Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

khảo sát hiện trạng và thực nghiệm nuôi lươn monopterus albus zuiew, 1793) bằng thức ăn công nghiệp tại sa đéc đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.45 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN



CAO THIỆN KHANG




KHẢO SÁT HIỆN TRẠNG VÀ THỰC NGHIỆM NUÔI
LƯƠN Monopterus albus Zuiew, 1793) BẰNG THỨC ĂN CÔNG
NGHIỆP TẠI SA ĐÉC - ĐỒNG THÁP



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN


CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
TS. BÙI MINH TÂM
Ths. NGUYỄN THANH HIỆU


2014


1

KHẢO SÁT HIỆN TRẠNG VÀ THỰC NGHIỆM NUÔI LƯƠN


(Monopterus albus Zuiew, 1793) BẰNG THỨC ĂN CÔNG NGHIỆP
TẠI SA ĐÉC - ĐỒNG THÁP
Sinh viên thực hiện: Cao Thiện Khang
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, Email:
Số điện thoại: 0932355910
TÓM TẮT
Lươn đồng (Monopterus albus) là một trong những đối tượng nuôi thủy sản đang được quan
tâm và phát triển, hiện nay lươn đồng được nuôi thâm canh ở nhiều nơi như An Giang, Cần
Thơ, Đồng Tháp,… Nghề nuôi lươn đồng đang ở giai đoạn đầu và chủ yếu là sử dụng bể nhỏ
và dùng thức ăn tự chế. Nghiên cứu nhằm tìm hiểu hiện trạng nghề nuôi lươn đồng và thực
nghiệm nuôi trong bể bằng thức ăn công nghiệp.
Nghiên cứu được thực hiện qua điều tra khảo sát từ 30 hộ nuôi lươn đồng ở tỉnh Đồng Tháp
sử dụng bảng câu hỏi chuẩn bị sẵn. Kết quả cho thấy 100% các hộ nuôi lươn đều sử dụng
thức ăn tươi sống (cá tạp nước ngọt, ốc bưu vàng, tép) trong đó có 20% hộ sử dụng thức ăn
tươi kết hợp thức ăn viên công nghiệp vào khẩu phần ăn cho lươn nuôi. Nguồn cung cấp
thức ăn tươi chủ yếu do các hộ nuôi tự khai thác và mua từ người dân khai thác trong vùng.
Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) khoảng 8,32-9,58 và chi phí thức ăn chiếm tỉ lệ cao nhất trong
tổng chi phí nuôi lươn (64,0-69,3%). Thực nghiệm nuôi lươn đồng bằng thức ăn viên công
nghiệp được bố trí vào 2 bể lót bạt. Lươn giống 10g/con sau khi thả nuôi ở tháng đầu bằng
thức ăn tươi sống và chuyển dần sang thức ăn công nghiệp. Sau 180 ngày nuôi tỉ lệ sống là
48,2%, và tốc độ tăng trưởng 0,09 g/ngày, chi phí sản xuất 98.150 đồng/kg.
Từ kết quả trên cho thấy có thể áp dụng mô hình nuôi lươn bằng thức ăn công nghiệp để
giảm đi phần nào khó khăn trong việc tìm kiếm thức ăn trong mô hình nuôi lươn truyền
thống bằng thức ăn tươi sống.

I. GIỚI THIỆU
Lươn đồng (Monopterus albus) là một trong những đối tượng nuôi thủy sản mới
đang được nhiều người quan tâm do có thịt thơm ngon, bổ dưỡng và có giá trị kinh tế
cao. Lươn đồng đang được chú ý để phát triển nhằm góp phần đa dạng hóa đối tượng
nuôi ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nói riêng và Việt Nam nói chung.

Trong tự nhiên lươn đồng phân bố chủ yếu ở các thủy vực nước ngọt như ao, kênh,
các dòng sông lớn, trong ruộng lúa hay đầm lầy (Ngô Trọng Lư, 2002). Trong nuôi
thương phẩm, lươn đồng chủ yếu được nuôi bằng thức ăn tươi sống (ếch nhái, tép,
ốc, cua, cá tạp). Cùng với sự phát triển của nghề nuôi lươn còn có nghề nuôi cá ăn
động vật khác (cá lóc, thát lát) đang phát triển mạnh đã làm gia tăng đáng kể nhu cầu
thức ăn tươi sống. Việc sử dụng chủ yếu là thức ăn tươi sống, đặc biệt là cá tạp dẫn
đến việc phụ thuộc của nghề nuôi vào nguồn cá tạp, chất lượng, giá thành và khả
năng cung cấp của ngư dân khai thác (Phan Hồng Cương, 2009). Do quá lệ thuộc vào


