Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

đề thi luật hiến pháp nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.63 KB, 76 trang )

1

Đề thi Luật hiến pháp nước ngoài
ĐH Luật HCM
ĐỀ 01:
Câu 1: Nhận đinh Đúng/sai giải thích
1. phương pháp bảo hiến của hệ thống tòa án Hoa Kỳ giống với Hội đồng Bảo hiến
cộng hòa Pháp
2. theo Hiến pháp Hoa Kỳ, tổng thống do cử tri trực tiếp bầu ra.
3. Chính thẻ quân chủ không tồn tại trong những nhà nước dân chủ.
4. Xét về tương quan lực lượng giữa 2 viện trong cơ cấu tổ chức của nghị viện Nhật
Bản thì hạ viện hoàn toàn thắng thế so với thượng viện
5. Các quốc gia trong thế giới đương đại đều thành lập hệ thống Viện kiểm sát nhân
dân để thực hành quyền công tố và kiểm sát chung.
Câu 2: trình bày điểm khác nhau cơ bản trong mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp
và hành pháp theo các chính thể đại nghị, cộng hòa tổng thống, cộng hòa hỗn hợp và
giải thích
1. Cơ sở hình thành mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và hành pháp của các chính
thể nêu trên
2. Đảng chính trị đã làm biến dạn các chỉnh thể như thế nào và quy luật chung của
những sự biến dạng này là gì?
Đề 02:
Câu 1: Khi nghiên cứu các hình thức nhà nước đương đại, chúng ta cần dựa trên
những nguyên lý nào?
Câu 2: tại sao chúng ta cần nghiên cứu về đảng chính trị trong môn học này?
Câu 3: phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Chính phủ
Đề 3:
Câu 1:Nhận đinh Đúng/sai giải thích
2

1. trong hệ thống pháp luật Mỹ, khi đạo luật bị tuyên bố vi hiến (hiến pháp Liên


Bang) thì đạo luật đó sẽ không được ban hành
2. thẩm phán của Tòa công bằng của nước Anh được bổ nhiệm từ các pháp quan.
Câu 2:
1. nêu ý nghĩa của việc từ năm 1925 Tòa án tối cao Mỹ được quyền ban hành “đặc
lệnh lấy lên xét xử lại”
2. nêu những điều kiện cần thiết trong việc sử dụng nguồn thông tin thứ yếu khi
nghiên cứu, so sánh pháp luật nước ngoài
Câu 3: tại sao Việt Nam nên đồng thời áp dụng cả luật thành văn và án lệ
Đề 04:
Câu 1: nhận định đúng sai
1. Quyền khởi kiện và thủ tục giám sát Hiến pháp của Hội đồng Bảo hiến Cộng hòa
Pháp giống với Tòa án Hiến Pháp Cộng Hòa liên bang Đức
2, trong chỉnh thể cộng hòa hỗn hợp, Nghi viện có quyền bất tín nhiệm tất cả các
thành viên của Chính phủ
3. Xét về tương quan lực lượng giữa 2 viện trong cơ cấu tổ chức của NGhị viện Hòa
kỳ thì thượng viện yếu thế hơn Hạ viện
4. cách thành lập và thành phần chính trị của Chính phủ ở những quốc gia theo
chỉnh thể đại nghị là giống nhau
5. Tòa tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của vương quốc Anh.có thể sử dụng quyền
giải tán Duma quốc gia trong mọi trường hợp
6. theo Hiến pháp liên bang Nga 1993, tổng thống Liên bang
Câu 2: trình bày điểm khác nhau cơ bản trong cách thức thành lập và vị trí, vai trò
của Nguyên thủ quốc gia theo các chỉnh thể đại nghị, cộng hòa tổng thống và cộng
hòa hỗn hợp và giải thích:
- Cơ sở hình thành mô hình nguyên thủ quốc gia trong các chỉnh thể nêu trên
và vai trò của Charles De Gaulle trong việc sáng tạo ra chỉnh thể cộng hòa
hỗn hợp
3

- - vì sao chỉnh thể quân chủ còn tồn tại kha phổ biến trong những nhà nước

dân chủ.

4

Cách làm bài tập hiến pháp một số nước
Đây là môn tự chọn của hành chính K30, thực ra đây là bt trong sách nhưng xem cách
giải thì hơi khó hiểu, nên tớ lấy 1 bài mẫu và giải thích thêm ra thôi
chú thích: đây là 1 bài viết cũng khá lâu trc khi thi trên blog của tớ, giờ thì cop và chỉnh
sửa lại chút ít thôi, có gì ko hiểu cứ hỏi nhé, nhưng cố gắng hết mức có thể để mọi ng có
thể hỉu đc

Mãi mới hiểu được cái biểu quyết lựa chọn là như thế nào? Về sau ai mà học cái môn này
mà phải làm phần bt về bầu cử thì cố gắng tìm cuốn Chế độ bầu cử của 1 số nc trên tg của
thầy Vũ Hồng Anh nhé. Trong đó ghi rõ hơn. Ko thì ra nhà C mượn 3 ngày hay lên nhà D
ngồi đọc photo hoặc scan

Vào phần chính nhé, biểu quyết lựa chọn nào
Đây là một hình thức phân ghế đại biểu trong dạng bầu cử đa số, muốn nắm rõ biểu quyết
lựa chọn thì phải hiểu tiền tố và cách chia phiếu khi chia phiếu lần 1 (kiểm phiếu lần 1 ý -
được tiến hành bởi khu vực bỏ phiếu nhưng kết quả thì đơn vị bầu cử xét kết quả) mà
không ứng cử viên nào đạt điều kiện win lun (ko đủ số phiếu đạt điều kiện, ở đây tính
theo đa số tuyệt đối là 50% + 1) thì ta phải chia phiếu lần 2

Note: Nhớ phải hiểu tiền tố là gì đó

Tiền tố: Là lựa chọn thứ 2 của cử tri sau lựa chọn đại biểu đầu tiên trong số ứng cứ viên
(trong phiếu lựa chọn của mình). Cái này ko bắt buộc, có thể có 6 ứng cử viên thì ghi tới
tiền tố thứ 6 cũng đc

VD nhé:

Đơn vị bầu cử S có 50'000 cử tri, bầu 1 ghế đại biểu, có 4 ứng cử viên
Kiểm phiếu:
A: 13'000
B: 22'000
C: 8'000
D: 7'000

Điều kiện để trở thành đại biểu: phải có (50'000: 2 + 1) số phiếu = 25'001 số phiếu bầu
Kết quả thấy ko có ai đạt đủ điều kiện, tiếp tục chia phiếu lần 2, trong lần 1 ta thấy D ít
phiếu nhất, nên loại D ra khỏi cuộc bầu cử này (nếu ở tiền tố 2 có phiếu nào bầu D cũng
loại)
5

VD: Trong 7'000 phiếu bầu D làm tiền tố thứ nhất thì chỉ có 6'000 phiếu chọn tiền tố thứ
2 là A, B, C với tỉ lệ như sau
A: 2'000
B: 3'500
C: 500

Như vậy, kết quả lần 2 là:
A: 13'000 + 2'000 = 15'000
B: 22'000 + 3'500 = 25'500
C: 8'000 + 500 = 8'500

Vậy B có đủ điều kiện và B sẽ trở thành đại biểu. Hít. nếu lần chia thứ 2 này ko đc thì lại
típ tục.

