xuất phát từ yêu cầu đào tạo nhân lực mới cho đất nước, từ thực tế SGK và
việc học tập bộ môn, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang hướng tới xây dựng khung
chương trình mới, với phương pháp dạy học mới chuyển từ tiếp cận tri thức sang
tiếp cận năng lực và phẩm chất người học, nhằm làm thay đổi cục diện dạy và học
hiện tại theo hướng tích cực hơn, theo kịp xu thế thời đại hiện nay. Trong đó, giáo
dục lịch sử cần thiết phải cho HS tự đánh giá các vấn đề lịch sử trên cơ sở những
chứng cứ xác thực, để HS tự phán xét với vấn đề lịch sử mà không cần qua lăng
kính chủ quan nào. Từ đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, làm cho
HS hứng thú và phát huy được khả năng vốn có của mình một cách năng động và
sáng tạo.
Trong chương trình lịch sử THCS, phần lịch sử thế giới cận đại có vị trí rất
quan trọng. Đây là phần lịch sử chiếm khối lượng kiến thức lớn, được BS học trước
phần lịch sử Việt Nam với nội dung phong phú, xuyên suốt tạo cái nhìn đối sánh
với lịch sử dân tộc. Đây là phần lịch sử khó vì vậy khi BS SGK Lịch sử sau năm
2015 chúng ta phải chú ý và cần đưa hệ thống TLG vào nội dung SGK, nhằm làm
nội dung lịch sử sinh động, hấp dẫn hơn. Từ việc BS SGK theo hướng mở làm tiền
đề cho đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo hướng mới, nhằm
giúp GV sáng tạo hơn trong giảng dạy và giúp HS phát triển được năng lực của bản
thân trong học tập môn lịch sử.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, với mong muốn góp phần đổi mới cách
BS SGK lịch sử để HS thực sự thích học môn Lịch sử một cách chủ động, tự giác,
với tinh thần độc lập, sáng tạo, từ đó nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử ở trường
THCS, tôi quyết định chọn đề tài: CD:E?FBGH6IJFK<L=M?HN<=ODB=PF6Q6
"B=PRS%&F6TUB=PRS%%)@VW6X?O;Y?OZ<=F6Z;R=;UN<=OD[J?F=><
<\O]OUJ?^_/012`làm luận văn tốt nghiệp của mình.
/8N<=ODab?@A
Vấn đề SGK nói chung, SGK Lịch sử, sử dụng TLG trong BS SGK và dạy
học nhằm phát triển năng lực của HS nói riêng đã được nhiều nhà khoa học, nhà
giáo dục học, các học giả ở các lĩnh vực khác nhau quan tâm nghiên cứu ở các mức
độ, khía cạnh khác nhau.

/81846H6IJ?GQ<?F;46
/8181846H6IJF6Z;:E<=><
T.A.Ilina trong cuốn “Giáo dục học tập II” (NXB Giáo dục Hà Nội, 1973) đề
cập đến các phương pháp làm việc với SGK và các quy tắc làm việc chủ yếu của
HS trong SGK.
B.P.Exipôp trong cuốn “Những cơ sở của lý luận dạy học” (NXB Giáo Dục,
1971) đã khẳng định ý nghĩa của việc đọc sách ngoài giờ lên lớp, yêu cầu để làm
việc với SGK. Đồng thời tác giả khẳng định vai trò của tài liệu trong dạy học: “Việc
nghiên cứu tài liệu chân thực nêu lên những khía cạnh về đời sống của những tầng
lớp xã hội khác nhau trong một thời kỳ nhất định, việc so sánh, đối chiếu các
nguồn, việc phân tích, có chứng minh các kết luận thu được đều là những việc rất
có ích”[18;148].
N.M.Iakovlev trong cuốn “Phương pháp và kĩ thuật lên lớp trong trường phổ
thông tập I” (NXB Giáo Dục, 1983) đã phân tích ý nghĩa của sử dụng SGK trong
dạy học, phương pháp khai thác SGK hiệu quả trong dạy học lịch sử.
A.P.Primacôpxki trong cuốn “ Phương pháp đọc sách” (NXB Giáo Dục,
1978) đã chỉ ra một số kinh nghiệm đọc sách, tự nghiên cứu sách của nhiều nhà
khoa học, có sự phân tích, tổng hợp lại thành “văn hóa đọc sách”.
I.F.Kharlamôp trong cuốn “Phát huy tính tích cực của HS như thế nào tập 2”
(NXB Giáo Dục, 1979) trình bày về vai trò, ý nghĩa của SGK cũng như cách sử dụng
SGK và tài liệu học tập trong dạy học ở trường: “SGK và tài liệu học tập phải trở
thành một trong những nguồn kiến thức cung cấp kiến thức và là phương tiện quan
trọng cuả việc tổ chức công tác tự lập của HS trong giờ học”[29;36].
/818/846H6IJF6Z;:E<HN<=OD
N.G.Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” (NXB Giáo
Dục, 1973) đã nêu ra tầm quan trọng của việc sử dụng SGK hiệu quả và cách sử
dụng sách hiệu quả cao nhất. Đặc biệt ông đã đưa ra sơ đồ sử dụng SGK nhằm giải
quyết mối tương quan giữa nội dung bài giảng của GV và nội dung SGK trong giờ
học lịch sử. Đồng thời, tác giả nêu ra vai trò của tài liệu trong dạy học: “Nếu chúng
ta lìa bỏ tài liệu thực thì điều đó sẽ đưa tới kết quả là cố gắng vun xới một vụ thu

hoạch dồi dào trên một mảnh ruộng không có phân bón” [16;32], bởi từ tài liệu
thực mới nảy sinh được hình tượng và mang lại kết quả giáo dục cho HS.
A.A.Vaghin trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông”
(NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 1977) đã trình bày các biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử, ý nghĩa của việc sử dụng SGK và tài liệu lịch sử.
Trong các tài liệu của các tác giả nước ngoài đã nêu lên vai trò, ý nghĩa của
việc sử dụng SGK, đưa ra hướng dẫn sử dụng SGK cho hiệu quả nhất. Đồng thời
các tác giả thấy được vai trò của tài liệu trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử
nói riêng. Song các tác phẩm trên đều chưa chú ý về CT SGK và cách đưa hệ thống
tư liệu lịch sử gốc vào BS SGK nhằm phát triển năng lực HS trong dạy học.
/8/846H6IJB[;?F?GQ<
Vấn đề SGK nói chung, SGK lịch sử, sử dụng TLG trong BS SGK nói riêngvà
trong dạy học lịch sử cũng được nhiều nhà giáo dục Việt Nam quan tâm, chỉ rõ vai
trò, tầm quan trọng của vấn đề.
/8/81846H6IJF6Z;:E<=><
Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt trong “ Giáo dục học tập 1” (NXB Giáo Dục,
1987) đã trình bày ý nghĩa của việc dùng SGK. Tác giả đưa ra các yêu cầu về
phương thức sử dụng sách, tài liệu và hướng dẫn việc dùng sách ở nhà và trên lớp.
Đồng thời các tác giả đã đưa ra các vấn đề cần đảm bảo khi BS SGK.
Trần Bá Hoành trong cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và
SGK” (NXB Đại học Sư phạm, 2006), tác giả đã khẳng định tầm quan trọng của
SGK trong dạy học vầ đưa ra yêu cầu cho công việc BS SGK: “Để GV phát triển
các phương pháp tích cực, SGK cần chuyển cách trình bày truyền thống kiểu thông
báo – giải thích – minh họa sang cách tổ chức các hoạt động tìm tòi khám phá, qua
đó HS tự lực chiếm lĩnh nội dung bài học” [20;195].
Trong cuốn “Giáo dục học tập I” của tác giả Trần Thị Tuyết Oanh (NXB Đại
học Sư phạm, 2007) đã đưa ra và phân biệt giữa các khái niệm: chương trình, SGK
và các tài liệu học tập khác dùng trong các trường học do Nhà nước quy định. Đồng
thời, trình bày cụ thể về chức năng của SGK đối với quá trình dạy học và đưa ra
những yêu cầu cơ bản đối với một cuốn SGK.

