Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

ảnh hưởng của nhịp cho ăn lên tăng trưởng của cá lóc (channa striata, bloch 1793)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.49 KB, 13 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẨN THƠ
KHOA THỦY SẢN






TRẦN TRUNG KHÁNH





ẢNH HƯỞNG CỦA NHỊP CHO ĂN LÊN TĂNG TRƯỞNG
CỦA CÁ LÓC (Channa striata, Bloch 1793)











LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN















2014



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẨN THƠ
KHOA THỦY SẢN






TRẦN TRUNG KHÁNH









ẢNH HƯỞNG CỦA NHỊP CHO ĂN LÊN TĂNG TRƯỞNG
CỦA CÁ LÓC (Channa striata, Bloch 1793)














CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGs.Ts. ĐỔ THỊ THANH HƯƠNG






2014


1
KHẢO SÁT ẢNH HƯỞNG CỦA NHỊP CHO ĂN LÊN TĂNG TRƯỞNG CÁ LÓC
(Channa striata, Bloch 1793)
Trần Trung Khánh
1
và Đỗ Thị Thanh Hương
1

1
Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần Thơ
ABSTRACT
The experiment investigated the effect of feeding on the growth rhythm of snakehead fish
in order to reduce production costs in intensive snakehead fish. Fish snakehead (Channa
striata) experiments have an average weight of 0.06 ± 5,6

g. The experiment was
completely random layout with 4 treatments: control treatment (NT1) is continuously fed
2 times/day during the experiment. Treatment 2 (NT2) to eat 6 day starved 1 day, 3
treatments (NT3) for 5 days ate starved 2 days, 4 treatments (NT4) to eat 3 days 4 days
of starvation. Each treatment repeated 3 times, time tracking experiments in 60 days.
The changes in weight, length, weight gain (Wg), daily weight gain (DWG), survival
rate, feed conversion ratio and protein efficiency were recorded. Results will be
recorded in samples collected 4 times, each time with 15 days. Experimental results
show that the volume of fish after 60 days in the treatment NT1, NT2, NT3, NT4: 25,5 g;
23,9 g; 22,9 g; 17 g. Results of statistical analysis showed that the volume of fish after
the experiment in NT1, NT2, NT3 did not differ significantly (p>0,05). Volume of fish
after NT4 experiments at lower statistical significance (p<0,05) compared with NT1,
NT2, NT3. Weight gain of fish (Wg) ranged from 11,4 to 19,9 g statistical analysis of the
results showed no significant difference NT1 (p>0,05) with NT2, NT3 and the difference
was statistically significant (p<0,05) with NT4. Absolute growth (DWG) NT1 highest

(0,35 g/day) mean differences (p<0,05) compared with NT4 (0,20 g/day). NT3 highest
survival rate (88,7) did not differ significantly compared with NT2 (87,3). FCR (FCR)
highest NT1 (2,3) and NT3 lowest (1,34) . Nitrogen use efficiency (PER) in NT3 highest
(1,89) and lowest NT1 (1,11). In conclusion, the level of compensatory growth of
snakehead fish depend on starvation period .
Keywords: Snakehead, alternative feeding, FCR.

TÓM TẮT
Thí nghiệm khảo sát ảnh hưởng của nhịp cho ăn lên tăng trưởng của cá lóc nhằm mục
đích giảm chi phí sản xuất trong nuôi cá lóc thâm canh. Cá lóc (channa striata) thí
nghiệm có trọng lượng trung bình 5,61±0,06 g. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu
nhiên với 4 nghiệm thức: Nghiệm thức đối chứng (NT1) được cho ăn liên tục 2 lần/ngày
trong suốt quá trình thí nghiệm. Nghiệm thức 2 (NT2) cho ăn 6 ngày bỏ đói 1 ngày,
nghiệm thức 3 (NT3) cho ăn 5 ngày bỏ đói 2 ngày, nghiệm thức 4 (NT4) cho ăn 4 ngày
bỏ đói 3 ngày. Mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần, thời gian theo dõi thí nghiệm trong 60

