Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Ý nghĩa và vai trò của báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong các doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.93 KB, 29 trang )



1



Luận văn
Ý nghĩa và vai trò của báo cáo lưu
chuyển tiền tệ trong các doanh
nghiệp Việt Nam


2
mở đầu
Những năm gần đây, trước xu hướng hội nhập toàn cầu nền kinh tế thế
giới và những yêu cầu của kinh tế thị trường, Việt Nam đang cố gắng vươn lên
trong mọi lĩnh vực. Hội nhập kinh tế nói chung và hội nhập về dịch vụ kế toán,
kiểm toán nói riêng là xu thế tất yếu, là yêu cầu khách quan trong bối cảnh phát
triển kinh tế hiện nay. Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này.
Trong xu thế hội nhập ấy, kể toán là một công cụ quan trọng của hệ công
cụ quản lý kinh tế nói chung và quản lý doanh nghiệp nói riêng. Hệ thống công
cụ quan trọng bậc nhất này cũng phải được đổi mới cho phù hợp. Chế độ kết
toán được ban hành theo quyết định 1141TC/QĐ/CĐKT ngày 1.11.1995 cho tới
nay về cơ bản là phù hợp với cơ chể quản lý mới. Tuy nhiên, hệ thống kế toán
này vẫn còn nhiều tồn tại, các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán chưa được quy
định rõ ràng. Do đó, yêu cầu cấp bách đặt ra cho chế độ kế toán Việt Nam hiện
nay là phải điều chỉnh một mặt phù hợp với cơ chế kinh tế trong nước, mặt khác
ngày càng phải tiến gần tới các chuẩn mực kế toán quốc tế.
Chuẩn mực về kế toán số 7 (IAS7) (Báo cáo lưu chuyển tiền tệ) là một
trong những báo cáo tài chính không thể thiếu đối với các doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc lập BCLCTT chưa được quy định bắt


buộc trong hệ thống kế toán Việt Nam. Cùng với quá trình hoàn thiện dần hệ
thống kế toán cho phù hợp với các thông lệ kế toán chung trên thế giới, chúng ta
cũng quan tâm nhiều hơn đến báo cáo tài chính quan trọng này. Tuy nhiên trong
thực tế có rất ít doanh nghiệp quan tâm đến nó hoặc do sự khó lập hay chưa
nhận thức được tầm quan trọng của nó trong hệ thống báo cáo tài chính nói
chung và cụ thể là trong công tác quản lý doanh nghiệp. Vì vậy, trong chuyên đề


3
cuối khoá của mình em đã mạnh dạn chọn đề tài: “ý nghĩa và vai trò của báo
cáo lưu chuyển tiền tệ trong các doanh nghiệp việt nam”.
BCLCTT là một vấn đề đã được nhiều tác giả để cập đến. Tuy nhiên, em
muốn đưa ra những dẫn chứng quan trọng về vai trò của BCLCTT và sự cần
thiết phải lập BCLCTT trong các doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu gồm ba
phần:
I- Nội dung của BCLCTT
II- Yêu cầu phải lập BCLCTT trong các doanh nghiệp Việt Nam.
III- Một số hướng suy nghĩ để đưa BCLCTT áp dụng trong các doanh
nghiệp Việt Nam


nội dung
I. Nội dung của bclctt
1.Giới thiệu về BCLCTT
BCLCTT là một báo cáo tài chính phản ánh các khoản thu và chi tiền
trong kỳ của doanh nghiệp theo từng hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và
hoạt động tài chính.
Mục đích của BCLCTT nhằm trình bày cho người sử dụng biết luồng tiền
của doanh nghiệp được sinh ra bằng cách nào và doanh nghiệp đã sử dụng chúng
ra sao trong kỳ báo cáo. Mặt khác, đây cũng là công cụ hữu ích trong việc kiểm



4
tra lại tính chính xác của đánh giá trước kia về các luồng tiền trong tương lai và
trong việc kiểm tra mối quan hệ giữa khả năng sinh lời của doanh nghiệp với các
ảnh hưởng của thay đổi giá cả dựa trên các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh
mà doanh ngiệp đặt ra. Điều này luôn cần thiết cho mọi loại hình doanh ngiệp.
2. Nội dung và phương pháp lập BCLCTT
Có 2 phương pháp để lập BCLCTT: phương pháp trực tiếp và phương
pháp gián tiếp. Mỗi phương pháp đều có những căn cứ, nguyên tắc, ưu điểm,
nhược điểm riêng. Doanh nghiệp trình bày BCLCTT tuỳ theo cách thức nào cho
phù hợp với đặc điểm kinh doanh của mình. Điều này sẽ cung cấp các thông tin
cho phép những người sử dụng đánh giá được ảnh hưởng của các nội dung trong
BCLCTT đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, cũng như đánh giá mối liên
hệ giữa các nội dung, các hoạt động trong doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, dù sử dụng phương pháp nào BCLCTT cũng phải đảm bảo 3
nội dung sau:
_ Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh
_ Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư
_ Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh:
Các luồng tiền từ hoạt động kinh doanh chủ yếu bắt nguồn từ các hoạt
động sinh lời cơ bản của doanh nghiệp. Bởi vậy, nhìn chung luồng tiền này là kết
quả của các giao dịch và sự kiện có tham gia vào việc xác định lãi hoặc lỗ ròng.
Các luồng từ các hoạt động kinh doanh thường có: tiền nhận được từ việc bán
hàng hay cung cấp dịch vụ; tiền nhận được từ bản quyền, phí, hoa hồng và các