Trong hai cuốn “Những vấn đề cơ bản giáo dục học hiện đại” của Thái Duy
Tuyên, “Giáo dục học đại cương” của Phạm Viết Vượng, các tác giả phần nào đề
cập vị trí, vai trò của sách, yêu cầu và phương pháp sử dụng trong dạy học, hai tác
phẩm không đi sâu trình bày chi tiết toàn diện về các lĩnh vực của SGK
/8/8/846H6IJF6Z;:E<HN<=OD
Cuốn “ Một số vấn đề về lí luận sử học” của Hà Văn Tấn (NXB Đại học Quốc
gia, 2008), Cuốn “Phương pháp luận sử học” do Phan Ngọc Liên chủ biên (NXB
Đại học Sư phạm 2003) đã đưa ra khái niệm về sử liệu, tư liệu lịch sử. Các tác giả
nêu lên vị trí, ý nghĩa, cách phân loại các nguồn sử liệu, và khẳng định: “Nếu ví công
trình nghiên cứu lịch sử như một cơ thể sống thì sự kiện lịch sử là các tế bào CT
nên, mà những tế bào đó là từ các tư liệu lịch sử…Bất cứ một vấn đề nào đó mà
khoa học Lịch sử đặt ra, có được giải quyết hay không phụ thuộc hoàn toàn vào một
điều kiện tiên quyết là có tư liệu lịch sử của vấn đề hay không” [39;204]. Đồng thời
các tác giả cũng đưa ra công tác sưu tầm, chọn lọc tư liệu.
Trong các giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” xuất bản năm 1976, 1980,
1992 (NXB Giáo dục) (Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị chủ biên), đặc biệt giáo trình
xuất bản năm 2002 đã đề cập cụ thể vị trí, ý nghĩa của SGK trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông. Đồng thời các tác giả, nêu ra CT SGK với hai phần là bài viết và
cơ chế sư phạm, trong đó phần tư liệu (đặc biệt là TLG) đã được sử dụng trong BS
SGK. Sau đó, các tác giả đã đưa ra cách sử dụng SGK hiệu quả nhất với việc học tập
sơ đồ Đairi vào trong soạn và dạy bài học.
Ngoài các giáo trình trên, các tác giả còn công bố trên các chuyên đề, tạp chí,
về vấn đề CT SGK và TLG:
Cuốn “Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử” của các tác giả Phan
Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Trần Vĩnh Tường, (NXB Đại học
Quốc gia, 2002) có đề cập đến vấn đề SGK. Trong tác phẩm đã đưa ra vai trò của
việc sử dụng tư liệu lịch sử trong giảng dạy lịch sử, nhất là nguồn tư liệu viết.
Trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy - học lịch sử ở trường phổ
thông Việt Nam tại Đà Nẵng, tháng 8 – 2012. Kỷ yếu gồm ba phần: phần thứ nhất là
các nhà khoa học tập trung tập trung đánh giá chương trình, SGK hiện nay nêu ra vị

trí ý nghĩa của SGK, nhận xét về CT SGK chỉ rõ các ưu và khuyết điểm của SGK,
đề xuất định hướng đổi mới chương trình, SGK sau năm 2015. Phần hai là các bài
viết tập trung phân tích những giải pháp nhằm đổi mới phương pháp dạy học lịch sử
ở trường phổ thông trên cơ sở học tập kinh nghiệm các nước trên thế giới. Phần ba
là các bài viết tập trung vào các vấn đề đào tạo GV.
Vấn đề này còn được nêu trong nhiều tài liệu, bài đăng trên tạp chí chuyên ngành:
- “Kinh nghiệm Đairi với việc dạy học môn sử” của hai tác giả Lương Ninh và
Nguyễn Thị Côi đăng trên tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 8, 1988.
- “Về SGK Lịch sử ở trường Phổ thông Trung học” (Chương trình cải cách)
của tác giả Nguyễn Thị Côi đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3, 1993.
- “Về việc sử dụng các tài liệu gốc trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông”
của tác giả Trần Viết Thụ trong Hội thảo Khoa học Lịch sử Việt Nam về Đổi mới
việc dạy, học lịch sử lấy “HS làm trung tâm”, 1996.
- “Về cấu trúc và yêu cầu BS SGK môn Lịch sử THCS” của tác giả Nguyễn
Hữu Chí đăng trên tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 4, 2000.
- “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn BS SGK lịch sử THCS” của tác giả
Nghiêm Đình Vỳ đăng trên tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 98, 2004.
- “Một vài kinh nghiệm về đổi mới BS SGK Lịch sử” của tác giả Phan Ngọc
Liên đăng trên tạp chí Giáo dục, số 7, 2004.
- “Một số yêu cầu về xây dựng chương trình và BS SGK Lịch sử” của tác giả
Phan Ngọc Liên đăng trên tạp chí Giáo dục, số 126, 2005.
Các luận án, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp của sinh viên cũng đề cập
tới các khía cạnh khác nhau của vấn đề qua các đề tài:
- Luận án“SGK lịch sử ở trường phổ thông Việt Nam từ 1954 đến nay”, Phạm
Thị Kim Anh, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1999.
- Luận văn “Sử dụng SGK nhằm phát huy tính tích cực của HS trong dạy học
lịch sử lớp 10 trường trung học phổ thông tỉnh Lào Cai”, Lê Quý Toàn, Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2003.
- Luận án “Sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong dạy học Lịch sử Việt
Nam giai đoạn 1919 – 1945 ở trường Trung học Phổ thông Thừa Thiên Huế”,

Nguyễn Thành Nhân, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2007.
- Luận văn “Sử dụng tài liệu lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực của HS
trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 – 1954”, Nguyễn Thị Xuân Khang, Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2010.
- Luận văn“CT SGK lịch sử bậc Trung học Phổ thông của cộng hòa Pháp và
khả năng vận dụng vào Việt Nam qua nội dung: Các quốc gia cổ đại phương Tây –
Hi Lạp và Rôma”, Trần Quỳnh Chi, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2013.
- Luận văn “Mô hình bài viết SGK lịch sử ở trường THCS nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa và khả năng vận dụng vào Việt Nam”, Lương Thị Phương
Liên, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2013.
- Khóa luận “Sử dụng tư liệu lịch sử gốc nhằm phát triển năng lực đánh giá
cho HS khi dạy học bài “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII”, Đồng Thị Bay,
Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2012.
Nhìn chung lịch sử nghiên cứu vấn đề về CT SGK, vấn đề TLG, trong các
giáo trình, chuyên đề, tạp chí, luận án nêu trên có phần nào đề cập vấn đề trong đó
các cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” nói rõ nhất về vấn đề. Tuy
nhiên, nguồn tài liệu nghiên cứu vấn đề đổi mới BS SGK, vấn đề sử dụng tư liệu
gốc trong BS SGK Lịch sử trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay còn khiêm
tốn. Những nguồn tài liệu trên giúp chúng tôi có cái nhìn đa chiều về vấn đề này, là
định hướng quan trọng để chung tôi tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện cho
đề tài của luận văn
c8K6BGd?Fa4L=Y_a6?F=6X?<eJ
U8K6BGd?F?F=6X?<eJ
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: CT SGK, hệ thống TLGvà đề xuất trong
đổi mới BS SGK Lịch sử THCS sau năm 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỉ XVI –
giữa thế kỉ XIX)
W8=Y_a6?F=6X?<eJ
Đề tài tập trung nghiên cứu CT SGK và đề xuất hệ thống TLG (tư liệu thành
văn gốc) phục vụ công tác BS SGK Lịch sử THCS sau năm 2015 phần lịch sử thế
giới (thế kỉ XVI – giữa thế kỉ XIX) với các nội dung là các cuộc cách mạng xã hội

