Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

ảnh hưởng của naphthalene acetic acid đến sinh trưởng và năng suất hai giống lúa om5451 và mtl612

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.33 KB, 47 trang )


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG





NGUYỄN VŨ KHANH




ẢNH HƢỞNG CỦA NAPHTHALENE ACETIC
ACID ĐẾN SINH TRƢỞNG VÀ NĂNG SUẤT
HAI GIỐNG LÚA OM5451 VÀ MTL612







LUẬN VĂN ĐẠI HỌC
NGÀNH: KHOA HỌC CÂY TRỒNG





2014



TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG




LUẬN VĂN ĐẠI HỌC
NGÀNH: KHOA HỌC CÂY TRỒNG




Đề tài:
ẢNH HƢỞNG CỦA NAPHTHALENE ACETIC
ACID ĐẾN SINH TRƢỞNG VÀ NĂNG SUẤT
HAI GIỐNG LÚA OM5451 VÀ MTL612














2014
Cán bộ hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Ts. Nguyễn Thành Hối
Nguyễn Vũ Khanh

MSSV: 3113055

Ngành: Khoa học cây trồng k37
i
Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Khoa học cây trồng:

Ảnh hƣởng của Naphthalene Acetic Acid đến sinh trƣởng và năng
suất hai giống lúa OM5451 và MTL612

Do sinh viên Nguyễn Vũ Khanh thực hiện
Kính trình lên hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp




Cần Thơ, ngày….tháng….năm 2014
Cán bộ hướng dẫn




Ts. Nguyễn Thành Hối
ii
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG


Hội đồng chấm luận văn đã chấp nhận luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Khoa
học cây trồng với đề tài:

Ảnh hƣởng của Naphthalene Acetic Acid đến sinh trƣởng và năng
suất hai giống lúa OM5451 và MTL612

Do sinh viên Nguyễn Vũ Khanh thực hiện và bảo vệ trước Hội đồng.
Luận văn được hội đồng đánh giá ở mức:
Ý kiến của Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp:





Cần Thơ, ngày tháng năm 2014

Thành viên Hội đồng







DUYỆT KHOA
Trưởng khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng







iii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ luận văn nào trước đây.

Cần Thơ, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn




Nguyễn Vũ Khanh









iv

LÝ LỊCH CÁ NHÂN

Họ và tên: Nguyễn Vũ Khanh Giới tính: Nam
Sinh ngày: 21/11/1991 Dân tộc: Kinh
Nơi sinh: Ấp Chiến Thắng, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang
Số điện thoại: 01676258208
Họ và tên cha: Nguyễn Văn Khuyến Năm sinh: 1970
Họ và tên mẹ: Huỳnh Thu Hương Năm sinh: 1966
Quê quán: Ấp Chiến Thắng, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang
Quá trình học tập:
Năm 2010: tốt nghiệp trung học phổ thông tại trường THCS Vĩnh Tuy,
huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.
Năm 2011-2014: sinh viên ngành Khoa học cây trồng khóa 37, khoa
Nông nghiệp & SHƯD, trường Đại học Cần Thơ.

Cần Thơ, ngày….tháng….năm 2014
Người khai





Nguyễn Vũ Khanh





v
LỜI CẢM TẠ

Kính dâng
Kính dâng lên cha mẹ lòng biết ơn vô hạn đã suốt đời tận tụy chăm lo
cho tương lai, sự nghiệp của con.
Tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
Thầy Nguyễn Thành Hối đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt
những kiến thức quý báo trong suốt quá trình làm luận văn. Thầy Mai Vũ Duy
đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình làm luận văn.
Chân thành cảm ơn
Cô cố vắn học tập và tất cả các quý thầy cô, các anh chị cán bộ khoa
Nông nghiệp & SHƯD đã dạy dỗ và truyền đạt những kiến thức quý báo trong
suốt thời gian em học tập và làm luận văn tại trường.
Các bạn Phạm Trần Phú, Mai Văn Thân và các bạn khác đã giúp đỡ tôi
trong quá trình làm luận văn.
Thân gởi đến.
Các bạn lớp Khoa học cây trồng K37 lời chúc mạnh khỏe, hạnh phúc và
thành công trong cuộc sống.

















vi
Nguyễn Vũ Khanh, 2014. Ảnh hưởng của Naphthalene Acetic Acid đến sinh
trưởng và năng suất hai giống lúa OM5451 và MTL612. Luận văn tốt nghiệp
Kỹ sư ngành Khoa học cây trồng. Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng.
Trường Đại học Cần Thơ. Cán bộ hướng dẫn: Ts. Nguyễn Thành Hối. 29
trang.

