Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

NGHỆ THUẬT xây DỰNG HÌNH TƯỢNG NHÂN vật TRONG tác PHẨM “THUỐC” của lỗ tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.41 KB, 70 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN

LÊ THÚY DUY
MSSV: 6106305

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT
TRONG TÁC PHẨM “THUỐC” CỦA LỖ TẤN

Luận văn tốt nghiệp dại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hƣớng dẫn : Ths.Gv. BÙI THỊ THÚY MINH

Cần Thơ, năm 2013


ĐỀ CƢƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÍ THUYẾT VÀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1.1. Sơ lược về nền văn học Trung Quốc


1.1.1 Sơ lược văn học Trung Quốc hiện đại
1.1.2. Những ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đến nền văn học Việt Nam
1.2. Tìm hiểu về tác giả Lỗ tấn
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Lỗ Tấn
1.2.1.1. Cuộc đời của nhà văn Lỗ Tấn
1.2.1.2. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Lỗ Tấn
1.2.2. Quá trình sáng tác của nhà văn Lỗ Tấn
1.2.3. Quan điểm và phong cách nghệ thuật của nhà văn Lỗ Tấn
1.2.4. Vị trí của Lỗ Tấn trong nền văn học Trung Quốc hiện đại
1.2.4.1. Lỗ Tấn là ngọn cờ của văn học mới Trung Quốc thế kỉ XX
1.2.4.2. Nghiên cứu Lỗ Tấn – Thu hoạch mới, nhận thức mới
1.3. Tác phẩm Thuốc
1.3.1.Hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm Thuốc
1.3.2. Tóm tắt tác phẩm Thuốc
1.3.3. Ý nghĩa nhan đề truyện Thuốc của Lỗ Tấn
1.3.4 Giá trị nội dung của tác phẩm Thuốc


CHƢƠNG 2
HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM “THUỐC” CỦA LỖ TẤN
2.1. Hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học
2.1.1. Hình tượng văn học là gì?
2.1.2. Hệ thống hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học
2.2. Thế giới nhân vật phong phú trong tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn
2.2.1. Nhân vật đám đơng có cái nhìn hạn hẹp, tham lam, lạnh lùng
2.2.2. Nhân vật người cách mạng lẻ loi, xa rời quần chúng
2.2.3. Nhân vật biểu trưng “chiếc bánh bao tẩm máu người”
2.2.4. Mối quan hệ giữa hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người và những
nhân vật trong tác phẩm
2.3. Ý nghĩa các hình tượng nhân vật trong tác phẩm Thuốc

2.3.1. Ý nghĩa lịch sử
2.3.2. Ý nghĩa hiện thực

CHƢƠNG 3
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT
TRONG TÁC PHẨM “THUỐC” CỦA LỖ TẤN
3.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật
3.1.1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình
3.1.2. Miêu tả nhân vật qua lời nói, hành động, cử chỉ
3.1.3. Miêu tả nhân vật qua tên gọi và ý nghĩa của cách đặt tên
3.2. Không gian và thời gian nghệ thuật
3.2.1. Không gian nghệ thuật
3.2.2. Thời gian nghệ thuật
3.3. Điểm nhìn trần thuật và giọng điệu trần thuật
3.3.1. Điểm nhìn trần thuật
3.3.2. Giọng điệu trần thuật

PHẦN KẾT LUẬN


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trung Quốc là một trong những quốc gia rất nổi tiếng ở khu vực Châu Á với
những nét văn hóa vơ cùng đặc sắc. Nói đến Trung Quốc, chúng ta khơng thể khơng
nhắc đến cơng trình Vạn Lý trường thành đồ sộ được xây dựng dưới thời Tần Thủy
Hoàng dài 6.352 km, nhớ đến Tử Cấm Thành uy nghiêm, rực rỡ, tráng lệ là nơi ở của
các vị vua ngày xưa.
Chẳng những thế, một nước đất rộng người đông với 56 dân tộc và năm ngàn năm
lịch sử, Trung Quốc đã tích lũy cho mình một kho tàng văn học vơ cùng phong phú, đa
dạng có sức sống mãnh liệt.

Kể từ khi học thuyết Khổng Tử ra đời cho đến nay, trải qua hơn hai nghìn năm lịch
sử đất nước Trung Hoa cũng đã liên tiếp sản sinh ra biết bao nhà tư tưởng lớn, nhà
khoa học lớn, và một lĩnh vực vô cùng nổi bật đó là nhà văn, nhà nghệ thuật lớn.
Về văn học, Trung Quốc được thế giới biết đến với các tác phẩm kinh điển như
như: Thủy Hử của Thi Nại Am, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, Tây Du Ký của
Ngô Thừa Ân và Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung – Tứ đại kỳ thư của
Trung Quốc cũng như của nhân loại. Các tác phẩm này giúp ta có dịp tiếp xúc với
những anh hùng hảo hán đầy dũng mãnh với trí tuệ siêu việt. Tuy nhiên, mỗi thời đại
sẽ có những hình tượng con người khác nhau cũng như có những vấn đề khác nhau.
Trong thời hiện đại, văn học Trung Quốc đã có những thay đổi về hiện thực xã hội của
đất nước, nhận thức về con người, và những điều này đã dẫn đến sự thay đổi về hình
tượng con người, về nội dung cần phản ánh và tư tưởng nào cần thể hiện qua tác phẩm
để hướng đến người đọc. Đó là những tư tưởng gì và mang những nét tiêu biểu gì cho
tinh thần dân tộc Trung Hoa? Có những nhận thức mới nào, vấn đề gì cần gửi gắm qua
tác phẩm?
Việt Nam là một quốc gia tiếp giáp phía Nam lãnh thổ Trung Quốc nên quá
trình giao lưu diễn ra rất thuận lợi. Số lượng tác phẩm Trung Quốc được dịch ở Việt
Nam rất lớn, bao gồm các tác phẩm cổ điển lẫn hiện đại. Tuy nhiên, tiếp nhận dễ dàng
nhất có lẽ là các tác phẩm văn học hiện đại Trung Quốc. Vì những điều kiện thuận lợi
và sự gần gũi văn hóa trong cách thể hiện của những tác phẩm văn học Trung Quốc đã

1


làm cho chúng tơi ngày càng u thích nền văn học này, đặc biệt là lối văn của tác giả
tài hoa Lỗ Tấn.
Lỗ Tấn là một nhà văn, nhà tư tưởng lớn. Những tác phẩm văn học của ông đều
thấm đẫm tình người và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Những nhân vật ơng khắc họa
đều mang những tính cách, phẩm chất riêng nhưng qua họ bật lên những giá trị về con
người. Nhìn chung khi tiếp cận với những tác phẩm của Lỗ Tấn đã giúp chúng tôi hiểu

rõ hơn về đất nước và người dân Trung Quốc trong quá trình đấu tranh gìn giữ và xây
dựng đất nước, quan trọng hơn là tích lũy thêm cho mình kiến thức mới về văn học
hiện đại Trung Quốc, bồi dưỡng tinh thần yêu thích văn học, đặc biệt là văn học Trung
Quốc.
Vì có sự u thích khi tìm hiểu về đất nước Trung Hoa vốn mang những nét bí
ẩn cũng như những trăn trở, băn khoăn chưa có dịp giải đáp. Do đó, khi có dịp tiếp
xúc, tơi đã chọn đề tài Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vât trong tác

phẩm Thuốc của Lỗ Tấn để nghiên cứu nhằm mở rộng tầm hiểu biết của mình về
đất nước cũng như về con người nơi đây. Và đặc biệt một đất nước có nền văn học ảnh
hưởng rất nhiều đến nền văn học Việt Nam như Trung Quốc, thì càng có một động lực
giúp tơi ý thức cần phải tìm hiểu để có cách nhìn nhận thơng suốt hơn.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở Việt nam, hầu hết các sáng tác của Lỗ Tấn đều dịch sang Tiếng Việt, trước
hết phải kể đến công lao của các dịch giả như: Đặng Thai Mai, Trương Chính, Luơng
Duy Thứ, Phạm Tú Châu v.v ...trong việc giới thiệu các tác phẩm của Lỗ Tấn đến độc
giả Việt Nam. Lỗ Tấn là một nhà văn không quá xa lạ đối với người Việt Nam. Đầu
thế kỉ XX, những tác phẩm của ông được được dịch phổ biến ở Việt Nam, do đó việc
nghiên cứu về Lỗ Tấn cũng được nhiều nhà nghiên cứu bàn bạc đánh giá.
Ở nhiều giai đoạn khác nhau, Lỗ Tấn được nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam
tìm hiểu, phân tích nhằm đào sâu ở nhiều khía cạnh khác nhau, những điều vẫn chưa
được làm sáng tỏ về nhà văn đại tài này. Ở nước ta, Lỗ Tấn được đánh giá rất cao qua
những bài viết của các nhà nghiên cứu, phê bình như Đặng Thai Mai, Trương Chính,
Lương Duy Thứ, Anh Đức, Trần Áng… Đặc biệt, các nhà nghiên cứu có sự tìm hiểu
sâu sắc về hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người trong Thuốc của Lỗ Tấn, nhằm
phê phán căn bệnh u mê, lạc hậu của người dân Trung Hoa thời bấy giờ và sự xa rời
quần chúng của những người làm cách mạng.
2



