Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

đặc điểm mô cơ và gan tụy tôm thẻ chân trắng (penaeus vannamei) dưới tác động của vibrio alginolyticus và dầu spo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.54 KB, 13 trang )




TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN








TRƯƠNG THỊ KIM ANH






ĐẶC ĐIỂM MÔ CƠ VÀ GAN TỤY TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Penaeus
vannamei) DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA Vibrio alginolyticus VÀ DẦU SPO



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN









2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






TRƯƠNG THỊ KIM ANH






ĐẶC ĐIỂM MÔ CƠ VÀ GAN TỤY TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Penaeus
vannamei) DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA Vibrio alginolyticus VÀ DẦU SPO




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN







CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
TS. TRẦN THỊ TUYẾT HOA
ThS. ĐẶNG THỤY MAI THY




2014

1

ĐẶC ĐIỂM MÔ CƠ VÀ GAN TỤY TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Penaeus
vannamei) DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA Vibrio alginolyticus VÀ DẦU SPO
Trương Thị Kim Anh
1
, Đặng Thụy Mai Thy, Trần Thị Tuyết Hoa
*
1
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ
E-mail:
ABSTRACT
Vibrio alginoloticus strain was used for challenge experiment in shrimp which were
collected from indoor and outdoor experiments at the injection doses of 10
7

CFU/ml.
Experimental shrimp were fed the food supplemented SPO oil with the rate of 0%,
0,1%, 0,2%, 0,4% for 30 days. A study was carried out to determine the
histopathology of white leg shrimp (Penaeus vannamei) influenced by SPO oil and
Vibrio alginolyticus. Histological studies in the hepatopancreas and muscle of
infected shrimp showed: bacterial invasion; cell necrosis in muscle and
hepatopancreas. Besides, infiltration of haemotycytes around hepatopancreatic
tubules; retraction of hepatopancreatic tubules; reduction of R and F cells;
sloughing cells into the hepatopancreatic tubule lumens were also recorded.
Keywords: Vibrio alginolyticus, histopathology, Penaeus vannamei.
Title: Histopathology of white leg shrimp (Penaeus vannamei) influenced with
SPO oil and Vibrio alginolyticus
TÓM TẮT
Chủng vi khuẩn Vibrio alginolyticus được sử dụng để gây cảm nhiễm cho tôm thu từ
2 thí nghiệm nuôi ở điều kiện trong nhà và ngoài trời với mật độ 10
7
CFU/ml. Tôm
thí nghiệm được cho ăn thức ăn bổ sung dầu SPO tỉ lệ 0%, 0,1%, 0,2%, 0,4% trong
vòng 30 ngày. Nghiên cứu được tiến hành để xác định đặc điểm mô học của tôm thẻ
chân trắng dưới tác động của dầu SPO và Vibrio alginolyticus. Nghiên cứu mô học
cơ quan gan tụy và cơ của tôm cảm nhiễm cho thấy: sự xâm nhập của vi khuẩn; hoại
tử tế bào cơ và gan tụy. Bên cạnh đó, hiện tượng tế bào máu tập trung xung quanh
ống gan tụy, teo tế bào gan tụy, giảm tế bào R và F, đồng thời tế bào gan tụy bị bong
tróc rơi vào lòng ống cũng được ghi nhận.
Từ khóa: Vibrio alginolyticus, mô bệnh học, tôm thẻ chân trắng
1. Giới thiệu
Ngành thủy sản Việt Nam trong hơn 10 năm qua đã có bước phát triển vượt bậc, trở
thành một trong những nước có tốc độ phát triển thủy sản nhanh nhất thế giới. Hiện
nay nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, nhà nước ta đã chú trọng
đầu tư để đẩy mạnh quy mô nuôi trồng thủy sản với các đối tượng nuôi có giá trị, góp

phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người nông dân. Cùng với cá tra
(Pangasius hypophthalmus) và tôm sú (Penaeus monodon), tôm thẻ chân trắng
2