5
doanh thu khác; tiền trả cho người lao động; tiền trả hay khoản hoàn thuế thu

nhập (trừ trường hợp chúng có thể được xác định cụ thể là hoạt động đầu tư hay
tài chính); tiền nhận hay trả từ các hợp đồng dùng cho các mục đích mua bán
hay thương mai; các giao dịch mua bán máy móc hay mua bán các trái phiếu cho
mục đich thương mại cũng được xem là các luồng tiền từ hoạt động kinh
doanh.
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh phản ánh toàn bộ dòng tiền
thu vào và chi ra liền trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể sử dụng một trong hai phương pháp:
Phương pháp gián tiếp: dựa trên sự phù hợp giữa lợi nhuận ròng với các
dòng tiền mặt khác của hoạt động kinh doanh. Bắt đầu từ lợi nhuận ròng, các
thay đổi trong kỳ về hàng tồn kho và các khoản phải thu, phải trả từ hoạt động
kinh doanh và các khoản mục không bằng tiền như khấu hao, dự phòng, thuế dời
lại, lãi hay lỗ, khoản thực hiện do chuyển đổi ngoại tệ,lợi nhuận chưa phân phối
của các công ty liên kết, các khoản lợi tức cổ phần kế tiếp đó là những tác
động của điều chỉnh khoản bằng tiền mặt đối với lợi nhuận ròng được tính toán
đến.
Phương pháp trực tiếp: trình bày tổng các khoản tiền thu và tổng các
khoản tiền chi. Dòng tiền mặt của hoạt động kinh doanh thể hiện sự khác nhau
giữa các khoản thu, chi tiền mặt như là các khoản thu từ bán hàng, lợi tức nhận
được và các khoản chi thanh toán lương, chi phí hàng hoá dịch vụ mua vào, lãi
tiền vay và thuế. Phương pháp trực tiếp cung cấp các thông tin có thể hữu dụng
trong việc dự đoán các luồng tiền trong tương lai và các thông tin này không có
được từ phương pháp gián tiếp. Trong bài viết của TS. Đoàn Xuân Tiến - Giảng
viên trường Đại học Tài chính kế toán Hà Nội về ''chuẩn mực Kiểm toán số 7 và


6
việc vận dụng vào Việt Nam", chuyên mục nghiên cứu trao đổi của tạp chí Kế
toán có đưa ra hướng dẫn thêm về phương pháp lập BCLCTT.
Đối với các luồng tiền trong doanh nghiệp có thể lập theo phương pháp

trực tiếp hoặc phương pháp gián tiếp. Trong đó phương pháp trực tiếp có 2 cách
lập là:
_ Lập bằng cách điều chỉnh doanh thu, sự biến động của các khoản phải
thu, giá vốn hàng bán, sự biến động của các khoản phải trả, hàng tồn kho và các
khoản phải trả là tiền để xác định luồng tiền vào ra. Cách lập này còn khá mới
mẻ.
_ Lập thep cách dựa vào các ghi chép chi tiết của kế toán thu, chu tiền
mặt và tiền gửi ngân hàng. Cách này cũng tất khó thực hiện.
Nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam được khuyến khích sử dụng
phương pháp trực tiếp cho việc báo các các luồng tiền từ hoạt động kinh doanh.
Vì các khoản mục trong báo cáo theo phương pháp trực tiếp được lập một cách
chi tiết rõ ràng hơn so với báo cáo theo phương pháp gián tiếp, và nó phù hợp
với mọi loại hình, quy mô và hình thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt
Nam.
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư:
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư phản ánh toàn bộ dòng tiền thu
vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt
động đầu tư bao gồm hai phần:
_ Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân doanh nghiệp như hoạt
động xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định.


7
_ Đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức góp vốn kinh doanh, đầu tư
chứng khoán, cho vay không phân biệt đầu tư ngắn hạn hay dài hạn.
Tương ứng với các hoạt động đầu tư, dòng tiền lưu chuyển phản ánh từ
hoạt động đầu tư gồm các khoản:
_ Các khoản chi trả tiền mua nhà xưởng, máy móc, thiết bị, tài sản vô
hình, các tài sản dài hạn khác liên quan đến các chi phí tăng đã được vốn hoá và
các nhà xưởng máy móc thiết bị tự tạo; các khoản tiền nhận từ việc bán các nhà

xưởng, máy móc thiết bị, tài sản vô hình và các tài sản dài hạn khác.
_ Trả tiền để mua cổ phần hay các công cụ nợ của các doanh nghiệp khác
và lợi tức trong các liên doanh; tiền thu từ việc bán lại cổ phần hay các công cụ
nợ từ các doanh nghiệp khác và lợi tức trong các liên doanh.
_ Tiền trả cho các hợp đồng trong tương lai, tiền thu từ các hoạt động
trong tương lai, các hợp đồng có kỳ hạn
Lưu chuyển tiền tệ từ các hoạt động tài chính
Nếu việc tách biệt các luồng tiền phát sinh từ các hoạt động đầu tư thể
hiện phạm vi mà các chi phí đã được thực hiện cho các nguồn dự định sẽ tạo ra
lợi nhuận và các luồng tiền trong tương lai, thì việc tách biệt các luồng tiền từ
các hoạt động tài chính sẽ rất hữu dụng trong việc dự đoán các khoản mà những
người cung cấp vốn cho doanh nghiệp đòi hỏi trong các luồng tiền tương lai. Các
luồng tiền phát sinh từ các hoạt động tài chính bao gồm: tiền ròng thu được từ
việc phát hành cổ phiếu hay các công cụ về vốn khác; tiền trả cho các chủ sở
hữu để mua hay thanh toán các cổ phiếu của doanh nghiệp; tiền ròng thu được từ
việc phát hành trái phiếu, nợ, thương phiếu, tính phiếu, thế chấp và các khoản
vay ngắn hạn hay dài hạn khác; tiền trả cho các khoản đã vay