(cách mạng Anh, chiến tranh của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ, cách mạng Pháp),
cách mạng công nghiệp, phong trào công nhân nửa đầu thế kỉ XIX và sự ra đời của
chủ nghĩa Mác.
Trên cơ sở CT SGK hiện nay, định hướng CT SGK, học tập kinh nghiệm
trong BS SGK Lịch sử nước ngoài đề tài đề xuất CT mới trong BS SGK Lịch sử
THCS sau năm 2015 và tiến hành TN (thực nghiệm) sư phạm để chứng minh tính
khả thi của đề tài.
f8E<@g<=a4?=6I_aE?F=6X?<eJ
U8E<@g<=?F=6X?<eJ
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận dạy học nói chung và thực tiễn việc dạy học ở
trường THCS nói riêng, đề tài khẳng định tầm quan trọng của việc sử dụng TLG
vào BS SGK lịch sử sau 2015.
Vận dụng lí luận nghiên cứu vào xây dựng, đề xuất sử dụng hệ thống TLG
trong phần lịch sử thế giới (từ thế kỉ XVI – giữa thế kỉ XIX ) trong BS SGK THCS
sau năm 2015.
W8=6I_aE
Để thực hiện các mục đích trên, đề tài là giải quyết các nhiệm sau:
+ Nghiên cứu giáo dục học, lí luận dạy học lịch sử, tâm lí học, tâm lí lứa tuổi
học sinh THCS.
+ Nghiên cứu chương trình SGK chuẩn, khai thác nội dung phần lịch sử thế
giới (thế kỉ XVI – giữa thế kỉ XIX) để tìm ra những nội dung cơ bản cần đưa TLG
vào BS SGK sau 2015.
+ Điều tra cơ bản chất lượng dạy học, thực trạng sử dụng TLG trong dạy học
lịch sử của GV và học sinh THCS.
+ Đề xuất hệ thống TLG có thể sử dụng trong đổi mới BS SGK Lịch sử THCS
phần lịch sử thế giới (thế kỉ XVI – giữa thế kỉ XIX) .
+ Cụ thể hóa lý luận và thực tiễn nêu trên bằng bài TN để khẳng định tính
đúng đắn của lí luận và đề xuất đã đưa ra.
+ Sử dụng phương pháp toán thống kê
28=G\?FL=ZLHJh?a4L=G\?FL=ZL?F=6X?<eJ

U8\O]L=G\?FL=ZLHJh?<iU@AB46
Dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối của Đảng cộng sản
Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và giáo dục lịch sử.
Lý luận về giáo dục học, tâm lí học phương pháp dạy học của các nhà khoa
học giáo dục, giáo dục lịch sử trong và ngoài nước.
W8=G\?FL=ZL?F=6X?<eJ
F=6X?<eJHgHJh?j
Nghiên cứu qua các tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối
của Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Triển khai đọc, phân tích, tổng hợp tài liệu từ các công trình của các nhà giáo
dục, các nhà giáo dục lịch sử, các nhà nghiên cứu lịch sử, các đề tài nghiên cứu viết
về vấn đề CT BS SGK và TLG.
F=6X?<eJB=k<B6l?j
Tiến hành điều tra cơ bản bằng các hình thức quan sát, dự giờ, trắc nghiệm, trả
lời câu hỏi của GV và HS để đánh giá được thực tế dạy học lịch sử ở trường THCS
tại Hà Nội, Nam Định, Sơn La, Hòa Bình.
Tiến hành soạn bài TN theo những đề xuất dự kiến mà luận văn đề ra, tiến
hành TN sư phạm để khẳng định tính đúng đắn của đề xuất.
m86nB=JoPBR=;U=><<iU@AB46
Chất lượng dạy học lịch sử ở trường THCS sẽ được nâng cao nếu xây dựng
được hệ thống TLG vào đổi mới BS SGK sau năm 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỉ
XVI – giữa thế kỉ XIX ). Từ đó, sẽ phát huy sức sáng tạo của GV và phát triển năng
lực trong học tập của HS.
p8q?FFqL<iU@AB46
Đề tài nghiên cứu CT SGK, khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng TLG
trong dạy học lịch sử.
Đề tài góp phần phản ánh thực tiễn dạy học lịch sử nói chung, thực tiễn nhận
thức và việc sử dụng TLG trong dạy học lịch sử nói riêng.
Đề xuất hệ thống TLG vào đổi mới BS SGK sau năm 2015 phần lịch sử thế
giới (thế kỉ XVI – giữa thế kỉ XIX) nhằm phát huy sáng tạo của GV trong giảng dạy

và phát triển năng lực HS trong học tập nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
r8s?F=tUR=;U=><<iU@AB46
Đề tài làm phong phú thêm lí luận về phương pháp dạy học lịch sử nói chung,
về vấn đề CT SGK và vận dụng đưa TLG vào BS SGK nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần giúp các GV giảng dạy học lịch sử ở
trường THCS có nhận thức mới về CT SGK sau 2015. Đồng thời đưa ra hệ thống
TLG làm cơ sở tham khảo cho các nhà khoa học viết SGK sau này và là tư liệu bổ
sung giúp GV tham khảo dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử.
u8K<E<HJh?a^?
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm
hai chương:
Chương I: Vấn đề sử dụng tư liệu gốc trong sách giáo khoa lịch sử Trung học
cơ sở: lí luận và thực tiễn.
Chương II: Đề xuất sử dụng tư liệu gốc phần lịch sử thế giới (thế kỉ XVI -
giữa thế kỉ XIX) để biên soạn sách giáo khoa Lịch sử Trung học cơ sở sau năm
2015. Thực nghiệm sư phạm.

,jvw
#(,-jx3yz
1818\O]HgHJh?
181818{JU??6I_aABGH6IJFK<
18181818#=Z6?6I_
Sử dụng TLG trong dạy học và BS SGK lịch sử là vấn đề không còn mới đối
với giáo dục các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, sử dụng TLG trong BS SGK đã có
nhưng còn rất ít. Kèm theo đó việc sử dụng TLG trong dạy học lịch sử của GV cũng
hạn chế, từ đó dẫn tới tình trạng nhầm lẫn, đồng nhất TLG với các loại tài liệu lịch
sử khác. Các nhà giáo dục lịch sử đã đưa ra các khái niệm về TLG.
Trước tiên, để hiểu rõ khái niệm TLG cần phải hiểu về khái niệm tài liệu lịch
sử và tư liệu lịch sử. Tài liệu lịch sử là những sách báo hoặc các công trình nghiên
cứu về lịch sử quá khứ của xã hội loài người. Theo từ điển tiếng Việt: “Tài liệu là