2

nguồn thức ăn tươi sống nên nghề nuôi lươn còn tồn tại nhiều rủi ro trong quá trình
nuôi cũng như hiệu quả kinh tế khó được đảm bảo vì thiếu tính chủ động về thức ăn.
Vì thế người dân đang chuyển dần cách nuôi lươn bằng thức ăn tự nhiên sang cách
nuôi kết hợp giữa thức ăn tươi với thức ăn viên công nghiệp. Nuôi lươn bằng thức ăn
công nghiệp có rất nhiều thuận lợi như: có thể chủ động được nguồn thức ăn, dễ bảo
quản, ít ô nhiễm môi trường nuôi, lượng thức ăn hao hụt được giảm đáng kể, vệ sinh
và an toàn cho sức khỏe của lươn. Do đó việc nuôi lươn bằng thức ăn công nghiệp là
một giải pháp tối ưu cho người nông dân hiện nay.
Hiện nay, mô hình nuôi lươn bằng thức ăn công nghiệp đang được nhân rộng và phát
triển. Nhằm hoàn thiện qui trình kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sử dụng trên một diện
tích cũng như hiệu quả đạt được từ mô hình trên nên đề tài: “Khảo sát hiện trạng và
thực nghiệm nuôi lươn (Monopterus albus Zuiew, 1793) bằng thức ăn công nghiệp
tại Sa Đéc, Đồng Tháp” được thực hiện.
Nội dung đề tài
Khảo sát hiện trạng nuôi lươn tại khu vực Đồng Tháp và theo dõi sự tăng trưởng, tỷ
lệ sống của lươn nuôi bằng thức ăn công nghiệp tại Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thời gian và địa điểm

Thời gian nghiên cứu từ tháng 11 năm 2013 đến tháng 7 năm 2014. Địa điểm điều tra
được thực hiện tại tỉnh Đồng Tháp (30 hộ dân nuôi lươn) và thực nghiệm nuôi được
thực hiện tại Sa Đéc, Đồng Tháp.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Khảo sát hiện trạng nuôi lươn tại Đồng Tháp
2.2.1.1 Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập số liệu thứ cấp được thu thập từ các tài liệu xuất bản các báo cáo của địa
phương và cục thống kê trong vùng nghiên cứu. Thông tin sơ cấp được thu trực tiếp
từ các hộ nuôi lươn thông qua phiếu điều tra đã chuẩn bị.
2.2.1.2 Nội dung điều tra
Căn cứ vào bảng câu hỏi chuẩn bị sẵn, gồm những thông tin chính như: địa điểm
điều tra, hình thức và kích cỡ bể nuôi (bể lót bạt, xi-măng), nguồn giống, nơi mua,
kích cỡ thả, mật độ thả giống, thời gian nuôi, quản lí môi trường nuôi, thức ăn cho
lươn (loại thức ăn, cách cho ăn, khẩu phần ăn, chất lượng), hiệu quả kinh tế, các
thuận lợi và khó khăn trong suốt quá trình nuôi.


3

2.2.2 Thực nghiệm nuôi lươn đồng bằng thức ăn công nghiệp
2.2.2.1 Biện pháp kỹ thuật ứng dụng
Lươn giống được thu mua từ các cơ sở thu gom lươn ở Đồng Tháp. Lươn bố trí nuôi
kích cỡ 10 g/con. Mật độ thả: bể 1 là 167 con/m
2
, bể 2 là 250 con/m
2
.
Bể nuôi lươn gồm có 2 bể xi-măng lót bạt có kích thước 6 m
2
/bể, trong bể có đặt giá

thể là những tấm gỗ xếp lên nhau, có phần nổi trên mực nước. Trước khi thả nuôi cần
ngâm lươn qua nước muối 3–5% trong 5–7 phút để phòng bệnh cho lươn.
Thức ăn sử dụng là thức ăn viên nổi dùng cho cá lóc (thức ăn AFIEX An Giang) có
hàm lượng đạm (40%).
Lươn được cho ăn 3-5% khối lượng thân/ngày, chia lượng thức ăn ra thành 2 lần cho
ăn 2 buổi sáng và chiều tối. Trong thời gian nuôi thay nước định kỳ 1 lần/ngày sau
khi cho lươn ăn buổi chiều tối, vệ sinh giá thể cũng như bể nuôi 1 lần/tuần.
2.2.2.2 Các chỉ tiêu theo dõi
Các yếu tố môi trường: nhiệt độ, pH, oxy hòa tan, NH
4
+
được đo mỗi tháng 1 lần.
Nhiệt độ được đo bằng nhiệt kế, pH, oxy hòa tan, NH
3
+
được kiểm tra bằng bộ test
Sera. Chỉ số sinh học mỗi tháng xác định khối lượng của lươn bằng cách dùng cân.
2.2.2.3 Các chỉ tiêu tính toán
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (Daily weight gain – g/ngày)
DWG = (W
2
– W
1
)/(t
1
– t
2
)
DWG: tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng (g/ngày)
W