TÓM LƢỢC

Đề tài “Ảnh hưởng của Naphthalene Acetic Acid đến sinh trưởng và
năng suất hai giống lúa OM5451 và MTL612” được thực hiện nhằm mục tiêu
tìm ra nồng độ Naphthalene Acetic Acid thích hợp đến sự sinh trưởng và năng
suất của hai giống lúa OM5451 và MTL612. Thí nghiệm được thực hiện trong
chậu vụ Hè Thu từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2014, tại nhà lưới thuộc Bộ môn
Khoa học Cây trồng, Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng, Trường Đại
học Cần Thơ. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên thừa
số hai nhân tố. Nhân tố thứ nhất là hai giống lúa OM5451 và MTL612. Nhân
tố thứ hai là 4 nồng độ NAA (0, 50, 100 và 200 mg/l). Kết quả cho thấy sử
dụng chất điều hòa sinh trưởng Naphthalene Acetic Acid ở các nồng độ 50,
100 và 200 mg/l không có tác dụng làm tăng chiều cao, số chồi, các yếu tố cấu
thành năng suất, năng suất thực tế và chỉ số thu hoạch (HI) của hai giống lúa
OM5451 và MTL612.

vii
MỤC LỤC

Đề mục
Trang

TRANG PHỤ BÌA
i
LỜI CAM ĐOAN
iii
LÝ LỊCH CÁ NHÂN
iv
LỜI CẢM TẠ
v
TÓM LƯỢC
vi
MỤC LỤC
vii
DANH SÁCH BẢNG
ix
DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT
x
CHƢƠNG 1: MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 2: LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU
2
2.1 Nguồn gốc cây lúa
2
2.2 Đặc tính thực vật của cây lúa
2
2.2.1 Rễ lúa
2
2.2.2 Thân lúa
2
2.2.3 Lá lúa
3

2.2.4 Bông và hoa lúa
4
2.2.5 Hạt lúa
5
2.3 Các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa
5
2.3.1 Giai đoạn tăng trưởng
5
2.3.2 Giai đoạn sinh sản
5
2.3.3 Giai đoạn chín
6
2.4 Đặc điểm sinh thái của cây lúa
6
2.4.1 Nhiệt độ
6
2.4.2 Ánh sáng
7
2.4.3 Lượng mưa
7
2.5 Các yếu tố cấu thành năng suất
8
2.5.1 Số bông trên đơn vị diện tích
8
2.5.2 Số hạt trên bông
8
2.5.3 Tỷ lệ hạt chắc
9
2.5.4 Khối lượng 1000 hạt
9

2.5.5 Chỉ số thu hoạch (HI)
10
2.6 Đặc điểm của hai giống lúa OM5451 và MTL612
11
2.6.1 Đặc điểm của giống lúa OM5451
11
2.6.2 Đặc điểm của giống lúa MTL612
11
2.7 Chất điều hòa sinh trưởng Naphthalene Acetic Acid
11
2.7.1 Đinh nghĩa
11
viii
2.7.2 Vị trí tổng hợp và vai trò của auxin trong cây
11
2.7.3 Cơ chế
12
2.8 Những ứng dụng của NAA trong nông nghiệp
13
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG TIỆN VÀ PHƢƠNG PHÁP
15
3.1 Phương tiện thí nghiệm
15
3.1.1 Thời gian và địa điểm thí nghiệm
15
3.1.2 Vật liệu thí nghiệm
15
3.2 Phương pháp thí nghiệm
15
3.2.1 Bố trí thí nghiệm

15
3.2.2 Chuẩn bị đất, hạt giống và gieo hạt
16
3.2.3 Bón phân
16
3.2.4 Chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và chim chuột
16
3.2.5 Thu hoạch
16
3.3 Các chỉ tiêu theo dõi
17
3.3.1 Chỉ tiêu nông học
17
3.3.2 Các yếu tố cấu thành năng suất, năng suất thực
tế và chỉ số thu hoạch (HI)
17
3.4 Phân tích số liệu thống kê
18
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
19
4.1 Tổng quan về thí nghiệm
19
4.2 Đặc tính nông học
19
4.2.1 Chiều cao cây
19
4.2.2 Số chồi trên chậu
20
4.3 Các yếu tố cấu thành năng suất
22

4.3.1 Số bông trên chậu
22
4.3.2 Số hạt trên bông
22
4.3.3 Tỷ lệ hạt chắc
22
4.3.4 Khối lượng 1000 hạt
23
4.4 Năng suất thực tế và chỉ số thu hoạch (HI)
24
4.4.1 Năng suất thực tế
24
4.4.2 Chỉ số thu hoạch (HI)
25
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
26
5.1 Kết luận
26
5.2 Đề nghị
26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
27

ix
DANH SÁCH BẢNG

Bảng
Tên bảng
Trang
4.1

Chiều cao (cm) của hai giống lúa OM5451 và MTL612 theo
các nồng độ NAA ở các thời điểm sinh trưởng trồng trong
chậu vụ Hè Thu năm 2014
20
4.2