Nhằm nêu lên giá trị hiện thực từ hình tượng trung tâm đó là hình tượng chiếc
bánh bao tẩm máu người. Qua đó thấy rõ hiện thực của đất nước Trung Hoa và tư
tưởng tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm này. Và vấn đề này đã được đề cập qua khá
nhiều bài viết.
Trong Phê bình Bình luận văn học do Vũ Tiến Quỳnh biên soạn (1995), qua
bài Truyện ngắn Lỗ Tấn Lương Duy Thứ cho rằng trong Thuốc có hai sự việc xen kẽ
nhau. Một là lão Hoa Thuyên – một người dân lao động mê muội, đã lấy máu người
cách mạng chữa bệnh cho con. Hai là người cách mạng Hạ Du anh dũng cảm hy sinh,
lấy máu mình để chữa bệnh cho dân tộc. Hai sự việc dường như cơ lập đó được liên
kết bởi cái bánh bao tẩm máu người. Ơng chỉ tìm hiểu vấn đề ở sự khái quát, chưa đi
sâu vào hình tượng nhân vật mà trọng tâm là chiếc bánh bao tẩm máu người.
Trong quyển Lỗ Tấn – phân tích tác phẩm do Lương Duy Thứ biên soạn, Ông
cho rằng nhà văn viết Thuốc chỉ muốn lôi hết bệnh tật của quốc dân, đặc biệt cái mà
anh gọi là liệt căn tính như thái độ dửng dưng, vô cảm của người dân trước sự hy sinh
của những người đổ máu vì đất nước. Tuy nhiên, ông chỉ dừng lại ở việc giải thích
những tầng nghĩa của nhan đề truyện Thuốc. Nhưng đây cũng là một nguồn tư liệu để
tơi hồn thành luận văn tốt hơn.
Đặc biệt trong Lỗ Tấn – Thân thế, văn nghiệp, nhà văn Nguyễn Tn đã có bài
bình luận khá sâu sắc về Lỗ Tấn và tác phẩm Thuốc. Ông nhận xét rằng: “Lỗ Tấn đinh
ninh rằng văn nghệ là thuốc cứu bệnh, và muốn lấy văn nghệ chữa cái bệnh tinh thần
của dân tộc mình” [6; t.77].
Về Thuốc thì nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng “Truyện Thuốc là thứ truyện có
tính chất phát động quần chúng nổi lên, nó có tác động xơ nhào các thứ tượng đá
tượng đồng xây trên vơ lí, trên đất cơng và trên áp bức bưng bít”. Và Nguyễn Tuân
đánh giá về cách nhìn của nhà văn Lỗ Tấn: “Cái nhìn của Lỗ Tấn là bậc thầy, cái nhìn
của Lỗ Tấn ở một vài cái chấm phá, y hệt lối khắc bả gỗ và hao hao một vái gì của Cổ
Ngun.”
Nhìn chung, có rất nhiều nhà phê bình, bình luận đã nghiên cứu về Lỗ Tấn và
đặc biệt là tác phẩm Thuốc nhưng chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh, chưa thật sự đi sâu

vào khai thác nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm và hình tượng
trung tâm “chiếc bánh bao”. Thấm nhuần phương hướng khoa học là nghệ thuật thâm
nhập những lãnh mơn. Chính vì thế mà tôi đã lựa chọn đề tài: Nghệ thuật xây dựng
3


hình tượng nhân vật trong tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn để nhằm giải quyết vấn đề
còn hạn chế này.

3. Mục đích nghiên cứu
Khi chọn đề tài Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm
Thuốc của Lỗ Tấn chúng tơi nhằm hướng đến mục đích tìm hiểu, khám phá những
vấn đề tồn tại trong tác phẩm Thuốc . Đặc biệt khi viết tác phẩm này ông đã khai thác
nó về chiều sâu, mang tầng ý nghĩa sâu sắc và lớn lao khi viết về con người. Chính vì
thế khi khai thác vấn đề này, người viết cần chú tâm vào khai thác hình tượng trung
tâm, chỉ rõ được vấn đề và những tầng ý nghĩa, những tư tưởng, quan niệm mà tác giả
gửi gắm để làm nổi bật lên được nội dung.
Về yêu cầu của đề tài, trước tiên phải làm rõ những khái niệm có liên quan đến
đề tài, sau đó đi vào tìm kiếm, khảo sát và chọn lọc những tài liệu liên quan đến đề tài,
tìm hiểu về tác giả Lỗ Tấn và tác phẩm Thuốc, thứ hai là khảo sát những vấn đề về nội
dung và thứ ba là tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm
của ông. Đặc biệt là chứng minh được giá trị của hình tượng nhân vật qua tính cách,
phẩm chất, ngoại hình, hành động, cử chỉ và ý nghĩa của cách đặt tên nhân vật. Từ đó
khái quát lên cuộc sống xã hội đã được hình tượng nhân vật trong tác phẩm phản ánh.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là tác phẩm Thuốc và những vấn đề liên
quan việc tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trong truyện Thuốc
của Lỗ Tấn để từ đó khái quát lên nét độc đáo khi khắc họa nhân vật và giá trị của việc
xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm này. Bên cạnh đó tham khảo và tìm hiểu

thêm về truyện ngắn của Lỗ Tấn và các nhà văn cùng thời với ông để có thêm cách
đánh giá khách quan hơn. Do thời gian và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, nên đề tài
chỉ tập trung nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm
và trung tâm là chiếc bánh bao tẩm máu người để làm bật lên giá trị hiện thực của nó.
Bằng khả năng và sự nổ lực của mình, mong rằng có thể góp phần giúp người đọc hiểu
hơn về tác phẩm cũng như tác giả Lỗ Tấn.
Để tiến hành đề tài này, người viết đã tiến hành điều tra thu thập tài liệu liên
quan đến tác phẩm bằng cách thông qua các phương tiện như sách, báo, giáo trình và
truy cập in -tơ -net. Từ đó tổng hợp các tài liệu nghiên cứu về Nghệ thuật xây dựng
nhân vật trong tác phẩm Thuốc qua những bài phân tích, những bài phê bình, nhận xét
4


về Thuốc. Đặc biệt là các khía cạnh bàn về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật
mà tác giả đã xây dựng trong tác phẩm Thuốc. Những cơng trình nghiên cứu về tác
phẩm này sẽ giúp người viết phân tích cụ thể hình tượng, đi sâu vào nội dung, khai
thác đầy đủ những khía cạnh có liên quan. Đồng thời so sánh, đối chiếu làm nổi bật lên
giá trị của nó. Sau đó đánh giá tổng hợp những giá trị sâu sắc, khái quát tầng ý nghĩa
chủ đạo trong tác phẩm Thuốc từ việc khai thác hình tượng của các nhân vật.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để khảo sát đề tài, trước tiên phải tiến hành cơng việc tìm kiếm những tài liệu
có liên quan đến tác giả Lỗ Tấn như cuộc đời, sự nghiệp, phong cách sáng tác...và
những bài viết phân tích, bình luận, đánh giá về tác phẩm. Sau đó chọn lọc xem tài liệu
nào có liên quan đến đề tài đang khảo sát để từ đó vận dụng vào bài viết.
Để có thể làm rõ vấn đề của đề tài, trong q trình nghiên cứu tơi đã vận dụng
một số phương pháp như:
Phương pháp lịch sử: Viết về đề tài Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật
trong tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn, tôi luôn đặt tác phẩm trong mối quan hệ với quá
trình phát triển của lịch sử văn học Trung Hoa, trong sự vận động của từng giai đoạn

lịch sử, để từ đó có thể khẳng định giá trị của tác phẩm và tài năng khắc họa nhân vật
của tác giả.
Phương pháp tiểu sử: Trong q trình nghiên cứu đề tài, tơi đã kết hợp tìm hiểu
khái qt về hồn cảnh sống, về quan niệm nghệ thuật của Lỗ Tấn để từ đó có thể liên
hệ, lí giải được những vấn đề trong tác phẩm một cách chính xác và sâu sắc hơn.
Phương pháp so sánh: Việc sử dụng phương pháp này giúp người viết có điều
kiện so sánh những đặc điểm khác biệt trong việc khắc họa cũng như phong cách nghệ
thuật của Lỗ Tấn khi xây dựng hình tượng nhân vật với những nhà văn cùng thời…
Qua đó, sự so sánh ấy càng làm rõ hơn sự mới lạ, tư tưởng, phong cách, nét độc đáo
không thể trùng lấp vào ai của Lỗ Tấn.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Vận dụng phương pháp này có thể lí giải và
kết hợp được nhiều vấn đề cùng thể hiện những đặc sắc nghệ thuật về việc xây dựng
hình tượng nhân vật trong truyện Thuốc của Lỗ Tấn.