8
Doanh nghiệp lập báo cáo riêng biệt các loại chính của tổng số tiền thu và
tổng số tiền chi phát sinh từ các hoạt động đầu tư, tài chinh. Trong doanh
nghiệp, ngoài các hoạt động chính phát sinh từ hoạt động kinh doanh, đầu tư hay
tài chính, đôi khi các luồng tiền phát sinh liên quan đến các khoản mục bất
thường, hay những trường hợp được xem là đặc biệt như các luồng tiền có nguồn
gốc từ ngoại tệ, các vấn để phát sinh từ lãi vay và cổ tức, vấn đề góp vốn vào
các xí nghiệp và các hoạt động mua bán cổ phần giữa các xí nghiệp, các cơ sở
kinh doanh khác.
Các luồng tiền liên quan đến các khoản mục này được thuyết trình riêng
biệt với các khoản mục phát sinh từ các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư

hay hoạt động tài chính trong BCLCTT nhằm giúp cho người sử dụng có thể
hiểu được bản chất và ảnh hưởng của chúng tới luồng tiền của các doanh nghiệp
hiện tại và trong tương lai.
Ngoài các thông tin trên bắt buộc phải có trong mọi BCLCTT thì các
doanh nghiệp cũng nên cung cấp thêm những thông tin khác mặc dù không mang
tính chất bắt buộc. Những việc bổ xung thuyết trình các thông tin này sẽ giúp
cho người sử dụng báo cáo tài chính đánh giá được dễ dàng tình hình tài chính
tiền tệ của doanh nghiệp, cũng như đáp ứng mục đích cần quan tâm. Ví dụ thông
tin về tổng số các luồng tiền phát sinh từ việc đầu tư để gia tăng khả năng,
phương tiện sản xuất kinh doanh; đầu tư để duy trì khả năng, phương tiện sản
xuất kinh doanh sẽ giúp cho những người sử dụng báo cáo biết được là doanh
nghiệp đã có chính sách đầu tư để duy trì hoặc gia tăng sản xuất kinh doanh có
phù hợp hay không. Từ đó biết rõ hơn mối quan hệ giữa các luồng tiền tổng thể
trong doanh nghiệp và các luồng tiền của từng thành phần cấu thành trong
doanh nghiệp. Nội dung được trình bày theo các biểu mẫu của chuẩn mực kế
toán IAS7:


9
BCLCTT theo phương pháp trực tiếp:
I. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh (A-B)
A.Tổng thu = (1)+(2)+(3)
1. Tiền thu từ việc bán hàng
2. Tiền thu từ các khoản nợ phải thu
3. Tiền thu từ các khoản khác
B. Tổng chi =(1)+(2)+(3)+(4)+(5)
1,Tiền đã trả cho người bán
2.Tiền đã trả cho công nhân viên
3.Tiền đã nộp thuế và các khoản khác cho nhà nước
4.Tiền đã trả cho các khoản nợ khác

5.Tiền đã trả cho các khoản khác
II. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư (A-B)
A. Tổng số tiền thu vào từ các hoạt động đầu tư (=(1)+(2)+(3))
1. Tiền thu hồi các khoản đầu tư vào đơn vị khác
2. Tiền thu từ lãi các khoản đầu từ vào đơn vị khác (lợi tức, cổ tức v.v )
3. Tiền thu do bán TSCĐ
B. Tổng số tiền chi ra từ các hoạt động đầu tư (=(1)+(2)+(3))


10
1.Tiền đầu tư vào các đơn vị khác
2.Tiền mua TSCĐ
3.Tiền chi cho hoạt động thanh lý nhượng bán TSCĐ
III. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính (A-B)
A. Tổng số tiền thu từ hoạt động tài chính (=(1)+(2)+(3))
1. Tiền thu do đi vay
2. Tiền thu do các chủ sở hữu đóng góp
3. Tiền thu từ lãi tiền gửi, thu từ việc phát hành cổ phiếu, thu từ các
khoản vay dài hạn
B. Tổng số tiền chi từ hoạt động tài chính (=(1)+(2)+(3))
1. Tiền đã trả nợ vay
2. Tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp
3. Trả nợ thuê tài chính
IV.Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ (=(I)+(II)+(III))
BCLCTT theo phương pháp gián tiếp
I. Luồng tiền từ hoạt động kinh doanh
A. Lợi nhuận trước thuế
B. Điều chỉnh cho:



11
C. Cộng các khoản
1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ của các tài khoản
phản ánh dự phòng
2. Khấu hao TSCĐ
3. Lỗ do bán TSCĐ
4. Lỗ do đầu tư vào đơn vị khác
5. Lỗ do đánh giá lại tài sản và chuyển đổi tiền tệ
C. Trừ các khoản
1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn số dư đầu kỳ của các tài
khoản phản ánh dự phòng
2. Thu lãi tiền gửi
3. Lãi do bán TSCĐ
4. Lãi do đầu tư vào đơn vị khác
5. Lãi do đánh giá lại TSCĐ
D. Lợi nhuận kinh doanh trước những thay đổi của vốn lưu động (=A+B-C)
E. Cộng (+)
1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của các khoản phải thu
2. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của hàng tồn kho
3. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của các khoản phải trả


12
4. Tiền thu từ các khoản khác
F. Trừ (-)
1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của các khoản phải thu
2. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của hàng tồn kho
3. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của các khoản phải trả
4. Tiền chi từ các khoản khác
G. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh (=D+E+F)

II. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư (A-B)
A. Tổng số tiền thu vào từ hoạt động đầu tư (=(1)+(2)+(3))
1. Tiền thu hồi các khoản đầu tư vào đơn vị khác
2. Tiền thu từ lãi các khoản đầu tư vào đơn vị khác (lợi tức, cổ tức )
3. Tiền thu do bán TSCĐ
B. Tổng số tiền chi ra từ hoạt động đầu tư (=(1)+(2)+(3))
1. Tiền đầu tư vào các đơn vị khác
2. Tiền mua TSCĐ
3. Tiền chi cho hoạt động thanh lý, nhượng bán TSCĐ
III. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính (A-B)
A. Tổng số tiền thu từ hoạt động tài chính