1
: khối lượng tại thời điểm t
1
(g)
W
2
: khối lượng tại thời điểm t
2
(g)
Tỉ lệ sống (%) (SR-survial rate)
SR = 100 x (số lươn thu hoạch được/số lươn thả)
Hệ số sử dụng thức ăn (FCR – feed conversion ration)
FCR = Lượng thức ăn sử dụng/khối lượng lươn gia tăng
2.3 Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel phân tích thống kê mô tả, số trung bình
và độ lệch chuẩn.


4

H
ình 1
: B
ể nuôi l
ươn giá th
ể đất (trái)

và b
ể nuôi giá thể
v

ĩ tre

(ph
ải)

III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Tình hình nuôi và sử dụng thức ăn nuôi lươn đồng ở Đồng Tháp.
3.1.1 Thông tin về các hộ nuôi lươn đồng
3.1.1.1 Diện tích nuôi lươn

Kết quả điều tra phỏng vấn ở các hộ nuôi lươn bể bạt đổ đất, giá thể nylon, giá thể vĩ
tre, ở tỉnh Đồng Tháp cho thấy các mô hình nuôi lươn đồng thâm canh có diện tích
bình quân không quá lớn do người dân chưa có nhiều kinh nghiệm đồng thời nguồn
thức ăn lại khó tìm. Diện tích bể nuôi đất trung bình là 25,5 m
2
/hộ chiếm 43,3%;
nuôi giá thể vĩ tre có diện tích trung bình 30,2 m
2
chiếm 33,3%; và còn lại là nuôi với
giá thể nylon có diện tích trung bình 15,7 m
2
chiếm 23,4% (Bảng 1).
Bảng 1: Diện tích của các hộ nuôi lươn đồng
Diện tích
Đơn vị
tính
Nuôi bể bạt có
đất (n=13)

Nuôi bể bạt với

giá thể nylon
(n=10)

Nuôi bể bạt với giá
thể vĩ tre (n=7)

Trung bình m
2
/hộ 25,5±8,8

15,7±6,2

30,2±14,6

Nhỏ nhất m
2
/hộ 15

9

6

Lớn nhất m
2
/hộ 50

30

50


3.1.1.2 Kinh nghiệm của các hộ nuôi lươn
Kết quả điều tra cho thấy, kinh nghiệm nuôi lươn ở bể có giá thể vĩ tre là ít nhất 1,8
năm, kế đến là các hộ nuôi lươn bể bạt với giá thể nylon 2,2 năm, và nhiều kinh
nghiệm nhất là hộ nuôi lươn bể bạt để đất 4,8 năm (Bảng 2).
Bảng 2: Số năm kinh nghiệm nuôi lươn đồng
Kinh nghiệm
nuôi
Đơn vị
tính
Nuôi bể bạt có
đất (n=13)

Nuôi bể bạt với giá
thể nylon (n=10)

Nuôi bể bạt với
giá thể vĩ tre
(n=7)

Trung bình Năm 4,8±2,2

2,2±1,0

1,8±1,0

Nh
ỏ nhất

N
ăm


2

0,5

0,4

Lớn nhất Năm 10

4

3



5

3.1.1.3 Trình độ văn hóa
Trình độ văn hóa ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật để ứng dụng
trong sản xuất, đồng thời trình độ học vấn của người lao động cũng quyết định đến
việc tăng thu nhập, giảm chi phí cho mô hình nuôi. Người có học vị càng cao thì khả
năng tiếp thu khoa học công nghệ và ứng dụng nó vào trong thực tiễn càng thuận lợi
hơn (Lê Văn Liêm, 2007).
Mô hình nuôi lươn trong bể có đất rất phổ biến trong nông dân ở địa bàn nghiên cứu
do không đòi hỏi kỹ thuật cao nên rất dễ nhân rộng trong người dân. Kết quả điều tra
có 10% mù chữ, 20% cấp I, còn lại là cấp II chiếm 46,7%. Người dân nuôi lươn theo
mô hình nuôi bằng giá thể vĩ tre và giá thể nylon có kỹ thuật cao hơn, nên kết quả
khảo sát cho thấy số chủ hộ nuôi có trình độ cấp III chiếm 23,3% (Bảng 3).
Bảng 3: Trình độ văn hóa của các hộ nuôi lươn
Trình độ văn hóa Số lượng