Số chồi/chậu của hai giống lúa OM5451 và MTL612 theo
các nồng độ NAA ở các thời điểm sinh trưởng trồng trong
chậu vụ Hè Thu năm 2014
21


4.3
Các yếu tố cấu thành năng suất hai giống lúa OM5451 và
MTL612 theo các nồng độ NAA trồng trong chậu vụ Hè
Thu năm 2014
24
4.4
Năng suất thực tế (g/chậu) và chỉ số HI của hai giống lúa
OM5451 và MTL612 theo các nồng độ NAA trồng trong
chậu vụ Hè Thu năm 2014
25


x
DANH SÁCH NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

ABA: Abcicis acid
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
HI: Harvest index

NAA: Naphthalene Acetic Acid
NSKG: Ngày sau khi gieo





























1
CHƢƠNG 1
MỞ ĐẦU
Lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây lương thực quan trọng
hàng đầu thế giới (Niamatullah et al., 2010). Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê (2014), sản lượng lúa vụ Đông Xuân 2013-2014 (giữa tháng 11 - tháng 6)
đạt khoảng 20,8 triệu tấn, tăng 4% so với 20 triệu tấn năm 2013. Hiện nay,
ngoài các biện pháp sử dụng phân bón lá nhằm tăng năng suất thì việc ứng
dụng các chất điều hòa sinh trưởng trong sản xuất nông nghiệp đóng một vai
trò quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển của thực vật (Pan, 1999 and
Amarjit, 2000). Naphthalene Acetic Acid (NAA) là chất điều hòa sinh trưởng
có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và năng suất của thực vật với nhiều mức độ
khác nhau. NAA là auxin tổng hợp đóng vai trò quan trọng trong kéo dài tế
bào, phân chia tế bào và mô mạch (Davies, 1987).
Một số nghiên cứu về Naphthalene Acetic Acid trong nông nghiệp như:
trên ngũ cốc NAA đã được sử dụng để thúc đẩy tăng trưởng và năng suất
(Lilani et al., 1991); việc sử dụng NAA đã cho thấy hiệu quả tốt hơn trong
việc nâng cao sản lượng rơm và hạt lúa mì (Alam et al., 2002). Ngoài ra, áp
dụng chất điều hòa sinh trưởng NAA trên lúa đã cho năng suất cao trên giống
lúa IR-6 (Bakhsh et al., 2011), theo Adam and Jahan (2011), trên hai giống lúa
BRRI Dhan-29 và BRRI Dhan-50 thì nồng độ 100 mg/l NAA là thích hợp
nhất trên cả hai giống và cho năng suất tốt nhất trên giống lúa BARI Gom-26
ở nồng độ 50 mg/l (Adam and Jahan, 2013),… Tuy nhiên, hai giống lúa
OM5451 và MTL612 là hai giống lúa mới được lai tạo (Viện nghiên cứu phát
triển Đồng bằng sông Cửu Long, 2010), có khả năng chống chịu bệnh, cho
năng suất khá cao, ổn định và đã được canh tác khá nhiều tại Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) nhưng những ứng dụng về chất điều hòa sinh trưởng giúp
tăng năng suất của hai giống lúa này vẫn còn hạn chế.
Vì vậy, đề tài được thực hiện nhằm tìm ra nồng độ Naphthalene Acetic
Acid (NAA) thích hợp đến sự sinh trưởng và năng suất của hai giống lúa

OM5451 và MTL612.





2
CHƢƠNG 2
LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Nguồn gốc cây lúa
Theo Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999), cây lúa trồng Oryza
sativa L. là một loài thân thảo, thời gian sinh trưởng của các giống khác nhau
và nằm trong khoảng 60-250 ngày.
Về phương diện thực vật học lúa trồng như hiện nay là lúa dại Oryza
fatua hình thành thông qua một quá trình chọn lọc nhân tạo lâu dài, loài lúa
thường gặp ở Ấn Độ, Nam Việt Nam, vùng Đông Nam Trung Quốc, Thái Lan
và Myanma.
Họ hàng với cây lúa trồng là các loài trong chi Oryza, người ta đã khảo
sát và thấy có 22 loài trong chi Oryza 24 hoặc 28 nhiễm sắc thể. Trong số 22
loài của chi Oryza chỉ có 2 loài là Oryza sativa và Oryza glaberrima chỉ được
trồng một diện tích nhỏ ở Tây Phi.
2.2 Đặc tính thực vật của cây lúa
2.2.1 Rễ lúa
Rễ được chia ra làm hai loại gồm rễ mầm và rễ phụ. Rễ mầm là rễ mọc ra
đầu tiên khi hạt nảy mầm, nhiệm vụ chủ yếu là hút nước cung cấp cho phôi
phát triển và sẽ chết sau 10-15 ngày, lúc cây mạ 3-4 lá. Rễ phụ mọc ra từ các
đốt trên thân lúa, mỗi mắt có 5-25 rễ phụ, có nhiệm vụ hút nước và dinh
dưỡng nuôi cây, giúp cây bám chặt vào đất cho nên bộ rễ khỏe mạnh thì cây
lúa mới phát triển tốt và đứng vững (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Số lượng rễ của một khóm lúa phụ thuộc vào số mắt trên thân. Cây lúa