văn bản giúp cho tìm hiểu một vấn đề gì: tài liệu học tập, tài liệu tham khảo; tư liệu
là tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu” [72;884]. Trong cuốn “Phương pháp luận
sử học” do Phan Ngọc Liên chủ biên có viết “tư liệu lịch sử là khâu trung gian nối
liền giữa nhà sử học với các công trình nghiên cứu lịch sử” [39;269]. “Tư liệu lịch
sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan hệ nhất định,
mang trong mình những dấu vết của quan hệ ấy, phản ánh trực tiếp và trừu tượng
hóa một mặt hoạt động nào đấy của con người” [39;272]. Tác giả Phan Huy Lê
trong cuốn “ Tìm về cội nguồn” đưa ra ý kiến như sau: “Tư liệu lịch sử hay sử liệu,
theo quan niệm hiện đại, là tất cả những gì chứa đựng những lượng thông tin về
lịch sử, giúp nhà sử học khai thác, gạn lọc để tái hiện và nghiên cứu quá khứ lịch
sử”. Có thể thấy, các tác giả đã định nghĩa tài liệu lịch sử bao gồm tư liệu lịch sử.
Tư liệu lịch sử là phần quan trọng CT thành tài liệu lịch sử, phục vụ cho quá trình
nghiên cứu hay học tập lịch sử. Tư liệu lịch sử chứa đựng những sự kiện lịch sử - là
CT cơ bản của lịch sử. Vì thế, tư liệu lịch sử có vai trò hết sức quan trọng đối với
khoa học lịch sử “là nguồn quan trọng nhất trong nghiên cứu lịch sử”.
Trong công tác nghiên cứu, để viết các tác phẩm về lịch sử các tác giả rất chú
ý tới tư liệu lịch sử để mang lại tính hấp dẫn và xác thực cho tác phẩm. Nếu coi “tư
liệu lịch sử” là nguyên vật liệu để chế tác ra các tác phẩm khác nhau trong nghiên
cứu lịch sử thì TLG chính là nguyên liệu “tinh khiết” trong hệ thống ấy. Vì đó là
những căn cứ, bằng chứng lịch sử quan trọng nhất nên luôn được các nhà nghiên
cứu lịch sử chú trọng, ưu tiên.
Từ khi con người xuất hiện cùng với quá trình lao động của mình đã tự sáng
tạo ra lịch sử của chính bản thân mình, con người để lại dấu ấn về cuộc sống vật
chất và tinh thần qua các hiện vật, công trình, qua văn tự… Lịch sử của con người
càng nhiều bao nhiêu thì những tư liệu về con người càng nhiều bấy nhiêu. Lịch sử
là những gì đã xảy ra, không lặp lại, vì vậy khi nghiên cứu về lịch sử ở các thời kỳ
lịch sử khác nhau với các quan điểm chính trị khác nhau, các nhà nghiên cứu đã có
các cách nhìn nhận lịch sử khác nhau. Đôi khi, vì phục vụ mục đích của giai cấp mà
các tác giả đã cố ý bóp méo lịch sử, làm sai sự thật. Vậy để tìm câu trả lời chính xác
cho các sự kiện hiện tượng của quá khứ chúng ta cần dựa vào TLG, dựa vào các

chứng tích còn lại để cho lịch sử không bị hiện đại hóa, bị đóng màu quá khứ.
Tác giả Trần Viết Thụ trong bài viết “Về việc sử dụng các tài liệu gốc trong
giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông”, đã đưa ra khái niệm tài liệu gốc “là những
văn kiện, tư liệu có liên quan trực tiếp đến sự kiện, ra đời vào thời điểm xảy ra các
sự kiện như các văn tự cổ, các hiệp ước, điều ước, tuyên ngôn…” [22;245]. TLG
không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn mang giá trị nhân văn rất lớn (chỉ có một bản
duy nhất) và mang tính nguyên bản. Về mặt thông tin, nó mang những thông tin đầu
tiên chưa có tư liệu nào nói đến.
Như vậy, TLG là tư liệu lịch sử mang những thông tin về sự kiện lịch sử được
phản ánh lại, ra đời cùng với thời gian và không gian của sự kiện lịch sử đó. Nó
mang thông tin đầu tiên của sự kiện, hiện tượng lịch sử, là bằng chứng gần gũi, xác
thực nhất của lịch sử. TLG mang giá trị lịch sử đặc biệt mà không một loại tài liệu
lịch sử nào có được.
Một vấn đề đặt ra trong nghiên cứu, học tập khi sử dụng TLG, đó là người
nghiên cứu học tập không tận tay sở hữu bản gốc của tư liệu, mà chỉ tiếp cận được
các bản sao chép lại, hay chụp ảnh lại có được gọi là TLG không. Ví dụ, khi dạy bài
Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII, GV sử dụng bản dịch để dạy học cho HS
về Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, hay các tranh ảnh được phôtô lại từ bản
gốc thì có coi là đã sự dụng TLG chưa?. Theo đĩnh nghĩa về TLG ở trên thì việc sử
dụng TLG truy nguyên đúng bản chính, không thay đổi về nội dung, hình ảnh gốc
đã có, nghĩa là đã sử dụng TLG. Bởi các TLG chỉ có ở bảo tàng hoặc nơi trưng bày,
GV hay người nghiên cứu không thể tiếp cận được một cách dễ dàng hay sử dụng
nhiều lần, thêm vào đó các TLG nước ngoài lại càng khó về ngôn ngữ, địa lí nên
việc sờ tận tay và sử dụng là điều không thể làm được. Trong dạy học, nghiên cứu
việc sử dụng TLG có tác dụng rất lớn vì giá trị khách quan của nó, vì vậy khi muốn
sử dụng TLG chúng ta cần thẩm định độ chính xác nguồn gốc của TLG mang tính
gián tiếp đó, để đảm bảo nội dung không bị thay đổi sửa chữa, có như thế thì mới
mang lại giá trị thực sự như nó vốn có.
181818/8=|?H;Y6BGH6IJFK<
Khoa học lịch sử tồn tại trên cơ sở các sự kiện lịch sử, mà các sự kiện là tế bào

cấu thành lịch sử, các tế bào đó là từ những tư liệu lịch sử. Do đó không có tư liệu
lịch sử thì không có khoa học lịch sử. Sự kiện lịch sử xảy ra trong quá khứ và không
lặp lại, nếu lặp lại cũng chỉ là ở trình độ khác, mức độ khác, thời gian khác nhau.
Trong mỗi thời kỳ khác nhau tư liệu lịch sử được để lại theo những cách khác nhau,
từ đó tạo ra các loại tư liệu khác nhau. Hiện nay, tư liệu lịch sử được chia thành bảy
loại: tư liệu thành văn, tư liệu vật chất, tư liệu truyền miệng dân gian, tư liệu ngôn
ngữ, tư liệu dân tộc học, tư liệu phim ảnh, băng ghi hình và tư liệu băng ghi âm.
Theo quan niệm về nội dung phản ánh và tính chất của tư liệu có thể chia TLG
thành bốn loại sau:
Tư liệu vật chất là sản phẩm của quá trình hoạt động thực tiễn và hoạt động
nhận thức của con người, đó là những dụng cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí
của người xưa, thành quách, cung điện… Ví dụ như như thành cổ Loa (Đông Anh –
Hà Nội), trống đồng Ngọc Lũ (Hà Nam) được tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ
học. Tư liệu vật chất mang ý nghĩa cực kì quan trọng, nó phản ánh thời kì dài của
lịch sử khi mà chưa xuất hiện chưa viết, đồng thời mang tính khách quan trung thực
lớn. Khi đã có chữ viết, tư liệu vật chất có giá trị bổ sung về mặt nhận thức làm cho
nhận thức của chúng ta chính xác hơn các loại tài liệu chữ viết, bổ sung và kiểm tra
các loại tư liệu chữ viết đã đúng chưa và đúng ở mức độ nào. Ngày nay, với sự hỗ
trợ của khoa học kĩ thuật, số lượng tư liệu vật chất tăng lên, cực kì phong phú, đa
dạng, chúng ta khai quật được nhiều hơn tư liệu vật chất của các thời kì lịch sử và
giải mã những bí ẩn của nhân loại thời kì trước kia. Tuy nhiên, đây là loại tư liệu
“câm”, tự bản thân nó không nói lên điều gì được vì thế chỉ khi nào được các nhà
khoa học nghiên cứu được thì chúng ta mới biết thông tin về tư liệu. Loại tư liệu
này thường được bảo quản trong các kho, hay viện bảo tàng nên gây khó khăn trong
việc tiếp xúc trực tiếp.
Tư liệu chữ viết là những sử liệu cho ta những thông tin về các sự kiện đã xảy
ra được ghi lại bằng kí tự trên các kênh thông tin khác nhau như: giấy, xương, đá,
mai rùa, vỏ cây… Ví dụ bộ Đại Việt sử kí toàn thư (thời Hậu Lê), tác phẩm Phủ
biên tạp lục (Lê Quý Đôn). Đây là nguồn tư liệu có khối lượng lớn và đặc biệt quan
trọng, đôi khi chiếm địa vị chủ yếu trong các loại TLG. Các nhà nghiên cứu đã phân