Còn ở chia lần 2, phải chú ý việc loại ông D ra mà vẫn lấy số phiếu của ông D và sự thay
đổi số phiếu của A, B, C. Đó là do những nguyên tắc ở phần lý thuyết


Bấy lâu nay các thế lực thù địch với Việt Nam vẫn rêu rao tư tưởng "đa nguyên chính
trị", "đa đảng đối lập", hòng truyền bá và kích động tư tưởng dân chủ vô chính phủ, loại
bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Tuy
nhiên, chúng ta đã nhiều lần khẳng định không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập với những lý do dưới đây:
1. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là chế độ chính trị của chế độ xã hội
chủ nghĩa. Đa nguyên chính trị là một khuynh hướng xã hội học - triết học, tuyệt đối hóa
sự đa dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong xã hội.
Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, khi giai cấp tư sản còn là giai cấp tiến bộ trong đấu
tranh chống độc quyền, bảo vệ sự đa dạng và bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích
khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản.
Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, đa nguyên chính trị mất dần ý nghĩa ban đầu, trở
thành thủ đoạn để điều chỉnh lợi ích trên nguyên tắc cạnh tranh giữa các nhóm, tổ chức
độc quyền có lực lượng ngang bằng nhau và là bình phong “dân chủ” che đậy sự bất
công, bất bình đẳng trong xã hội tư bản.
Khi chủ nghĩa xã hội xuất hiện, đa nguyên chính trị trở thành công cụ tư tưởng để giai
cấp tư sản chống các nhà nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân và các trào lưu
6

tiến bộ trên thế giới bằng việc đòi mở rộng quyền tự do dân chủ vô chính phủ, chống
nguyên tắc tập trung dân chủ, đòi thực hiện chế độ đa đảng, nhằm vô hiệu hóa và từng
bước đẩy Đảng Cộng sản khỏi vị trí lãnh đạo xã hội, đòi xây dựng nhà nước pháp quyền
tư sản - bề ngoài đại diện cho lợi ích của tất cả các nhóm, đảng phái đối lập, nhưng thực
chất đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản.
Như vậy, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tất yếu không phải là mô hình chính trị của
chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không bảo đảm được dân chủ đích thực. Bản chất
của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn thực hiện được nó thì trước tiên người
lao động phải xây dựng nên một chính đảng cùng một chính phủ duy nhất đại diện cho
quyền lực của mình. Với một chế độ xã hội, thì hoặc quyền lực thuộc về giai cấp bóc lột

hoặc thuộc về giai cấp bị bóc lột mà thôi. Không có thứ quyền lực hay dân chủ cho mọi
giai cấp. Bản chất của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong xã hội tư bản chỉ nhằm
một mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư sản bóc lột. Trả lời phỏng
vấn và kết luận mới nhất của đoàn khảo sát Hoa Kỳ (6-2009) của các nhà khoa học Việt
Nam cho thấy rõ điều này: Giáo sư Paul Mishler (Trường Đại học bang Indiana) khẳng
định: “Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học… đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư
bản Mỹ gây ra”; “Nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là
đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hòa hay Dân chủ”(*)… Với lý do đó, đa
nguyên, đa đảng không bao giờ tiến tới một nền dân chủ đích thực.
3. Lịch sử cách mạng Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân, đế quốc đã xuất hiện
và phủ định đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập như một tất yếu tự nhiên. Năm 1945,
Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên khởi nghĩa, giành chính
quyền, thiết lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đặt quyền lợi của quốc gia,
dân tộc lên trên hết nên trong những ngày đầu gìn giữ chính quyền và nền độc lập dân
tộc, Đảng ta đã tự tuyên bố giải tán và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã
mở rộng thành phần cho mọi tổ chức, chính đảng cùng tham gia lãnh đạo đất nước.
Song, trong quá trình cách mạng, các tổ chức đảng phái hoặc phản động, hoặc có đường
lối không đúng đắn, không vì quyền lợi của quốc gia, dân tộc đã lần lượt bị chính nhân
dân loại bỏ, chỉ còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo có đường lối cách mạng đúng đắn, vì quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động,
vì nền độc lập và sự phát triển của đất nước đã được nhân dân lựa chọn là chính đảng duy
nhất đại diện cho quyền lợi của mình.
7

Sau 1954, Đảng ta cũng chủ trương tổng tuyển cử tự do, thành lập chính phủ liên hiệp,
thống nhất nước nhà, nhưng chính chính quyền Ngô Đình Diệm đã bác bỏ và phủ nhận
thể chế đa nguyên đó. Mặt khác, được sự tiếp sức của đế quốc Mỹ, các thế lực phong
kiến và phản động ở miền Nam cũng đã từng lập nên một chính thể đa nguyên với sự
tham gia của nhiều đảng phái. Nhưng mục đích chính trị của các đảng phái đó lại chống
lại nền độc lập dân tộc và quyền lợi của nhân dân lao động, nên nhân dân cả nước ta đã

đứng lên lật đổ thể chế chính trị đó, thiết lập nên nền chính trị nhất nguyên và lựa chọn
Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại diện duy nhất cho quyền lợi của nhân dân lao
động và cả dân tộc. Tính tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên đó đã và đang được nhân
dân ta khẳng định trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa ngày nay.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã
và đang không ngừng xây dựng và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trên
thực tế trong nền chính trị nhất nguyên. Nền chính trị nhất nguyên ở nước ta là do nhân
dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng ở
nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân
lao động. Đó là độc lập, tự do cho dân tộc; là quyền tự quyết dân tộc, quyền bình đẳng
với mọi quốc gia khác trong việc lựa chọn con đường phát triển đi lên của mình; là quyền
tự do lập hiến và lập pháp, lựa chọn và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân; là quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các thành phần kinh tế; quyền tự
do làm giàu theo pháp luật, phát huy dân chủ gắn liền với giữ vững kỷ cương xã hội; là
sự phát triển trong đa dạng các sắc màu văn hóa dân tộc; là sự tiến bộ trong giáo dục, văn
hóa, xã hội, khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu vì sự tiến bộ và phát triển toàn diện
con người… Những thành tựu không thể phủ nhận của nền chính trị nhất nguyên đó đã
khẳng định và ngày càng củng cố vững chắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc.
5. Dư luận quốc tế, chính phủ và nhân dân các nước dân chủ, tiến bộ trên thế giới đánh
giá cao, ủng hộ Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ nhất nguyên ở Việt Nam. Trước
những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo, dư luận quốc tế, chính phủ nhiều nước, các tổ chức quốc tế và nhân dân thế
giới đã bày tỏ sự khâm phục và ủng hộ chế độ chính trị ở Việt Nam. Nhiều đoàn đại biểu
quốc tế sang Việt Nam nghiên cứu và học tập kinh nghiệm về xây dựng sự ổn định chính
trị xã hội. Nhân chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ngày 17-6-
2007, tờ The Straits Times đã viết: “Việt Nam là đất nước ổn định, người dân làm việc
8


chăm chỉ và đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Với những yếu tố này cộng lại,
Việt Nam là mỏ vàng cho các nhà đầu tư Mỹ nào biết nắm bắt cơ hội”.
Dưới con mắt của Tiến sĩ Sổm Phắt Mana Rangsam (Thái Lan), 2 trong 4 thế mạnh của
Việt Nam so với Thái Lan là các nhà lãnh đạo Chính phủ Việt Nam hiện nay là những
nhân vật năng động, có khả năng điều hành kinh tế. Việt Nam có chế độ chính trị ổn định
và nhất quán trong chiến lược phát triển kinh tế, Việt kiều đã có ý thức hướng về quê
hương.
Còn cựu chiến binh Mỹ Thomas A.Hutchings - người đã từng tham chiến ở Việt Nam đã
viết: “Việt Nam đang thay đổi và có một lịch sử đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất
nước thật hào hùng. Bất cứ nỗ lực bên ngoài nào để áp đặt “những giá trị dân chủ kiểu
Mỹ” và kêu gọi chấp nhận thể chế đa nguyên, đa đảng cho Việt Nam thì Việt Nam phải
kiên quyết từ chối và bác bỏ”…
Còn nhiều lý do khác để khẳng định sự bác bỏ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt
Nam là có cơ sở lý luận và thực tiễn đúng đắn. Để củng cố quyết tâm chính trị này, cán
bộ, chiến sĩ LLVT và nhân dân ta cần tiếp tục trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao ý
thức chính trị, đề cao tinh thần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm
và tư tưởng thù địch sai trái, giữ vững ổn định chính trị ở nước ta.
Đa đảng hay một đảng lãnh đạo cầm quyền - Đâu là chân lý?
Đảng là một tổ chức chính trị của những người có chung một mục tiêu, lý tưởng tồn tại
trong một chế độ xã hội nhất định. Mục tiêu trực tiếp của các đảng là tham chính. Mục
tiêu cuối cùng thường là giành và giữ quyền lực nhà nước (chính quyền).
Lịch sử Việt Nam và thế giới cho thấy, các cuộc cách mạng lật đổ chế độ xã hội hoặc
thay đổi lực lượng cầm quyền, còn gọi là “cách mạng mầu” thường là kết quả của sự vận
động, tập hợp lực lượng quần chúng lúc bí mật, khi công khai của các đảng chính trị. Đến
lượt mình khi đã trở thành đảng cầm quyền, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, mà họ lựa chọn
chế độ đa đảng hay “độc” đảng.
Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia thường không có một chế độ đa đảng hoặc một lãnh đạo -
cầm quyền thuần khiết. Trong chế độ đa đảng, bao giờ cũng có một đảng cầm quyền hoặc
lãnh đạo, có khi kéo dài nhiều thập kỷ. Trong chế độ một đảng cầm quyền thì thường