có thêm nhánh thì số lượng rễ cũng nhiều thêm, số lượng rễ mọc từ các mắt
trắng tăng dần theo thời gian sinh trưởng và phụ thuộc vào kích thước và khả
năng hoạt động của các lá tương ứng (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997). Bộ rễ
lúa phân bố chủ yếu ở tầng đất mặt. Ở giai đoạn đẻ nhánh hầu hết rễ tập trung
ở lớp đất mặt 10 cm trên cùng, ở các giai đoạn sau có tới 92-95% số lượng rễ
phân bố ở lớp đất mặt tới 20 cm (Đinh Văn Lữ, 1978) số lượng rễ cũng đạt tối
đa ở giai đoạn trước chổ và giảm đi từ thời kì chín.
2.2.2 Thân lúa
Cây lúa có thân giả và thân thật. Ở thời kì cây lúa còn non thân nhìn thấy
trên mặt đất là thân giả do các bẹ lá kết hợp với nhau tạo thành, thân giả
thường dẹp, xốp. Thời kì này thân thật nằm ở sâu trong bẹ lá, sát mặt đất và
còn rất ngắn. Thân thật của cây lúa chỉ hình thành khi cây lúa vươn đốt. Thân
3
thật gồm các lóng nối với nhau kế tiếp qua các đốt, phần cuối của thân là bông
lúa (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009). Thân lúa phát triển ở giai đoạn làm đốt, mỗi
thân lúa thường có 4-5 lóng dài phân biệt được. Các lóng phát triển lần lượt từ
lóng thấp đến lóng cao và các lóng sau dài hơn lóng trước, dài nhất là lóng sát
bông. Các giống lúa tuy có số lóng khác nhau nhưng số lóng dài nhất vẫn là ba
lóng và tổng chiều dài của ba lóng này cùng với bông lúa chiếm tới 90-95%
chiều dài thân lúa.
Chiều cao của thân bị ảnh hưởng bởi môi trường, phụ thuộc vào số lượng
và chiều dài lóng (Grist, 1986). Cây lúa nào có lóng ngắn, thành lóng dày, bẹ
lá ôm sát thân thì thân lúa sẽ cứng chắc, khó đổ ngã và ngược lại (Yoshida,
1981).
2.2.3 Lá lúa
Cấu tạo một lá lúa hoàn chỉnh gồm có bẹ lá, tai lá, thìa lá và cổ lá. Phiến
lá là phần quan trọng nhất của lá, nơi diễn ra quá trình quang hợp để tạo ra
hydrat cacbon (các chất đường bột). Lá lúa có màu sắc khác nhau tùy thuộc
vào giống lúa. Đa số giống lúa có lá màu xanh và ở các mức độ khác nhau. Tai
lá là một bộ phận đặc trưng của cây lúa. Trong họ hòa thảo chỉ có cây lúa có

tai lá. Tuy nhiên, cũng có giống lúa không có thìa lá và tai lá. Khi cây lúa về
già cây lúa bị rụng đi, tai lá có màu sắc khác nhau và đặc trưng cho giống.
Trên một nhánh lúa các lá lúa ra kế tiếp nhau và được sắp so le, số lượng lá
trên thân chính tùy thuộc vào giống. Giống có thời gian sinh trưởng càng dài
thì số lá càng nhiều và ngược lại. Các giống lúa được trồng phổ biến có số lá
trên thân chính là 10-21 lá. Trong đời sống cây lúa, lá hình thành cuối cùng là
lá đòng, bẹ lá lúc này là bao đòng, khi lúa chưa trổ thì bao lấy bông và được
gọi là đòng lúa. Trong quá trình phát triển lá thứ hai tính từ trên xuống luôn
hoạt động mạnh nhất nên lá này được gọi là lá công năng. Cây lúa có nhiều
nhánh nên ở mỗi thời kì đều có nhiều lá công năng cùng hoạt động mạnh. Từ
khi gieo hạt đến khi cây lúa ra lá cuối cùng tuân theo quy luật lá sau ra, lá
trước rụi đi nên trên một thân lúa (một nhánh) chỉ duy trì 4-5 lá xanh nhưng do
khóm lúa có nhiều nhánh nên số lá lúa quan sát thấy ở một khóm tương đối
nhiều. Lá đòng là lá cuối cùng và trên cùng một nhánh thì nó là lá trên cùng do
vậy được tiếp nhận nhiều ánh sáng nhất. Từ sau trổ, lá đòng hoạt động không
kém gì lá công năng nhưng do ra sau, trẻ hơn và ở phía trên nên nó có vai trò
lớn nhất trong nuôi dưỡng bông lúa (Yoshida, 1981).