(Penaeus vannamei ) hiện nay được xem là đối tượng xuất khẩu được chú trọng của
ngành nuôi trồng thủy sản nước ta. Trong năm 2012, xuất khẩu ngành hàng này đạt
6,09 tỉ USD chiếm tỷ trọng 5,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu tất cả các mặt hàng
của cả nước. Tôm thẻ chân trắng có nguồn gốc từ Nam Mỹ, hiện đang được nuôi
rộng rải ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, tôm thẻ chân trắng được đưa vào
nuôi thử nghiệm vào năm 2001. Năm 2002, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng của cả
nước là 1.710 ha đến năm 2013 tăng lên tới 66.000 ha.
Cùng với sự gia tăng về diện tích và sản lượng, ngành nuôi tôm thẻ chân trắng ở
nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức như kỹ thuật nuôi còn hạn chế, dịch
bệnh, môi trường nuôi ô nhiễm, Đặc biệt là vấn đề dịch bệnh gây thiệt hại to lớn
cho người nuôi tôm. Đứng trước tình hình đó, song song với việc phòng và trị bệnh
do vi khuẩn, virus gây ra trên tôm nuôi nhiều nhà sản xuất đã nghiên cứu ra một số
chất kích thích miễn dịch nhằm cải thiện tỉ lệ sống của tôm khi bị nhiễm khuẩn. Dầu
SPO là một loại dầu tăng cường hệ thống miễn dịch đang được nghiên cứu và thử
nghiệm. Một trong những bước của quá trình thử nghiệm, nghiên cứu về “ Đặc điểm
mô cơ và gan tụy tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) dưới tác động của của
Vibrio alginolyticus và dầu SPO ” cần được thực hiện.
2. Vật liệu và phương pháp
2.1 Vật liệu nghiên cứu
Tôm thẻ chân trắng có kích cỡ khoảng 3-5g/con được thu từ 2 thí nghiệm nuôi ở điều
kiện trong nhà và ngoài trời sau khi cho ăn dầu SPO với tỉ lệ lần lượt là 0%, 0,1%,
0,2%, 0,4% dầu trong 30 ngày.
Chủng vi khuẩn Vibrio alginolyticus từ bộ sưu tập của Khoa Thủy sản trường Đại
học Cần Thơ.
Dầu SPO là loại dầu đang được nghiên cứu về khả năng tăng hệ thống miễn dịch của
công ty Pharmaq.

2.2 Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm cảm nhiễm chủng Vibrio alginolyticus
Sau 30 ngày cho ăn dầu SPO, tôm được cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio alginolyticus
bằng phương pháp tiêm vào cơ với mật độ vi khuẩn Vibrio alginolyticus 10
7
CFU/ml.
Nghiên cứu bao gồm 2 thí nghiệm chính được trình bày chi tiết ở Bảng. Mỗi thí
nghiệm bao gồm 5 nghiệm thức, trong đó nghiệm thức 1 (0% dầu SPO), nghiệm thức
2 (0,1% dầu SPO), nghiệm thức 3 (0,2% dầu SPO), nghiệm thức 4 (0,4% dầu SPO)
và nghiệm thức 5 (nghiệm thức đối chứng không cho ăn dầu SPO và được tiêm nước
muối sinh lý). Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên với 2 lần lặp lại. Mật độ bố trí thí
nghiệm là 10 con/bể. Tôm thí nghiệm được tiêm ở đốt bụng thứ 4 (30 µl/con), thời
gian thí nghiệm trong 7 ngày kể từ ngày tiêm. Trong quá trình thí nghiệm cho tôm ăn
thức ăn công nghiệp theo nhu cầu với điều kiện chăm sóc và quản lý tôm trong các
3

bể là như nhau và không thay nước. Các dấu hiệu hoạt động của tôm và tỉ lệ chết
được ghi nhận trong lại thời gian 7 ngày thí nghiệm.
Bảng Thí nghiệm cảm nhiễm chủng Vibrio alginolyticus với tôm cho ăn dầu SPO
trong 30 ngày và nuôi trong nhà và ngoài trời
Điều kiện
Trong nhà/Ngoài trời
Nghiệm thức
NT1
NT2
NT3
NT4
ĐC(-)
Tiêm chủng vi khuẩn
Vibrio alginolyticus (30

µl/con)
10
7
CFU/ml

10
7
CFU/ml

10
7
CFU/ml

10
7
CFU/ml

NaCl
0,85%
Hàm lượng dầu SPO trong
1000 (g) thức ăn
0 %
0,1 %
0,2 %
0,4 %
0 %
Số lần lập lại
2
2
2