5


PHẦN NỘI DUNG

6


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÍ THUYẾT VÀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1.1. Sơ lƣợc về nền văn học Trung Quốc
1.1.1 Sơ lƣợc văn học Trung Quốc hiện đại
Văn học Trung Quốc có bề dày lịch sử hàng ngàn năm, từ các tài liệu lưu trữ
của các triều đại cho đến các tiểu thuyết hư cấu từ thời trung cổ để phục vụ cho các
độc giả người Trung Quốc biết chữ. Mặc dù việc đưa vào sử dụng rộng rãi kỹ thuật in
mộc bản trong thời nhà Đường (618 - 907) và sự phát minh ra kỹ thuật in ấn loại di

động (in- ru- lô, tiếng Anh: movable type) bởi Tất Thăng (畢昇) (990 - 1051) trong
thời nhà Tống (960 - 1279) không làm tiêu tan tầm quan trọng hay sự nhấn mạnh vào
việc viết thư pháp Trung Hoa, cả hai loại kỹ thuật in ấn này đã nhanh chóng truyền bá
kiến thức bằng văn bản khắp Trung Hoa hơn bao giờ hết.
Tới thời Minh – Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm tiêu biểu
như: Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy Hử của Thi Nại Am, Tây Du Ký
của Ngô Thừa Ân, Nho Lâm Ngoại Sử của Ngơ Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào
Tuyết Cần...trong đó Hồng lâu mộng được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất.
Đến thời kì hiện đại, văn học Trung Quốc tiếp tục đạt được những thành tựu
mới và thành công mới, văn học hiện đại có thể chia ra làm bốn giai đoạn nổi bật:
- Giai đoạn 1:(1911-1949) Văn học giai đoạn này cất tiếng nói giã từ chế độ
phong kiến, văn học truyền bá tư tưởng phê phán chế độ phong kiến, cổ vũ cho tưởng
cộng hịa, dân chủ…Văn học hiện đaị có thể tính từ Cách mạng Tân Hợi năm 1911
hoặc từ cuộc vận động Ngũ Tứ 1919. Nổi bật là nhà văn, nhà báo, nhà giáo Lỗ Tấn.
Ông là nhà tổ chức, cây bút tiên phong chủ lực xây dựng nền văn học mới của cách
mạng vơ sản. Sau đó, nhà thơ Quách Mạc Nhược, nhà báo Mao Thuẫn, Ba Kim, Lão
Xá và Tào Ngu trở thành những cây bút hàng đầu của nền văn học mới, sẽ trở thành
những nhà văn cộng sản đầu tiên và tiếp tục sáng tác về sau.
- Giai đoạn 2: (1949 -1965) Văn học sáng tác theo văn nghệ Mao Trạch Đơng,
ngồi những tác giả lão thành có mặt trong giai đoạn đầu, thêm những tên tuổi mới
như : Chu Lập Ba, Ngãi Thanh, Nữ sĩ Dương Mạc, La Quảng Bân, Điền Hán…Những
tác phẩm tràn đầy hào khí cách mạng nhưng nghệ thuật cịn non yếu, kéo dài 16 năm.
Cuộc cải cách ruộng đất nông thôn – Đấu tổ địa chủ đã mắc sai lầm nghiêm trọng như
thời cổ đại. Tiếp đó cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với những mơ hình ấu trĩ “
7


duy ý chí” như “ Cơng xã nhân dân”, phong trào “ Đại nhảy vọt”. Tình trạng quan liêu,
cửa quyền, tham nhũng triền miên, kinh tế suy đốn, xã hội điêu tàn, chính trị khủng
hoảng, dẫn văn nghệ khơ cứng.

- Giai đoạn 3: (1966 – 1976) Đây là giai đoạn Trung Quốc rơi vào tinhd trạng
rối ren, bè phái, người ta gọi là “ Mười năm động loạn”, hàng trăm văn nghệ sĩ bị bức
hại đến chết. Văn học giai đoạn này bị tê liệt nếu chưa nói là bị tiêu diệt.
- Giai đoạn 4: (1977 – 1942 và tiếp tục đến nay) Giai đoạn này còn được gọi là
văn học đương đại. Văn học thời kì này cuộn mình trổi dậy, dòng “văn học vết
thương”, “văn học ám hối” với những tác phẩm sơi sục địi thanh tốn nỗi uất ức “
mười năm khủng khiếp” , triệt để phê phán giai đoạn sai lầm ấu trĩ, từ đây mở ra thời
kì phục hưng văn học nghệ thuật. Văn chương giữ vai trò tiên phong trong lĩnh vực
văn học nghệ thuật và đời sống tinh thần của công chúng Trung Quốc. Nhiều phong
cách mới, những cây bút mới xuất hiện, nhanh chóng tạo ra sức hút mạnh mẽ trong đời
sống văn học nghệ thuật hồi sinh. Nổi bật trên hàng trăm cây bút tiêu biểu như
Vương Mơng, Giả Bình Ao, Mạc Ngôn, Diệp Tân, Cửu Đan, Kim Ba, Quách Mạc
Nhược…Tất cả đã góp phần làm thay đổi diện mạo nền văn học Trung Quốc, hòa vào
dòng chảy văn học chung của thế giới.
Xưa nay nói đến văn học Trung Quốc người ta thường nghĩ đến Đường Thi và
tiểu thuyết cổ điển Minh Thanh, những người bi quan cho rằng văn học hiện đại không
thể sánh bằng văn học trung đại cổ điển. Tuy nhiên những thành quả cho thấy haonf
toàn khiến họ suy nghĩ lại và văn học hiện đại đang được nở rộ và thu được nhiều hoa
trái ngọt ngào. Nền văn học Trung Quốc chảy dài theo dòng lịch sử, không hề dừng lại
mà càng bước đều đặn và nhanh qua mỗi thời kì, phát triển bền bỉ qua 5 ngàn năm.

1.1.2. Những ảnh hƣởng của văn học Trung Quốc đến nền văn học
Việt Nam
Chịu ảnh hưởng của mấy nghìn năm Bắc thuộc, lại có nét tương đồng về nền
văn hóa với Trung Quốc. Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn học của Trung
Quốc. Việc chữ Hán trong nhiều thế kỷ được dùng làm ngôn ngữ viết chắc chắn đã
ảnh hưởng sâu sắc đến văn học Việt Nam, đến mức văn hóa Trung Quốc và Việt Nam,
ở nhiều phương diện, không thể tự phân biệt. Cho đến trước khi chữ Nôm ra đời - một
việc làm đánh dấu sự cố gắng đầu tiên nhằm văn tự hóa tiếng Việt - thì tồn bộ văn
học Việt Nam đều dùng chữ Hán còn tiếng Việt bị giới hạn trong phạm vi nói năng.

8


Đối với những nhà trí thức dùng nó để làm thơ cũng như viết tiểu thuyết bằng thơ
(truyện thơ) thường lấy cảm hứng từ văn học Trung Quốc. Đặc biệt là Thơ Đường đã
ảnh hưởng rất lớn đến nền văn học Việt Nam. Rất nhiều tập thơ đường xuất sắc của
Trung Quốc được dịch qua tiếng Việt. Và nó trở thành thể loại tiêu biểu cho thời đại
hoàng kim của thơ cổ điển Trung Quốc (thời Đường), đến nỗi về sau nói thơ Đường là
người Việt Nam coi như đồng nghĩa với luật thi, mặc dù thời Đường cịn có thơ cổ thể
với rất nhiều kiệt tác.
Chứng minh cho việc văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn học Trung
Quốc có thể điểm qua nhà văn Nguyễn Dữ với tác phẩm Truyền kì mạn lục – Tác
phẩm đặt chân thật sự vào địa hạt của hư cấu lịch sử. Ông viết tác phẩm của mình dựa
theo Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (1347-1433) Trung Quốc. Việc mô phỏng của
Nguyễn Dữ cho chúng ta thấy rõ tác phẩm này đã nổi tiếng ngay đầu thế kỉ 16. Truyền
kỳ mạn lục là tác phẩm sớm nhất hiện còn của tiểu thuyết phúng thích Việt Nam. Nó
được tái bản vài lần và đáng chú ý là có một bản in thú vị với lời tựa viết năm 1783 có
chú giải bằng chữ Nơm và những lời bình khác nhau. Tác phẩm này được đánh giá rất
cao trong giới học thuật, những người này đã coi tác giả của nó là người phát ngơn cho
tầng lớp trí thức thời đại mình, thể hiện sự bất bình của họ ðối với những rối ren xã hội
và dự cảm được sự trỗi dậy của một tầng lớp xã hội mới ở Việt Nam thế kỷ 16.
Về thể loại thơ, hình thức thơ thay đổi theo thời gian và ngơn ngữ có thể giúp xác định
thời kỳ ra đời của các tác phẩm. Tiếp thu các hình thức dân ca các nhà thơ cách tân đã
thay thế những nguyên tắc nghiêm ngặt của thể Hàn luật rất khó hiểu với cơng chúng
bình dân và gây trở ngại cho việc biểu hiện những tình cảm phức tạp và sự việc tinh tế
bằng thể thơ lục bát và song thất lục bát. Đây là những thể thơ bình dị hơn rất nhiều,
dễ ghép vần và khơng hạn định số lượng câu thơ. Chúng cho phép nhà thơ có thể diễn
đạt những cảm xúc của mình tự do hơn và miêu tả sự việc phong phú đa dạng với độ
dài tùy ý. Rất nhiều tiểu thuyết lớn của thế kỷ 18, 19 do vậy đã được sáng tác bằng các
thể thơ này, một số tác phẩm dài đến vài ngàn câu thơ. Mặc dù hình thức thơ ca dần

dần thốt khỏi sự mơ phỏng Trung Quốc nhưng mối liên hệ giữa văn học Trung Quốc
và loại văn học mới này của Việt Nam vẫn rất mật thiết. Vì phần lớn những truyện
Nôm này đều bắt nguồn từ văn hóa Trung Hoa, đơi khi đó là những giai thoại trong sử
biên niên Trung Hoa như truyện về Tô Vũ (Tô Công) thời Hán được phái đi sứ Hung
Nô và đã bị đày ở đó 19 năm hay như câu chuyện về công chúa Vương Chiêu Quân
9