được bổ sung bằng sự tham gia của nhiều tổ chức xã hội chính thức (trong hệ thống chính
trị) hoặc phi chính thức (các tổ chức phi chính phủ - NGOs).
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng chính trị với chế độ xã hội, nhiều người hoặc cố
tình hoặc ngây thơ về chính trị đã bỏ qua nhiều yếu tố khác, như bối cảnh lịch sử cụ thể
9

hoặc liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia, trật tự xã hội. Không ít người đã bị dẫn dắt,
rơi vào sân chơi dân chủ, nhân quyền của các lực lượng chống cộng. Theo họ, mối quan
hệ giữa chế độ đảng (đa đảng hoặc một đảng) lãnh đạo với dân chủ là mối quan hệ duy
nhất. Đời sống đã chỉ ra không phải như vậy. Đa đảng không phải là không tốt, cũng như
một đảng không phải là không có lý. Tình trạng quốc hội “treo” như ở Anh quốc vừa qua,
hoặc cuộc xuống đường, xung đột giữa những người “áo đỏ” với Chính phủ đương nhiệm
ở Thái Lan thiết tưởng giúp người ta có thêm các căn cứ để suy nghĩ về những khó khăn,
phức tạp của chế độ dân chủ - đa đảng.
Ở Việt Nam cho đến nay có bao nhiêu quan điểm về đa đảng – xét trên các quan điểm
chính trị?
- Thứ nhất, đó là quan điểm của các nhà dân chủ - hàn lâm (Academic Democracy). Theo
họ dân chủ là động lực của phát triển. Chế độ dân chủ tất yếu phải gắn với đa đảng, với
cạnh tranh về chính trị. Đương nhiên quan điểm của các nhà dân chủ - hàn lâm không sai
về mặt lý thuyết, nhưng họ đã bỏ qua yếu tố đặc thù về lịch sử và thực tiễn chính trị ở các
quốc gia.
Thứ hai, đó là quan điểm của các nhà dân chủ thực dụng. Quan điểm này cho rằng, hiện
nay ở nước ta đang tồn tại rất nhiều vấn đề bức xúc của người dân do tình trạng quan
liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm của cán bộ, công chức gây ra. Tình trạng này có thể
giảm thiểu nếu có thêm các đảng phái khác tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Nhưng
những nhà dân chủ thực dụng đã không thấy rằng, ở nhiều quốc gia “đa đảng” đâu phải
không còn quan liêu tham nhũng. Mặt khác, quan điểm này đã không tính đến việc các
thế lực thù địch có thể lợi dụng chế độ đa đảng để thực hiện mưu đồ xấu xa của họ.
Thứ ba, đó là quan điểm của các nhà dân chủ giả hiệu. Về lập luận, quan điểm của họ
không khác các nhà dân chủ - hàn lâm. Thêm vào đó họ còn đưa ra chứng cứ như ở Việt

Nam “đã từng có chế độ đa đảng”. Ví dụ như: “Quốc hội đầu tiên, 1946, là Quốc hội đa
đảng (vì có 72 ghế tại Quốc hội không qua bầu cử, dành cho Việt Nam quốc dân Đảng và
Việt Nam cách mạng Đảng), hoặc “Hiến pháp 1992 “hiển hiện” chế độ đa đảng” - vì
Hiến pháp không quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo…
(Trong bài viết này tác giả không có ý định tranh luận về những vấn đề trên).
Sự khác biệt căn bản của những người dân chủ giả hiệu với những người dân chủ hàn lâm
là ở ý đồ chính trị. Với những người dân chủ giả hiệu, đây không chỉ là nhằm tuyên
truyền học thuyết, mà là tham vọng thay đổi thể chế chính trị Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý
cho các đảng phái chính trị ở hải ngoại “hồi hương” – như “Đảng Việt Tân”, “Liên minh
dân chủ nhân quyền”, “Đảng Nhân dân hành động”, “Đảng Dân chủ Việt Nam”… Những
10

đảng này không chỉ là những tổ chức chính trị chống cộng mà còn là những tổ chức mang
tính chất khủng bố, hoạt động nhằm lật đổ Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Điều này
hoàn toàn đi ngược lại Hiến chương Liên hợp quốc và nguyên tắc của Luật quốc tế. Đồng
thời, việc tuyên truyền cho quan điểm đa đảng của họ còn nhằm tạo cơ hội cho những tổ
chức đảng phái đang trong thời kỳ “thai nghén” tại “quốc nội” ra đời như “Đảng Xã hội
Việt Nam”, “Đảng Dân chủ Việt Nam” do Trần Huỳnh Duy Thức và Lê Công Định chủ
trương…
Trong số những người đang kêu gọi “đa nguyên”, “đa đảng” không loại trừ có kẻ đã từng
thực hiện “Luật 10/59 - đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật” đã chém giết hàng chục
ngàn người cộng sản và người yêu nước trong những năm cuối thập kỷ 50 thế kỷ XX.
Phần lớn những kẻ đang tuyên truyền cho đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập cho Việt
Nam ở hải ngoại đều đang giữ hận thù với cách mạng hoặc xuyên tạc, phủ nhận thành
quả cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của dân tộc ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, trong đó có cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau 35 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
(1975- 2010), đây là lúc cả dân tộc tự hào và bày tỏ lòng biết ơn các anh hùng liệt sĩ,
trong đó có hàng vạn cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã hy sinh thì Bùi
Tín lại kêu gọi “Mọi người yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản thành khẩn xin lỗi toàn

dân”! Có kẻ còn coi ngày đất nước được giải phóng là ngày “quốc hận”. Đó là chân dung
của những kẻ đang đòi đa đảng ở hải ngoại.
Vậy cơ sở lịch sử, chính trị và pháp lý vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản
Việt Nam là gì?
Về lịch sử ai cũng biết 80 năm qua (kể từ khi thành lập Đảng, 3-2-1930, đến nay), Đảng
Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là lực lượng duy nhất
tổ chức vận động, lãnh đạo, đồng thời là người đi tiên phong, không sợ hy sinh gian khổ
trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành lại độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, xây dựng nước Việt Nam hiện đại với chế độ dân chủ - cộng hòa. Lần đầu tiên trong
lịch sử, các quyền công dân và quyền con người của người dân được ghi nhận trong Hiến
pháp (1946). Tiếp đó Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhân dân
Việt Nam tiến hành các cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược bảo vệ thành quả của
cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là lực lượng chính trị duy nhất khởi xướng
công cuộc đổi mới, hội nhập với cộng đồng quốc tế tạo nên vị thế mới của Việt Nam
trong cộng đồng quốc tế.
Về chính trị - tư tưởng, Đảng Cộng sản Việt Nam đi theo Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh với tinh thần cách mạng và sáng tạo. Mục tiêu của Đảng là: Độc lập
11

dân tộc, chủ quyền quốc gia đồng thời xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, hội nhập quốc tế trên tinh thần “Việt Nam muốn là bạn
và đối tác tin cậy với tất cả các quốc gia trong cộng đồng quốc tế – không phân biệt chế
độ xã hội”.
Những kẻ đang tuyên truyền cho đa đảng thường cũng là những kẻ đang bôi nhọ Đảng
Cộng sản Việt Nam. Lập luận của họ theo lô-gích giả dối: Chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã lỗi
thời, Chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ (lập luận của họ thường là chép lại quan điểm của
những kẻ chống cộng, như Brê-din-xky trong cuốn “Thất bại lớn” hoặc của Phu-ku-y-a-
ma trong bài “Điểm tận cùng của lịch sử”) để suy ra: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy Chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm hệ tư tưởng tất nhiên sẽ trở thành một
lực lượng chính trị lạc hậu; xã hội XHCN ở Việt Nam sẽ bị sụp đổ. Và, do đó Việt Nam

cần phải có một đảng chính trị mới dẫn dắt dân tộc đi lên! Điểm khởi đầu là việc chấp
nhận chế độ đa đảng! Tất nhiên những giáo sư, tiến sĩ, “viện sĩ”, “sử gia”, “nhà biên
khảo”, nhà văn, nhà báo viết về dân chủ - đa đảng hầu hết họ đều đọc Mác một cách
phiến diện, hoặc với tư duy tư biện. Họ hoặc cố tình che giấu, hoặc ngây thơ lờ đi tư duy
mới, đường lối chính trị và chính sách mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH và
con đường đi lên CNXH, trong đó Đảng ta đã thừa nhận những sai lầm khuyết điểm của
mình trong thời kỳ trước đổi mới (như chủ quan duy ý chí, xóa bỏ kinh tế hàng hóa, cơ
chế thị trường…). Đảng ta đã khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể xã hội và hội nhập với cộng
đồng quốc tế
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Văn kiện Đại hội X viết: “Đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và Pháp luật, không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị. Bởi vậy không thể nói Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng “độc quyền”.
Nói như vậy không có nghĩa phủ nhận trong Đảng hiện nay vẫn còn một số người lạm
dụng uy tín của Đảng rơi vào căn bệnh quan liêu, tham nhũng, thoái hóa biến chất vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân, đang bị thải loại trong cuộc chỉnh đốn đảng.
Về pháp lý, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Quốc hội nhất trí và
được quy định tại Điều 4, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (1992). Điều này cũng
hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế. Tại Điều 1, Công ước quốc tế về các quyền dân
sự, chính trị (năm 1966) ghi: “Tất cả các Quốc gia đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ
quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình, tự do phát triển kinh
tế, xã hội và văn hóa”(1).
12