13
1. Tiền thu do đi vay
2. Tiền thu do các chủ sở hữu đóng góp
3. Tiền thu từ lãi tiền gửi, thu từ việc phát hành cổ phiếu, thu từ các
khoản vay dài hạn
B. Tổng số tiền chi từ hoạt động tài chính (=(1)+(2)+(3))
1. Tiền đã trả nợ vay
2. Tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
3. Trả nợ thuê tài chính
IV. Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ (=(I)+(II)+(III))
Có thể nói, nội dung của một BCLCTT đã nêu lên được rất nhiều vấn đề
trong một doanh nghiệp, đáp ứng được khá nhiều thông tin mà những người cần
quan tâm tới tình hình tài chính của doanh nghiệp có thể tìm thấy.

II. yêu cầu phải lập BCLCTT trong các doanh nghiệp Việt Nam
1. ý nghĩa thực tiễn của BCLCTT
Để thấy được việc lập BCLCTT là cần thiết, chúng ta phải thấy được vai

trò của nó. Vai trò của BCLCTT được thể hiện trên các mặt sau:
a) BCLCTT - một công cụ phân tích vốn bằng tiền


14
BCLCTT được lập ra là để phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng
tiền trong doanh nghiệp. Vì vậy BCLCTT phải được sử dụng trước hết như một
công cụ để phân tích vốn bằng tiền.
Vốn bằng tiền là một bộ phận tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp. Nó
tham gia vào hầu hết các hoạt động của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất
kinh doanh, vốn bằng tiền được sử dụng để đáp ứng nhu cầu về thanh toán các
khoản nợ của doanh nghiệp hoặc mua sắm vật tư, hàng hoá vừa là kết quả của
việc mua bán hoặc thu hồi các khoản nợ. Qua phân tích tình hình sử dụng vốn
bằng tiền, chúng ta có thể biết được chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Và
để tìm hiểu tình hình sử dụng vốn bằng tiền trong kỳ chúng ta có thể đánh giá
tình hình thanh toán với người bán, thanh toán với người mua, thanh toán với
ngân sách, tìm hiểu các khoản nợ quá hạn Việc đánh giá các khoản mục liên
quan đến các dòng tiền mặt sẽ giúp cho việc phân tích những gì đã xảy ra liên
quan đến tình hình sử dụng vốn tiền mặt trong kỳ. BCLCTT sẽ cung cấp cho ta
những thông tin đầy đủ về vấn đề này.
Một cách tổng quát, sự vận động của tiền mặt bao gồm hai mặt: tăng và
giảm hay nói cách khác là thu và chi. BCLCTT cung cấp những con số phản ánh
sự vận động của tiền. Thông tin cơ bản nhất mà chúng ta thu được từ BCLCTT
là lượng tiền tăng và giảm trong kỳ. Nhưng điều quan trọng hơn là thông qua
việc phân tích mối quan hệ giữa các con số, người quản lý biết được những
nguyên nhân, những biến động làm ảnh hưởng đến tình hình tăng, giảm vốn tiền
mặt đó. Thực tế thì sự tăng giảm tiền mặt của doanh nghiệp có thể do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn như tiền mặt tăng có thể là kết quả của việc
tiêu thụ sản phẩm hay việc thu được các khoản nợ hoặc cũng có thể là từ việc
bán các tài sản cố định Tương tự như vậy, tiền mặt giảm trong kỳ có thể là do

chi mua hàng, chi mua sắm các tài sản cố định hay trang trải các khoản nợ Mặt
khác, việc phân chia luồng tiền trên BCLCTT theo từng lĩnh vực hoạt động cũng


15
đem lại cho chúng ta những thông tin hữu ích. Nó cho biết mức đóng góp của
từng lĩnh vực hoạt động vào vốn bằng tiền của doanh nghiệp.
Đối với bất cứ doanh nghiệp nào thì việc phân tích chính xác về sự hình
thành và sử dụng vốn bằng tiền cũng rất quan trọng. Người quản lý cần phải nắm
được luồng tiền vào, ra của doanh nghiệp đã hợp lý hay chưa để có sự điều
chỉnh kịp thời, phù hợp. Thực tế, để phục vụ cho việc phân tích, người ta thường
thiết lập các tỷ số tiền mặt dựa trên mối quan hệ giữa các bộ phận, các khoản
mục của bản báo cáo. Chẳng hạn, chúng ta có thể thiết lập các tỷ số sau:
_ Nhóm tỷ số tiền mặt thể hiện mức đóng góp của từng dòng thu trong
tổng các dòng thu tiền mặt trong kỳ. Như đã nói ở trên, tiền mặt có thể thu được
từ 3 nguồn: từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.
Tỷ số tiền mặt được tính bằng luồng tiền thu được từ mỗi loại hình hoạt động
trên tổng luồng tiền thu được trong kỳ. Khi trình bày các tỷ số này qua các năm
chúng ta có thể nhận biết được sự thay đổi của vốn tiền mặt được tạo ra. Nếu
các khoản mục tạo ra tiền chủ yếu là do các hoạt động kinh doanh đem lại,
chẳng hạn như từ lợi nhuận ròng hay giảm các khoản phải thu thì đó là dấu hiệu
của một cơ chế quản lý tốt và người quản lý có thể an tâm về việc sử dụng vốn
tiền mặt trong kỳ đó. Khi đó tài sản của doanh nghiệp được tài trợ chính từ kết
quả hoạt đông sản xuất kinh doanh-chức năng chính của doanh nghiệp. Còn nếu
tiền mặt được tạo ra chủ yếu từ các hoạt động khác như từ việc bán chứng khoán
đầu tư, vay mượn, từ việc phát hành trái phiếu thì người quản lý có thể nhận
được dấu hiệu không bình thường về tình hình vốn tiền mặt nói riêng và tình
hình hoạt động nói chung của doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là việc sử dụng
vốn tiền mặt trong kỳ chủ yếu dựa vào bên ngoài, những nguồn mang tínhchất
tạm thời hơn là từ nội lực, từ hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Vì vậy, việc sử dụng vốn tiền mặt trong kỳ tới cần phải được điều chỉnh.