Mù chữ 10%
Cấp I 20%
Cấp II 46,7%
Cấp III 23,3%
3.1.1.4 Nguồn lao động trong nuôi lươn
Ở các mô hình nuôi lươn với bể bạt có đất, giá thể nylon, giá thể vĩ tre đều sử dụng
nguồn lao động gia đình là chủ yếu (100% hộ nuôi) do người dân nuôi với quy mô
nhỏ và đặc biệt là không có nguồn lao động thuê mướn.
3.1.1.5 Mùa vụ nuôi lươn
Kết quả khảo sát nuôi lươn cho thấy các hộ nuôi lươn thả nuôi tập trung vào tháng 5-
6 âm lịch (78% hộ nuôi), tháng 7-8 (chiếm 22% hộ nuôi). Nguyên nhân là vào thời
điểm này trùng với thời gian sinh sản trong năm của lươn nên lươn giống nhiều và có
giá thấp hơn so với các tháng khác trong năm. Đồng thời, trong thời gian này thì
nguồn cá tạp làm thức ăn cho lươn cũng phong phú hơn.
3.1.1.6 Thông tin về thức ăn trong nuôi lươn
Kết quả điều tra cho thấy thức ăn tươi sống như cá tạp nước ngọt, ốc, tép là những
loại thức ăn chủ yếu mà các hộ nuôi sử dụng, còn thức ăn viên công nghiệp thì chỉ
một số ít hộ nuôi (20%) dùng để bổ sung thêm lúc nguồn cá tạp khan hiếm vì giá
thành cao.
Số lần cho lươn ăn trong ngày của đa số hộ nuôi là chỉ cho ăn 1 lần vào buổi chiều
tối (17h-18h), và cũng là lúc lươn bắt mồi mạnh nhất. Cách cho lươn ăn của đa số hộ
nuôi là thả thức ăn trực tiếp vào bể, chỉ một số ít dùng sàn ăn.


6

3.1.1.7 Vấn đề thay nước cho bể nuôi lươn
Chu kì thay nước của các hộ nuôi là 1 tuần/lần và thay toàn bộ 100% lượng nước
trong bể. Nước sử dụng được lấy trực tiếp từ các con sông, kênh, rạch ao gần bể nuôi
lươn, không qua ao lắng.

3.1.1.8 Nguồn lươn giống, kích cỡ và mật độ lươn thả nuôi
Lươn giống được thu mua từ những người dân thu gom bằng nhiều hình thức như đặt
chúm, đặt dớn và đặt lợp ở Đồng Tháp. Vì vậy nguồn lươn giống không được chủ
động nên gây ảnh hưởng đến năng suất của hộ nuôi.
Cỡ lươn giống cũng là yếu tố quan trọng mà người nuôi lươn quan tâm. Một số hộ
chọn thả lươn có kích cỡ lớn để tiết kiệm thời gian nuôi thịt, tuy nhiên cũng có hộ
chọn lươn giống kích cỡ nhỏ hơn để giảm chi phí mua giống.
Mật độ thả nuôi là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất nuôi.
Khi mật độ nuôi tăng thì năng suất thường tăng theo nhưng đồng thời rủi ro cũng
càng cao. Mật độ nuôi lươn ở hộ nuôi dao động từ 30-330 con/m
2
. Tuy vậy, có một
số hộ thả mật độ cao nhằm trừ đi hao hụt con giống, dịch bệnh. Một số hộ cũng thả
giống theo nhiều đợt trong vụ, phương pháp này làm ảnh hưởng đến năng suất.
Kích cỡ thu hoạch
Lươn đồng được nuôi khoảng 8 tháng thì người dân tiến hành thu hoạch, kích cỡ
lươn thịt trong khoảng 200 – 350 gram. Giá thành tại thời điểm điều tra tại chợ là
115.000 – 130.000 đồng/kg.
3.1.1.9 Năng suất nuôi
Năng suất trung bình của lươn đồng ở các mô hình nuôi dao động từ 13,5-56,8
kg/m
2
, cao nhất ở mô hình nuôi bể bạt với giá thể vĩ tre (56,8±25,6 kg/m
2
), kế đến là
mô hình nuôi bể bạt với giá thể nylon (41±13,3 kg/m
2
) và thấp nhất là mô hình nuôi
bạt có đất (13,5±3,7 kg/m
2