Vậy đa đảng, “độc” đảng - đâu là chân lý? Chân lý tồn tại ở thực tiễn, ở lợi ích tốt nhất
cho dân tộc. Sự lựa chọn chế độ đa đảng hay một đảng lãnh đạo - cầm quyền phải căn cứ
vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia. Trước tiên phải đặt lợi ích của cả dân tộc lên trên
hết, phải lấy an ninh quốc gia, ổn định và phát triển bền vững làm tiền đề (cho các yêu
cầu khác). Thứ hai, đương nhiên lựa chọn chế độ nào đều phải được sự đồng tình, ủng hộ

của đại đa số nhân dân, thông qua những người đại diện của mình đó là Quốc hội.


Hình thức chính thể - hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước (hay còn được gọi một cách thông thường là hình thức tổ chức nhà
nước) là mô hình tổ chức ra các cơ quan nhà nước và mối quan hệ giữa chúng với nhau,
giữa các cơ quan nhà nước với nhân dân, và thường được phân tích dưới nhiều giác
độ/tiêu chí khác nhau. Hình thức chính thể là một hình thức rất quan trọng trong các dạng
hình thức nhà nước

Thuật ngữ “chính thể” là một từ Hán Việt cổ, dùng để chỉ một chế độ chính trị, cách thức
tổ chức nhà nước (regime). Hình thức chính thể là sự biểu hiện bề ngoài thành mô hình,
hình dáng của nhà nước thông qua cách thức thành lập, cơ cấu bên trong của việc tổ
chức, vị trí, quyền hạn trách nhiệm, mối quan hệ của các cơ quan nhà nước cấu tạo nên
nhà nước và bản chất, nguồn gốc của quyền lực nhà nước.

Nói đến chính thể là nói đến việc xem xét mô hình tổ chức nhà nước dưới giác độ cách
thức thành lập, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan cấu thành nên bộ máy
nhà nước. Trước hết là mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia (người đứng đầu nhà nước)
với nhân dân.

Hiện nay, trên thế giới có hai loại hình thức chính thể cơ bản. Đó là chính thể quân chủ
và chính thể cộng hoà. Chính thể quân chủ là chính thể mà ở đó nguyên thủ quốc gia do
thế tập truyền ngôi, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ cõi “hư vô”, do thiên đình định
đoạt. Chính thể cộng hoà là chính thể nguyên thủ quốc gia do bầu cử lập nên và quyền
lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân.
13


Khi xác định chính thể, trước hết người ta thường dựa vào cách thức thành lập nguyên

thủ quốc gia và nhiệm vụ quyền hạn của nguyên thủ quốc gia. Sau đó, sẽ xét đến cách
thức tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước khác, mà chủ yếu là của các cơ
quan lập pháp và hành pháp.

Từ đây, chúng ta có thể đưa ra một quy trình cho việc xác định chính thể của mọi nhà
nước. Trước hết, phải căn cứ vào người đứng đầu nhà nước - nguyên thủ quốc gia - để
xác định nhà nước đó thuộc loại quân chủ hay dân chủ (cộng hoà). Nếu nguyên thủ quốc
gia được hình thành bằng phương pháp truyền ngôi thì đó là nhà nước quân chủ. Và
ngược lại, nếu nguyên thủ quốc gia được lập nên thông qua bầu cử thì đó là chính thể
cộng hoà.

Các loại hình chính thể: quân chủ và cộng hoà
Thuật ngữ “quân chủ” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Monosarchy” (được ghép từ hai từ
“Monos” có nghĩa là một và “archy” có nghĩa là chính quyền), tức là chính quyền nằm
trong tay một người. Trong chính thể quân chủ, nhà vua - người đứng đầu nhà nước -
được lập nên không thông qua bầu cử, mà do thế tập truyền ngôi; các thần dân, những
thành viên sống trong lãnh thổ quốc gia đó, là những người không có quyền tham gia vào
các công việc nhà nước. Đây là mô hình phổ quát của chế độ chính trị phong kiến, và
trước đó là của chế độ chiếm hữu nô lệ.

Thuật ngữ “cộng hoà” có nguồn gốc từ thành ngữ Hy Lạp “Respublica est res populi”, có
nghĩa là “Nhà nước là công việc của nhân dân”. Mô hình tổ chức nhà nước này xuất hiện
từ thời cổ đại La Mã - Hy Lạp. Nhưng sang đến chế độ chính trị phong kiến nó bị loại
dần, mãi đến chế độ chính trị tư bản mới trở thành mô hình phổ biến. Chế độ chính trị
cộng hoà còn được gọi là chế độ chính trị dân chủ. Dân chủ cũng là thuật ngữ có nguồn
gốc từ cổ Hy Lạp, “Democrat” có nghĩa là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Dựa vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, việc tổ chức nhà nước được áp dụng, được
pha tạp từ hai hình thức trên thành hình thức tổ chức nhà nước của mỗi một nhà nước sở
tại.

14


Mô hình quân chủ thường được tổ chức thành quân chủ tuyệt đối của nhà nước hoàn toàn
theo chế độ phong kiến. Nhà vua có thể thâu tóm mọi quyền hành từ lập pháp, hành pháp
đến tư pháp; nhà vua đứng trên pháp luật và tạo nên một chính thể quân chủ chuyên chế.

Quân chủ hạn chế (hay còn gọi là quân chủ lập hiến) là mô hình tiến bộ hơn: quyền lực
thần bí, truyền ngôi của nhà vua bị hạn chế, phải nhường chỗ cho các thiết chế khác của
nhà nước. Trước hết là cho Quốc hội - cơ quan mới xuất hiện trong cách mạng tư sản do
nhân dân trực tiếp bầu ra, sau đó phải nhường tiếp cho Chính phủ - cơ quan được hình
thành dựa trên cơ sở của Quốc hội. Hiến pháp là văn bản pháp lý thể hiện sự hạn chế này.
Mục đích của sự hạn chế đó là một phần hay còn gọi là cơ sở của tuyên ngôn “quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân”. Đó cũng là một bản cáo chung cho sự ra đi của chế độ
quân chủ chuyên chế.

Thời hiện đại, chính thể quân chủ dường như bị suy tàn một cách dần dần. Những nền
quân chủ còn lại đều là những nền quân chủ lập hiến - nhà vua bị hạn chế quyền lực bởi
bản văn hiến pháp - những ông vua lập hiến. Quyền hạn của nhà vua chỉ còn là hình thức.
Một trong những mô hình phổ biến hiện nay của quân chủ lập hiến là quân chủ đại nghị
(mà hình mẫu của nó là ở các nước như Anh, Nhật, ).

So với thể chế quân chủ thì việc tổ chức Nhà nước theo thể thức cộng hoà có tính chất
dân chủ, tiến bộ hơn. Sở dĩ như vậy là bởi vì việc tổ chức nhà nước này cố gắng đoạn
tuyệt với cách thức tổ chức của chế độ phong kiến. Nguyên thủ quốc gia do bầu cử mà ra.
Trong cách thức tổ chức nhà nước này, nhân dân, ở mức độ khác nhau, là chủ thể được
quyền tham gia vào các công việc nhà nước, được Hiến pháp tuyên bố “quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân”.