(Vương Tường) cũng vào đời Hán bị gả cho Hung Nơ, hoặc có thể mượn từ truyền kì
đời Đường như truyện về Viên Thị là một con vượn trắng biến thành một cơ gái đẹp
khiến chàng Tơn Các phải lịng, hoặc có thể từ tạp kịch đời Minh Thanh, như chuyện
tình Phan Sinh- Kiều Liên lấy từ Ngọc trâm ký Cao Liêm đời Minh. Cuối cùng, những
truyện thơ này còn có thể lấy cốt truyện từ thoại bản và tiểu thuyết Minh Thanh. Về
việc nghiên cứu đa diện những tác phẩm đặc biệt này giúp chúng ta có thể đặt mỗi tác
phẩm Việt Nam trong mối liên hệ với cội nguồn Trung Hoa hoặc nguồn cảm hứng của
tác giả. Chẳng hạn, ngày nay người ta biết rằng Cần chính điện học sĩ triều Nguyễn là
Nguyễn Du (1765-1820) - tác giả của tuyệt tác văn chương cổ điển Việt Nam Truyện
Kiều - trong thời gian đi sứ Trung Hoa từ 1813 đến 1814 đã tìm thấy nguồn cảm hứng
trong Kim Vân Kiều truyện, tiểu thuyết văn xuôi 28 hồi của một tác giả mà chúng ta
chỉ còn biết với bút danh Thanh Tâm tài nhân. Niên đại ra đời của tiểu thuyết này vẫn
chưa rõ song chúng ta biết rằng nó được du nhập vào Nhật Bản năm 1754 và rất được
hoan nghênh. Có thể tác phẩm đã được sáng tác vào cuối thế kỉ 17 hoặc đầu thế kỉ 18.
Chúng ta cũng khơng biết gì hơn về thời gian Nguyễn Du mô phỏng tác phẩm này. Tất
nhiên ý kiến phổ biến cho rằng ông làm công việc này sau khi đi sứ về. Thời gian tác
phẩm Trung Hoa đi vào Việt Nam chưa được xác định chắc chắn mặc dù mọi người
đều biết rằng tác phẩm đã được đọc ở Việt Nam trước khi Nguyễn Du cải tác.
Việc dịch các tác phẩm nổi tiếng của Trung Quốc sang chữ Quốc Ngữ cũng
thấy được sự ảnh hưởng của nền văn học Trung Quốc đến nền văn học Việt Nam như
thế nào. Nhiều tác phẩm được dịch sang như: Bao cơng kì án, Thanh xà Bạch xà,
Hậu tam quốc diễn nghĩa, Hậu tây du, Nhị thập quả phụ chinh tây, Phượng hoàng

đao, Phong trần kiếm khách, Phong ba đình, Nhi nữ tạo anh hùng, Nhị độ mai,
Đông chu liệt quốc, Bao công kì án, Đại bàng hiệp, v.v… Cịn hàng trăm tác phẩm
được dịch khác của nhiều dịch giả Việt Nam.
Do đó có thể thấy rằng, vượt lên trên sự thay đổi về ngôn ngữ và chữ viết,
người Việt Nam vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với văn chương Trung Quốc. Trước hết
đó là nguồn cảm hứng sáng tác cho các tác giả viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Sau đó,
khi chữ quốc ngữ đã thịnh hành, văn chương chữ Hán được coi là bộ phận của di sản
văn hóa cần được giữ gìn cẩn trọng bằng các bản dịch. Việc rất nhiều bản tác phẩm
Trung Quốc được dịch sang văn xuôi tiếng Việt đã ảnh hưởng rõ rệt đối với sự phát
triển của tiếng Việt hiện đại.
10


1.2. Tìm hiểu về tác giả Lỗ tấn
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Lỗ Tấn
1.2.1.1. Cuộc đời của nhà văn Lỗ Tấn
Lỗ Tấn tên khai sinh là Chu Chương Thọ, sau đổi tên là Chu Thụ Nhân (chữ
Hán phồn thể: 周樹人, chữ Hán giản thể: 周树人; bính âm: Zhōu Shùrén), hiệu là Dự
Tài, bút danh Lỗ tấn. Ông sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881 tại phường Đông Xương,
huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang trong một gia đình quan lại đã sa sút. Ơng nội là
Chu Phúc Thanh, đỗ tiến sĩ đời Thanh, có chân trong viện hàn lâm, sau là tri huyện,
can án trường thi nên bị cách chức hạ. Cha của ông là Chu Phượng Nghi (tức Bá Nghi)
đỗ tú tài nhưng không được ra làm quan. Năm ông 13 tuổi, cha ông lâm bệnh và vì
khơng có tiền chữa trị nên qua đời. Từ đó Lỗ Tấn ơm mộng học nghề y. Mẹ của ông là
Lỗ Thụy – người phụ nữ nông thôn trung hậu, kiên nghị, phẩm chất của bà có ảnh
hưởng rất lớn đến Lỗ Tấn. Bà còn chăm bồi khả năng văn chương của Lỗ Tấn qua việc
bà kể cho ông nghe nhiều truyện cổ dân gian. Lỗ Tấn là bút danh ông lấy từ họ mẹ Lỗ.
Thuở nhỏ ông thường đi học muộn, ơng đã tự tay cầm dao thích chữ Tấn (tấn hành - đi
nhanh lên) trên mặt bàn học để nhắc nhở bản thân phải nhanh nhẹn khẩn trương.
Chính vì vậy sau này khi viết văn ơng đã lấy bút danh là Lỗ Tấn.

Thời thơ ấu từ 6 đến 17 tuổi, Lỗ Tấn học ở trường tư thục q nhà. Ơng học rất
thơng minh, đọc hầu hết các thư tịch cổ Trung Quốc. Vì hồn cảnh gia đình sa sút, ông
hay đi lại với con em nông dân lao động ở quê nhà. Tắm mình trong tình cảm chân
thành và hồn hậu ấy, Lỗ Tấn bú được sữa sói rừng mà lớn lên, dần dần trở thành đứa
con bất hiếu của giai cấp phong kiến, bề tôi hai lịng của tầng lớp thân sĩ. Năm 1899,
ơng đến Nam Kinh theo học ở Thủy sư học đường (trường đào tạo nhân viên hàng
hải). Hai năm sau, ông lại thi vào trường Khoáng lộ học đường (đào tạo kỹ sư mỏ địa
chất). Đây là những trường tây học, dạy kiến thức khoa học mới, khác hẳn với những
trường hán học chỉ dạy tứ thư, ngũ kinh. Tầm mắt ông mở rộng, thay đổi nếp tư duy,
hoài nghi truyền thống cũ và hướng tới sự cải cách.
Năm 1902, Lỗ Tấn du học Nhật Bản, tại đây ông tham gia Quang Phục hội, một
tổ chức yêu nước của người Trung Quốc. Sau hai năm học tiếng Nhật, năm 1904, ơng
chính thức vào học ngành y ở trường Đại học Tiên Đài. Ông muốn dùng y học để cứu
dân, trước hết là chữa chạy cho những người nghèo đói, dốt nát, mê tín khỏi bị chết
oan như bố ông. Học sinh Trung Quốc học ở Nhật khá đông. Quang Phục Hội là tổ
11


chức lãnh đạo cách mạng Tân Hợi (1911) sau này, cũng hoạt động sôi nổi ở Tô - ki - ô.
Lỗ Tấn tham gia Quang Phục Hội với quyết tâm cứu nước. Về sau, nhân một lần xem
phim, ông bị kích động mạnh mẽ và chuyển sang làm văn nghệ (Ơng thấy người Trung
Quốc hứng thú khi xem phim có cảnh người Nhật chém một người Trung Hoa vì tội
làm gián điệp cho quân Nga thời chiến tranh Nga – Nhật. Lỗ Tấn nghĩ rằng chữa bệnh
cho họ về thể xác còn chưa quan trọng bằng chữa bệnh cho họ về tinh thần. Từ đó ơng
quyết tâm dùng ngịi bút để thức tỉnh tinh thần dân tộc và ý chí tự lập tự cường của
người Trung Hoa. Năm 1906, ông thôi học và bắt đầu hoạt động văn nghệ bằng việc
dịch và viết một số tiểu luận giới thiệu các tác phẩm văn học châu Âu như thơ Puskin,
tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Jules Verne.
Năm 1909, vì hồn cảnh gia đình, Lỗ Tấn trở về nước ni mẹ và em. Ơng dạy
ở trường trung học Thiệu Hưng và có làm hiệu trưởng trường sư phạm Thiệu Hưng