16
_ Nhóm tỷ số tiền mặt liên quan đến việc thanh toán các khoản nợ. Mục
đích của việc lập nhóm tỷ số tiền mặt này là để biết trong tổng số tiền mặt thu
được trong kỳ doanh nghiệp đã thanh toán các khoản nợ là bao nhiêu, tỷ số này
có thể lớn hơn hoặc bé hơn 1. Nếu lớn hơn 1 thì có nghĩa là doanh nghiệp mở
rộng sử dụng các khoản nợ trong cơ cấu nguồn vốn của mình. Còn nếu bé hơn 1
thì doanh nghiệp đang giảm dần các khoản nợ. Tuỳ từng giác độ của doanh
nghiệp mà đánh giá chiều hướng nào là tiêu cực hay tích cực. Chẳng han, nếu
xét về giác độ tự chủ trong kinh doanh thì giá trị bé hơn 1 sẽ có lợi hơn còn xét
về giác độ chiếm dụng vốn thì tình hình lại ngược lại.
_ Nhóm tỷ số tiền mặt phản ánh việc chi tiền mặt mua sắm TSCĐ từ vốn
bằng tiền. Tỷ số này cao hay thấp là tốt tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh
nghiệp. Chẳng hạn, nếu là doanh nghiệp thì tỷ số này cao sẽ không tốt vì TSCĐ
có tốc độ chu chuyển vốn chậm mà lợi nhuận của doanh nghiệp thương mại tỷ lệ
thuận với vòng quay của vốn. Vì vậy, tốt hơn là doanh nghiệp dùng tiền vào mua
sắm hàng hoá và tăng cường các biện pháp thúc đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng
hoá
Một vài loại tỷ số nói trên đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích
vốn bằng tiền nói riêng và trong hệ thống tài chính nói chung. Ngoài ra, chúng ta
có thể lập những tỷ số rất hữu ích khác như tỷ số phản ánh dòng thu tiền mặt từ
khấu hao, tỷ số liên quan đến việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt Các tỷ số này
kết hợp với các thông tin từ các bảng báo cáo tài chính khác sẽ giúp cho người
quản lý có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về tình hình hoạt động của doanh
nghiệp.
Như vây, BCLCTT thực sự là một công cụ phân tích tài chính hữu ích. Nó
cung cấp những thông tin quan trọng cho những người quan tâm đến tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, người quan tâm đến tình hình



17
tài chính của doanh nghiệp rất đa dạng. Đó không chỉ là người quản lý doanh
nghiệp, các cơ quan quản lý chức năng mà còn là những nhà đầu tư, các nhà
cung cấp tín dụng, công nhân viên, các kiểm toán viên độc lập BCLCTT có
thể giúp họ có được những quyết định đúng đắn, hợp lý nhất.
b) BCLCTT - cơ sở ra quyết định của những người sử dụng báo cáo.
Báo cáo tài chính nói chung và BCLCTT nói riêng là nguồn thông tin
quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn phục vụ chủ yếu cho các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp, như các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà đầu
tư hiện tại và tương lai, các nhà cung cấp tín dụng, hàng hoá, nhà quản lý doanh
nghiệp, công nhân viên của doanh nghiệp, kiểm toán viên độc lập Do vậy, việc
so sánh báo cáo giữa các doanh nghiệp là rất quan trọng trong việc đưa ra quyết
định đối với các đối tượng sử dụng báo cáo của doanh nghiệp.
_ Đối với người quản lý của doanh nghiệp, BCLCTT cung cấp những
thông tin quan trọng về việc hình thành và sử dụng lượng tiền trong kỳ báo cáo,
những nguy cơ cũng như triển vọng về mặt tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ
sở đó, người quản lý doanh nghiệp phân tích, đánh giá những tồn tại và phát hiện
khả năng tiềm tàng để có các quyết định quản trị tài chính doanh nghiệp đúng
đắn và có hiệu qủa nhất. Ngoài ra, người quản lý có thể sử dụng BCLCTT để
thông báo cho các nhà đầu tư, các chủ nợ, các cơ quan nhà nước, công nhân
viên biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp mình, qua đó thuyết phục
các đối tượng có liên quan có các quyết định hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp trong tương lai.
_ Đối với các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước, BCLCTT cung
cấp thông tin cần thiết giúp cho việc thực hiện chức năng quản lý vỹ mô của nhà
nước đối với nền kinh tế. Chẳng hạn, nhà nước dựa vào BCLCTT để có những
chính sách phù hợp đối với từng doanh nghiệp hoặc từng khu vực kinh tế như