Mô thức tổ chức Nhà nước theo chính thể cộng hoà thường chia làm hai loại: Cộng hoà

đại nghị và Cộng hoà tổng thống. Cách phân chia này được xác định trên cơ sở mối quan
hệ giữa hai nhánh quyền lực hành pháp và lập pháp. Nếu hai nhánh quyền lực này phụ
thuộc và có sự phối kết hợp với nhau thì thuộc loại hình đại nghị; còn ngược lại, nếu giữa
chúng không có mối quan hệ nào thì thuộc loại hình tổng thổng.
15


B- CHÍNH THỂ CỘNG HÒA ĐẠI NGHỊ

Chính thể cộng hoà đại nghị (hay còn được gọi là chính thể cộng hoà nghị viện) là chính
thể mà ở đó nguyên thủ quốc gia được hình thành không thông qua con đường thế tập
truyền ngôi, mà bằng phương pháp bầu cử và Nghị viện, về nguyên tắc, là cơ quan đóng
vai trò quan trọng hơn mọi cơ quan nhà nước khác trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước.

Nguyên thủ quốc gia không có thực quyền

Phân tích dấu hiệu chính thể cộng hoà đại nghị, nhiều nhà nghiên cứu luật học và chính
trị học cho rằng, chính thể cộng hoà đại nghị là chính thể có nhiều đặc điểm giống như
chính thể quân chủ đại nghị, chỉ khác về nguyên thủ quốc gia. Nếu nguyên thủ quốc gia
được hình thành do thế tập, truyền ngôi thì gọi là quân chủ đại nghị và nếu được hình
thành thông qua bầu cử (thường là dựa trên cơ sở của Nghị viện) thì được gọi là cộng hoà
đại nghị.

Vì vậy, cộng hoà đại nghị là chính thể được tổ chức ở những nhà nước có nguyên thủ
quốc gia do Nghị viện bầu ra, Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu không chịu trách nhiệm
trước nguyên thủ quốc gia, mà chỉ chịu trách nhiệm trước Nghị viện.

Bên cạnh việc đồng ý với những dấu hiệu trên, có tác giả còn cho rằng, một số dấu hiệu
không thể thiếu được của chính thể này, đó là việc tuyên bố nguyên tắc quyền lực tối cao

của Nghị viện thành chế độ đại nghị; có chức danh Thủ tướng và sự tham gia một cách
hình thức của nguyên thủ quốc gia vào việc thành lập chính phủ; nguyên thủ quốc gia
được hiến pháp quy định rất nhiều quyền hạn, nhưng trên thực tế không trực tiếp tham
gia vào việc giải quyết các công việc của nhà nước.

16

Nguyên thủ quốc gia của chính thể này được thành lập dựa trên cơ sở của Nghị viện, do
Nghị viện bầu ra, hoặc dựa trên cơ sở của Nghị viện (có thêm các thành phần khác như là
đại diện của các lãnh địa trực thuộc), mà không do nhân dân trực tiếp bầu ra. Chính việc
không do nhân dân trực tiếp bầu ra Tổng thống, theo quan điểm của các nhà luật học, là
nguyên nhân không cho phép nguyên thủ quốc gia có thực quyền.

Ở tất cả các nước theo chính thể này, hiến pháp (hoặc tục lệ) không quy định nguyên thủ
quốc gia là người đứng đầu hành pháp và cũng không là thành viên của hành pháp. Nếu
có quy định đi chăng nữa thì nguyên thủ quốc gia không bao giờ thực hiện được một cách
đích thực những quyền này.

Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện

Cũng giống như đặc điểm hình thành nên chính thể quân chủ đại nghị, chính phủ - hành
pháp, trung tâm của bộ máy nhà nước được hình thành dựa trên cơ sở của Nghị viện, nên
Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Đây là đặc điểm chính yếu của chính
thể đại nghị, kể cả cộng hoà đại nghị lẫn của quân chủ đại nghị.

Nguyên tắc "Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nghị viện" là cơ sở cho việc Nghị
viện có thể lật đổ Chính phủ và người đứng đầu Chính phủ có quyền hoặc yêu cầu
nguyên thủ quốc gia giải tán Nghị viện.

Còn Tổng thống thì… vô trách nhiệm

Về cơ bản, các nước theo chính thể cộng hoà đại nghị, giống như các nước theo chính thể
quân chủ đại nghị, đều tuyên bố nguyên tắc: nguyên thủ quốc gia “không chịu trách
nhiệm”. Điều 90 của Hiến pháp Italia tuyên bố: “Tổng thống nước cộng hoà không chịu
trách nhiệm các hoạt động của mình trong thời gian đảm nhiệm chức vụ, trừ trường hợp
phản bội Tổ quốc hoặc hành động xâm phạm tới Hiến pháp”. Hiến pháp của Hy Lạp cũng
quy định một điều khoản tương tự (Khoản 1 Điều 49). Bên cạnh thông lệ này, còn có
nước vẫn quy định trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia. Ví dụ, Hiến pháp của nước
Cộng hoà Áo quy định việc chịu trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia: “Tổng thống liên
17

bang chịu trách nhiệm việc thực hiện chức năng của mình trước Quốc hội liên bang”
(Điều 142).

Nói chung, khi bàn về nhiệm vụ, quyền hạn của nguyên thủ quốc gia ở chính thể cộng
hoà đại nghị, các nhà luật học tư sản đều thừa nhận rằng, thực chất nguyên thủ quốc gia
không tham gia vào việc lãnh đạo quốc gia, không có quyền đích thực ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật và cũng không có những quyền hạn đặc biệt nào. Trong tác
phẩm của mình, Bayme viết: “Chức danh Tổng thống Cộng hoà Liên bang Đức gắn liền
với nhiệm vụ có tính cách đại diện hơn là thẩm quyền quyết định các công việc của nhà
nước”.
Nguyên thủ quốc gia trong chính thể cộng hoà đại nghị không khác nào địa vị của nhà
vua hoặc nữ hoàng trong chính thể quân chủ đại nghị, theo nguyên tắc:
"Nhà Vua trị vì nhưng không cai trị"
Một số hiến pháp quy định tính trung lập không đảng phái của nguyên thủ quốc gia ở loại
hình chính thể này, để tỏ rõ sự vô tư của nguyên thủ quốc gia. Khi một người được bầu
làm tổng thống thì người đó phải từ bỏ đảng phái (CHLB Đức, Italia). Nhưng trên thực
tế, quy định này rất khó thực hiện. Bởi vì, việc được bầu vào chức danh tổng thống, trước
hết bắt đầu bằng việc được đảng giới thiệu ra ứng cử tổng thống, hoặc chí ít phải được sự
ủng hộ của đảng khi ra tranh cử.


Đặc biệt, khi phân tích chế định “phó thự”, có thể thấy rằng, nguyên thủ quốc gia không
thể hoạt động trung lập. Mọi văn bản của Tổng thống chỉ có hiệu lực thực thi trên thực tế
khi có chữ ký “phó thự” của các hàm bộ trưởng hoặc trên bộ trưởng (Thủ tướng người
đứng đầu bộ máy hành pháp). Quy định này đã tước hẳn quyền quyết định đích thực của
Tổng thống. Và cũng chính vì vậy, Tổng thống mới có cơ sở “là vô trách nhiệm”, chính
người ký phó thự mới là người chịu trách nhiệm văn bản do Tổng thống ban hành. Theo
thông lệ, không thể bắt người không có quyền lại phải đứng ra gánh chịu trách nhiệm.

Nhưng vẫn cần có nguyên thủ quốc gia

18

Về mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với chính phủ, đa số các nước tư sản theo loại
hình chính thể cộng hoà đại nghị đều quy định Tổng thống có quyền bổ nhiệm người
đứng đầu chính phủ. Nhưng quy định bổ nhiệm và tiêu chuẩn của người đứng đầu chính
phủ như thế nào lại không được pháp luật quy định rõ.

Thay cho sự thiếu hụt này của hiến pháp thành văn là quy định của tập tục không thành
văn: Người đứng đầu bộ máy hành pháp phải có sự ủng hộ của đa số nghị sĩ trong nghị
viện. Hay nói một cách khác hơn, nguyên thủ quốc gia - Tổng thống nước cộng hoà đại
nghị - không thể bổ nhiệm một người nào đó khác hơn là thủ lĩnh của đảng chiếm đa số
ghế trong nghị trường làm người đứng đầu bộ máy hành pháp.