4
2.2.4 Bông và hoa lúa
Bông lúa là loại phát hoa chùm gồm một trục chính mang nhiều nhánh
gié có mang hoa. Từ lúc tượng cổ bông đến lúc trổ hoàn toàn mất khoảng 17-
35 ngày, trung bình khoảng 30 ngày. Sau khi ra đủ số lá nhất định thì cây lúa
sẽ trổ bông, thời gian trổ dài hay ngắn tùy thuộc vào giống, điều kiện môi
trường và độ đồng đều của ruộng lúa. Thời gian trổ càng ngắn càng tránh được
thiệt hại do tác động xấu của môi trường như: gió, mưa, nhiệt độ,… Theo số
lượng hoa trên một bông có thể chia bông ra 4 nhóm gồm nhóm bông bé,
nhóm bông trung bình, nhóm bông to, nhóm bông rất to (Vũ Văn Hiển và

Nguyễn Văn Hoan, 1999).
Hoa lúa là hoa lưỡng tính tự thụ, mỗi một hoa lúa đều có cấu tạo gồm:
cuống hoa, mày kém phát triển, vỏ trấu ngoài, vỏ trấu trong, 2 mày trấu, 6 nhị
đực (mỗi nhị đực có chỉ nhị và bao phấn), nhụy (nhị cái gồm bầu nhụy và 2
vòi nhụy) và râu.












1. Râu 2. Bao phấn 3. Chỉ nhị 4. Vỏ trấu trong 5. Vỏ
trấu ngoài
6. Vòi nhụy 7. Bầu nhụy 8. Mày trấu 9. Mày kém phát triển 10.
Cuống hoa
Hình 2 Cấu tạo hoa lúa (Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan, 1999)




5
2.2.5 Hạt lúa
Hạt lúa gồm hai phần: vỏ trấu và hạt gạo.
Vỏ trấu: gồm có hai mảnh. Một mảnh to và một mảnh nhỏ ôm lấy nhau

có mang hai tiểu dĩnh. Màu sắc vỏ trấu khác nhau tùy giống. Phần vỏ này
chiếm khoảng 20% trọng lượng hạt.
Hạt gạo: gồm nội nhũ và phôi. Nội nhũ được bọc bởi một lớp vỏ cám,
màu sắc vỏ cám khác nhau tùy giống, bên ngoài còn bọc bởi một lớp aleurone,
tùy phôi mà độ dày aleurone khác nhau. Nội nhũ là nơi dự trữ dinh dưỡng nuôi
phôi. Phôi là nơi dự trữ dinh dưỡng và mọc mầm tạo cây mới khi gặp điều
kiện thuận lợi (Đinh Thế Lộc, 2006).
2.3 Các giai đoạn sinh trƣởng của cây lúa
Đời sống cây lúa bắt đầu từ lúc nảy mầm đến khi chín. Theo Yoshida
(1981) có thể chia sự phát triển của cây lúa làm ba giai đoạn chính gồm giai
đoạn tăng trưởng, giai đoạn sinh sản và giai đoạn chín.
2.3.1 Giai đoạn tăng trƣởng
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009), giai đoạn tăng trưởng bắt đầu từ khi hạt
nảy mầm đến khi cây lúa bắt đầu phân hóa đòng. Trong giai đoạn này cây lúa
phát triển về thân lá, chiều cao cũng tăng dần và ra nhiều chồi mới. Cây ra lá
ngày càng nhiều và kích thước lá ngày càng lớn giúp lúa nhận nhiều ánh sáng
mặt trời để quang hợp, hấp thu chất dinh dưỡng, gia tăng chiều cao, nở bụi và
chuẩn bị cho các giai đoạn sau. Trong điều đầy đủ chất dinh dưỡng, ánh sáng
và thời tiết thuận lợi, cây lúa có thể bắt đầu nở bụi khi có lá thứ 5-6. Thời điểm
có chồi tối đa có thể đạt trước, cùng lúc hay sau thời kì phân hóa đòng tùy theo
giống lúa. Thời gian sinh trưởng của các giống lúa kéo dài hay ngắn khác nhau
chủ yếu là do giai đoạn tăng trưởng này dài hay ngắn. Đặc biệt các giống lúa
có quang cảm mạnh như lúa mùa cho dù có gieo sớm thì sau khi cây đạt chồi
tối đa, cây sẽ sinh trưởng chậm lại chờ quang kì thích hợp mới bắt đầu phân
hóa đòng để trổ bông. Do đó, đối với các giống lúa này cần bố trí gieo cấy căn
cứ vào ngày trổ hàng năm của giống. Theo Hoshikawa (1993), giai đoạn tăng
trưởng được đặc trưng bởi sự nảy mầm của hạt giống, gia tăng chiều dài rễ và
chiều cao cây.
2.3.2 Giai đoạn sinh sản
Giai đoạn sinh sản bắt đầu từ lúc phân hóa đòng đến khi lúa trổ bông kéo