2
2
Số con
10
10
10
10
10
Thu và xử lý mẫu
Mẫu tôm được thu là những con vừa mới chết hoặc rất yếu, lờ đờ tại các thời điểm
ngày 0, ngày 1, ngày 2, ngày 3, ngày 4, ngày 5 và ngày 7 (ngày kết thúc thí nghiệm).
Phương pháp phân tích mô học
Mẫu tôm được cố định trong dung dịch Davidson trong 24 giờ sau đó chuyển sang
cồn 70
0
. Qui trình phân tích mô học bao gồm các bước: Mẫu được làm mất nước rồi
đúc khối với parafin, tiếp theo là cắt lát mẫu (độ dày 4-8 µm). Mẫu được nhuộm với
các thuốc nhuộm Hematoxylin, Eosin. Sau khi nhuộm mẫu được gắn lên tiêu bản và
đọc kết quả bằng kính hiển vi quang học (Lightner, 1996).
3. Kết quả và thảo luận
Các loài động vật thủy sản nuôi nước lợ và mặn đều có thể bị nhiễm và chịu tác hại
của bệnh vi khuẩn Vibriosis. Trong nhóm Vibrio spp gây bệnh ở động vật thủy sản
thường gặp một số loài điển hình như: Vibrio alginolyticus, V. harveyi, V.
vulnificus, V. parahaemolyticus, V. pelagius, V. anguilarum Trong nghiên cứu này,
những biến đổi ở mức độ vi thể của 2 cơ quan cơ và gan tụy tôm thẻ chân trắng
nhiễm khuẩn Vibrio alginolyticus được ghi nhận như sau:


4


3.1 Biến đổi cấu trúc mô học ở cơ
Mô cơ là loại mô được liên kết chặt chẽ, có chức năng là vận động và bảo vệ cơ quan
bên trong (Lightner et al., 1996). Trên tiêu bản mô tôm đối chứng của các nghiệm
thức trong nhà và ngoài trời, mô cơ không có sự biến đổi với sự phân bố đều của các
sợi cơ (Hình 1). Như vậy dầu SPO không gây tác động đến cơ tôm thẻ chân trắng ăn
thức ăn bổ sung dầu SPO.




Hình 1: Mô cơ tôm đối chứng (H&E, 40X và 20X) mô cơ của tôm đối chứng với
sự phân bố đều của các sợi cơ lần lượt ở 2 điều kiện trong nhà (A) và ngoài trời (B).
Biến đổi mô cơ ở thí nghiệm tôm nuôi trong nhà:
Khi quan sát những tiêu bản mô của tôm chết hoặc rất yếu do nhiễm khuẩn thì thấy:
ở NT1 các sợi cơ có hiện tượng bị tách rời và đứt liên kiết giữa các bó cơ thành từng
miếng mỏng. NT2 liên kết giữa tế bào cơ bị lỏng ra, kèm theo đó là sự tập trung của
tế bào máu, ngoài ra còn bắt gặp các mảnh cơ bị bong tróc và tập trung lại thành đám
(Hình 2C và 2D). NT3 và NT4 nghiệm thức tôm được cho ăn thức ăn có bổ sung dầu
SPO tỉ lệ 0,2% và 0,4% ghi nhận mô cơ không có sự biến đổi, điều này chứng tỏ ở
liều lượng này vi khuẩn đã không gây tác động đến cơ tôm trong quá trình cảm
nhiễm.
Biến đổi mô cơ ở thí nghiệm tôm nuôi ngoài trời:
Trên NT1 NT2 và NT4 các sợi cơ cũng có hiện tượng bị tách rời và đứt liên kiết giữa
các bó cơ Hình (3A và 3C và 3D), ở những tiêu bản bị nhiễm nặng hơn của NT1 còn
thấy hiện tượng cơ bị hoại tử (Hình 3B). Kết quả nghiên cứu của Zhou và ctv (2012)
trên tôm thẻ nhiễm Vibrio cơ tôm cũng có dấu hiệu hoại tử. NT3 cũng giống như
điều kiện trong nhà mô cơ không xảy ra biến đổi (Hình 3D).
Từ kết quả trên ta nhận thấy nhiều biến đổi mô học ở thí nghiệm trong nhà điều xảy
ra ở thí nghiệm ngoài trời. Bên cạnh đó, cũng có khác biệt xảy ra ở NT1 và NT4 ở
nghiệm thức trong ngoài nhà bị hoại tử và hóa lỏng bó cơ nhưng không xảy ra ở

nghiệm thức trong nhà.