Những điều phân tích trên có bao hàm nghĩa, nguyên thủ quốc gia không còn một vị trí
vai trò nào đích thực trong chính thể đại nghị. Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu,
vai trò của nguyên thủ quốc gia của chính thể cộng hoà đại nghị cũng như của nhà vua
trong chính thể quân chủ đại nghị chỉ có thể được đánh giá cao trong những trường hợp
đất nước bị khủng hoảng. Trong tình trạng khủng hoảng, Tổng thống mới có điều kiện
độc lập hành động mà không phụ thuộc vào các đảng phái chính trị. Nguyên thủ quốc gia
như là một chế định tiềm tàng của nhà nước hòng giải quyết những tình trạng khủng

hoảng chính trị có thể xảy ra.

Theo quy định của Hiến pháp Cộng hoà Liên bang Đức, Tổng thống liên bang có quyền
đề nghị ứng cử viên Thủ tướng để Hạ nghị viện bỏ phiếu. Trong vòng 14 ngày, nếu ứng
cử viên của Tổng thống không nhận được đa số tuyệt đối số phiếu thuận thì Hạ nghị viện
có quyền bầu ứng cử viên của mình. Trong trường hợp vẫn không bầu được Thủ tướng,
Tổng thống có quyền bổ nhiệm Thủ tướng theo ý mình người nào có nhiều phiếu hơn
hoặc giải tán Hạ nghị viện.

Nói tóm lại, ở loại hình chính thể cộng hoà đại nghị có nhiều đặc điểm cơ bản như chính
thể quân chủ đại nghị, chỉ khác chính thể quân chủ ở chỗ, nguyên thủ quốc gia không do
thế tập truyền ngôi, mà do Nghị viện hoặc dựa trên cơ sở nghị viện bầu ra, mặc dù được
hiến pháp quy định là một quyền hạn hết sức rộng rãi, nhưng mọi hoạt động của nguyên
thủ đều có sự đề nghị, yêu cầu từ phía hành pháp. Nhánh hành pháp cùng với người đứng
đầu hành pháp ngày càng trở thành cơ quan trung tâm thực hiện chủ yếu quyền lực nhà
19

nước, được thành lập dựa trên cơ sở của Nghị viện và phải chịu trách nhiệm trước Nghị
viện; Chính phủ - hành pháp chỉ được hoạt động khi vẫn còn sự tín nhiệm của Nghị viện.
Khi không còn sự tín nhiệm, thì chính phủ có thể bị lật đổ và kèm theo đó, Nghị viện có
thể bị giải tán. Đó cũng là những dấu hiệu quan trọng của chế độ quân chủ đại nghị.
C- CHÍNH THỂ QUÂN CHỦ ĐẠI NGHỊ

Quân chủ đại nghị loại hình tổ chức nhà nước phổ biến tại các nước hiện còn duy trì chế
độ vương quyền (như Anh, Nhật Bản, Tây Ban Nha, ). Loại hình tổ chức nhà nước này
có ưu điểm là vừa phát huy được dân chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, lại vừa
gìn giữ được sự ổn định cho tầng lớp quý tộc phong kiến cũ, mặc dù tầng lớp này đã hết
vai trò chính trị. Mẫu hình của việc tổ chức nhà nước theo chính thể quân chủ đại nghị là
Anh quốc.


Mô hình quân chủ Anh quốc được coi là xuất phát điểm của mọi mô hình tổ chức nhà
nước hiện nay. Có thể nói rằng, mọi thể chế dân chủ đương đại đều có gốc tích từ Anh
quốc. Và Anh quốc có thể được xem như là quê hương của các thiết chế dân chủ cổ điển.
Nhà nước Mỹ quốc hiện nay là điển hình của các nhà nước được tổ chức theo hình thức
chính thể tổng thống cộng hoà, nhưng lại có sự rút kinh nghiệm từ chính nhà nước Anh
quốc.
Điều kỳ lạ là ở chỗ, các thiết chế của nhà nước Anh quốc được hình thành và tồn tại cho
mãi đến hiện nay, là kết quả của một sự vận động dần dần từng bước một của lịch sử thực
tế, như “một bức tường gạch được xây nên, theo một nguyên tắc hết viên gạch thứ nhất,
rồi mới được viên gạch thứ hai, không có điều ngược lại”, không theo một lý thuyết nào
cho trước. Chính Montesquieu, một trong những người sáng lập học thuyết phân quyền,
đã quan sát thực tế việc tổ chức nhà nước Anh, chứ không phải của nước Pháp (quê
hương ông) để phân tích sự phân chia quyền lực nhà nước. Vì vậy, đặc điểm của loại hình
quân chủ đại nghị cũng là đặc điểm của nhà nước Anh quốc.

Nguyên thủ quốc gia do thế tập truyền ngôi
Ở chính thể này, nguyên thủ quốc gia là các vị Hoàng đế (được truyền ngôi cho con), còn
chính phủ - bộ máy hành pháp - được thành lập và được hoạt động khi nào vẫn còn sự tín
nhiệm của Hạ nghị viện. Các bộ trưởng và người đứng đầu hành pháp phải chịu trách
20

nhiệm trước Nghị viện (Hạ viện). Trên thực tế, việc thành lập và hoạt động của các chính
phủ đều nằm trong tay đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện. Nhà vua hầu như không
tham gia vào giải quyết các công việc của nhà nước, theo một loạt những nguyên tắc, mà
sau này đã trở thành những thành ngữ dân gian:
"Nhà vua trị vì nhưng không cai trị"
"Nhà vua không bao giờ làm sai"
"Nhà vua không hại ai cả"
"Nhà vua không chịu trách nhiệm gì"
"Nhà vua không có quyền nên không gánh vác trách nhiệm"

Nhà vua được tuyệt đối hoá trở thành một nhân vật siêu phàm, tượng trưng cho sự độc
lập vĩnh hằng của dân tộc. Nhà vua hay nữ hoàng bị tước bỏ dần dần mọi quyền năng.
Lúc đầu thì phải nhường quyền năng lập pháp cho Quốc hội, sau đó dần dần lại phải
nhường tiếp quyền điều hành đất nước cho hành pháp (Chính phủ), mà đứng đầu là Thủ
tướng. Nhà vua hay nữ hoàng chỉ còn lại một phần của quyền hành pháp. Đó là hành
pháp tượng trưng. Sự nhường quyền dần dần này của nhà vua hay nữ hoàng hoàn toàn
phụ thuộc vào sự thắng lợi của Cách mạng Tư sản.

Nhà vua/Nữ hoàng- biểu tượng của sự thống nhất quốc gia
Khi còn ở thời kỳ đầu của cách mạng, giai cấp tư sản không đủ sức đánh đổ hoàn toàn
giai cấp phong kiến nên buộc phải chia sẻ quyền lực nhà nước cho người đại diện giai
cấp này là nhà vua. Sau này, theo tiến trình lịch sử, cùng với sự khẳng định chỗ đứng của
giai cấp tư sản và sự suy tàn của giai cấp phong kiến, đã dẫn đến vai trò ngày càng hình
thức của nhà vua.
Sự hình thức này có một ví dụ điển hình là: Nữ hoàng Elizabeth II không những là
nguyên thủ quốc gia của nước Anh, mà còn là nguyên thủ quốc gia của Canada và
Australia. Mặc dù là một quốc gia độc lập, Australia cũng như Canada vẫn duy trì mối
quan hệ chặt chẽ với nước Anh và trung thành với nữ hoàng Anh - người về mặt danh
nghĩa chính thức cũng là nữ hoàng của Australia và của Canada. Giúp việc cho nữ hoàng
ở các nước trên có chức danh Toàn quyền của nữ hoàng.
Tính hình thức của nữ hoàng Anh quốc đã dẫn đến một sự kiện: Cách đây không lâu,
khoảng năm cuối thế kỷ XX, một nghị sĩ thuộc Công đảng, ông W.Benn trình lên Nghị
21

viện bản dự luật đề nghị xoá bỏ chế độ quân chủ khỏi đời sống chính trị - xã hội của nước
Anh. Nhưng xét thấy nữ hoàng vẫn còn có những vai trò quyết định trong xã hội, Nghị
viện Anh đã gạt bỏ dự luật này. Với đầu óc “hoài cổ thực dụng”, dân chúng Anh vẫn mến
mộ nữ hoàng và hoàng gia. Đây là biểu tượng của nước Anh thống nhất. Trong lúc nội
các tượng trưng cho uy quyền, thì nữ hoàng tượng trưng cho sự chính đáng.
Với chức năng là biểu tượng cho sự bền vững của dân tộc, nguyên thủ quốc gia của các