dài khoảng 27-35 ngày, trung bình 30 ngày và giống lúa dài ngày hay ngắn
ngày thường không khác nhau nhiều. Lúc này, số chồi vô hiệu giảm nhanh,
chiều cao tăng lên rõ rệt do sự vươn dài của 5 lóng trên cùng, đòng lúa bắt đầu
6
hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn, cuối cùng thoát ra khỏi bẹ của lá
cờ: lúa trổ bông. Lúa có thể trổ bông và vỏ trấu sẽ đạt kích thước lớn nhất của
giống nếu đầy đủ dinh dưỡng, mực nước thích hợp, ánh sáng nhiều, không sâu
bệnh và thời tiết thuận lợi (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Theo Yoshida (1981) thời kỳ trổ bông được xác định vào lúc 50% số
bông thoát ra ngoài lá đòng. Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) cho
rằng, cây lúa hình thành hoa, tập hợp nhiều hoa thành bông lúa. Sau khi hoàn
thành việc trổ bông, các hoa lúa sẽ bắt đầu nở trong khoảng thời gian từ 8 giờ
sáng đến 13 giờ chiều và sự thụ tinh cũng kết thúc trong vòng 5-6 giờ sau khi
nở hoa. Trên cùng một bông các hoa lúa phải mất từ 7-10 ngày mới nở hết.
2.3.3 Giai đoạn chín
Yoshida (1981) chia giai đoạn này làm 4 thời kỳ gồm thời kỳ sau:
- Thời kỳ chín sữa: các chất dự trữ trong thân lá và sản phẩm quang hợp
sẽ được chuyển vào hạt. Kích thước và trọng lượng hạt tăng dần đến khi đầy
vỏ trấu làm bông nặng và cong xuống. Hạt chứa một dịch lỏng màu trắng đục
như sữa.
- Thời kỳ chín sáp: hạt mất dần nước rồi từ từ cô đặc lại và vỏ trấu vẫn
còn xanh.
- Thời kỳ chín vàng: hạt tiếp tục mất nước, gạo cứng dần, trấu chuyển
sang màu vàng đặc thù của giống và bắt đầu từ hạt ở chót bông lan đần xuống
các hạt ở cổ bông, lá già rụi dần.
- Thời kỳ chín hoàn toàn: hạt gạo khô cứng lại, ẩm độ hạt khoảng 20%
hoặc thấp hơn, lá xanh chuyển sang vàng và rụi dần. Thời diểm thu hoạch tốt
nhất là khoảng 80% số hạt ngã sang màu trấu đặc trưng của giống.
Giai đoạn này bắt đầu từ lúc lúa trổ bông đến khi hạt chín trung bình
khoảng 30 ngày (Grist, 1986). Ở giai đoạn chín lá trở nên lão hóa và biến màu

vàng (Chang et al., 1965), sự sinh trưởng của hạt-sự tăng kích thước, trọng
lượng và sự đổi màu của hạt.
2.4 Đặc điểm sinh thái của cây lúa
2.4.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ có tác dụng quyết định đến sinh trưởng phát triển của cây lúa.
Nhiệt độ quá cao hay quá thấp đều ảnh hưởng không tốt đến đời sống cây lúa.
Tùy từng giai đoạn phát triển của cây mà ảnh hưởng của nhiệt độ có khác
nhau. Nhiệt độ tối thích của cây lúa, khoảng nhiệt độ mà tại đó cây lúa sinh
trưởng và phát triển tốt nhất, biến động từ 20-30
0
C. Nhiệt độ tối thấp của cây
7
lúa, ngưỡng nhiệt độ mà dưới ngưỡng đó cây sẽ ngừng sinh trưởng và phát
triển dao động từ 10-20
0
C. Nhiệt độ tối cao, ngưỡng nhiệt độ mà vượt khỏi
ngưỡng đó quá trình sinh trưởng và phát triển của cây bị ngừng lại dao động từ
30-45
0
C (Vũ Văn Hiển và ctv., 1999).
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009) cho rằng, nếu nhiệt độ quá thấp sẽ làm
giảm hoặc ngưng sự nảy mầm của hạt, làm mạ chậm phát triển, cây ốm yếu,
lùn lại, lá bị mất màu, sự thụ phấn bị đình trệ, khả năng bất thụ cao, hạt lép
nhiều và thời gian chín kéo dài bất thường. Bên cạnh đó, nếu nhiệt độ quá cao
sẽ làm cho chót lá bị khô trắng, trên lá có những dãy và đốm bị mất màu, nở
bụi kém, giảm chiều cao, số hạt trên bông giảm, số hạt chắc giảm.
2.4.2 Ánh sáng
Ánh sáng ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng, phát triển và phát dục của
cây lúa trên hai phương diện: cường độ ánh sáng và số giờ chiếu sáng trong
ngày (quang kỳ).