2
ngày. Những thay đổi về trọng lượng, chiều dài, tăng trọng (Wg), tăng trọng theo ngày
(DWG), tỷ lệ sống, hệ số chuyển hóa thức ăn và hiệu quả sử dụng đạm đều được ghi
nhận. Kết quả sẽ được ghi nhận trong 4 lần thu mẫu, mỗi lần cách nhau 15 ngày. Kết
quả thí nghiệm cho thấy khối lượng của cá sau 60 ngày ở các nghiệm thức NT1, NT2,
NT3, NT4 lần lượt là 25,5 g; 23,9 g; 22,9 g; 17 g. Kết quả phân tích thống kê cho thấy
khối lượng của cá sau thí nghiệm ở NT1, NT2, NT3 khác nhau không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05). Khối lượng của cá sau thí nghiệm tại NT4 thấp hơn có ý nghĩa thống
kê(p<0,05) so với NT1, NT2, NT3. Tăng trọng của cá (Wg) dao động 11,4– 19,9 g kết
quả phân tích thống kê cho thấy NT1 khác biệt không ý nghĩa (p>0,05) với NT2, NT3 và
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với NT4. Tăng trưởng tuyệt đối (DWG) cao nhất
NT1 (0,35 g/ngày) khác biệt có nghĩa (p<0,05) so với NT4 (0,20 g/ngày). Tỷ lệ sống
NT3 cao nhất (88,7) khác nhau không có ý nghĩa thống kê so với NT2 (87,3). Hệ số thức
ăn (FCR) cao nhất NT1 (2,3) và thấp nhất NT3 (1,34). Hiệu quả sử dụng đạm (PER) ở

NT3 cao nhất (1,89) và thấp nhất NT1 (1,11). Qua đó cho thấy,, mức độ tăng trưởng bù
của cá lóc phụ thuộc vào khoảng thời gian bị bỏ đói.
Từ khóa: Cá lóc, cho ăn gián đoạn, FCR.
1. GIỚI THIỆU
Sự thành công trong nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng
một trong những yếu tố quan trọng nhất là quản lý hiệu quả các chi phí trong quá trình
sản xuất, đặc biệt là chi phí thức ăn. Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) khi nuôi cá lóc
tương đối cao, FCR đối với cho ăn bằng cá tạp là 4,45, thức ăn viên là 1,44 (Nguyễn
Hoàng Huy, 2011). Hệ số chuyển hóa thức ăn cao sẽ làm giảm lợi nhuận của người nuôi.
Cần phải giảm chi phí thức ăn để giảm giá thành nhằm năng cao lợi nhuận cho người
nuôi. Việc quản lý cho ăn không hiệu quả như cho cá ăn dư thừa không những làm lãng
phí thức ăn, nâng cao chi phí sản xuất mà còn ô nhiễm môi trường nước trong ao nuôi,
trong khi cho cá ăn không đủ sẽ làm cho cá chậm lớn và tỉ lệ chết cao là những nguyên
nhân chính dẫn đến tăng giá thành sản xuất trong nuôi trồng thủy sản.
Một trong những phương pháp tiềm năng để giảm chi phí trong nuôi trồng thủy
sản chính là dựa vào ưu điểm của hiện tượng tăng trưởng bù. Tăng trưởng bù trên cá là
giai đoạn tăng trưởng rất nhanh xuất hiện sau khi cá được tái cho ăn sau một giai đoạn bị
bỏ đói. Kèm theo sự tăng trưởng bù là gia tăng sự thèm ăn bất thường trên cá. Một số
nghiên cứu về nhịp cho ăn trên các loài cá khác đã được thực hiện như Lê Thị Tiểu Mi
(2009), nghiên cứu ảnh hưởng của cho ăn gián đoạn lên tăng trưởng của cá tra giống.
Ngiên cứu phương pháp cho ăn tối ưu trên cá tra cỡ giống 23 – 27 g/con (Dương Hải
Toàn và ctv, 2011). Nguyễn Thanh Tâm và Nguyễn Thanh Thảo (2009), nghiên cứu về
mức độ tăng trưởng bù của cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) phụ thuộc và thơi gian
cho ăn… Tăng trưởng bù của cá liên quan đến nhiều yếu tố như chất lượng nước, khẩu

3
phần protein, sự phân đàn và năng lượng trong suốt thời gian cho ăn bù (Abdel- Hakim
et al, 2009). Những loài cá khác nhau có những biểu hiện tăng trưởng bù khác nhau. Tuy
nhiên, nghiên cứu về nhịp cho ăn, mối quan hệ giữa phương thức cho ăn và tăng trưởng
của cá lóc (Channa striata) chưa được nghiên cứu sâu. Với mục tiêu giảm chi phí thức