chia tư liệu chữ viết thành các loại khác nhau như theo đặc điểm, theo ngành, theo
lĩnh vực, …Tuy loại tư liệu này có thể dễ dàng thu thập dưới nhiều hình thức hơn
các loại tư liệu khác, nhưng chúng ta cần lưu ý khi nghiên cứu và xử lí trước khi
đem vào sử dụng. Vì lịch sử mang tính giai cấp nên lịch sử cũng mang tính chủ
quan, chịu ảnh hưởng tư tưởng của các thời kì lịch sử. Khi tìm hiểu loại tư liệu này
chúng ta cần phải đối chiếu với các loại tư liệu khác để có cái nhìn toàn diện, chân
thực nhất về lịch sử. Ngoài ra, tư liệu chữ viết còn bao gồm cả những bảng số liệu
thống kê từ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa giáo dục. Thông qua
các bảng số liệu đó phần nào đó lịch sử được cụ thể hóa.
Tư liệu hình ảnh: gồm tranh, ảnh được chụp lại, vẽ lại tại thời điểm xảy ra sự
kiện lịch sử. Ví dụ tranh Quang cảnh Luân Đôn Anh thế kỉ XVII, tranh Tình cảnh
nông dân Pháp trước cách mạng…Đây là tư liệu đặc biệt giúp người quan sát có thể
tri giác được lịch sử qua hình ảnh lịch sử. Loại tư liệu này giúp chúng ta tái hiện lại
bức tranh lịch sử một cách sinh động cụ thể và mang tính trực quan cao. Tư liệu
hình ảnh rất phong phú, nhưng cần lưu ý loại hình ảnh được dựng lại để chụp thì
không được gọi là TLG. Vì vậy, khi sử dụng cần phân biệt rõ để sử dụng hiệu quả.
Tư liệu băng ghi âm, ghi hình là loại tư liệu mới xuất hiện cùng với xã hội
hiện đại. Ví dụ băng ghi hình sự kiện Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập” tại
quảng trường Ba Đình năm 1945…Loại tư liệu này cho phép chúng ta “nghe”,
nhìn” hiện thực lịch sử. Nó ghi lại một cách chân thực và tái hiện gần như đầy đủ
các sự kiện, hiện tượng lịch sử xảy ra. Tuy nhiên, với sự phát triển của kĩ thuật công
nghệ nguồn tư liệu này dễ bị xuyên tạc, làm giả nên khi sử dụng cần lưu ý về độ
trung thực nguyên bản. Nếu sử dụng được đúng tư liệu băng ghi âm, ghi hình gốc
thì sẽ có giá trị rất lớn.
Ngoài ra, còn có loại tư liệu truyền miệng dân gian gồm các thể loại ca dao
dân ca, vè, truyện thần thoại… được lưu truyền qua các thời kì lịch sử với các dị
bản khác nhau lại không có niên đại cụ thể đi kèm, tư liệu được bao phủ lên một lớp
màu sắc kì bí. Vì vậy, độ chính xác của tư liệu này cần được nghiên cứu khi sử
dụng, cần bóc tách tư liệu dựa trên sự kết hợp với các loại tư liệu khác để gạn đục
khơi trong tìm ra giá trị lịch sử đích thực của nó.

Với các loại TLG ở trên, loại tư liệu chữ viết là chiếm đa số, dễ cho việc tìm
kiếm hơn các tư liệu khác nên được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu khoa học và
trong dạy học lịch sử. Với tư liệu hiện vật là những “hiện vật câm” không phải lúc
nào cũng nói lên được lịch sử, hơn nữa hiện vật lại khó có thể tiếp xúc trực tiếp. Tư
liệu truyền miệng chứa đựng những thông tin sinh động, chi tiết, song việc thêm
thắt, cải biện trong quá trình khẩu truyền nên khiến việc khai thác thông tin khó
khăn. Trong khi tư liệu viết có thể bị biến đổi qua sao chép nhưng về cơ bản nó ổn
định vì thế chỉ cần đối chiếu bản gốc, sử dụng bản gốc sẽ đem lại hiệu quả đặc biệt.
Vì thế, trong dạy học lịch sử hiện nay đặc biệt chú ý đến loại tư liệu chữ viết gốc,
vừa bởi giá trị của nó, vừa bởi sự dồi dào của nguồn tư liệu. Và trong phạm vi luận
văn của mình, tác giả cũng chỉ đi sâu vào đề xuất sử dụng hệ thống TLG loại chữ
viết cho việc BS SGK Lịch sử sau năm 2015 ở cấp THCS.
181818c8}<@6V_BGH6IJFK<
Trong nghiên cứu khoa học và trong học tập việc sử dụng TLG được coi trọng
hàng đầu, nó có một vị trí tương đối đặc biệt. Nhiều nhà khoa học đã xem đây là
nguồn chính xác nhất, quan trọng nhất. Chính các đặc điểm của TLG đã làm cho
bản thân nó được chú ý và trở thành quan trọng mà người ta đã ví đó là “bà hoàng”
của các nguồn tư liệu khác. TLG có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, TLG mang tính khách quan, chân thực. TLG là bằng chứng của quá
khứ, được ra đời trong thời điểm sự kiện, hiện tượng lịch sử xảy ra. Đó là những kí
tự mang tính nguyên gốc, chưa thông qua một lăng kính chủ quan nào. So với
những tài liệu lịch sử được viết sau này lịch sử luôn bị chi phối bởi những quan
điểm của tác giả, những bình phẩm phê phán đối với sự kiện, hiện tượng. Từ việc
bình luận lại lịch sử của một tác giả sau đó có thể bị “tam sao thất bản” qua nhiều
tài liệu khác nhau với ý kiến khác nhau. Như vậy, chỉ có TLG mới có đủ tính khách
qua, chân thực nhất so với các loại tư liệu, tài liệu khác, là chuẩn mực cho việc
nghiên cứu, học tập.
Thứ hai, TLG đáng tin cậy và có thông tin chính xác hơn các loại tư liệu, tài
liệu khác. TLG ra đời đồng thời, gần nhất với sự kiện lịch sử đã diễn ra vì thế sẽ
được ghi lại rõ ràng, chi tiết và sống động nhất. Đó không phải là các tài liệu viết