Cường độ ánh sáng: ảnh hưởng đến đời sống cây lúa thông qua năng
lượng mặt trời chiếu trên đơn vị diện tích đất và chất lượng ánh sáng. Cường
độ ánh sáng tăng thì quang hợp tăng, đến một giới hạn nào đó cường độ tăng
nhưng quang hợp không tăng, gọi là điểm bảo hòa ánh sáng trong quang hợp.
Ở những giai đoạn sinh trưởng khác nhau nhu cầu bức xạ mặt trời của cây
cũng khác nhau. Ở giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng ánh sáng ảnh hưởng ít
đến các yếu tố hình thành năng suất và năng suất. Trong giai đoạn hình thành
sản lượng ánh sáng ảnh hưởng đáng kể đến số hạt và có ảnh hưởng lớn đến
năng suất. Ở giai đoạn chín ánh sáng có ảnh hưởng đến năng suất, tuy nhiên
mức độ ảnh hưởng không bằng ở giai đoạn hình thành sản lượng.
Số giờ chiếu sáng trong ngày: thời gian chiếu sáng trong một ngày đêm
có ảnh hưởng rõ rệt đến quá trình phát triển của cây lúa đặc biệt là giai đoạn
phân hóa đòng và trổ bông. Cây lúa thường là cây ngày ngắn vì cây lúa chỉ bắt
đầu phân hóa đòng khi có chu kì quang ngắn, thời kì phân hóa đòng có thể bắt
đầu muộn hoặc có thể không phát triển được khi cây gặp phải chu kì quang dài
(Đinh Thế Lộc, 2006).
2.4.3 Lƣợng mƣa
Nước đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng, phát triển
và hình thành năng suất lúa. Lượng mưa trong năm là nguồn nước chủ yếu
cung cấp nước cho cây lúa. Vì vậy, lượng mưa và sự phân bố của nó có tính
chất quyết định đến các vụ lúa trong năm. Lượng nước cần thiết cho cây lúa 6-
7 mm/ngày trong mùa mưa, 8-9 mm/ngày trong mùa khô. Lượng mưa ngoài
8
việc chủ yếu cung cấp cho cây lúa mà còn mất do thẩm thấu trong ruộng
khoảng 0,5-0,6 mm/ngày (Đinh Văn Lữ, 1978), nước chảy tràn trên mặt ruộng
do địa hình và tính chất quyết định, do bốc hơi nước mặt ruộng (kể cả bốc hơi
nước mặt lá, nước ngầm và rò rỉ). Lượng nước mất đi do bốc hơi nước mặt lá
tăng lên theo chỉ số diện tích lá và đạt tới đỉnh cao khi chỉ số diện tích lá đạt
3,5-4,0 (Yoshida, 1981).
2.5 Các yếu tố cấu thành năng suất

2.5.1 Số bông trên dơn vị diện tích
Theo Nguyễn Đình Giao và ctv. (1997), trong bốn yếu tố tạo nên năng
suất lúa thì số bông có tính chất quyết định nhất và sớm nhất. Số bông có thể
đóng góp tới 74% năng suất, trong khi đó số hạt và trọng lượng hạt chỉ đóng
góp 26%. Số bông trên đơn vị diện tích được quyết định vào giai đoạn sinh
trưởng ban đầu của cây lúa (giai đoạn tăng trưởng). Nhưng chủ yếu là giai
đoạn từ khi cấy đến khoảng 10 ngày trước khi có chồi tối đa. Số bông trên đơn
vị diện tích tùy thuộc vào mật độ sạ cấy và khả năng nở bụi của cây lúa. Mật
độ sạ cấy và khả năng nở bụi của lúa thay đổi tùy theo giống lúa, điều kiện đất
đai, thời tiết, lượng phân bón nhất là phân đạm và chế độ nước. Số bông trên
đơn vị diện tích có ảnh hưởng thuận với năng suất (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009), cần lưu ý các biện pháp kỹ thuật để tăng
số bông trên dơn vị diện tích:
- Chọn giống thích hợp với đất đai và mùa vụ.
- Cấy mạ đúng tuổi, đúng khoảng cách thích hợp cho từng giống để lúa
nở bụi khỏe. Đối với lúa sạ thì ngâm ủ đúng kỹ thuật và sạ với mật độ thích
hợp.
- Bón phân lót đầy đủ, bón thúc sớm để lúa nở bụi sớm mau đạt số chồi
tối đa, chồi khỏe cho bông và bông to sau này.
- Làm cỏ, giữ nước vừa phải và liên tục để điều hòa nhiệt độ và khống
chế cỏ dại.
- Phòng trị sâu bệnh kịp thời.
2.5.2 Số hạt trên bông
Số hạt trên bông nhiều hay ít tùy thuộc vào số gié, hoa phân hóa và hoa
không phân hóa. Số gié và hoa phân hóa được quyết định trong thời kì đầu của
quá trình làm đòng, trong vòng 7-10 ngày. Số hoa phân hóa nhiều hay ít tùy
thuộc vào sinh trưởng của cây lúa và điều kiện ngoại cảnh (Yoshida, 1981).
Nguyễn Ngọc Đệ (2009) cho rằng, lúa sạ trung bình từ 80-100 hạt trên
bông và 100-120 hạt trên bông đối với lúa cấy là tốt ở điều kiện Đồng bằng
9