18
các chương trình tài trợ hay cấp vốn Ngoài ra, nó còn là nguồn số liệu quan
trọng để cơ quan thống kê tính toán các chỉ tiêu tổng hợp từng ngành, từng địa
phương cũng như cả nước, giúp cho các cơ quan tài chính nhà nước thực hiện
việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với hoạt động của doanh nghiệp.
_ Đối với các nhà đầu tư hiện tại và tương lai, như các đối tác tham gia
liên doanh, các cổ đông thì dựa vào BCLCTT của doanh nghiệp để đánh giá khả
năng tài chính của doanh nghiệp để họ đưa ra các quyết định sử dụng vốn đầu tư
hợp lý trên nguyên tắc cùng có lợi như quyết định tiếp tục đầu tư hay rút vốn,
quyết đình nên đầu tư vào doanh nghiệp nào nếu họ đang tìm nơi đầu tư có lợi
_ Đối với các nhà cung cấp tín dụng, hàng hoá thì thông tin trên BCLCTT
là nguồn số liệu để họ phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, từ đó họ
có quyết định phương thức cho vay, phương thức thanh toán hợp lý.
_ Đối với công nhân viên của doanh nghiệp, BCLCTT là cơ sở để họ đánh
giá tính hợp lý của các khoản thu nhập mà họ được hưởng.
_ Đối với các kiểm toán viên độc lâp, BCLCTT nằm trong hệ thống các
báo cáo kế toán của doanh nghiệp là đối tượng kiểm toán của họ.
Như vậy, BCLCTT là một yếu tố quan trọng đối với những người sử dụng
thông tin vì nó cung cấp những thông tin quan trọng về tình hình và khả năng tài
chính của doanh nghiệp, từ đó mà có được những quyết định đúng đắn. Ngoài ra,
việc so sánh BCLCTT giữa các doanh nghiệp cũng giúp họ có những nhận xét
xác đáng về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp để đưa ra các quyết định
hợp lý đối với từng doanh nghiệp.
2.Thực trạng việc lập BCLCTT hiện nay ở Việt Nam


19
BCLCTT với chức năng cung cấp thông tin về các vấn đề liên quan đến
các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ đầu tư bằng tiền của

doanh nghiệp trong từng thời kỳ đã trở thành một trong các báo cáo quan trọng
đối với các công ty nước ngoài. Tiền và các khoản có thể chuyển hoá ngay thành
tiền có liên quan đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp và nhiều hoạt động
khác: Nếu lượng tiền mặt trong doanh nghiệp quá lớn sẽ làm vốn doanh nghiệp
bị tồn đọng không thúc đẩy quá trình quay vòng vốn làm cho hoạt động sản xuất
kinh doanh bị trì trệ thì việc duy trì lượng tiền tồn quá nhỏ sẽ làm doanh nghiệp
bị hạn chế trong thanh toán và không nắm được các cơ hội đầu tư trong điều
kiện cạnh tranh. Bởi vậy, dành cho tình hình vốn bằng tiền của doanh nghiệp
một sự quan tâm nhất định là điều cần thiết. Hiện nay, một số công ty lớn của
Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của BCLCTT nhưng do những
nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, BCLCTT vẫn chưa được phổ
biến rộng rãi. Phần lớn các công ty lập BCLCTT đều là công ty nước ngoài hoặc
có sự tham gia góp vốn của nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước chủ yếu
chú trọng vào các báo cáo bắt buộc như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả
kinh doanh. Họ cũng có sự lưu tâm đến vốn bằng tiền nhưng chỉ lấy thông tin từ
các khoản mục về tiền trong bảng cân đối kế toán. Ta có thể thấy rõ sự quan
tâm này là chưa đúng mức vì bảng cân đối kế toán chỉ cung cấp những thông tin
từ các khoản mục về lượng tiền và một số tỷ suất về khả năng thanh toán mà
không cho biết các luồng tiền vào ra từ hoạt động nào, do đâu mà có. Nhìn vào
BCLCTT, các nhà quản trị có thể thấy được những chi tiết bất hợp lý và những
hoạt động mang lại hiệu quả lớn cho doanh nghiệp.
Có thể thấy, BCLCTT không có nhiều ý nghĩa trong việc cung cấp
thông tin về sản xuất kinh doanh nhưng lại mang lại những chỉ dẫn rất cần thiết
cho các hoạt động liên quan đến vốn tiền tệ trong tương lai. Nói cách khác,
BCLCTT là sự nhìn nhận lại những hoạt động cũ để hướng tới hoạt động tương


20
lai một cách hiệu quả. Việt Nam mới bước vào nền kinh tế thị trường, sự sinh
sau đẻ muộn này bên cạnh việc đem lại cho chúng ta một số thuận lợi, tránh

được các thất bại và rút được nhiều kinh nghiệm từ các nước đàn anh nhưng
cũng không tránh khỏi sự non kém trong công tác quản lý và phân tích kinh
doanh mà BCLCTT là một ví dụ.
Trong những năm tới, với sự phát triển không ngừng về kinh tế, với tính
chất ngày càng khốc liệt của cạnh tranh và xu hướng gia tăng của đầu tư nước
ngoài, chắc chắn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải hoàn thiện hoạt động quản
lý và phân tích tài chính của mình ngày càng gần hơn với chuẩn mực của Thế
giới; và để ra được các quyết định đúng đẵn thì việc lập BCLCTT là không thể
thiếu.
Như vậy trong nên kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao, các mối
quan hệ và các hoạt động kinh tế trở nên phức tạp, việc lập BCLCTT để phân
tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mang lại những hiệu quả rất lớn cho
các hoạt động tương lai. Với tác dụng to lớn của BCLCTT, một câu hỏi đặt ra là
tại soa các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều không lập BCLCTT? Có rất
nhiều lý do có thể đưa ra để giải thích cho câu hỏi này. Có thể là chưa thoả đáng
nhưng nó cũng góp phần để từ đó đưa ra một số phương hướng nhằm đưa
BCLCTT áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp Việt Nam để BCLCTT phát
huy những mặt tích cực của nó từ đó làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nói riêng và thúc đẩy nền kinh tế nói chung, tạo điều kiện cho Việt
Nam hoà nhập vói thế giới về chế độ tài chính và các hoạt động hợp tác về kinh
tế.
ở tầm vĩ mô, có thể nói tới nguyên nhân mang tính chất chi phối, đó là sự
non trẻ của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Bước vào nền kinh tế thị trường,
các doanh nghiệp Việt Nam có rất ít kinh nghiệm hoạt động trong môi trường