theo trí nhớ hay trí tưởng tượng hình dung theo các lời kể lại, vì thế bản thân loại tư
liệu này mang tính đáng tin cậy và có thông tin chính xác là cao nhất.
Thứ ba, TLG đưa lại những nhận thức trực tiếp, những thông tin trực tiếp về
các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử. Đó là nhận thức về không gian, thời gian
sự kiện hiện tượng, những số liệu hay những bảng thống kê chi tiết, những câu nhận
xét miêu tả về nhân vật lịch sử của người đương thời. Đó là những thông tin làm
người nghiên cứu, học tập được phản ánh trực tiếp, thu nhận vào trong đầu óc của
mình một cách cụ thể nhất, sinh động nhất tạo ra các biểu tượng sâu sắc.
Thứ tư, TLG không phải là một tư liệu tổng hợp tất cả các khía cạnh của đời
sống xã hội của loài người đã diễn ra, nó chỉ phản ánh một khía cạnh, một chi tiết
nào đó của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Khi sử dụng trong nghiên cứu, học tập để
làm sáng tỏ các vấn đề lịch sử cần sử dụng nhiều loại TLG khác nhau để dựng lại
được bức tranh rõ ràng về các vấn đề lịch sử cần tìm hiểu. Mỗi loại tư liệu chỉ mang
một số nội dung hay thông tin, vì thế không nên khiên cưỡng cho nó mang những
nội dung không đúng và sẽ làm mất giá trị vốn có.
Thứ năm, TLG ra đời cùng với thời điểm và địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử,
do đó có những hạn chế về mặt ngôn ngữ, văn bản, số lượng. Đây là loại tư liệu khó
khai thác, nội dung đơn lẻ nên khi nghiên cứu, học tập với loại tư liệu này sẽ vấp
phải nhiều khó khăn.
Với các đặc điểm trên của TLG, trong dạy học lịch sử, GV sử dựng TLG cần
phải tìm hiểu nội dung trước một cách sâu sắc chi tiết, lựa chọn tư liệu phải chú ý
đến tính vừa sức của HS, phù hợp với nội dung bài học. Trong BS SGK sau năm
2015, khi đưa TLG vào trong sách các nhà khoa học cần chú ý để làm sao phát triển
năng lực của HS, để HS không chỉ lĩnh hội được kiến thức mà còn phát triển kĩ
năng và tư tưởng tình cảm của mình.
1818/8\O]~JbBL=ZB<iUab?@A
1818/818E<B6XJ7?=6I_aE<iU_•?N<=OD]B[G€?F[J?F=><<\O]
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, nhu cầu nhân lực được đào tạo toàn diện
ngày càng cao. Điều đó đặt ra cho ngành Giáo dục nói chung, các trường trung học
nói riêng trong dạy học không chỉ cung cấp đầy đủ cho HS các kiến thức về toán

học, vật lí, văn học hay ngoại ngữ…mà còn hình thành cho HS những hiểu biết đầy
đủ về lịch sử. Với các kiến thức được trang bị, HS dần dần hình thành các năng lực
trong cuộc sống, tôi luyện tinh thần dân tộc, từ đó hoàn thành các công việc, nhiệm
vụ trong bất cứ hoàn cảnh nào, lĩnh vực lao động sáng tạo nào phục vụ lợi ích cho
Tổ quốc và nhân loại.
Hiện nay, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và xã hội với bộ môn Lịch sử
trong giáo dục thế hệ trẻ ngày càng lớn. Môn Lịch sử đã và đang góp phần “ đào
tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí thức, sức khỏe, thẩm
mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành
và bồi dường nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. [41;8].
Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường trung học được xây dựng trên cơ sở,
quan điểm, đường lối của Đảng về sử học và giáo dục mục tiêu cấp học. Mục tiêu
môn học cũng căn cứ vào nội dung, đặc trưng của hiện thực lịch sử và nhận thức
lịch sử; yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Việc dạy học lịch
sử ở trường THCS nhằm giúp HS nắm được những kiến thức cơ bản, cần thiết về
lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, làm cơ sở bước đầu cho việc hình thành thế giới
quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc tạo
cho HS có năng lực tư duy, hành động, thái độ đúng đắn trong đời sống xã hội.
Để đạt được các mục tiêu của việc dạy học lịch sử cần phải đạt được các
chuẩn mực về kiến thức, kĩ năng, thái độ như sau:
Về kiến thức: HS phải biết, hiểu được những sự kiện lịch sử quan trọng của
lịch sử xã hội loài người từ nguồn gốc đến nay, trọng tâm là phần lịch sử thế giới
cận đại và hiện đại, chú trọng những sự kiện, vấn đề lịch sử liên quan đến lịch sử
dân tộc. Việc học tập lịch sử dân tộc, HS phải nắm được kiến thức chủ yếu về quá
trình phát triển lịch sử dân tộc với những sự kiện nổi bật nhất của từng thời kỳ, hiểu
nội dung chủ yếu của từng giai đoạn lịch sử dân tộc. Qua đó, HS được trang bị
những hiểu biết đơn giản, bước đầu về một số nội dung của phương pháp luận và
nhận thức xã hội: sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài người, vai trò của lao
động với sự phát triển xã hội, vai trò quần chúng nhân dân, đấu tranh giai cấp là

động lực phát triển của xã hội loài người…
Về kĩ năng: dạy học lịch sử ở trường THCS cần bước đầu hình thành các kĩ
năng cần thiết trong học tập bộ môn như sử dụng SGK, làm việc với các nguồn tư
liệu lịch sử, kĩ năng sử dụng bản đồ và các loại biểu bảng…, kỹ năng phân tích,
đánh giá, so sánh, phản biện các sự kiện hiện tượng, nhân vật lịch sử… ở mức độ
ban đầu. Hình thành ở HS năng lực đề xuất và giải quyết vấn đề sử học (nêu vấn đề,
thu thập, xử lí thông tin, giải quyết vấn đề).
Về thái độ: trên cơ sở những kiến thức cơ bản đã học tập HS sẽ được giáo dục
lòng yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc, trân trọng với những di sản lịch
sử trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, thiết tha gắn bó với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Qua học lịch sử thế giới, HS trân trọng với các
dân tộc, các nền văn hóa trên thế giới và có tinh thần quốc tế đúng đắn. HS có niềm
tin về sự phát triển từ thấp đến cao, từ lạc hậu đến văn minh của lịch sử nhân loại và
lịch sử dân tộc.
Bản thân bộ môn Lịch sử đã mang trong mình tính giáo dục cao với thế hệ trẻ,
HS học tập bộ môn giúp hình thành thái độ và phẩm chất công dân; tính tích cực vì
cộng động, yêu lao động, sẵn sàng đi vào nghiên cứu khoa học kĩ thuật, rèn luyện
lối sống kỉ luật, tuân thủ pháp luật và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, bộ môn Lịch sử ở trường THCS có mục tiêu và nhiệm vụ là “Thông
qua dạy chữ để dạy người”, tức là HS không chỉ được trang bị về kiến thức, kĩ năng,
mà còn giáo dục tư tưởng, tình cảm đúng đắn nhằm phát triển con người toàn diện
(đức, trí , thể, mĩ). Mục tiêu đó muốn thực hiện tốt cần phải có chương trình phù
hợp, mà cụ thể hóa của nó là SGK. SGK cần được BS phù hợp với trình độ, tâm lí
lứa tuổi HS nhằm phát triển năng lực cho các em, vì thế khi dạy học và BS SGK
cần phải sử dụng thường xuyên TLG. Sử dụng TLG chính là đưa HS tới gần nhất
với các sự kiện, hiện tượng đã xảy ra, HS sẽ tri giác vấn đề lịch sử khách quan nhất,
từ đó tạo hứng thú học tập, phát triển năng lực và nâng cao chất lượng dạy học lịch
sử.
1818/8/8}<B[G?F<iU_•?N<=OD]B[G€?F[J?F=><<]O]
Để đưa ra các phương pháp, biện pháp đúng đắn trong dạy học lịch sử, người