ăn, giảm ô nhiễm môi trường cũng như giảm nhu cầu sử dụng cá tạp làm thức ăn cho cá
lóc. Đề tài “Ảnh hưởng nhịp cho ăn lên tăng trưởng của cá lóc (Chana striata)” được
thực hiện.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này được tiến hành từ 02/2013 đến 05/2013 tại bộ môn Dinh dưỡng
và Chế biến Thủy Sản, Khoa Thủy Sản – Trường Đại học Cần Thơ.
2.1 Cá thí nghiệm
Cá thí nghiệm được mua từ trại giống tại quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ.
Trọng lượng trung bình từ 5,61±0,06

g. Cá hoàn toàn khỏe mạnh không có dấu hiệu
bệnh. Sau khi vận chuyển kín từ trại cá giống về trại thực nghiệm, cá được thả nuôi
trong bể composite 2 m
3
ít nhất là 1 tuần để thích nghi với môi trường trước khi đưa vào
làm thí nghiệm. Khi thí nghiệm chọn cá khỏe trong bể thuần dưỡng để bố trí.
2.2 Bố trí thí nghiệm
Cá bố trí phải đồng cỡ, không bị dị hình dị tật, không có dấu hiệu bệnh, bố trí
ngẫu nhiên vào 12 bể composite 1m
3
có chứa 500 lít nước, gồm 4 nghiệm thức, mật độ
bố trí 50 cá/bể. Trọng lượng và kích thước cá bố trí sẽ được ghi nhận trước khi cho cá
vào bể thí nghiệm.
Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức: Nghiệm thức
đối chứng (NT1) được cho ăn liên tục 2 lần/ngày trong suốt quá trình thí nghiệm.
Nghiệm thức 2 (NT2) cho ăn 6 ngày bỏ đói 1 ngày, nghiệm thức 3 (NT3) cho ăn 5 ngày
bỏ đói 2 ngày, nghiệm thức 4 (NT4) cho ăn 4 ngày bỏ đói 3 ngày.
2.3 Chăm sóc quản lý
Khi thí nghiệm cho cá ăn 5% khối lượng thân và cho ăn 2 lần/ngày bằng thức ăn
viên nổi có hàm lượng đạm là 40% đạm. Lượng thức ăn cá sử dụng được ghi nhận hằng

ngày bằng cách xác định lượng thức ăn cho cá ăn và lượng thức ăn thừa sau một giờ cho
ăn. Thức ăn thừa được vớt ra khỏi bể và đếm số viên thức ăn để xác định tổng lượng
thức ăn thừa dựa vào khối lượng bình quân của viên thức ăn. Khối lượng bình quân của
viên thức ăn được xác định bằng cách cân 30-50 viên thức ăn khô để tính ra khối lượng
trung bình của một viên thức ăn. Tổng thức ăn trong thời gian thí nghiệm là lượng thức
ăn cộng dồn theo ngày. Thức ăn được dùng trong thí nghiệm là thức ăn của công ty
Cargill. Nước trong bể được thay 20-30% hàng ngày bằng phương pháp chảy tràn trước

4
khi cho cá ăn vào buổi sáng và trước khi cho ăn vào buổi chiều, định kỳ (2 – 3 ngày) vệ
sinh đáy bể thí nghiệm.
2.4 Các chỉ tiêu theo dõi
Các yếu tố nhiệt độ, oxy hòa tan, pH được ghi nhận vào buổi sáng và buổi chiều
(trước khi tiến hành cho nước chảy) 1 tuần/lần trong suốt quá trình thí nghiệm. Ghi nhận
bổ sung các yếu tố này khi thấy bể thí nghiệm cá có dấu hiệu bất thường.
Cá bố trí sẽ được ghi nhận trọng lượng khi tiến hành bố trí. Sau 15 ngày thu mẫu
một lần. Theo dõi các chỉ tiêu sinh học như tỉ lệ sống (SR), tăng trọng trung bình
(AWG), tặng trọng trung bình trên ngày (DWG), hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR).
Trong đó, Tỷ lệ sống (Survival rate – SR): SR (%)= 100x (số cá thu/số cá thả). Tốc độ
tăng trưởng theo ngày (DWG): DWG (g/ngày) = (khối lượng sau – khối lượng đầu)/ thời
gian thí nghiệm. Tăng trọng (Weight gain – Wg) = khối lượng sau