21
mới. Tính thụ động, thiếu nhạy bén do ảnh hưởng của điều kiện cũ cộng với việc
không đưa việc lập BCLCTT thành việc làm có tính chất bắt buộc đã trở thành
nguyên nhân tất yếu của việc không thấy rõ lợi ích do BCLCTT mang lại. Và

như vậy, một mặt các doanh nghiệp Việt Nam không tìm thấy mối lợi của việc
lập BCLCTT, mặt khác, BCLCTT đòi hỏi trình độ nhân viên cao; có thể thấy,
dựa trên sự nhìn nhận của các doanh nghiệp Việt Nam, phải thuê thêm nhân viên
để lập một bảng báo cáo không cần thiết là việc bất hợp lý. Vì thế, việc không
lập BCLCTT ở phẩn lớn các doanh nghiệp Việt Nam là điều dễ hiểu. Trên thực
tế, với những hiều biết còn nhiều hạn chế về nền kinh tế thị trường và sự thiếu
kinh nghiệm trong hoạt động kinh tế, các nhà quản trị Việt Nam chỉ ra những
quyết đinh dựa trên các báo cáo cơ bản bắt buộc và tiến hành chỉ đạo một cách
cảm tính mà ít tiến hành phân tích tình hình tài chính. Phần lớn cách quản lý của
họ là xác định các kế hoạch dựa vào các chỉ tiêu đạt được năm cũ. Cách quản lý
này rõ ràng không năng động và kém hiệu quả do các kế hoạch được xác định
không thể thay đổi linh hoạt khi có những cơ hội thị trường hay có những điều
kiện biến đổi.
Một nguyên nhân khác dẫn đến sự không cần thiết lập BCLCTT là các
doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khu vực kinh tế Nhà nước ít kêu gọi vốn đầu
tư từ bên ngoài. Thêm vào đó, các doanh nghiệp không gặp phải khó khăn nào
từ việc không lập BCLCTT khi vay ngân hàng hay thực hiện các nghiệp vụ liên
quan đến việc thanh toán hoặc các nghiệp vụ liên quan đến luồng tiền vào, ra.
Nói cách khác, không có bất kỳ một sự đòi hỏi nào từ những hoạt động sử dụng
BCLCTT kèm theo sự không bắt buộc lập BCLCTT của Bộ Tài chính càng làm
cho việc lập BCLCTT trở nên vô nghĩa đối với các doanh nghiệp.
Với nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, BCLCTT, một
công cụ phân tích tài chính, một bản cung cấp thông tin quan trọng giúp người sử
dụng phân tích, đánh gí khả năng tài chính của doanh nghiệp trong hiện tại cũng


22
như tương lai để có những quyết định phù hợp đã chưa được phổ biến ở các
doanh nghiệp Việt Nam. Với kinh nghiệm dày dạn của mình, các công ty ở nước
ngoài hoặc công ty nước ngoài ở Việt Nam đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của

việc phân tích báo cáo này trong việc ra quyết định tài chính. Đây thực sự là một
thiệt thòi cũng là điểm yếu cần khắc phục của các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong tương lai, với sự lớn mạnh dần của các hãng kinh doanh về kinh nghiệm,
khả năng cạnh tranh, BCLCTT chắc chắn sẽ chứng minh được sự cần thiết của
nó và nó sẽ trở thành công cụ không thể thiếu của các công ty muốn thành công
dù Bộ Tài chính bắt buộc hay không bắt buộc. Đó cũng chính là biểu hiện dần
hội nhập của chế độ kinh tế Việt Nam vào chuẩn mực kinh tế thế giới trong
tương lai.
3. Sự cần thiết phải lập BCLCTT trong quá trình hội nhập
a) Lập BCLCTT sẽ cung cấp được các thông tin về các luồng tiền vào và ra, tỷ
trọng của các luồng tiền trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu
tư và hoạt động tài chính.
BCLCTT là một trong những báo cáo tài chinhứ không thể thiếu được đối
với các doanh nghiệp trong những nước có nền kịnh tế thị trường nhằm cung cấp
cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Nếu BCĐKT cho biết những
nguồn lực tài sản và nguồn gốc của những tài sản đó và BCKQKD cho biết thu
nhập và chi phí phát sinh để tính được kết qủa lãi, lỗ trong một kỳ thì BCLCTT
được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến các luồng tiền vào, ra trong doanh
nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
BCLCTT cung cấp những thông tin về luồng vào, ra của tiền và các khoản
coi như tiền, những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh
chóng và sẵn sàng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít chịu rủi ro lỗ về
giá trị do những sự thay đổi về lãi suất. Những luồng vào ra của tiền và các