A
B
5

















Hình 2: Tiêu bản mô cơ tôm nhiễm khuẩn ở nghiệm thức trong nhà (H&E, 40X
và 20X) A và B: liên kết giữa các bó cơ trở nên lỏng lẻo, bó cơ bị đứt các liên kết
(mũi tên); C: liên kết bó cơ bị lỏng và sự tập trung của tế bào máu (mũi tên); D:
mảnh cơ bị bong tróc và tập trung lại (vòng tròn); E và F: mô cơ nghiệm thức 3 và
nghiệm thức 4 không có biến đổi cấu trúc





E
C
F
D
A
B
6















Hình 3: Mô cơ tôm nhiễm khuẩn ở nghiệm thức ngoài trời (H&E, 40X và 20X)
A và C: đứt liên kết giữa các bó cơ (mũi tên); B: cơ bị hoại tử (mũi tên); D: Bó cơ bị
hóa lỏng; E: mô cơ nghiệm thức 3 không có biến đổi cấu trúc.
3.2 Biến đổi mô học ở khối gan tụy
Đặng Thị Hoàng Oanh và ctv (2008) ghi nhận gan tụy, cơ quan lympho và mang là 3
cơ quan thường thấy xuất hiện những tổn thương do vi khuẩn gây nên trong đó mang
là cơ quan bị tổn thương ít nhất còn gan tụy là cơ quan bị tổn thương nhiều nhất.

Gan tụy tôm là dạng gồm nhiều ống gan tụy kết hợp lại với nhau (Bell and Lightner,
1988; Caceci et al., 1988; Lightner et at., 1996; Bhavan and Geraldine, 2000). Với 4
loại tế bào chính: tế bào E (tế bào phôi); tế bào B (tế bào dự trữ); tế bào R là tế bào
chất đặc trưng chứa nhiều không bào nhỏ và giọt lipid; tế bào F (tế bào xơ) thì ưa
kiềm (Jui-Pin Wu et al., 2008).
C
B
A
E
D
7

Ảnh hưởng của vi khuẩn nói chung và của Vibrio lên ống gan tụy nói riêng đã được
nghiên cứu trên nhiều loài thủy sản khác nhau. Robertson et al., 1998 trong nghiên
cứu cảm nhiễm Vibrio harveyi ở ấu trùng tôm thẻ chân trắng đã tìm thấy sự hiện diện
của Vibrio harveyi trên tất cả khối gan tụy của ấu trùng nhiễm bệnh, điều này cũng
phù hợp với nghiên cứu trước đó của Chen (1989) có đến 84,6% vi khuẩn Vibrio tồn
tại trong khối gan tụy của tôm. Kết quả từ những biến đổi mô học cũng phù hợp với
kết quả nghiên cứu này.
Biến đổi mô gan tụy ở thí nghiệm tôm nuôi trong nhà:
Nghiệm thức đối chứng có cấu trúc mô bình thường với ống gan tụy cấu trúc hình
sao và sự có mặt đầy đủ của các loại tế bào (Hình 4A). NT1 sau khi tiêm vi khuẩn, so
sánh kết quả mô bệnh học giữa đối chứng và tôm chết do nhiễm khuẩn ta thấy gan
tụy ở những con tôm chết có hiện tượng mất cấu trúc, tế bào F, E và R bị biến mất
hoàn toàn, giảm tế bào B kèm theo đó là ống gan tụy bị teo (Hình 4B). Ở NT2 quan
sát tiêu bản mô tôm nhiễm khuẩn bắt gặp tế bào bị bong tróc ra và rơi vào lòng ống,
một số tế bào máu tập trung xung quanh ống gan tụy, ngoài ra còn có sự xuất hiện
dày đặc của tế bào E (Hình 4C và 4D), đây có thể là do sự đáp ứng miễn dịch của cơ
thể khi có tác động xâm nhập từ bên ngoài, điều này cũng trùng hợp với kết luận của
Nagesh et al., 1999. NT3 ống gan tụy bị mất cấu trúc hình sao hoàn toàn, không còn