– khối lượng đầu.
Lượng thức ăn ăn vào (FI): FI=[(tổng thức ăn/số cá)/ngày]. Hệ số thức ăn (FCR): FCR=
Lượng thức ăn cá sử dụng/ (khối lượng cá thu – khối lượng cá ban đầu). Hiệu quả sử
dụng đạm (protein): PER= (khối lượng đầu

– khối lượng sau) /lượng protein (đạm) ăn
vào.
2.4 Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu sau khi thu thập sẽ dùng phần mềm Excel 2003 và SPSS 13.0 để tính
toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và sự khác biệt về giá trị trung bình của các chỉ
tiêu theo dõi giữa các nghiệm thức sẽ dùng phương pháp one-way ANOVA và phép
thử Duncan.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Một số yếu tố môi trường sau 60 ngày thí nghiệm.
Quá trình thí nghiệm các yếu tố môi trường đều nằm trong khoảng thích hợp cho
sự sinh trưởng và phát triển của cá. Nhiệt độ, pH và oxy hòa tan giữa các nghiệm thức
không có sự chênh lệch lớn, đều dao động trong khoảng cho phép xảy ra.
Nhiệt độ trong bể nuôi nằm trong khoảng thích hợp cho cá lóc phát triển. Trong
suốt thời gian thí nghiệm thì nhiệt độ vào buổi chiều cao hơn buổi sáng (bảng 1). Nhiệt
độ nước vào buổi sáng (25,4 – 25,5
o
C) và buổi chiều (26,1 – 26,3
o
C) chênh lệch nhau
thấp. Theo Trương Quốc Phú (2006) thì khoảng chịu đựng nhiệt độ của cá từ 20 – 35
o
C.
Từ kết quả trên cho thấy nhiệt độ sáng và chiều đều nằm trong khoảng thích hợp để nuôi
cá lóc.
Qua kết quả thu mẫu thì pH trong ngày dao động không lớn buổi sáng (7,28 –
7,30) và buổi chiều (7,30 – 7,40), đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của

5
cá lóc. Theo Trương Quốc Phú (2006) thì pH thích hợp cho thủy sản từ 6,5 – 9 thấp hơn
hay cao hơn đều không có lợi cho tôm, cá.
Bảng 1. Nhiệt độ, pH và Oxy trong thời gian thí nghiệm.
Nghiệm
thức

Nhiệt độ (
0
C)
pH
Oxy (mg/L)
Sáng
Chiều
Sáng
Chiều
Sáng
Chiều
NT1
25,5±1,67
26,2±1,44
7,30±0,18
7,40±0,24
5,15±0,91
5,09±0,64
NT2
25,4±1,86
26,3±1,55
7,30±0,20
7,30±0,31
5,10±0,99
5,15±0,79
NT3
25,4±1,68
26,2±1,49
7,28±0,20
7,40±0,29

5,43±0,77
5,37±0,66
NT4
25,5±1,65
26,1±1,57
7,30±0,19
7,30±0,22
5,56±0,70
5,49±0,57
Hàm lượng O
2
qua các đợt thu mẫu không có sự biến động lớn buổi sáng
(5,10 – 5,56 ppm) và buổi chiều (5,09 – 5,49 ppm) là do mô hình nuôi trong hệ
thống bể có máy che và sục khí liên tục, nên hàm lượng O
2
ít biến động. Nồng độ oxy
hòa tan trong nước từ 1 – 5 ppm cá sống được nhưng sinh trưởng chậm, nồng độ oxy
hòa tan lý tưởng cho tôm cá từ trên 5 ppm (Swingle (1969) trích dẫn bởi Trương Quốc
Phú, 2006). Cá lóc là loài có cơ quan hô hấp phụ nên mức độ dao động của hàm lượng
oxy hòa tan sẽ không ảnh hưởng nhiều đến sự sống và sinh trưởng của cá.
3.2 Ảnh hưởng của cho ăn gián đoạn lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả
sử dụng thức ăn của cá lóc sau 60 ngày thí nghiệm.
3.2.1 Chỉ tiêu tăng trưởng
Qua kết quả bảng 2 cho thấy, khối lượng ban đầu của cá thí nghiệm không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Khối lượng sau của cá thí nghiệm ở các nghiệm
thức NT1, NT2, NT3, NT4 lần lượt là 25,5 g, 23,9 g, 22,9 g, 17 g. Kết quả phân tích
thống kê cho thấy khối lượng trung bình của cá sau thí nghiệm ở NT1, NT2, NT3 khác
nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Khối lượng trung bình của cá sau thí nghiệm
tại NT4 thấp hơn có ý nghĩa thống kê so NT1, NT2, NT3 (p<0,05).
Tăng trọng của cá trong thí nghiệm dao động từ 11,4 g – 19,9 g, trong đó tăng