23
khoản tương đương tiền như ta đã biết được trong tổng hợp và chia thành 3
nhóm: lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ hoạt động đầu tư và
từ hoạt động tài chính. Những con số trên BCLCTT sẽ giúp cho người sử dụng
thông tin kế toán của doanh nghiệp có quyết định đúng đắn, từ đó mà nâng cao

khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài
trong trường hợp doanh nghiệp có lợi thế về khả năng tài chính hoặc kịp thời có
chính sách điều chỉnh nếu tình hình tài chính của doanh nghiệp không được như
mong muốn.
b) Đối với các doanh nghiệp đã sử dụng vốn đầu tư nước ngoài thì lập BCLCTT
là yếu tố cần thiết để phù hợp với quy định của đối tác.
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là nước đang trong quá trình phát triển và
hội nhập với nền kinh tế thế giới. Mặc dù cùng với quá trình hoàn thiện dần hệ
thống kế toán, ở Việt Nam hiện nay BCLCTT đang ngày càng được coi trọng
trong hệ thống các báo cáo kế toán, nhưng ở những nước có nền kinh tế phát
triển thì từ lâu BCLCTT đã là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc đối với
mọi doanh nghiệp. Do vậy, trong khi hợp tác, liên doanh, liên kết với mước
ngoài thì các doanh nghiệp phải tuân theo sự thoả thuận của hai bên trong đó hầu
hết các chủ đầu tư nước ngoài đều đòi hỏi doanh nghiệp phải lập BCLCTT nhằm
phù hợp với quy định của nước họ đồng thời có thể cung cấp đầy đủ thông tin về
tình hình tài chính của doanh nghiệp cho tất cả những cổ đông đã góp vốn đầu ra
vào doanh nghiệp.
c) Nếu thiếu BCLCTT thì chưa đánh giá được thực trạng khả năng tài chính của
doanh nghiệp.
BCLCTT là một công cụ phân tích vốn bằng tiền rất hữu hiệu hiện nay.
Thông qua các tỷ số tài chính ta có thể thấy tình hình tài chính phụ thuộc quá
nhiều vào thời điểm tính của công việc chuẩn bị báo cáo tài chính và như vậy có


24
thể có những đánh giá không trung thực về thực trạng tài chính của doanh nghiệp
trong một giai đoạn, một thời kỳ phân tích. Trong khi đó các tỷ số tiền mặt lại ổn
định hơn nhiều vì phần lớn các khoản mục trên BCLCTT là kết quả của một quá
trình được tích luỹ trong suốt một kỳ báo cáo. Vì vậy, các tỷ số tiền mặt phản
ánh tương đối đầy đủ những gì đã xảy ra ảnh hưởng đến tài khoản "tiền mặt'

trong một kỳ phân tích. Ngoài ra, phân tích tình hình sử dụng vốn bằng tiền còn
là một bộ phận của phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Như vậy có thể thấy là những thông tin từ BCLCTT và những thông tin ở
những báo
cáo tài chính khác giúp người sử dụng phân tích, đánh giá khả năng tạo ra các
luồng tiền trong tương lai, sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả
năng chi trả lãi cổ phần, khả năng thanh toán các khoản nợ cũng như tình hình
lưu chuyển tiền củav kỳ tiếp theo. Trên cơ sở đó, dự đoán được nhu cầu và khả
năng tài chính của doanh nghiệp.
d) Lập BCLCTT giúp rút ngắn thời gian hội nhập giữa kế toán Việt Nam với hệ
thống kế toán quốc tế.
So với thế giới thì kế toán Việt Nam vẫn là một hệ thống còn rất non trẻ.
Do vậy, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với thế giới thì càng cần phải
thúc đầy quá trình này diễn ra một các mạnh mẽ. BCLCTT có thể được coi là
một trong những công cụ làm cầu nối trung gian cho sự hoà nhập này. Hiện nay,
không chỉ các nước có nền kinh tế phát triển mà ngay cả các nước trong khu vực
cũng đã có quy đinh bắt buộc về việc lập BCLCTT trong hệ thống báo cáo kế
toán. Do đó, lập BCLCTT là một hình thức phù hợp để Việt Nam rút ngắn thời
gian và khoản cách hội nhập với thế giới. Thông qua các chương trình, dự án
đầu tư vào nước mình, Việt Nam có thể ngày càng hoàn thiện hệ thống kết toán


25
của mình để phù hợp với xu thế của thời đại và BCLCTT là một yếu tố không
thể thiếu được trong sự phát triển này.
III. Một số suy nghĩ để đưa BCLCTT áp dụng trong các doanh
nghiệp Việt Nam
Qua phân tích trên chúng ta thấy rằng BCLCTT là một trong các báo cáo
tài chính không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường. Do đó để thực sự hội nhập với quốc tế các doanh nghiệp Việt Nam phải

nhanh chóng tìm ra phương hướng hợp lý để đưa BCLCTT vào trong hoạt động
kinh doanh của mình. Với thực trạng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay việc sử
dụng BCLCTT có nhiều thuận lợi và cũng gặp không ít khó khăn.
Khó khăn chủ yếu của việc áp dụng BCLCTT vào doanh nghiệp Việt
Nam là do hệ thống các qui định, các chuẩn mực về kế toán ở Việt Nam chưa
được hoàn thiện. Mặc dù, chúng ta đã tiếp thu được nhiều kinh nghiệm quý giá
từ nền kinh tế thị trường ở các nước phát triển, nhưng do còn quá non trẻ nên hệ
thống luật của Việt Nam còn nhiều thiếu sót, đặc biệt là về kế toán và tài chính.
Ngoài ra chúng ta còn gặp những trở ngại về chuyên môn. Trình độ
nhân viên kế toán ở Việt Nam còn thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do việc đào tạo
tràn lan không đảm bảo chất lượng dẫn tới một bộ phận nhân viên kế toán không
đáp ứng được nhu cầu hiện nay của công việc. Mặt khác nước ta lại chịu hậu quả
nặng nề của nền kinh tế chỉ huy tồn tại hàng chục năm, do đó tác phong làm việc
của nhân viên kế toán nói riêng và người lao động nói chung vẫn còn trì trệ.
Hơn nữa, hiện nay việc áp dụng máy tính hoá vào công tác ở Việt
Nam cũng không phải dễ dàng. Trong khi trên thế giới việc áp dụng máy tính
trong kế toán đã trở nên phổ biến và có nhiều ứng dụng rộng rãi. Việt Nam một
mặt không đủ điều kiện vật chất, mặt khác lại không đủ các điều kiện năng lực

×