thấy sự hiện diện của 3 loại tế bào là F và R và B. Bên cạnh đó là ống gan tụy bị teo
nhỏ chỉ còn lại sự hiện diện của tế bào B và R trong ống gan (Hình 4E). Trên NT4
tương tự như trên nghệm thức 2 cũng có hiện tượng tế bào máu tập trung xung quanh
ống gan tụy và mất tế bào F, R và B Hình 4F).
Biến đổi mô gan tụy ở thí nghiệm tôm nuôi ngoài trời:
NT1 trên tiêu bản mô nhiễm khuẩn cũng có các hiện tượng ống gan tụy bị mất cấu
trúc hình sao, các tế bào E, F và R trong ống bị giảm đến mất chỉ còn hiện diện của tế
bào B (Hình 5A). Trên NT2 tế bào E có hiện tượng xuất hiện dày đặc, bên cạnh đó là
ống gan tụy bị mất cấu trúc, dẫn đến ống gan tụy bị teo (Hình 5B). Quan sát tiêu bản
mô NT3 ta thấy các ống gan tụy bị teo nhỏ, bên cạnh đó là mất sự hiện diện của tế
bào E và F, chỉ còn thấy tế bào B và R. NT4 trên mẫu tôm nhiễm khuẩn bắt gặp một
số mẫu có những biến đổi đặc trưng do nhóm Vibrio sp gây ra là hiện tượng gan tụy
bị hoại tử, dẫn đến ống gan tụy bị teo nhỏ lại, một số bị nhiễm nặng ống gan tụy
hoàn toàn bi phá hủy, không còn rõ các tế bào trong ống gan (Hình 5D và 5E).
Qua những kết quả phân tích mô học trên tôm nhiễm khuẩn ở 2 thí nghiệm trong nhà
và ngoài trời được ghi nhận. NT1 và NT2 của 2 thí nghiệm những biến đổi mô học
những biến đổi mô học là giống nhau với các dấu hiệu đặc trưng: teo ống gan, tăng tế
bào E và giảm tế bào. Tuy nhiên có sự khác biệt trên NT3 và NT4, ở NT3 và NT4
của thí nghiệm trong nhà những biến đổi ở mức độ nhẹ như: các tế bào B, R giảm
dần đến mất, tế bào máu tập trung xung quanh ống gan. NT3 và NT4 của thí nghiệm
8

ngoài trời có những biến đổi ở mức độ nặng hơn tế bào hoại tử nặng và mất cấu trúc
tế bào hoàn toàn.
Trong quá suốt trình cảm nhiễm tôm ăn khỏe và cho ăn theo nhu cầu của tôm, điều
này chứng tỏ những biến đổi trên mô cơ và gan tụy của tôm là do vi khuẩn gây ra
không phải do thiếu thức ăn mà bị biến đổi.
Mặc dù trong nghiên cứu này không có sự khác biệt nhiều về những biến đổi mô học
giữa 2 điều kiện thí nghiệm trong nhà và ngoài trời nhưng nhiệt độ có khả năng làm
chậm hoặc tăng cường độc lực của vi khuẩn Vibrio alginolyticus (Cheng và ctv,

2005), vì vậy trong nghiên cứu cảm nhiễm với Vibrio alginolyticus cần phải chú ý sự
thay đổi của điều kiện môi trường.
























Hình 4: Mô gan tụy đối chứng và nhiễm khuẩn ở nghiệm thức trong nhà (H&E, 40X và
20X) A: mô khỏe với sự hiện diện của các tế bào và cấu trúc hình sao; B: gan tụy tôm có
hiện tương teo ống và mất tế bào F và R; C: hiện tượng tế bào máu tập trung xung quanh
thành ống (mũi tên đen) và sự tăng lên của tế bào E (mũi tên xanh); D: tế bào bị bong tróc ra

và rơi vào lòng ống (mũi tên đen) và ống gan tụy bị teo (mũi tên xanh); E: tất cả các ống gan
đều bị mất cấu trúc hình sao chỉ còn lại sự hiện diện của tế bào E; F: tế bào máu tập trung
xung quanh thành ống (mũi tên đen) và mất 3 loại tế bào F, R và B.