trọng cao nhất ở NT1 (19,9 g) cao hơn tăng trọng của cá ở NT2 (18,2 g) và NT3 (17,3
g), tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05). Điều này cho
thấy cá ở NT2 và NT3 đã có dấu hiệu tăng trưởng bù một phần so với cá ở NT1. Cá ở
NT4 lại cho kết quả thấp hơn có ý nghĩa về mặt thống kê (p<0,05) so với tăng trọng của
cá ở NT1; NT2 và NT3.


6
DWG (g/ngày)
b
a
a
a
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
0.35
0.4
0.45
NT1 NT2 NT3 NT4
Nghiệm thức
g/ngày
Bảng 2: Khối lượngcủa cá khi cho ăn gián đoạn trong thí nghiệm
Nghiệm thức
W
i

(g)
W
f
(g)
W
g
(g)
NT1
5,61±0,06
a

25,5±0,19
a

19,9±0,33
a

NT2
5,62±0,05
a

23,9±1,35
a

18,2±2,34
a

NT3
5,61±0,05
a


22,9±0,44
a

17,3±0,78
a

NT4
5,61±0,04
a

17±0,46
b

11,4±0,82
b

Ghi chú: Những giá trị trên cùng một cột mang ký hiệu giống nhau thể hiện sự sai khác
không có ý nghĩa về mặt thống kê với độ tin cậy 95% (p >0,05)










Hình 1. Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của cá lóc

Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DWG) của cá ở NT1 0,35 g/ngày cao hơn có ý
nghĩa về mặt thống kê so với NT4 0,20 g/ngày (p<0,05). DWG của cá ở NT2 và NT3 lần
lượt là 0,32 g/ngày và 0,30 g/ngày khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với NT1
(p>0,05) và khác biệt có ý nghĩa với NT4 (p<0,05). Như vậy, chế độ cho cá lóc ăn gián
đoạn có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của cá.
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu Dương Hải Toàn và ctv (2011), tốc độ
tăng trưởng tuyệt đối (DWG) ở nghiệm thức cá được cho ăn 7 ngày và ngừng 3 ngày tốt
nhất và khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) với cá được cho ăn liên tục.
3.2.2 Khối lượng cá cuối thu hoạch và tỷ lệ cá phân đàn sau 60 ngày theo dõi.
Từ bảng 3 cho thấy, khối lượng của cá vào cuối thu hoạch tại nghiệm thức NT4
thấp nhất (709,7 g) khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) đối với các nghiệm thức còn lại.
Nghiệm thức NT2 có khối lượng cuối thu hoạch cao nhất (1037 g) khác biệt không có ý
nghĩa (p>0,05) so với NT1 và NT3 và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) đối với NT4.

7
Bảng 3. Khối lượng cá cuối thu hoạch
Nghiệm thức
Khối lượng cá cuối thu hoạch (g)
NT1 (đối chứng)
942,5 ± 77,6
a
NT2 (không cho ăn 1 ngày trong tuần)
1037 ± 39,5
a
NT3 (không cho ăn 2 ngày trong tuần)
1015 ± 59,4
a
NT4 (không cho ăn 3 ngày trong tuần)
709,7 ± 87,7
b

Ghi chú: Những giá trị trên cùng một cột mang ký hiệu giống nhau thể hiện sự sai khác
không có ý nghĩa về mặt thống kê với độ tin cậy 95% (p> 0.05)
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
70.00
80.00
<20 20-25 25-30 30-35 >35
Khối lượng (g)
%
NT1 NT2 NT3 NT4