).
Bảng 4: Năng suất lươn nuôi ở các mô hình
Năng suất/m
2
Đvt
Nuôi bể bạt có
đất (n=13)

Nuôi bể bạt với
giá thể nylon
(n=10)

Nuôi bể bạt với
giá thể vĩ tre
(n=7)

Trung bình Kg 13,5±3,7

41±13,3

56,8±25,6

Nhỏ nhất Kg 7,5

20

12,5

Lớn nhất Kg 20


65

82,5

3.1.2 Chi phí và hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi lươn
3.1.2.1 Tổng chi phí đầu tư
Bảng 5 cho thấy hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) nuôi lươn trong bể bạt giá thể nylon là
thấp nhất (8,32), với giá thể vĩ tre là (9,02), và cuối cùng là nuôi bạt có đất (9,58).


7

Lươn nuôi giá thể nylon dễ quản lý thức ăn, xử lý bệnh cũng như vệ sinh bể nuôi hơn
so với bể nuôi có đất và giá thể vĩ tre. Ngoài ra chi phí thức ăn trên 1 kg lươn nuôi
dao động từ 71.706 – 75.993 đồng/kg.
Nếu so với chi phí thức ăn nuôi cá lóc (cũng dùng cá tạp) thì chi phí cho 1 kg cá lóc
dao động từ 16.398-17.976 đồng/kg (Phan Hồng Cương, 2009). Lươn là loài chậm
lớn nên hệ số tiêu tốn thức ăn cao hơn nhiều so với các đối tượng khác.
Bảng 5: Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật ở các mô hình nuôi lươn
Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật
Nuôi bể bạt
có đất (n=13)

Nuôi bể bạt với giá
thể nylon (n=10)

Nuôi bể bạt
với giá thể
vĩ tre (n=7)


Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) 9,58±0,3

8,32±0,4

9,02±0,7

Giá thức ăn bình quân (đồng/kg) 7.485±1,5

8.605±0,9

8.425±1,2

Chi phí thức ăn (đồng/kg lươn) 71.706±2,8

71.593±1,2

75.993±3,3

Kết quả phân tích ở Bảng 5 cho thấy chi phí thức ăn chiếm tỉ lệ cao nhất ở các mô
hình nuôi lươn dao động từ 64,0-69,3%, kế đến là chi phí con giống chiếm 22,3-
25,5%. Kết quả cho thấy chi phí thức ăn nuôi lươn thấp hơn so với cơ cấu chi phí
thức ăn trong nuôi cá lóc là 83,7% (Lê Văn Liêm, 2007) hay 89,2-91% (Phan Hồng
Cương, 2009). Chi phí thức ăn nuôi lươn thấp là do các hộ nuôi đều sử dụng thức ăn
tươi là ốc bưu vàng, kế đến là cá tạp, chỉ số ít sử dụng thức ăn tươi là tép, trong đó ốc
bưu vàng hiện nay thì rẻ hơn nhiều so với giá cá tạp.
Bảng 6: Cơ cấu chi phí trong nuôi lươn (đơn vị %)
Diễn giải
Nuôi bể bạt có
đất (n=13)


Nuôi bể bạt với giá
thể nylon (n=10)

Nuôi bể bạt với giá thể
vĩ tre (n=7)

Cơ cấu 100%

100%

100%

Thức ăn 64,0

67,7

69,3

Con giống 22,3

25,4

25,5

Lao động 0

0

0


Thuốc hóa chất 2,1

3,2

2,5

Xăng dầu, điện 3,6

1,6

2,2

Chi phí khác 1,2

0,7

0,9

3.1.2.2 Hiệu quả kinh tế
Qua kết quả điều tra (Bảng 7) cho thấy nuôi lươn đồng thâm canh trên bể có thuận
lợi dao động từ 545.000 – 1.619.000 đồng/m
2
và tỷ suất lợi nhuận đạt từ 43,9 –
50,8%. Kết quả này cao hơn so với nuôi cá lóc bằng thức ăn cá tạp là 33% (Lê Văn
Liêm, 2007). Nguyên nhân có tỉ lệ suất cao là do lươn đồng là loài đặc sản nước ngọt
nên giá bán cao dẫn đến lợi nhuận từ mô hình nuôi lớn.