C
E
D
A
B
F
9
















Hình 5: Mô gan tụy nhiễm khuẩn ở nghiệm thức ngoài trời (H&E, 40X và 20X) A: ống
gan tụy bị mất cấu trúc hình sao, các tế bào bị giảm đến mất chỉ còn hiện diện của tế bào B
(mũi tên); B: tế bào E tăng; C: ống gan tụy bị teo nhỏ (mũi tên đen) và ống gan tụy chỉ còn 2

loại tế bào là B và R (mũi tên xanh chỉ tế bào B), (mũi tên trắng tế bào nhỏ hơn là tế bào R;
D: gan tụy bị hoại tử; E: Ống gan tụy bị teo nhỏ không thấy sự hiện diện của 4 loại tế bào.
4. Kết luận
Trong nghiên cứu này, sự tác động của vi khuẩn Vibrio alginolyticus đã gây những
biến đổi mô học trên cơ và khối gan tụy tôm ở những mức độ khác nhau. Ở cơ quan
gan tụy, biến đổi ghi nhận ở mức độ nhẹ gây mất tế bào, ở mức độ nặng cấu trúc ống
gan tụy hoàn toàn phá hủy. Đối với cơ tôm thí nghiệm, những biến đổi mô học được
ghi nhận bao gồm: đứt liên kết các bó cơ, bó cơ bị hóa lỏng, hoại tử một số vùng cơ.
Các tác động biến đổi mô cơ là do Vibrio alginolyticus, không phải do dầu SPO.

D
C
B
E
A
10

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bell, T.A., Lightner, D.V., 1988. A Handbook of Normal Penaeid Shrimp
Histology. World Aquaculture Society, Baton Rouge, LA.
2. Bhavan, P.S., Geraldine, P., 2000. Histopathology of the hepatopancreas and
gills of the prawn Macrobrachium malcolmsonii exposed to endosulfan.
Aquat. Toxicol. 50, 331–339.
3. Winton Cheng, Long-Uong Wang, Jiann- Chu Chen, 2005. Effect of water
temperature on the immune response of white leg shrimp Litopenaeus
vannamei to Vibrio alginolyticus. Aquaculture 250: 592-601.
4. Chen SN, Chang PS, Kou GH (1989). Observation on pathogenicity, and
epizootiology of Penaeus monodon baculovirus (MBV) in culture shimps in
Taiwan. Fish patho 24: 189-195.
5. Đặng Thị Hoàng Oanh, Phạm Trần Nguyên Thảo và Nguyễn Thanh Phương,

2008. Đặc điểm mô bệnh học tôm sú (Pennaeus monodon) có dấu hiệu bệnh
phân trắng nuôi ở một số tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí khoa học
trường Đại học Cần Thơ 1: 181-186.
6. Jui-Pin Wu, Hon-Cheng Chen , Da-Ji Huang, 2008. Histopathological and
biochemical evidence of hepatopancreatic toxicity caused by cadmium and
zinc in the white shrimp, Penaeus vannamei. Chemosphere 73: 1019–1026.
7. Junfang Zhou; Wenhong Fang; Xianle Yang; Shuai Zhou; Linlin Hu;
Xincang Li; Xinyong Qi; Hang Su; Layue Xie (2012). A nonluminescent and
highly virulent Vibrio harveyi strain is associated with "bacterial white
taildisease" of Litopenaeus vannamei shrimp. PLoS ONE 7(2): e29961.
doi:10.1371/journal.pone.0029961.
8. Lightner, D.V., Hasson, K.W., White, B.L., Redman, R.M., 1996. Chronic
toxicity and histopathological studies with Benlate, a commercial grade of
benomyl, in Penaeus vannamei (Crustacea: Decapoda). Aquat. Toxicol. 34,
105–118.
9. Lighter DV (1996). A Handbook of Pathology and Diagnotic Procedures fo
Diseases of Penaeid Shrimp. Tucson, AZ: Department of Veterinary Science,
University of Arizona.
11

10. Nagesh, T.S., N. Jayabalan, C.V. Mohan, T.S. Annappaswamy and T.M.
Anil, 1999. Survival and histological alterations in juvenile tiger shrimp
exposed to saponin. Aquacult. Int., 7: 159-167.
11. P. A. W. Robertson, J. Calderon, L. Carera, J. R. Stark, M. Zhermant, B.
Austin (1998) Experimental Vibrio harveyi infections in Penaeus vannamei
larvae. Disease of aquatic organisms, pp 151-155.
12. Prayitno SB, Latchford JW (1995) Experimental infections of crustaceans
witt luminous bacteria related to photobacterium and Vibrio. Effect of salinity
and PH on infectionsity Aquaculture 132: 105-11.


×