một thời gian. Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi bùng nổ, ông hưởng ứng rất sơi nổi.
Lỗ Tấn cịn tham gia chỉ đạo phong trào thanh niên yêu nước khoảng
năm 1920 đến 1925, Ông là giáo sư các trường Đại học ở Bắc Kinh và lãnh đạo sinh
viên lập nhóm văn học, xuất bản báo và tạp chí cổ động cách mạng. Năm 1926, bị
chính phủ Quốc dân đảng bức bách, ơng rời Bắc Kinh xuống Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến)
và làm việc tại trường Đại học Hạ Mơn. Ơng cảm thấy hiu quạnh vì phải xa lánh cuộc
đấu tranh. Đầu năm 1927, Lỗ Tấn đến Quảng Châu – căn cứ địa cách mạng bấy giờ,
làm trưởng phòng giáo vụ kiêm chủ nhiệm khoa văn của trường Đại học Trung Sơn.
Ông liên hệ chặt chẽ với các tổ chức cách mạng do Đảng công sản lãnh đạo. Tháng 4
năm 1927, Tưởng Giới Thạch phản bội Cách mạng, khủng bố Đảng Cộng Sản và các
tổ chức do Đảng lãnh đạo, chúng giết hàng chục vạn đảng viên và quần chúng. Lỗ Tấn
đứng ra bảo vệ sinh viên không được nên phẫn nộ từ chức. Sự thật tàn nhẫn đã giúp
ông giác ngộ quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác – lênin. Kể từ đó, Lỗ Tấn khơng
ngừng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng của giai cấp, của dân tộc dưới ngọn cờ
quang vinh của chủ nghĩa Mác – lênin và Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Tháng 10 năm
1927, ông rời Quảng Châu tới Thượng Hải. Ông mất ngày 19 tháng 10 năm 1936.

1.2.1.2. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Lỗ Tấn
Lỗ Tấn – nhà văn lỗi lạc của dân tộc Trung Hoa, ông là niềm tự hào của dân tộc
và là tấm gương của nhiều nhà văn trên thế giới. Bởi chẳng những ông mang đến cho
nền văn học dân tộc những tác phẩm giá trị, gửi gắm những tư tưởng thấm nhuần tính
12


nhân văn mà cịn có một tấm lịng nhân đạo sâu sắc hướng đến con người. Cuộc đời
ông gặp nhiều gian truân và bất hạnh, ông nhiều lần đổi nghề và cuối cùng lựa chọn
nghề viết văn để thức tỉnh căn bệnh tinh thần cho dân tộc mình. Trong cả cuộc đời của
ông, ông đã sáng tác rất bền bỉ, kịp thời. Ơng đã viết truyện, viết tạp văn, ơng đã dịch
sách, biên soạn tài liệu nghiên cứu, giới thiệu tác phẩm nước ngoài, v.v... Sách chồng
cao bằng người! Lỗ Tấn là nhà văn luôn canh cánh dùng trước tác của mình để cứu

dân cứu nước. Muốn thực hiện một điều gì, làm một việc gì khơng chỉ có tâm huyết
mà cả bản thân người đó phải có tài năng, có thực lực thật sự. Đặc biệt, một lý tưởng
lớn lao vì dân tộc, vì đất nước như nhà văn Lỗ Tấn thì càng cần thiết hơn nữa.
Tài năng một người có được là do bẩm sinh mà có, nhưng đó chỉ là điều kiện
cần chứ chưa đủ, tài năng ấy cịn được vun đắp dần qua kí ức tuổi thơ, qua những câu
hò điệu hát quê hương, qua điều kiện tiếp xúc, qua trải nghiệm, nhận thức cuộc sống…
Cũng như cái góp phần làm nên phong cách của nhà văn Mạc Ngôn là quê hương gắn
liền với mẹ, với thiên nhiên và tuổi thơ. Dường như hương vị đồng quê đã ngấm sâu
vào tâm trí tác giả và sau này khi đặt bút sáng tác hương vị ấy qua bao năm tháng lại
tiếp tục lan tỏa trên những trang viết của ông. Hay những yếu tố quan trọng làm nên tài
năng, sự uyên bác của Nguyễn Tuân là sự trải nghiệm từ những chuyến đi của ơng. Có
thể thấy văn Nguyễn Tuân là sự hội tụ kiến thức của nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực
như: địa lí, lịch sử, ẩm thực,… Và cái làm nên tài năng của Tố Hữu là do ngay từ lúc
cịn nằm trong nơi, Tố Hữu được nghe những câu hò, điệu hát Nam Ai, Nam Bình,
Mái Nhì, Mái Đẩy của làng quê xứ Huế thơ mộng làm xao xuyến lòng người và sau
khi đặt bút sáng tác làn điệu dân gian ấy đã đi vào trong thơ ca của ông một cách rất tự
nhiên, chất trữ tình nhẹ nhàng, đằm thắm như một khúc hát ru. Và một phần quan
trọng làm nên tài năng trong sáng tác của Lỗ Tấn cũng bắt nguồn từ những truyện cổ
dân gian do mẹ ông kể, ông cũng chịu ảnh hưởng từ phẩm chất trung hậu, kiên nghị
của mẹ.
Người mẹ trung hậu cũng góp phần nâng đỡ và bồi dưỡng cho Lỗ Tấn tài năng
văn chương và giàu ý chí sáng tạo. Chẳng những thế bà cịn truyền đam mê cho Lỗ
Tấn đọc sách, nghiên cứu… Chính cách cư xử ân cần, lòng vị tha và sự yêu thương đã
giúp Lỗ Tấn vượt qua tuổi thơ sóng gió.
Tất cả những việc ấy đã trở thành nguồn động lực thúc đẩy Lỗ Tấn không
ngừng vươn lên lựa chọn đúng hướng đi và trở thành tác gia lớn như ngày nay.
13


Ngoài việc lắng nghe những câu chuyện cổ dân gian và ảnh hưởng phẩm

chất từ người mẹ ơng cịn tích góp kiến thức từ những chuyến đi, những lần chuyển
trường, tiếp thu được vốn kiến thức Hán học lẫn Tây học tiên tiến. Và điều đặc biệt,
Lỗ Tấn trải qua rất nhiều ngành nghề từ ngành hàng hải đến kỉ sư mỏ, rồi tìm đến
ngành y và cuối cùng chọn nghề viết văn với mong muốn chữa lành căn bệnh tinh thần
cho dân tộc. Tất cả những gì ơng nhìn thấy trên những chuyến đi, mỗi lần đổi nghề là
mỗi lần đưa Lỗ Tấn đến nhận thức mới, thiết thực hơn, lớn lao hơn và đều được ông
đưa vào những tác phẩm của mình.
Trong hành trình văn nghiệp của mình, Lỗ Tấn đã tạo ra một số lượng tác phẩm phong
phú với nhiều thể loại: Truyện ngắn, thơ cổ, thơ mới, kịch, khảo cứu, nghị luận, phê
bình, dịch thuật, tạp văn,… Trong đó, truyện ngắn được xem là thành cơng hơn cả. Lỗ
Tấn để lại một khối lượng tác phẩm khổng lồ gồm: 20 tập sách, mỗi tập 600 trang, có
nhà nghiên cứu gọi là “trước tác đẳng thân” (sách cao bằng người). Lỗ Tấn rất ưa thích
các tác phẩm của Nikolai Gogol. Truyện ngắn đầu tay của Lỗ Tấn là Nhật kí người
điên lần đầu tiên được in trên tờ Thanh niên mới số tháng 5-1918, truyện được lấy tên
dựa theo truyện ngắn Nhật kí của một người điên của Gogol.
Có nhiều tác phẩm và có những tác phẩm nổi bật nhất. Trước hết là ở tập
truyện ngắn có: Nhật kí người điên, Gào thét (14 truyện), Bàng hồng (11
truyện),Chuyện củ viết lại (8 truyện), v.v... Các tập tạp văn (có 7 tập) như Nấm mồ,
Cỏ dại, Gió nóng, Hai lòng, Giọng Nam điệu Bắc, Viết tự do, v.v... Và ở thể loại
truyện vừa có tác phẩm rất nổi tiếng và có giá trị là AQ chính truyện. Ngồi ra, ơng
cịn dịch nhiều tác phẩm văn học thế giới ra tiếng Trung. Trong số các tác phẩm truyện
ngắn của ông, truyện ngắn Thuốc có nét đặc sắc và chiều sâu.
Từ thập niên hai mươi, ba mươi tiểu thuyết Trung Quốc phát triển vượt bậc với
sự thịnh hành của “Tiểu thuyết vấn đề” trong hầu hết sáng tác của các tác giả. Cũng
trong giai đoạn này đánh dấu sự ra đời của một tác phẩm đầu tiên của tiểu thuyết hiện
đại mang tên Nhật kí người điên của Lỗ Tấn. Tác phẩm bàn về sự hà khắc của chế độ
phong kiến và chế độ gia tộc đè nặng con người.
Ở Việt Nam hầu hết các tác phẩm của Lỗ Tấn đều được dịch sang tiếng
Việt. Người Việt Nam tiếp xúc đầu tiên với tác phẩm của Lỗ Tấn không ai khác hơn
chính là Bác Hồ kính yêu. Lúc ấy Bác vẫn còn là một nhà cách mạng trẻ tuổi tên