Hình 2. Tỷ lệ cá phân đàn sau 60 ngày theo dõi
Hình 2 cho thấy, cá có sự phân đàn trong từng nghiệm thức. Trong đó tại nghiệm
thức NT4 có số lượng cá đạt trọng lượng dưới 20 g là cao nhất với (75%). Cá có trọng
lượng trên 35 g chiếm không cao trong các nghiệm thức. Trọng lượng cá ở các nghiệm
thức dao động trong khoảng 20 – 25 g chiếm tỷ lệ cao.
3.2.3 Tỷ lệ sống của cá lóc khi cho ăn gián đoạn trong thời gian 60 ngày.
Tỷ lệ sống của cá sau 60 ngày thí nghiệm là tương đối cao, dao động trong
khoảng 74 – 88,7% ở các nghiệm thức. Như vậy, tỷ lệ sống của cá chịu ảnh hưởng bởi
phương pháp cho ăn, giữa các nghiệm thức khác biệt có ý nghĩa (p<0,05).
Qua kết quả bảng 4 cho thấy tỷ lệ sống của cá lóc đen tại NT2 (87,3%) khác biệt
không có ý nghĩa thống kê so với NT3 (88,7%) và NT4 (83,4%) (p>0,05), tuy nhiên lại
khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê với NT1 74% (p<0,05). Tỷ lệ sống ở NT1 (74%) là
thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với NT2 và NT3 (87,3% và 88,7%) và thấp hơn không
có ý nghĩa (p>0,05) so với NT4 (83,4%).


8
Bảng 4: Tỷ lệ sống của cá lóc đen trong quá trình thí nghiệm
Nghiệm thức
Tỷ lệ sống (%)
NT1 (đối chứng)
74±3,05
b
NT2 (không cho ăn 1 ngày trong tuần)
87,3±3,71
a
NT3 (không cho ăn 2 ngày trong tuần)
88,7±2,40
a
NT4 (không cho ăn 3 ngày trong tuần)
83,4±3,61
ab
Ghi chú: Những giá trị trên cùng một cột mang ký hiệu giống nhau thể hiện sự sai khác
không có ý nghĩa về mặt thống kê với độ tin cậy 95% (p> 0.05)
Kết này cũng phù hợp với nghiên cứu tăng trưởng bù trên cá rô phi vằn
(Oreochromis niloticus) tỉ lệ sống của cá ở các nghiệm thức T0, T1, T2, T3, T4 và T5
đều khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê (P > 0,05) (Nguyễn Thanh Tâm và
Nguyễn Thanh Thảo, 2009).
3.2.4 Hiệu quả sự dụng đạm, hệ số chuyển hóa thức ăn và lượng thức ăn ăn vào
của cá lóc trong thời gian thí nghiệm.
Hệ số thức ăn (FCR) của cá trong thí nghiệm cao nhất ở nghiệm NT1 (2,30) và
thấp nhất ở nghiệm thức NT3 (1,34). Hệ số thức ăn nghiệm thức cho ăn liên tục khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với 3 nghiệm thức còn lại (Bảng 5). Bênh cạnh đó,
hiệu quả sử dụng đạm PER ở nghiệm thức NT3 cao nhất (1,89) do có hệ số thức ăn thấp
nhất và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với NT1 (1,11).

Bảng 5: Một số chỉ tiêu đánh giá quá trình sử dụng thức ăn.
Nghiệm thức
FI (g/con/ngày)
FCR
PER
NT1
0,73±0,03
a
2,30±0,16
a
1,11±0,08
b
NT2
0,48±0,01
b
1,56±0,04
b
1,62±0,04
a
NT3
0,39±0,14
c
1,34±0,05
b
1,89±0,07
a
NT4
0,29±0,07
d
1,64±0,15

b
1,57±0,15
a
Ghi chú: Những giá trị trên cùng một cột mang ký hiệu giống nhau thể hiện sự sai khác
không có ý nghĩa về mặt thống kê với độ tin cậy 95% (p > 0.05)
Lượng thức ăn ăn vào (FI) của cá tại các nghiệm thức NT1, NT2, NT3 và NT4
đều khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (p<0,05). FI ở NT1 cao nhất (0,73) nhưng hiệu
quả sử dụng đạm thấp nhất (1,11) khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với NT3 FI (0,39)
nhưng PER cao nhất (1,89).