GV phải nắm rõ các đặc trưng của bộ môn. Khác với các môn học khác môn Lịch
sử có đặc điểm riêng của nó không thể trực tiếp quan sát hay làm trong phòng thí
nghiệm được, vì lịch sử có tính quá khứ, tính không lặp lại, tính cụ thể, tính hệ
thống, tính thống nhất giữa sử và luận.
N<=OD_U?FBg?=•JZR=e7 tất cả mọi sự kiện, hiện tượng được chúng ta
nhắc đến đều là những chuyện đã xảy ra theo một tiến trình lịch sử cùng với sự phát
triển của xã hội loài người. Vì thế, con người không thể trực tiếp quan sát được mà
thông qua tài liệu lưu lại. HS tiếp thu lịch sử thông qua việc tạo biểu tượng của
GV trong các giờ giảng, HS không thể “trực quan sinh động” những sự kiện xảy
ra. Vì vậy, GV phải dùng các loại tư liệu nói chung, TLG nói riêng để giảng dạy
cho HS, chứ không thể thay thế sự kiện hiện tượng khách quan đang học. Từ các
tư liệu đó HS sẽ được tiếp cận sự khách quan của lịch sử, làm cho lịch sử được
gần gũi và dễ tiếp thu hơn.
N<=OD_U?FBg?=R=•?FH}LHY6aAB=€6F6U?a4R=•?FF6U?. Con người
trong tiến trình lịch sử nhân loại, mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử chỉ xảy ra trong
thời gian, không gian nhất định và duy nhất một lần. Không có một sự kiện, hiện
tượng lịch sử nào xảy ra cùng thời điểm, trong các thời kì khác nhau là hoàn toàn
giống nhau, lặp lại là có sự kế thừa, phát triển, sự lặp lại trên cơ sở không lặp lại. Sự
phát triển của lịch sử dân tộc và lịch sử các nước trên thế giới luôn là sự vận động
biến đổi không ngừng, sự không lặp lại của lịch sử gây khó khăn cho việc tiếp thu
kiến thức của HS. Vì vậy, GV phải hướng dẫn HS cách ghi nhớ các sự kiện và phân
biệt sự kiện với nhau, tránh nhầm lần và hiện đại hóa các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
N<=OD<qBg?=<EB=V, khoa học lịch sử nghiên cứu tiến trình lịch sử cụ thể
của các nước, các dân tộc khác nhau và quy luật của nó. Bản thân mỗi nước có chế
độ chính trị khác nhau, điều kiện sống khác nhau, trình độ phát triển khác nhau, có
những nước có cùng hình thái kinh tế xã hội nhưng sự phát triển không giống nhau.
Chính điều đó làm nên tính cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi nước, khi nhắc tới một dân
tộc nào, một giai đoạn thời kỳ nào đều có sự kiện hiện tượng riêng gắn với dân tộc
đó một cách sinh động. Đặc điểm này đòi hỏi trong giảng dạy lịch sử người GV cần
phải chú ý trình bày các sự kiện càng cụ thể bao nhiêu, càng sinh động bao nhiêu sẽ

hấp dẫn HS bấy nhiêu, tránh trình bày máy móc tên địa danh, tên nhân vật, thời gian
xảy ra sự kiện mà hãy cụ thể hóa để HS lĩnh hội bằng việc sự dụng các tư liệu, tài
liệu tham khảo kết hợp đồ dùng trực quan.
g?==IB=K?F, nội dung tri thức lịch sử rất phong phú, đề cập mọi lĩnh vực
của đời sống loài người, gồm chính trị, kinh tế, văn học nghệ thuật, khoa học kỹ
thuật…SGK lịch sử ở trường phổ thông phải bao quát tất cả các mặt đó. Những nội
dung lịch sử đó lại có mối quan hệ với nhau. Do vậy, khi giảng dạy người GV phải
luôn chú ý đến mối liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng, các vấn đề lịch sử để cung
cấp cho HS những tri thức lịch sử mang tính hệ thống, hoàn chỉnh, tạo cho HS có
được những tri thức thống nhất, một cái nhìn xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại.
g?=B=K?F?=bBF6TUODa4HJh?, bất kì một chế độ nhà nước nào cũng đều
có quan điểm chính trị riêng của mình, các sử gia sống trong chế độ nào phải phục vụ
tư tưởng thống trị giai cấp đó. Những ghi chép về quá trình phát triển xã hội loài
người từ các góc độ khác nhau là những nội dung lịch sử quý giá. Chúng ta đứng trên
lập trường giai cấp vô sản, theo chủ nghĩa Mác-Lênin . Vì vậy, khi nghiên cứu, giảng
dạy lịch sử phải luôn chú ý đấu tranh chống xuyên tạc lịch sử, dựa vào những nguyên
lí của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để quan sát, nghiên cứu. Người
GV phải đứng trên quan điểm này để trình bày thống nhất, giải thích bình luận và
mọi giải thích đó bắt nguồn từ các sự kiện lịch sử cụ thể, chính xác nhằm làm rõ sự
kiện hiện tượng. Đó là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính Đảng.
Như vậy, quá trình tìm hiểu đặc trưng bộ môn làm chúng ta nắm vững chắc
hơn các vấn đề cơ bản của nội tại bản thân môn Lịch sử. Từ đó, để HS học tập bộ
môn cách hứng thú, hiểu rõ các nội dung lịch sử, hoàn thành tốt được nhiệm vụ học
tập cần phải sử dụng TLG vào dạy học, nhất là vào BS SGK sau năm 2015. Bởi
SGK là nguồn tài liệu chủ yếu mà các em được tiếp cận khi học tập. Việc đưa TLG
vào giảng dạy các nội dung lịch sử là biện pháp giúp HS cụ thể hóa lịch sử, kích
thích sự ham mê học hỏi của HS từ đó làm cho HS yêu thích bộ môn hơn.
1818/8c8}<@6V_B|_H9a4?=h?B=e<<iU=><O6?=[J?F=><<\O]B[;?F
=><BhLHN<=OD8
‚}<@6V_B|_H9<iU=><O6?=[J?F=><<\O]