8


Bảng 7: Cơ cấu chi phí và lợi nhuận của mô hình nuôi lươn/m
2
/vụ
Khoản mục
Nuôi bể bạt có đất
(1.000 đ/m
2
)

Nuôi bể bạt giá thể
nylon (1.000 đ/m
2
)

Nuôi bể bạt giá thể
vĩ tre (1.000 đ/m
2
)

Tổng chi phí/vụ 1.077±30,2

3.184±72,3

3.089±28,8

Tổng thu nhập/vụ 1.622±142

4.803±390

4.447±135


Lợi nhuận/vụ 545±128

1.619±336

1357±210

Tỷ suất lợi nhuận (%) 50,61%

50,85%

43,94%

3.1.3 Những thuận lợi cũng như khó khăn của hộ dân nuôi lươn
Phần lớn hộ nuôi đều sử dụng thức ăn tươi sống để nuôi lươn do giá của các loại thức
ăn tươi là tương đối rẻ và nguồn cung cấp cũng tương đối dễ dàng, hơn nữa các hộ
nuôi có thể tận dụng được thời gian nhàn rỗi của gia đình để tự kiếm thức ăn nuôi
lươn mà không cần phải mua góp phần hạ thấp chi phí thức ăn. Thức ăn tươi còn là
nguồn thức ăn giàu đạm, có mùi vị hấp dẫn, có khả năng kích thích sự bắt mồi của
lươn và giúp lươn ăn nhiều hơn và mau lớn hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng thức ăn
tươi tương đối với các hộ nuôi hiện nay đang gặp khó khăn do nguồn thức ăn tươi
phụ thuộc nhiều vào thời tiết và mùa vụ nên khó chủ động trong khâu cung cấp. Các
hộ nuôi cho rằng khi sử dụng thức ăn tươi nước trong bể nuôi dễ bị ô nhiễm, mầm
bệnh dễ phát sinh và lây lan khi dư thừa thức ăn. Bên cạnh đó thức ăn viên công
nghiệp cũng được người dân sử dụng trong những năm gần đây nhưng lượng sử dụng
rất ít để phối hợp với thức ăn tươi cho lươn ăn.
Tóm lại: Dựa vào kết quả điều tra về tình hình nuôi lươn ở Đồng Tháp đặc biệt về
khía cạnh nguồn và cách sử dụng thức ăn cho thấy các hộ nuôi trong những năm đầu
cho lợi nhuận rất cao nhưng càng về sau diện tích nuôi lươn càng bị thu hẹp lại và lợi
nhuận từ đó cũng giảm dần do các hộ nuôi chủ yếu dựa vào nguồn thức ăn tươi (cá

tạp nước ngọt, ốc, tép) chính vì vậy mà không chủ động được thức ăn (không cung
cấp đầy đủ thức ăn cho lươn vào những tháng khan hiếm thức ăn). Điều này ảnh
hưởng đến tỉ lệ sống của lươn, dịch bệnh lây lan, hiệu quả kinh tế-kỹ thuật thấp.
3.2 Thực nghiệm nuôi lươn trong bể lót bạt bằng thức ăn công nghiệp
3.2.1 Biến động các yếu tố môi trường trong bể nuôi lươn
Nhiệt độ, pH, Oxy, NH
4
+
/NH
3

Nhiệt độ trung bình trong bể nuôi lươn biến động không quá lớn, dao động từ 26,2
o
C
cho đến 29,5
o
C. Theo Trương Quốc Phú (2008) nhiệt độ thích hợp cho tôm cá vùng
nhiệt đới phát triển nằm trong khoảng 25-32
o
C. pH trung bình dao động từ 7,20-7,92.
Theo Boyd (1998) thì khoảng pH thích hợp cho các ao tôm cá nước ngọt là 6-9 và
đây là khoảng tôm cá có tốc độ tăng trưởng tốt nhất.
Hàm lượng oxy trong bể nuôi luôn ổn định và dao động 3,10 - 4,92 mg/L. Theo giá
trị oxy hòa tan thích hợp cho ao nuôi cá từ 3 mg/L trở lên (Boyd, 1990). Nhìn chung


9

các yếu tố nhiệt độ, pH và hàm lượng oxy hòa tan đều nằm trong khoảng thích hợp
cho sự tăng trưởng và phát triển của lươn đồng.