9
Hiệu quả sử dụng đạm (PER) qua bảng 4 cho thấy NT1 (1,11) thấp nhất và có sự
khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê so với NT2, NT3 và NT4 (p<0,05). PER của NT3
cao nhất (1,89) và khác biệt không có ý nghĩa so với NT2 và NT4 (p>0,05).
Hiệu quả sử dụng đạm (PER) qua bảng 4 cho thấy NT1 (1,11) thấp nhất và có sự
khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê so với NT2, NT3 và NT4 (p<0,05). PER của NT3
cao nhất (1,89) và khác biệt không có ý nghĩa so với NT2 và NT4 (p>0,05).
3.3 Thảo luận
Từ kết quả trên, nhận thấy mức độ tăng trưởng bù của cá lóc phụ thuộc vào thời
gian bị bỏ đói. Cá ở nghiệm thức NT2 có thời gian bỏ đói ngắn nhất và đã cho kết quả
tăng trưởng khác biệt không có ý nghĩa thống kê đối với nghiệm thức đối chứng NT1.
Điều này nói lên cá nghiệm thức NT2 đã có dấu hiệu tăng trưởng bù một phần. Còn
nghiệm thức NT4 cá bị bỏ đói trong khoảng thời gian lâu nhất, gián đoạn 3 ngày cho ăn
4 ngày, kết quả đã không cho tăng trưởng bù bằng về trọng lượng so với NT1.
Theo Tian and Qin (2003) cho rằng tăng trưởng bù ở cá chỉ xảy ra khi cá vừa trải
qua quá trình cho ăn gián đoạn, với những cá ngừng cho ăn trong một thời gian dài thì
chỉ một phần tăng trưởng bù đạt được. Nghiên cứu tại loài cá chẽm cho thấy khi cá được
cho ăn 50% và 70% so với khẩu phần ăn của cá thì tăng trưởng sẽ theo kịp so với cá
được cho ăn theo nhu cầu, nhưng đối với cá cho ăn 0% và 25% nhu cầu thì không thể bù
được. Trọng lượng cá sau khi bị bỏ đói thấp hơn 60% so với trọng lượng cá ở nghiệm

thức đối chứng thì hiện tượng tăng trưởng bù hoàn toàn rất khó xảy ra (Nguyễn Thanh
Tâm và Nguyễn Thanh Thảo, 2009). Trong thí nghiệm này, nghiệm thức NT4 cá được
cho ăn 4 ngày và ngừng 3 ngày tăng trưởng bù không bắt kịp cá được cho ăn liên tục.
Kết quả này phù hợp với Robinson and Rushing (1994) thì FCR của cá được cho
ăn gián đoạn 2 ngày/tuần có hiệu quả chuyển đổi thức ăn tốt hơn cá được cho ăn hàng
ngày góp phần giảm chi phí lao động và việc quản lý cho ăn nhẹ nhàng hơn so với cá
được cho ăn hàng ngày, nhưng quan trọng nhất là giảm chi phí sản xuất.
Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với Lê Thị Tiểu Mi (2009), nghiên cứu về
ảnh hưởng của cho ăn gián đoạn lên tăng trưởng của cá tra giống. Kết quả, cá tra giống
cho ăn gián đoạn ở chế độ ăn 7 ngày và bỏ đói 3 ngày có trọng lượng cơ thể cao hơn và
FCR nhỏ hơn cá được cho ăn liên tục.
Ở các loài cá có khả năng phục hồi tăng trưởng sau một thời gian gián đoạn nhất
đinh, khả năng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nuôi trồng thủy sản. Sự bù đắp
tăng trưởng là một giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng của cá, tăng trưởng nhanh hơn
tăng trưởng bình thường hoặc tăng trưởng ngang bằng với tăng trưởng bình thường, sau
khi cho ăn đầy đủ lại thức ăn sau một khoảng thời gian không cung cấp thức ăn
(Weatherley and Gill, 1981). Khả năng thích nghi đó như một tiềm năng vốn có trong

10
vòng đời của động vật, rất nhiều sinh vật có sự phục hồi tăng trưởng nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng từ việc cho ăn gián đoạn sau một thời gian rồi cho ăn lại hàng ngày. Khi
thức ăn được cung cấp trở lại sau khoảng thời gian gián đoạn thì cá có thể tăng trưởng
trở lại, thường được gọi là đuổi kịp tốc độ tăng trưởng hay sự phục hồi tăng trưởng
(Bulow, 1970; Dodson and Holmes, 1984; Wetherley and Gill, 1981)
Theo Wieser et al. (1995) sự phản ứng của cơ thể cá từ lúc cho ăn gián đoạn đến
thời gian cho ăn lại trải qua 4 giai đoạn stress, chuyển tiếp, thích ứng và phục hồi. Phục
hồi tăng trưởng bù tích cực theo độ dài của thời gian gián đoạn. Vì vậy các nghiên cứu
về ảnh hưởng của việc cho ăn gián đoạn lên tỷ lệ trao đổi chất tiêu chuẩn để kiểm soát
hoạt động của cá thì rất quan trọng, ngoài ra sẽ khó khăn hơn trong việc phân biệt giảm
tỷ lệ trao đổi chất để thích nghi với điều kiện đó và sự điều chỉnh lại sau khi tăng hoạt