Nguyễn Ái Quốc (khoảng năm 1926-1927), tác giả Trần Dân Tiên trong cuốn “Những
14


mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” đã viết “ơng Nguyễn thích đọc Lỗ
Tấn bằng tiếng Trung Quốc” [15; tr. 11]. Người Việt Nam đầu tiên dịch và giới thiệu
Lỗ Tấn chính là giáo sư Đặng Thai Mai bắt đầu từ năm 1942. Năm 1944, ông giới
thiệu đến độc giả Việt Nam các tập “Lỗ Tấn – thân thế, văn nghiệp”, tên tuổi, sự
nghiệp và các tác phẩm nổi tiếng như AQ chính truyện, Khổng Ất Kỉ, Cầu Phúc,
Bóng từ giả người, Khách qua đường... [15; tr. 11]. Nhà văn Anh Đức đã có những
lời tâm huyết về tác phẩm của Lỗ Tấn và về chính tác giả như sau: “Thoạt nhiên, đọc
truyện Lỗ Tấn, ta rất dễ có cảm giác ơng lạnh lùng, thản nhiên trước những cảnh nát
lịng do chính ơng phơi bày. Sự thật lịng ơng nào có thế, lịng ơng vơ cùng đau đớn,
chẳng qua ông dằn nén, giấu ém, cất biến những xúc động chủ quan...” [15; tr. 15].
Không những giành được những tình cảm của các học giả và nhà văn Việt Nam, Lỗ
Tấn còn nhận được sự ủng hộ và quý mến từ phía người dân Việt Nam, và trải qua gần
nửa thế kỉ các tác phẩm của ông vẫn được giảng dạy trong trường trung học và ở cả
bậc Đại học tại Việt Nam. Điều này khẳng định giá trị to lớn của các tác phẩm văn học
mà Lỗ Tấn đã sáng tác ra và điều này góp phần chứng minh sức sống bất diệt của
Trung Quốc tại Việt Nam, đấy là một sức sống với năng lượng mạnh mẽ, năng lượng
ấy có khả năng thốt khỏi biên giới một nước, đi sâu vào đời sống tinh thần của nhiều
dân tộc khác trên thế giới.

1.2.2. Quá trình sáng tác của nhà văn Lỗ Tấn
Lỗ Tấn đến với sáng văn chương từ đầu những năm 20 của thế kỉ XX, đúng vào
lúc lịch sử đang gặp nhiều rối ren về chính trị. Sau khi nhận ra rằng y học khơng phải
là việc cần thiết trước mắt mà theo ông “điều chúng ta cần phải làm trước hết là biến
đổi tinh thần họ, mà theo tơi hồi đó muốn biến đổi tinh thần họ tất nhiên khơng gì
bằng văn nghệ. Thế là tôi định đề xướng phong trào văn nghệ” (Tựa viết lấy). Vì thế
năm 1906 ơng thơi học và bắt đầu hoạt động văn nghệ của mình bằng việc dịch và viết

một số tiểu luận giới thiệu các tác phẩm văn học Châu Âu như thơ Puskin, tiểu thuyết
khoa học viễn tưởng Jules Vernes.
Trong thời kì bắt đầu sáng tác, Lỗ tấn cịn tin tưởng nhiều ở thuyết tiến hóa.
Với niềm tin tưởng ấy, ơng định tâm dùng ngịi bút để “cải tiến tinh thần” người Trung
Hoa, cải tạo quốc dân tính Trung Hoa. Muốn như vậy theo ơng, khơng gì hơn là vạch
trần những nét xấu truyền thống đó gần như làm tê liệt tất cả tiềm năng tranh đấu tối
cần cho cuộc sống cịn của dân tộc ơng. Bởi thế, thoạt đầu ông viết là để tỏ mối đồng
15


tình với những người đồng điệu mà về sau, trong khi tiếp tục viết ông không khỏi xen
lẫn mối hy vọng phơi bày căn bệnh của xã hội cũ để thúc giục mọi người lưu tâm tìm
phương cứu nguy.
Tháng 5 năm 1918, Lỗ Tấn cho ra đời truyện ngắn Nhật kí người điên được in
trên tờ Thanh niên mới số tháng 5 – 1918, truyện được lấy tên dựa theo truyện ngắn
Nhật ký người điên của Gogol, Lỗ Tấn lao vào hoạt động sáng tác, tuyên truyền với tư
thế chiến sĩ tiên phong trên mặt trận đó.
Tháng 3 năm 1919 ông tiếp tục cho ra đời tác phẩm Khổng Ất Kỷ và vào tháng
6 năm 1920, viết tác phẩm Ánh mai.
Từ năm 1921 đến năm 1927 có thể nói là những năm đỉnh cao trong sự nghiệp
văn học của Lỗ Tấn với sự ra đời của hai tập truyện ngắn nổi tiếng: Gào thét (1921 –
1924) gồm 14 truyện và Bàng hồng (1924 – 1925) gồm 11 truyện. Tróng đó AQ
chính truyện là tác phẩm được biết rộng rãi nhất trong sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn.
Những năm cuối đời, ơng vẫn gắn bó với hoạt động văn nghệ và tiếp tục
đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản để sáng tác và hoạt động xã hội.

1.2.3. Quan niệm và phong cách nghệ thuật của nhà văn Lỗ Tấn
Để có thể tồn tại và phát triển trong xã hội, mỗi người chúng ta cần phải tìm và
học lấy một nghề và mỗi cá nhân sẽ có quan niệm về nghề nghiệp khác nhau và trong
lĩnh vực văn chương cũng không ngoại lệ. Mỗi nhà văn, nhà thơ sẽ tự chọn cho mình

một hướng sáng tác riêng với quan niệm nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân.
Con đường đi tìm nghề của Lỗ Tấn khơng phải là một việc làm dễ dàng. Ông
học nhiều ngành nghề và mỗi lần thay đổi là mỗi lần ông bắt được một lý tưởng, nhận
thấy được nhiệm vụ, ý thức được bản thân và mục đích cần phải thực hiện, phải hồn
thành. Ông xuất thân trong một gia đình quan lại sa sút. Lớn lên chứng kiến nhiều mặt
thối nát của xã hội, nên ơng sớm có tư tưởng tiến bộ. Trước khi trở thành nhà văn, ông
trãi qua khá nhiều nghề. Nhưng mỗi nghề ông lựa chọn không phải đơn giản để có một
vị trí trong xã hội, mà ơng ln ơm ấp những hồi bão lớn có thể giúp ích cho đất
nước, cho dân tộc.
Ông học ngành hàng hải, với mong muốn được đi nhiều nơi, làm giàu kiến
thức giúp ích cho đất nước. Hai năm sau, ông chuyển sang học ngành khai mỏ, với hi
vọng làm giàu cho đất nước. Sau đó, ơng chuyển sang học ngành y, để chữa bệnh cho
những người nghèo khơng có tiền chữa bệnh như cha ơng. Có thể thấy rằng, ơng là
16


người rất có ý thức cho dân tộc, ln đặt số phận, sự sống của dân tộc mình lên trên và
bản thân ông mang một phần trách nhiệm. Sau cùng ông chọn ngành văn, đến với văn
chương Lỗ Tấn cũng đã trình bày quan niệm nghệ thuật của mình với nhận thức là
chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân.
Trong sáng tác của mình, Lỗ Tấn ln đứng về phía người nơng dân nghèo khổ,
phản ánh cuộc sống của họ, bênh vực và tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng
cuộc đời họ, khao khát một cuộc sống tốt đẹp hơn ở tương lai cho họ. Quan niệm này
về sau được nhiều nhà văn tiếp thu và ảnh hưởng nhiều nhất là nhà văn Mạc Ngôn
(1955).
Lỗ Tấn đi sâu vào khai thác hình tượng người phụ nữ và người nơng dân. Tuy
Lỗ Tấn xuất thân từ gia đình quan lại nhưng bị sa sút, từ nhỏ ông học ở trường tư thục
tại quê nhà hay đi lại với con em lao động, tắm mình trong tình cảm chân thành và hồn
hậu ấy đã làm cho sáng tác của Lỗ Tấn thêm gần gũi và dân dã hơn với người dân quê,
ông hiểu và đồng cảm sâu sắc cho cuộc đời và số phận người nông dân, ông miêu tả