chính thể quân chủ có một vị trí rất quan trọng trong những thời điểm mà nền an ninh,
chủ quyền độc lập của các quốc gia bị xâm phạm. Khi nền an ninh của các quốc gia bị vi
phạm, với tư cách là người đứng đầu, biểu tượng cho sự bền vững của dân tộc, nhà vua
phải đứng ra kêu gọi tinh thần yêu nước, sự hy sinh của thần dân bảo vệ đất nước.
Sự kiện ở Tây Ban Nha là một điển hình để chứng minh cho điều đó. Tháng 2/1981,
nhóm quân nhân bạo loạn, dưới sự chỉ huy của đại tá Atanio Tejero Molina, đã xông vào
toà nhà Quốc hội hòng lật đổ chính quyền. Vua Carlos Tây Ban Nha đã xử sự rất đúng
với tư cách là vị Hoàng đế. Ông đã lệnh cho tướng Milans Bosch, thủ lĩnh giấu mặt của
đám binh lính tạo phản, phải lập tức đầu hàng. Trên các kênh vô tuyến truyền hình, nhà
vua khẳng định: “Cuộc đảo chính nhằm vào chính nhà vua và ông không chịu khuất
phục”; rằng “Những kẻ bạo loạn sẽ phải gánh chịu mọi trách nhiệm, nếu xảy ra nội
chiến”. Trước thái độ kiên quyết của Hoàng đế, nhóm phiến loạn đã phải đầu hàng. Tổ
quốc thời yên ả, nhà vua sẵn lòng lui về hậu trường chính trị. Việc quản lý đất nước lại
được giao cho các vị bộ trưởng, mà đứng đầu là Thủ tướng.
Đây cũng là một lý do quan trọng cho việc tồn tại của chế định nguyên thủ quốc gia trong
chế độ quân chủ đại nghị. Nguyên thủ quốc gia của các nhà nước này được nhiều nhà
khoa học phân tích là hành pháp tượng trưng - một phần của hành pháp. Trong khi đó,
Thủ tướng là người đứng đầu hành pháp, có quyền điều hành thực sự - gọi là hành pháp
thực quyền.

Nghị viện là tối cao
Trong chính thể quân chủ đại nghị, nghị viện là cơ quan có vai trò tối cao. Chính vì sự tối
cao này mà mô hình tổ chức của nhà nước được gọi là chính thể đại nghị. Nghị viện có
quyền giải quyết mọi vấn đề của nhà nước, hay chí ít thì những vấn đề của nhà nước phải
được giải quyết dựa trên cơ sở của nghị viện.
Từ đặc điểm này mà một đặc điểm quan trọng của chính thể quân chủ đại nghị đã được
hình thành: chính phủ phải được Nghị viện thành lập từ thành phần Hạ nghị viện. Từ đó
22

hình thành nên một đặc điểm quan trọng nhất của loại hình tổ chức nhà nước này: Chính

phủ chỉ được hoạt động khi vẫn còn sự tín nhiệm của Nghị viện. Trong trường hợp không
còn sự tín nhiệm của Nghị viện, thì Chính phủ phải từ chức, Nghị viện thành lập ra Chính
phủ mới. Trong trường hợp không thành lập được Chính phủ mới thì Nghị viện bị giải
tán. Mặc dù Nghị viện là cơ quan lập pháp, nhưng có một nhiệm vụ quan trọng trên hết
và phải thực hiện trước khi lập pháp là phải thành lập ra Chính phủ, (trong trường hợp
không thành lập được Chính phủ, Nghị viện có thể phải giải tán).
Khác căn bản với chế độ tổng thống, ngoài việc phải thực hiện chức năng cơ bản của
mình là lập pháp, Nghị viện còn phải thành lập chính phủ và phải giám sát chính phủ. Ở
đây, chính phủ có thể bị lật đổ theo quyết định của Nghị viện, hoặc có thể tự rút lui theo
quyết định của người đứng đầu chính phủ.
Giải thích hiện tượng này, nhiều học giả viện lý do nguồn gốc của nó là xuất phát từ nước
Anh. Vì rằng, nước Anh không những có chế độ quân chủ lập hiến sớm nhất, mà còn là
nơi thử nghiệm đầu tiên chế độ quân chủ nghị viện, một hình thức cao của quân chủ lập
hiến, ở đó thực hiện một quyền lực nhà nước đầy đủ của giai cấp tư sản, nhưng vẫn tồn
tại một nhà vua làm đại diện cho giai cấp địa chủ, phong kiến đã lỗi thời. Trong khi đó,
Nghị viện Anh được cơ cấu hai viện, chỉ có Hạ viện mới được nhân dân trực tiếp bầu ra,
thể hiện ý chí của giai cấp tư sản. Vì vậy, Chính phủ được thành lập dựa trên cơ sở của
Hạ viện và chỉ chịu trách nhiệm trước Hạ viện, mà không chịu trách nhiệm thực sự trước
nhà vua.

Một số vấn đề về chủ nghĩa hợp hiến

Có một câu chuyện kể rằng, loài ếch cần một trật tự để sinh tồn nhưng Thượng đế lại sai
rắn duy trì trật tự cho ếch. Nếu không có rắn, ếch sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn vì không
có người duy trì trật tự; nhưng bản thân rắn cũng lại là một mối nguy hại đối với ếch, có
thể thôn tính ếch

1. Khái niệm chủ nghĩa hợp hiến (constitutionalism)
Có một câu chuyện kể rằng, loài ếch cần một trật tự để sinh tồn nhưng Thượng đế lại sai
rắn duy trì trật tự cho ếch. Nếu không có rắn, ếch sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn vì không

có người duy trì trật tự; nhưng bản thân rắn cũng lại là một mối nguy hại đối với ếch, có
23

thể thôn tính ếch. Tương tự như vậy, loài người phải cần đến quyền lực nhà nước để duy
trì một đời sống trật tự và phát triển; nhưng loài người cũng lại phải đối mặt với những
tác hại mà quyền lực nhà nước mang đến.
Quyền lực nhà nước khi bị tha hoá sẽ trở thành công cụ thoả mãn lợi ích của những người
nắm giữ và quay trở lại trấn áp xã hội: chính quyền chủ nô coi người bị trị như những
công cụ biết nói; chính quyền phong kiến đàn áp đẫm máu các cuộc nổi dậy của nông
dân; tham nhũng đang lan toả như một bệnh dịch toàn cầu… Sự nguy hiểm của quyền lực
nhà nước gắn với bản chất của nó. Thuộc tính của quyền lực là lạm quyền. Ai có quyền
lực cũng có xu hướng lạm quyền. Hobbes, một triết gia lớn người Anh đã nói: "Trước
hết, tôi kể trong xu hướng tổng quát của tất cả nhân loại, một sự thèm khát thường trực và
không nguôi hết quyền lực này đến quyền lực khác và sự thèm khát ấy chỉ chấm dứt với
cái chết mà thôi. Khát vọng quyền lực không phải chỉ giới hạn trong một số ít người có
tham vọng, mà nó hiện hữu phổ biến ở tất cả mọi người. Do đó, tất cả những gì mà con
người có thể quan niệm là đang thèm muốn vì sự khoái lạc nó đem lại - như kiến thức,
nghệ thuật, sự nhàn tản, sự bình thản - thì mọi thứ ấy đều phụ thuộc vào sự đòi hỏi có
quyền lực và chỉ được phán đoán trên căn bản quyền lực của con người”[1]. Đối với
quyền lực chính trị thì nguy cơ lạm quyền lại càng cao vì đây là một thứ quyền lực có tác
động phổ biến nhất trong xã hội và đem lại lợi ích cho người nắm giữ quyền lực nhiều
nhất. Một nhà cách mạng Pháp đã diễn đạt ý tưởng này trong câu nói: “Cai trị thì ngây
thơ vô tội sao được”[2].
Nỗi nguy hiểm của quyền lực nhà nước đã đánh thức lương tâm nhân loại. Từ rất sớm,
khi quyền lực nhà nước mới được hình thành thì con người đã nghĩ đến những phương kế
để chống lại sự tha hoá của quyền lực. Từ những yêu sách đối với đạo đức của nhà cầm
quyền đến những định chế giám sát kiểu như Ngự sử đài đều là những giải pháp để chống
lại sự tha hoá của quyền lực nhà nước. Xã hội ngày càng tiến bộ, suy nghĩ của loài người
về các biện pháp kiểm soát quyền lực ngày càng hoàn thiện hơn. Theo dòng phát triển đó,
chủ nghĩa hợp hiến đã ra đời với những ý tưởng cách mạng về kiểm soát quyền lực nhà