động lúc đầu trong giai đoạn stress.
Trong nghiên cứu này, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của cá tại các nghiệm thức
được ghi nhận cao nhất ở NT1 (0,35 g/ngày) và thấp nhất NT2 (0,20 g/ngày) khác biệt
có ý nghĩa (p<0,05), do NT4 có thời gian gián đoạn cho ăn dài nhất so với các nghiệm
thức còn lại. Như vậy, tốc độ tăng trưởng của cá chịu ảnh hưởng bởi chế độ cho ăn.
4. KẾT LUẬN
Cá được cho ăn gián đoạn 2 ngày cho FCR thấp nhất, có hiệu quả sử dụng đạm cao nhất
và tỷ lệ sống cao nhất.
Cá được cho ăn liên tục có tỷ lệ sống thấp nhất, FCR cao nhất và hiệu quả sự dụng đạm
thấp nhất.
5. ĐỀ XUẤT
Kết quả nghiên cứu khi cho cá gián đoạn 2 ngày có thể áp dụng cho mô hình nuôi cá lóc
thâm canh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abdel-Hakim, H.A. Abo State, A. A. Al-Azab and Kh. F. El-Kholy, 2009. Effect of
Feeding Regimes on Growth Performance of Juvenile Hybrid Tilapia (Oreochromis
niloticus x Oreochromis aureus), World Journal of Agricultural Sciences 5 (1): 49-54,
2009.
Bulow FJ (1970). RNA:DNA ratios as indicators of recent growth rates of a fish. J. Fish.
Res. Board Canada 27: 2343-2344
Dobson SH, Holmes RM (1984). Compensatory growth in Rainbow trout, Salmo
gairdneri Richardson. J. Fish Biol. 25: 649-656
Dương Hải Toàn, Lý Tiểu Mi và Nguyễn Thanh Phương, 2011. Ảnh hưởng của cho ăn
gián đoạn và luân phiên lên tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá tra

11
(Pangasianodon hypophthalmus). Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 178-190
Trường Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Hoàng Huy, 2011. Đánh giá khả năng sử dụng thức ăn chế biến nuôi cá lóc
(Channa striata) thương phẩm. Luận văn tốt nghiệp cao học, ĐHCT.

Huỳnh Thu Hòa, 2004. Nghiên cứu xây dựng quy trình nuôi cá lóc ở Đồng bằng song
Cửu Long. Tạp chí Khoa học ĐHCT 2004, quyển 1, tr 84 – 94.
Lê Thị Tiểu Mi, 2009. Ảnh hưởng của phương pháp cho ăn gián đoạn lên tăng trưởng
của cá Tra (Pangasianodon hypophthalmus). Luận văn tốt nghiệp đại học, ĐHCT.
Nguyễn Phước Tuyên, 2000. Ương cá lóc bông bằng thức ăn tổng hợp tự chế. Luận văn
thạc sĩ Nuôi trồng Thủy sản, ĐHCT.
Nguyễn Thanh Tâm và Nguyễn Thanh Thảo, 2009. Khảo sát tăng trưởng bù của cá Rô
Phi Vằn (Oreochromis niloticus). Khoa thủy sản, Đại Học Nông Lâm.
Tian, X. and J. Qin, 2003. A single phase of food deprivation provoked compensatory
growth in barramundi Latescalcarifer. Aquaculture, 224: 169-179.
Trương Quốc Phú, 2006. Quản lý chất lượng nước trong ao nuôi cá nước ngọt. Khoa
Thủy Sản- Trường Đại Học Cần Thơ.
Robinson, E. H. and B. Rushing (1994). Maximum feeding versus aintenance feeding.
The Catfish Journal 8(11):23.
Weatherley, A. H. and Gill, H.S. (1981). Characteristics of mosaic muscle growth in
rainbow trout Salmo gairdneri. Experientia 37, 1102-1103
Wieser, R., Wrana, J.L., and Massague, J. (1995). GS domain muta- tions that
constitutively activate TbR-I, the downstream signalling component in the TGF-
breceptor complex. EMBO J. 14, 2199–2208.


×