cuộc sống một cách chân thực, không rụt rè, không tránh né, mạnh dạn và thẳng thắn
phanh phui những mặt xấu, trái đạo lý mà tác giả hay gọi là “căn bệnh tinh thần”.
Chính vì thế mà sang tác của Lỗ Tấn ln mang hơi thở của hiện thực cuộc sống. Dù
là hơi thở ổn định hay hơi thở hấp hối của dân tộc đều được tác giả vạch ra bằng ngôn
từ một cách rất rõ ràng, mạch lạc.
Ơng chủ trương dùng ngịi bút của mình phanh phui các căn bệnh tinh thần của
quốc dân và lưu ý mọi người tìm phương thuốc chạy chữa. Ông đã dũng cảm chỉ ra
cho họ những bước đi sai nhịp trên con đường tiến vào tương lai. Ông quyết định
chuyển sang hoạt động nghệ thuật vì quan niệm rằng đó là một vũ khí lợi hại để biến
đổi tinh thần quần chúng. Đây là sự lựa chọn đúng đắn và phù hợp với thời đại Trung
Quốc đương đại và cũng chính là nét độc đáo trong cuộc đời ông.
Suy cho cùng sáng tạo của Lỗ Tấn là tìm ra cái mới, cái hay, cái đẹp và quan
niệm đúng đắn để vẽ ra hướng đi cho dân tộc, làm nền tảng cho thế hệ tiếp nối. Nhà
văn không quá coi trọng sự sáng tạo trong văn chương,điều làm tác giả tâm đắc và
hướng đến là một phương pháp, nó giống như một “phương thuốc” cứu người, mỗi
tác phẩm là một phương thuốc để chữa trị căn bệnh tinh thần cho dân tộc. Để tìm ra
một “phương thuốc” mới, sức tưởng tượng, sự so sánh của nhà văn là điều vô cùng
quan trọng và Lỗ Tấn đặc biệt xây dựng những hình tượng để gửi gắm thơng điệp, tâm
17


tư. Nghề viết văn là một nghề vô cùng đặc biệt, nếu nhà văn dựa vào nguyên mẫu của
hiện thực cuộc sống viết nên một tác phẩm nhưng tác phẩm đó nếu như khơng thể
chuyển tải hết những cảm nhận của nhà văn thì cho dù sự việc có thật đến đâu chăng
nữa cũng không thể gây cảm xúc, không thể đi vào lịng người. Ngược lại, nhà văn có
thể sử dụng những biện pháp so sánh, ẩn dụ, mượn hình tượng để làm cho những sự
thật thêm sức thuyết phục, thâm thúy và sâu sắc hơn, càng làm cho tác phẩm có giá trị
hơn. Và yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của nhà văn là cách sử dụng ngôn từ,
cách diễn đạt, nhờ ngô ngữ mà tư tưởng, tình cảm của nhà văn được thể hiện một cách
gợi hình, gợi cảm và sâu sắc.

Lỗ Tấn đến với nghề viết văn khơng phải là tìm cơng việc để mưu sinh, cũng
không phải để trở thành một nhà văn được nhiều người biết đến. Mà ơng có một mong
muốn tột bật là đem trước tác của mình thức tỉnh đồng bào, lôi hết căn bệnh của họ ra
và cố tìm phương thuốc cứu chữa những căn bệnh tinh thần đó. Bởi thế trong những
tác phẩm của ơng hầu hết là đề cập đến những căn bệnh tinh thần như AQ hay cái nhìn
hạn hẹp của người dân về người cách mạng và mê tín mù quáng trong tác phẩm
Thuốc.
Qua nhiều tác phẩm của ơng như AQ chính truyện, Thuốc, Nhật kí người
điên, v.v... Ta nhận thấy rằng ngơn ngữ và thái độ của ơng nó rất lạnh lùng, ông phê
phán rất nghiêm khắc những gì ông cho là trái đạo lí, những việc làm bất cơng cho con
người, phê phán những căn bệnh tinh thần ngu muội, v.v... Nhưng đó chỉ là bề ngồi
ngơn ngữ, bên trong cái vẻ lạnh lùng, nghiêm khắc là một trái tim biết trăn trở, suy tư,
biết xúc động, thiết tha vì đất nước, vì con người. Có người đã ví ơng như chiếc phích
nước trong nóng ngồi lạnh.
Ơng thường xây dựng hình tượng điển hình để nêu rõ vấn đề quan trọng nhất
của chủ nghĩa hiện thực. Ông vận dụng phương pháp miêu tả truyền thống để xây
dựng tính cách điển hình vẽ rồng chấm mắt. Ơng nói vẽ người tốt nhất là vẽ mắt, vẽ
những bộ phận khác dù tốt đến đâu cũng chả ích gì, chỉ một lời nói, một dáng điệu
múa may, một cặp mắt nhìn... đủ gây ấn tượng khiến người đọc day dứt. Cốt truyện
trong tác phẩm của ơng thường khơng phức tạp ly kì nhưng nội dung xã hội rất sâu
sắc. Ơng cịn thành cơng trong các truyện ngắn vì đã đáp ứng yêu cầu dành cho “tư
tưởng một địa bàn rộng, cho ngôn ngữ một địa bàn hẹp” (Fadeev – Bàn về Lỗ Tấn).

1.2.4. Vị trí của Lỗ Tấn trong nền văn học hiện đại
18


1.2.4.1. Lỗ Tấn là ngọn cờ của văn học mới Trung Quốc thế kỉ XX
Lỗ Tấn là một nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn. Ông là chủ tướng của nền văn
hóa cách mạng Trung Quốc. Trong cả cuộc đời, ông đã sáng tác bền bỉ và kịp thời.

Ông đã viết truyện, viết tạp văn, dịch sách, biên soạn tài liệu nghiên cứu, giới thiệu tác
phẩm nước ngoài, v.v… sách chồng cao bằng người!
Văn học Trung Quốc hình thành từ rất lâu và có bề dài lịch sử. Từng thời kì
văn học, từng thời đại đều có những tác phẩm và tên nhà văn đánh dấu bước đường
lịch sử đi qua. Và đến thể kỉ XX, thế kỉ văn học này gắn bó chặt chẽ với tư tưởng và
tác phẩm của đại văn hào vĩ đại Lỗ Tấn. Người ta vẫn tính tác phẩm đầu tay của ơng là
Nhật kí người điên viết năm 1918. Như vậy phù hợp với quan niệm văn học hiện đại
Trung Quốc bắt đầu bởi cuộc vận động Ngũ Tứ. Ngay từ những năm đầu của thế kỉ
XX, Lỗ Tấn đã có tác phẩm thấm đượm tinh thần thời đại mới và những hoạt động của
ơng nhằm nghiên cứu quốc dân tính Trung Hoa thời kì cịn lưu học ở Nhật Bản khơng
phải khơng có ảnh hưởng sâu xa đến cả một trào lưu văn học. Sự chuẩn bị đó đã bùng
nổ một phong trào sáng tác sau Ngũ Tứ, những tác phẩm của ông đều thấm đượm tinh
thần hiện đại.
Lỗ Tấn là kĩ sư tâm hồn của nhân dân thời đại mình, ơng đã tiếp thu và sàng lọc
đủ mọi thứ tư tưởng triết học và văn học xuất hiện ở Trung Quốc vào đầu thế kỉ XX để
có thể hình thành một tư tưởng văn nghệ, một phong cách văn chương của riêng mình.
Theo dọc chiều dài của thế kỉ XX cho đến tận hôm nay, tư tưởng văn nghệ và phong
cách văn chương ấy vẫn in đậm dấu ấn trong hàng loạt tác phẩm và sự nghiệp văn
chương của các thế hệ nhà văn Trung Hoa.
Có thể tìm thấy màu sắc chủ nghĩa biểu hiện trong Người qua đường, trong
Thuốc và trong một loạt bài Cỏ dại. Có thể tìm thấy dấu ấn của chủ nghĩa ấn tượng
trong Nhật kí người điên. Cịn AQ chính truyện lại gợi cho người ta nghĩ đến Kẻ xa
lạ của An-be Ca-muy. Cái kì hoặc ấy bây giờ như một tiếng cịi cấp cứu có thể thức
tỉnh người Trung Quốc (đang ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt) và cho đến ngày nay
vẫn vang vọng một tiếng khóc tức tưởi về sự cơ đơn, bất lực của con người. AQ chính
truyện ra đời vào năm 1921, cịn Kẻ xa lạ thì mãi đến năm 1942 mới ra đời cùng với
văn học hiện sinh và tiếng kêu bất lực của con người trong thời đại chiến tranh nguyên
tử cũng chỉ mới phổ biến vào những năm 50, 60 của thế kỉ XX.