nước.
Chủ nghĩa hợp hiến ra đời giải quyết được bài toán của loài người là vừa cần quyền lực
nhà nước lại vừa có thể tránh khỏi những nguy hiểm do nó mang lại. “Bất cứ cơ quan nào
sử dụng quyền lực đủ để bảo vệ tôi chống lại sự cướp bóc của người hàng xóm của tôi,
cũng có thể sử dụng quyền lực đó để huỷ hoại tôi hoặc biến tôi thành nô lệ. Sự nghịch lý
này dựa trên nền tảng của lý thuyết về nhà nước tự nhiên hiện đại. Làm sao chúng ta có
thể thoát khỏi tình trạng vô chính phủ mà không rơi vào chế độ chuyên chế? Làm sao
chúng ta có thể trao cho người cai trị quyền kiểm soát người bị trị trong khi bảo đảm rằng
khối quyền lực khổng lồ này không bị lạm dụng? Giải pháp dân chủ tự do đối với vấn đề
24

này là chủ nghĩa hợp hiến… Chính quyền tự do là một sự canh tân đối với lý do này, bởi
vì nó có ý nghĩa để giải quyết vấn đề giữa vô chính phủ và chuyên chế trong vòng những
hệ thống các quy tắc gắn kết, độc lập”[3].
Chủ nghĩa hợp hiến là “khái niệm về một chính quyền hữu hạn mà thẩm quyền tối hậu
của nó là tuân theo sự đồng ý của nhân dân”[4]. Hay “Hiến pháp thường được định nghĩa
là tổng thể các quy tắc thành văn hoặc bất thành văn, pháp lý hay siêu pháp quy định về
chính quyền và sự vận hành của nó. Tuy nhiên, có những ý tưởng về sự hạn chế nằm
trong danh từ hiến pháp - ý tưởng về hiến pháp như một sự sắp đặt không chỉ quy định
mà còn giới hạn chính quyền, ít nhất là trong những hoạt động hàng ngày của nó”[5]. Sự
giới hạn đó được gọi là chủ nghĩa hợp hiến. “Chủ nghĩa hợp hiến dân chủ - dựa trên ý
tưởng về các quyền cá nhân và các quyền cộng đồng, và giới hạn quyền lực của chính
quyền - tạo lập khung điều chỉnh một nền dân chủ. Chủ nghĩa hợp hiến nhận thức rằng
một chính quyền dân chủ và có trách nhiệm phải đi liền với những giới hạn mang tính
định chế đối với quyền lực của chính quyền”[6].
Một học giả Trung Quốc trên cơ sở nghiên cứu quan niệm về chủ nghĩa hợp hiến đã đưa
ra định nghĩa mang tính chất diễn giải về chủ nghĩa hợp hiến: “Chủ nghĩa hợp hiến nghĩa
là một hệ thống các sắp xếp về chính trị, theo đó có một đạo luật tối cao (thường được gọi
là hiến pháp), toàn bộ hệ thống chính quyền được điều chỉnh bởi hiến pháp, chỉ có ý chí
của nhân dân (thường được xác định thông qua một quy trình đặc biệt có từ trước, thường

thông qua cơ chế bỏ phiếu đa số tuyệt đối) mới có thể huỷ bỏ hoặc thay đổi đạo luật tối
cao đó, sự thay đổi phải được tiến hành theo một quy trình khó khăn với sự ủng hộ của đa
số, có sự phân quyền và kìm chế, đối trọng quyền lực, và một hệ thống tư pháp độc lập
tài phán về các tranh chấp pháp lý để bảo vệ hiến pháp”[7].
Như vậy, dù có thể có những cách định nghĩa, cách quan niệm khác nhau về chủ nghĩa
hợp hiến, nhưng vấn đề bản chất của chủ nghĩa hợp hiến vẫn là giới hạn chính quyền theo
một quy trình pháp lý để bảo vệ quyền con người.
Một chính quyền hợp hiến trước tiên phải là một chính quyền có hiến pháp thành văn. Ví
dụ, chính quyền Mỹ được giới hạn trong khuôn khổ của bản Hiến pháp Mỹ. Tuy nhiên,
một hiến pháp thành văn không phải là yếu tố quyết định một chính quyền có vận hành
theo chủ nghĩa hợp hiến hay không.Chủ nghĩa hợp hiến không đồng nghĩa với một chính
quyền có hiến pháp thành văn. “Chánh quyền hợp hiến không chỉ có nghĩa là chánh
quyền hợp với điều khoản hiến pháp. Chánh quyền hợp hiến là chánh quyền pháp trị,
không phải chánh quyền chuyên chế, là chánh quyền được điều khoản hiến pháp tiết chế,
không phải chánh quyền chỉ được tiết chế bởi sở vọng hay khả năng của người cầm
quyền. Bởi vậy, có thể có trường hợp chánh quyền một quốc gia được điều khiển đúng
25

với điều khoản của hiến pháp, song hiến pháp chỉ thiết lập cơ cấu chánh quyền, và phó
mặc cho các cơ cấu này tự do hành động. Trường hợp như trên khó có thể coi là một
chánh quyền hợp hiến”[8].
Hơn nữa, một chính quyền không có hiến pháp thành văn cũng có thể trở thành một chính
quyền vận hành trên các nguyên lý của chủ nghĩa hợp hiến. Nước Anh là ví dụ điển hình
cho trường hợp này. Nước Anh không có một hiến pháp thành văn đơn hành nhưng
người ta đều thừa nhận rằng chính quyền của nước Anh là một chính quyền hợp hiến bởi
nước Anh có nhiều văn bản có sức mạnh của hiến pháp, như: Đại hiến chương Magna
Carta năm 1215, Luật về quyền (Bill of Right) năm 1689, Luật cư trú năm 1701 và những
đạo luật đặc biệt của Nghị viện Anh. Những văn bản này có sức mạnh hạn chế quyền lực
của nhà nước và bảo vệ các quyền tự do của con người ở nước Anh.
Yếu tố bản chất của chủ nghĩa hợp hiến là giới hạn chính quyền chứ không phải hình

thức của hiến pháp. “Khi chúng ta trao đổi về chính quyền hợp hiến, thực ra chúng ta
không phải nói về có hay không một văn kiện đặc biệt đơn hành mà chúng ta quan tâm
đến một loại hình của cách ứng xử chính trị, văn hoá chính trị, truyền thống chính trị, lịch
sử chính trị… Hình thức có thể thay đổi nhưng kết quả ứng xử thì giống nhau: những giới
hạn được đặt ra đối với những gì chính quyền được làm”[9].
Chủ nghĩa hợp hiến hiện đại bắt nguồn từ những tư tưởng chính trị tự do ở Tây Âu và
Mỹ. Để bảo đảm các quyền và tự do của con người, những người soạn thảo hiến pháp đã
nhấn mạnh đến việc kiểm soát đối với những lĩnh vực của quyền lực nhà nước. Chính vì
vậy, chủ nghĩa hợp hiến có thể được coi là sự định chế hoá chủ nghĩa tự do. Chủ nghĩa
hợp hiến là sự tổ chức các định chế quyền lực theo tinh thần tự do. Chủ nghĩa hợp hiến là
một chế độ chính trị tự do.
Một điều cần lưu ý là nói đến khái niệm chủ nghĩa người ta thường đề cập theo hai
phương diện: một hệ thống các tư tưởng và một chế độ được tổ chức dựa trên các tư
tưởng đó. ở đây, khái niệm chủ nghĩa hợp hiến có khi được đề cập đến như một hệ thống
các tư tưởng về giới hạn chính quyền và bảo vệ quyền con người; có khi lại được đề cập
đến một chế độ tổ chức chính quyền dựa trên tinh thần tự do, tức là giới hạn chính quyền
và bảo vệ quyền con người.
2. Các yếu tố cấu thành của chủ nghĩa hợp hiến
Giovanni Sartori định nghĩa chủ nghĩa hợp hiến như là sự cấu thành các yếu tố: 1) có một
đạo luật cao hơn, thành văn hoặc bất thành văn, được gọi là hiến pháp; 2) có chế độ tài
phán hiến pháp; 3) có một hệ thống tư pháp độc lập gồm các thẩm phán độc lập trong
việc giải quyết các tranh chấp pháp lý; 4) quy trình tố tụng đúng về thủ tục; 5) quy trình

×