Từ kết quả khảo sát cho thấy vào tháng đầu tiên hàm lượng NH
4
+
trung bình trong 2
bể ở mức 0,25 mg/L do lươn còn ở giai đoạn nhỏ lượng chất thải từ lươn không cao
không làm tăng hàm lượng NH
4
+
trong bể và tăng dần theo các tháng nuôi.
3.2.2 Tỷ lệ sống của lươn đồng sau 180 ngày nuôi
Sau 180 ngày nuôi thì 2 bể lươn đạt tỉ lệ sống trung bình là 48,2%. Quan sát và ghi
nhận khả năng bắt mồi cũng như tình trạng sức khỏe của lươn trong thời gian nuôi
cho thấy trong giai đoạn chuyển sang cho ăn thức ăn công nghiệp lươn có xu hướng
giảm ăn, một số bỏ ăn và chết so với lúc cho ăn thức ăn tươi sống lý do là thức ăn
tươi sống có mùi vị hấp dẫn đồng thời cũng là thức ăn phù hợp với đặt tính của loài,
do vậy tỉ lệ sống ở giai đoạn chuyển thức ăn bị giảm. Trong suốt thời gian nuôi cho
thấy lươn khỏe mạnh và không có dấu hiệu bị bệnh. Kết quả cho thấy việc sử dụng
thức ăn kết hợp (thức ăn tươi + thức ăn công nghiệp) trong quá trình nuôi giúp lươn
tập làm quen dần với thức ăn công nghiệp làm cho tỉ lệ sống cũng được cải thiện
hơn. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu gần đây trong ương nuôi cá thát
lát (Notopterus notoprus) (Lê Ngọc Diện, 2004); ương cá còm (Chitala chitala) giai
đoạn bột lên giống (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008) là cần thời
gian tập ăn để cá hay lươn quen và chuyển đổi thức ăn.
3.2.3 Tăng trưởng về khối lượng lươn đồng
Hình 3.2 cho thấy khối lượng lươn đồng tăng dần theo thời gian nuôi. Quan sát theo
dõi sự tăng trưởng của lươn thì thấy lươn có tốc độ tăng trưởng chậm ở giai đoạn đầu
do lươn chưa quen dần với thức ăn viên nhưng càng về sau thì lươn sử dụng thức ăn
viên càng tốt hơn cho tăng trưởng nhanh hơn.

Hình 2: Tăng trưởng về trọng lượng của lươn đồng qua các đợt thu mẫu



10

Khối lượng trung bình ban đầu khi thả nuôi là 10 g/con và sau 180 ngày nuôi có tốc
độ tăng trưởng ở bể 1 là 0,108±0,078 g/ngày và bể 2 là 0,085±0,060 g/ngày.
Bảng 8: Tăng trưởng về khối lượng của lươn đồng sau 180 ngày nuôi (đvt: gram)
Ngày nuôi
B


30

60

90

120

150

180

Trung bình

Bể 1 0,05

0,04

0,06


0,10

0,16

0,24

0,108±0,078

Bể 2 0,04

0,03

0,05

0,07

0,15

0,17

0,085±0,060

Kết quả thực nghiệm cho thấy việc sử dụng thức ăn kết hợp giữa cá tạp và thức ăn
công nghiệp trước khi chuyển sang sử dụng hoàn toàn thức ăn viên sẽ giúp lươn
thích nghi tốt hơn vừa cho lươn tăng trưởng tốt lại vừa chủ động được nguồn thức
ăn.
3.2.4 Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR)
Kết quả nghiên cứu về hiệu quả sử dụng thức ăn của 2 bể nuôi được ghi nhận ở Bảng
9 cho thấy để có 1 kg lươn thì phải sử dụng trung bình 8,61 kg thức ăn.

Bảng 9: Hệ số tiêu tốn thức ăn ước lượng của 2 bể nuôi lươn đồng.
Bể nuôi lươn FCR
Bể 1 8,37
Bể 2 8,86
3.2.5 Phân tích chi phí nuôi lươn đồng bằng thức ăn công nghiệp
Bảng 10 cho thấy chi phí sản xuất 1 kg lươn đồng ở các bể nuôi dao động từ 95.000
đến 100.000 đồng/kg. Kết quả cho thấy có thể nuôi lươn đồng bằng thức ăn viên qua
quá trình tập cho lươn ăn đạt hiệu quả kinh tế cao.
Bảng 10: Phân tích chi phí sản xuất trong nuôi lươn bằng thức ăn công nghiệp
Khoản mục
Bể 1

Bể 2
Chi phí con giống (1.000 đ/bể) 3000

4500
Chi phí thức ăn (1.000 đ/bể) 1329

1994
Tổng chi (1.000 đ/bể) 4849

7274
Năng suất dự đoán (kg/m
2
) 60,25 90,37
Chi phí sản xuất 1 kg lươn (1.000 đ/kg) 95,00

100,00
Ghi chú: Các số liệu trong bảng được phân tích dựa trên những thông tin: 1) Giá con
giống là 300.000 đ/kg; 2) Giá thức ăn tươi (cá tạp) là 8.000 đ/kg; 3) Giá thức ăn viên

là 16.800 đ/kg.