19



Nhắc đến một số hiện tượng nói trên để thấy tư tưởng văn nghệ của Lỗ Tấn
thuộc hàng tiên phong, và ở đây có thể tìm thấy dáng dấp nhiều hình mẫu tư tưởng văn
nghệ thế kỉ XX. Khơng nên chỉ lấy chủ nghĩa hiện thực, cho dù là cách mạng hay tỉnh
táo để lí giải Lỗ Tấn, nhất là Lỗ Tấn những năm đầu thế kỉ XX. Lỗ Tấn cịn cái gì đó
rất hiện đại và rất quốc tế.
Nhưng hơn ai hết, Lỗ Tấn là con người của dân tộc mình. Ơng thương mẹ,
lấy họ mẹ làm bút danh. Ông thao thức cả đêm ròng khi phải xa quê hương, và ông để
cả cuộc đời để chữa bệnh cho quốc dân về thể xác và về tinh thần. Cây cổ thụ Lỗ Tấn
đã bắt rễ sâu trên mảnh đất Trung Hoa những năm đầu thế kỉ XX.
Triết lí văn chương Lỗ Tấn, nói gọn lại là văn chương cải tạo quốc dân tính.
Trong bài Vì sao tơi viết tiểu thuyết, ơng nói: “Tơi vẫn ơm cái mộng “khai sáng”
mười năm về trước, cho rằng cần phải “vị nhân sinh”, và lại phải cải tạo cái nhân
sinh đó… Cho nên mỗi khi chọn đề tài, tôi đều chọn những người bất hạnh trong xã
hội bệnh tật, với mục đích là lôi hết bệnh tật của họ ra, làm cho mọi người chú ý tìm
cách chạy chữa.”
Về mặt thi pháp, có thể nói thi pháp Lỗ Tấn như một kiểu mẫu văn học rất
Trung Quốc nhưng lại rất hiện đại, rất quốc tế và bóng dáng của nó bao trùm lên văn
học Trung Quốc trong suốt thế kỉ XX.
Tác phẩm Lỗ Tấn là một di sản đồ sộ, không phải chỉ vì Tồn tập hai mươi
tập, mỗi tập gần nghìn trang mà vì mỗi truyện, mỗi bài tạp văn, mỗi bài thơ như lấp
lánh một âm thanh và màu sắc riêng. Cái đa dạng của Lõ Tấn chính là sự đa dạng của
phong cách. Nguyễn Tuân nói đến những “truyện ngắn có kích thước dài” của Lỗ
Tấn, Đặng Thai Mai nói đến “một nhà văn Tàu có dáng dấp các nhà văn hiện đại
phương Tây”. Chung quy, cái di sản đồ sộ của Lỗ Tấn không chỉ là đồ sộ về khối
lượng mà cịn là sự giàu có về chát lượng.
Người Việt Nam biết văn học cách mạng Trung Quốc từ Lỗ Tấn, cũng như
văn học cách mạng Nga Từ M. Goóc-ki. Lỗ Tấn xứng đáng với danh hiệu vẻ vang:
Ngọn cờ của nền văn học mới Trung Quốc thế kỉ XX.


1.2.4.2. Nghiên cứu Lỗ Tấn – Thu hoạch mới, nhận thức mới
Lỗ Tấn là văn hào vĩ đại của thế kỉ XX. Ông là nhà văn được UNESCO
quyết định kỉ niệm như một danh nhân văn hóa nhân loại nhân dịp 100 năm sinh
(1881). Đó cũng là nhà văn được Bác Hồ vơ vàn kính u thích đọc từ thời trẻ và sau
20


này khi trở thành lãnh tụ tối cao của dân tộc không chỉ một lần Người nhắc đến tên
tuổi và tác phẩm của ông.
Lỗ Tấn quả xứng đáng với danh hiệu “linh hồn dân tộc” mà quần chúng Thượng
Hải đã thêu trên lá cờ đỏ phủ quan tài cho ông. Với ơng, văn chương đã trở thành vũ
khí sắc bén phục vụ cuộc đáu tranh giải phóng dân tộc.
Trong sách Lỗ Tấn – Lịch sử nghiên cứu và hiện trạng của giáo sư Trường Đại
học Sư phạm Bắc Kinh, Vương Phú Nhân in năm 1999, tác gải đã chia lịch sử nghiên
cứu của Lỗ Tấn làm bốn thời kì:
Thời kì thứ nhất: Thời kì đặt nền móng (1913 – 1928) cho việc nghiên cứu cho
nhà văn. Đó là cuộc tranh luận xung quanh truyện ngắn đầu tay viết bằng cổ văn Hoài
cựu (Nhớ xưa) của Lỗ Tấn đăng trên tiểu thuyết nguyệt báo tháng 4 năm 1913. Tiếp
đó là hàng loạt tác phẩm truyện ngắn, tạp văn dịch thuật và song song với nó là cuộc
tranh luận sơi nổi trên văn đàn.
Thời kì thứ hai: Thời kì hình thành việc nghiên cứu nhà văn (1929 – 1949). Ở đây
có cuộc tranh luận giữa các trường phái khác nhau: Trường phái mác xít, trường phái
nghệ thuật vị nhân sinh, trường phái trí thức tự do, v.v…
Thời kì thứ ba: Việc nghiên cứu Lỗ Tấn trong thời đại Mao Trạch Đông (1949 –
1976). Trong thời kì này cũng có nhiều trường phái nghiên cứu Lỗ Tấn. Tác giả đã
chia ra năm trường phái: Khai sáng, mác xít thực dụng, mác xít chính trị, nghiệp vụ kĩ
năng, Cách mạng Văn hóa…
Thời kì thứ tư: (Thời kì mới (1976 – 1989)): Tác giả điểm lại sự đổi mới cách tân
của năm trường phái cũ và những thành mới mẻ trong việc nghiên cứu nhà văn trên cơ

sở kế thừa truyền thống và tiếp thu có chọn lọc các phương pháp nghiên cứu văn học
của phương Tây như văn học so sánh, phân tâm học, tự sự học, cấu trúc học, v,v...
Điểm qua một cuốn sách tổng thuật để thấy được việc nghiên cứu Lỗ Tấn khơng
bao giờ dừng lại ở những định đề có sẵn ln ln phát triển. Lấy ví dụ về cuộc đời và
sự nghiệp của Lỗ Tấn, cuốn Lỗ Tấn truyện của nhà văn giáo - sư Lâm Chí Hạo đã
“bật mí” nhiều mối quan hệ riêng tư của nhà văn và bà Chu An, người vợ do mẹ sắp
đặt. Cũng qua quyển sách này, chúng ta được biết Lỗ Tấn từng được tiến cử làm ứng
viên giải Nô- ben văn học nhưng ơng từ chối, bởi vì:… “Trước mắt tơi vẫn là đêm
đen… sau này có cịn sáng tác được nữa không vẫn chưa biết. Nếu lần này thành công
mà lại khơng viết được nữa, thì có lỗ với người ta, nếu có viết được thì biết đâu lại
21


biến thành thứ văn chương hàn lâm không đáng xem. Cứ như hồi trước, nghèo khổ
khơng có tiếng tăm gì mà lại tốt hơn.”(Lỗ Tấn truyện, chương 15).
Một ví dụ khác, cuốn Bức tượng khó điêu khắc của Lương Huệ Linh và Trịnh
Tâm Linh đã giới thiệu các trường phái nghiên cứu Lỗ Tấn ở Mĩ, ở Hồng Công… và
những khác biệt trong quan điểm về Lỗ Tấn của các nhà Lỗ Tấn học của các nước.
Việc nghiên cứu Lỗ Tấn đã có một lịch sử gần một thế kỉ và hiện tại đang phát
triển ngày một sâu sắc mang đến nhiều nhận thức mới, nhiều thu hoạch mới. Lỗ Tấn
từng nói: “Người chết chỉ thật sự chết, khi họ chết trong lòng người sống”.
Với chúng ta, tư tưởng của ông, tài năng và nhân cách của ông cũng như những
sáng tác tuyệt vời của ông là vĩnh viễn bất tử.

1.3. Tác phẩm Thuốc
1.3.1. Hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm Thuốc
Trung Quốc vốn là một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời, có những
thời kỳ đạt đến đỉnh cao của văn minh nhân loại (Đời Đường). Nhưng Trung Quốc “đi
trước về sau”, chế độ phong kiến kéo dài cùng với sự xâm lược và chia cắt của các
nước đế quốc (Nga, Nhật, Anh, Pháp, Đức,… ) đã biến Trung Quốc thành một nửa

phong kiến nửa thuộc địa, ốm yếu, què quặt, lạc hậu và ngày càng lụn bại.
Trong hoàn cảnh ấy, nhân dân Trung Quốc lại ngu muội, lạc hậu. Trình độ về
mọi mặt giữa Trung Quốc và các nước phương Tây có sự chênh lệch cực lớn. Tuy
nhiên, cũng có một bộ phận nhân dân Trung Quốc đứng dậy đấu tranh, song mọi cuộc
vận động và phong trào cách mạng diễn ra trong suốt thời kỳ cận hiện đại đều lần lượt
thất bại. (Cách mạng Tân Hợi (1911)), tuy có lật đổ triều đình Mãn Thanh, đưa lại cho
đất nước một cái tên mới là “Trung Hoa dân quốc” , song tổ chức nền tảng của xã hội
không đổi, “thay thang mà không thay thuốc”). Xã hội Trung Quốc vẫn là một “con
bệnh trầm trọng”, cần phải có một liều “thuốc” mới để chữa trị.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, Trung Quốc bị các nước đế quốc xâu xé. Xã
hội Trung Hoa biến thành nửa phong kiến, nửa thuộc địa, tình trạng đất nước ngày
càng đen tối. Thế nhưng nhân dân lại cam phận chịu nhục. Đó là căn bệnh đớn hèn, tự
thỏa mãn, cản trở nghiêm trọng con đường giải phóng dân tộc. Thuốc ra đời đúng vào
hoàn cảnh ấy như một lời cảnh tỉnh những ai còn đang ngơ ngác trước thời cuộc, chỉ ra
cho họ thấy rằng Trung Quốc đang như một con bệnh trầm kha, chỉ có tiêu diệt sự đớn
hèn đó mới có cơ hội cứu được con bệnh thập tử nhất sinh ấy. Thuốc được tác giả viết
22


×