HS THCS thuộc lứa tuổi từ 11 đến 15, là tuổi thiếu niên, giai đoạn chuyển từ
trẻ con sang người lớn, vẫn mang tính cách trẻ con nhưng lại tập làm người lớn.
Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ đến mức thiếu cân đối về thể chất, tâm lí, trí tuệ.
Việc đổi mới BS SGK ở trường THCS theo hướng phát triển năng lực HS trong quá
trình học tập cần đến các đặc điểm về động cơ học tập, tư duy tâm lý.
Hoạt động học tập và các hoạt động khác của học sinh THCS có nhiều thay
đổi so với học tiểu học, sự tác động đến việc hình thành những đặc điểm tâm lý lứa
tuổi HS, tiêu biểu như:
Đến thời kỳ này, HS được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau, mỗi môn
học bao gồm một hệ thống tri thức với những khái niệm trừu tượng, có nội dung sâu
sắc, phong phú do đó đòi hỏi thay đổi cách học. Các em cần học cách học bài cách
tư duy lôgic, trình bày bài học theo ý hiểu của mình. Sự phong phú tri thức của từng
môn học làm cho khối lượng tri thức các em lĩnh hội được tăng lên nhiều lần. Tầm
hiểu biết các em được mở rộng.
Sự thay đổi về phương pháp học và hình thức học tập. Với các bộ môn khác
nhau các thầy cô có phương pháp phù hợp với các hình thức khác nhau, từ đó ảnh
hưởng đến việc lĩnh hội kiến thức, làm phát triển trí tuệ, nhân cách của HS. Môn
Lịch sử bản thân nó đã mang tính giáo dục cao, HS cũng thay đổi cách tiếp cận môn
học từ dạng câu chuyện sang học thông sử.
Ở cấp học THCS, HS dần chuyển sang mức độ tự học cao hơn, ý nghĩa học
tập của các em dần dần được xem là hoạt động độc lập hướng vào sự thỏa mãn nhu
cầu nhận thức. Động cơ học tập của HS rất phong phú do đó thái độ học tập cũng
khác nhau. Muốn giúp các em có thái độ đúng đắn trong học tập thì tài liệu học tập
phải súc tích về nội dung khoa học; tài liệu gắn với cuộc sống của các em, làm cho
các em hiểu rõ ý nghĩa của tài liệu; tài liệu phải gợi cảm cho HS có nhu cầu tìm
hiểu tài liệu đó; phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp phù hợp.
HS THCS đã có khả năng phân tích, tổng hợp phức tạp hơn khi tri giác các sự
vật, hiện tượng. Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở lên có kế hoạch, có trình tự
và hoàn thiện hơn. Các em đã biết tiến hành các thao tác như so sánh, hệ thống hóa,
phân loại, tốc độ ghi nhớ tài liệu tăng lên.

Như vậy với đặc điểm tâm lí riêng biệt, sự dần dần trưởng thành về tư duy, thao
tác trong học tập nhanh nhạy hơn của lứa tuổi học sinh THCS đòi hỏi các nhà BS
SGK phải đáp ứng phù hợp sự phát triển của lứa tuổi. Việc học tập trong sự khám
phá luôn mang lại sự thú vị, hứng thú cho các em, cùng với đặc trưng bộ môn lịch sử
là học tập cái đã qua đặt ra yêu cầu việc BS SGK sau năm 2015 phải đưa nhiều hơn
nữa TLG vào học tập bộ môn. Đây là biện pháp quan trọng để đáp ứng nhu cầu học
tập của HS, qua đó các em sẽ hứng thú với bộ môn khi tiếp thu các kiến thức mới.
‚}<@6V_?=h?B=e<<iU=><O6?=B[;?F=><BhL_•?HN<=OD8
Quá trình nhận thức của HS cũng giống như quá trình nhận thức chung của
nhân loại, tức là luôn diễn ra theo con đường biện chứng của nhận thức “từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”.
Nhận thức cụ thể trong học tập lịch sử theo đặc trưng của khoa học lịch sử,
nhận thức của HS trong học bộ môn là quá trình nhận thức lại những vấn đề mà các
nhà khoa học đã nghiên cứu nhưng HS chưa biết, quá trình nhận thức này được đặt
dưới sự hướng dẫn tổ chức chỉ đạo của người thầy.
Lôgic quá trình nhận thức của HS trong học tập diễn ra từ việc nắm tài liệu
mang tính gián tiếp. Các sự vật hiện tượng của lịch sử (thế giới, dân tộc, địa
phương) khách quan phản ánh trực tiếp vào não của HS thông qua giác quan. Đó là
giai đoạn nhận thức cảm tính của HS, các em sẽ phản ánh một cách trực tiếp và
riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật, hiện tượng từ đó tạo nên trong óc HS các biểu
tượng đã được tri giác trước đó. Những biểu tượng đó phản ánh những dấu hiệu bên
ngoài của các sự vật hiện tượng, nó trở thành cơ sở cho nhận thức lí tính. HS bằng
tư duy trừu tượng, khái quát tri thức cụ thể tiến hành việc hình thành các khái niệm,
nắm hệ thống khái niệm. Trong giai đoạn tiếp theo, từ những hiểu biết sâu sắc về
lịch sử HS vận dụng tri thức đã học để tạo ra tư duy những mối liên hệ kiến thức cũ
và mới, sử dụng kiến thức quá khứ để hiểu ngày nay, để hành động phù hợp trong
thực tiễn, hợp với yêu cầu và trình độ, nhiệm vụ của mình
Việc học tập lịch sử bắt nguồn từ tri giác tài liệu, vì vậy các tài liệu càng
phong phú bao nhiêu càng tạo cơ sở thuận lợi cho nhận thức lí tính bấy nhiêu.
Trong dạy học lịch sử, tài liệu có sức mạnh lớn đó là TLG, mang tính khách quan

nhất, nó ảnh hưởng lớn đến chất lượng quá trình tư duy và trở về thực tiễn của HS.
Do đó, trong dạy học nói chung, trong BS SGK sau 2015 nói riêng rất cần thiết
phải đưa TLG vào BS, kết hợp với sử dụng các phương pháp, biện pháp khác là
một yêu cầu không thể thiếu để giúp HS thực hiện tốt quá trình nhận thức. Bởi sự
nhận thức của HS là có chọn lọc “không phải là phép phản xạ gương, phản xạ đơn
giản, nghĩa là phản xạ tất cả các hiện tượng như các gương chiếu lại những gì
đứng trước nó. Đây là sự phản xạ tích cực chọn lọc. Qua quá trình phản ánh, chủ
thể tiến hành những hoạt động phân tích và tổng hợp tích cực để phát hiện được
bản chất hiện tượng”.
Từ quá trình nhận thức trên, HS sẽ phát triển được các năng lực và thực hành
của mình trong quá trình học tập lịch sử, ngoài việc HS học tập sâu sắc hơn còn
luyện tập cho các em trở thành những người có tư duy độc lập, chủ động, tích cực
trong suy nghĩ hành động.
1818/8f8ƒXJ<MJ@„6_Q6B[;?FF6Z;:E<
Giáo dục nước ta đang phát triển trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi
nhanh chóng và phức tạp. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về giáo dục thành xu
thế tất yếu. Cách mạng khoa học công nghệ, thông tin truyền thông, kinh tế tri thức
ngày phát triển mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền giáo dục.
Nền giáo dục Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những thành tựu to
lớn: đào tạo ra đội ngũ lao động đáp ứng cung cấp nhân lực cho các ngành nghề
khác nhau. Tuy nhiên, việc phát triển của công nghệ, tri thức ngày càng đòi hỏi cao
hơn về đào tạo nhân lực chất xám. Trong sự thay đổi ấy nền giáo dục Việt Nam đã
bộc lộ ra những hạn chế của mình. Bởi lẽ, trong nội dung chương trình, phương
pháp dạy và học, công tác thi kiểm tra đánh giá chậm được đổi mới cập nhật, chưa
mạnh dạn chuyển sang đào tạo theo nhu cầu xã hội.
Hiện nay chất lượng học tập môn Lịch sử ở cấp trung học nói chung đang
giảm sút, đa phần HS các trường trung học chán học môn lịch sử, coi là môn phụ.
Chúng ta thấy thực tế môn Lịch sử vẫn là môn học khơi dậy được niềm đam mê, là

×