11

3.3 Kết quả thực nghiệm nuôi lươn bằng thức ăn công nghiệp so sánh với kết
quả điều tra nông hộ nuôi lươn ở Đồng Tháp
Năng suất của thực nghiệm nuôi trung bình 75,31 kg/m
2
tuy có cao hơn so với kết
quả điều tra ở mô hình có năng suất cao nhất là nuôi lươn giá thể vĩ tre 56,8 kg/m
2
.
Nhưng chi phí sản suất của thực nghiệm nuôi cao hơn ở mô hình nuôi vĩ tre 97.500
đồng/kg so với 75.900 đồng/kg. Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt đó là do giá thành
của thức ăn công nghiệp còn khá cao 16.800 đồng/kg so với giá thức ăn tươi (cá tạp)
8.000 đồng/kg.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1 Kết luận
Đa số các hộ nuôi lươn sử dụng thức ăn tươi (ốc, cá tạp nước ngọt, tép) là chủ yếu.
Hệ số chuyển hóa thức ăn FCR trong mô hình nuôi lươn dao động từ 8,32-9,58 và
chi phí thức ăn chiếm tỉ lệ lớn (60,0-69,3%) trong tổng chi phí.
Lươn đồng có thể sử dụng thức ăn viên công nghiệp trong nuôi thâm canh. Có thể
từng bước đưa thức ăn viên công nghiệp vào nuôi lươn đồng thâm canh nhằm chủ
động trong việc cung cấp và bảo quản thức ăn.
4.2 Đề xuất
Nghiên cứu về ảnh hưởng của số lần cho ăn lên tỉ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của
lươn đồng và nuôi ở qui mô bể lớn hơn bằng thức ăn viên công nghiệp và mật độ cao
hơn để đánh giá tốt hơn về hiệu quả kinh tế.
LỜI CẢM TẠ

Xin chân thành cảm ơn Bộ môn Kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt – Khoa Thủy sản
– Trường Đại học Cần Thơ đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi được tham gia học tập
nâng cao trình độ chuyên môn trong thời gian qua. Xin cảm ơn PGs.Ts Dương Nhựt
Long, Ts Bùi Minh Tâm và Th.s Nguyễn Thanh Hiệu đã tận tình giúp đỡ và hướng
dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp. Xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Boyd, C. E., 1990. Water Quality for Pond Aquaculture. Birmingham Publishing
Company, Birmingham, Alabama, 269pp
Boyd, C. E., 1998. Water Quality for Pond Aquaculture. Department of fisheries and
allied aquaculture. Auburn University, Alabama 36849 USA.
Lê Ngọc Diện, 2004. Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ và hàm lượng protein trong
thức ăn viên lên tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá thát lát (Notopterus
notopterus Pallas) giai đoạn ương giống và nuôi thương phẩm. Luận văn tốt nghiệp
Cao học Nuôi trồng Thủy sản. Khoa Thủy sản, Đại Học Cần Thơ.


12

Lê Văn Liêm, 2007. Khảo sát tình hình cung cấp và sử dụng thức ăn trong nuôi tôm
càng xanh, cá tra và cá lóc ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Luận văn cao học Nuôi
Trồng Thủy Sản. Khoa Thủy Sản, Đại Học Cần Thơ.
Ngô Trọng Lư, 2002. Kỹ thuật nuôi cá quả, cá chình, bống bớp, lươn. NXB Nông
Nghiệp. 119 trang.
Phan Hồng Cương, 2009. Tình hình sử dụng cá tạp và khả năng sử dụng bột đậu
nành trong phối chế thức ăn chế biến nuôi cá Lóc (Channa striata). Luận văn Cao
học. Khoa Thủy sản. Đại Học Cần Thơ.
Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008. Khả năng sử dụng thức ăn chế
biến của cá còm (Chitala chitala) giai đoạn bột lên giống. Tạp chí Khoa học 2008, 1:
134-140. Trường Đại Học Cần Thơ.
Trương Quốc Phú, 2008. Giáo trình Quản lý chất lượng nước nuôi trồng thủy sản.

Khoa Thủy sản. Trường Đại Học Cần Thơ.

×