sông Cửu Long. Trên cùng một cây lúa, những bông chính thường có nhiều
hạt. Số hạt trên bông tùy thuộc vào số hạt trên gié, đặc tính sinh lý của cây lúa
và ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh mà tỷ lệ hạt chắc cao hay thấp. Số hạt
trên bông quá nhiều sẽ dẫn đến tỷ lệ hạt chắc thấp, năng suất sẽ không cao.
Theo Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999), bón phân đón đòng cho
lúa vào giai đoạn phân hóa đòng đến giai đoạn phân hóa hoa có tác dụng làm
tăng số lượng hoa phân hóa một cách rõ rệt. Bón phân vào giai đoạn phân hóa
hoa còn có tác dụng phòng ngừa hoa thoái hóa. Bón thúc vào giai đoạn bắt đầu
phân hóa đòng còn có tác dụng làm tăng quá trình phân hóa gié. Số gié cấp 1,
đặc biệt là số gié cấp 2 nhiều thì số hoa trên bông cũng nhiều. Số hoa trên
bông nhiều là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho số hạt trên bông lớn.
2.5.3 Tỷ lệ hạt chắc
Hạt chắc là những hạt nặng, tỷ lệ hạt chắc tùy thuộc vào số hoa trên
bông, đặc tính sinh lý của cây lúa và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện ngoại
cảnh mà tỷ lệ hạt chắc cao hay thấp. Các giống lúa có khả năng quang hợp,
tích lũy và chuyển vị các chất mạnh, cộng với cấu tạo mô cơ giới vững chắc
không đỗ ngã sớm, lại trổ và tạo hạt trong điều kiện thời tiết tốt, dinh dưỡng
đầy đủ thì tỷ lệ hạt chắc sẽ cao và ngược lại. Số hoa trên bông quá nhiều dẫn
đến tỷ lệ hạt chắc thấp. Vì vậy, muốn đạt năng suất cao thi tỷ lệ hạt chắc phải
trên 80% (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Theo Nguyễn Đình Giao và ctv. (1997), tỷ lệ hạt chắc được xác định vào
lúc trước trổ bông và cả sau trổ bông. Trong những điều kiện bất lợi như nhiệt
độ cao hoặc thấp vào lúc phân bào nguyên nhiễm, lúc nở hoa làm cho hạt lép.
Các điều kiện bất lợi trong thời kì chín có thể trở ngại cho sinh trưởng của một
số hoa, kết quả dẫn đến hạt lép lừng. Tỷ lệ hạt lép do nhiều yếu tố quyết định
(Yoshida, 1981).
Lượng phân bón: mỗi một giống lúa yêu cầu lượng phân bón nhất định
để sinh trưởng và hình thành năng suất. Vượt qua giới hạn này một số giống
có tỷ lệ hạt chắc thấp, do sự đổ ngã gây nên hiện tượng lép nhiều làm giảm tỷ
lệ hạt chắc (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).

2.5.4 Khối lƣợng 1000 hạt
Khối lượng 1000 hạt là yếu tố cuối cùng tạo năng suất lúa. Thường do
yếu tố di truyền quyết định và phụ thuộc vào nhiều giống. Khối lượng 1000
hạt do hai bộ phận cấu thành: khối lượng vỏ trấu và khối lượng hạt gạo. Thời
gian quyết định kích thước vỏ trấu chủ yếu vào thời kì giảm nhiễm đến trổ
bông. Sau trổ bông khối lượng vỏ trấu ít thay đổi. Khối lượng hạt gạo tăng
10
nhanh nhất từ sau trổ bông đến thời kì chín sữa (sau trổ bông từ 18-29 ngày)
(Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Theo Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) cho rằng, vào giai đoạn
phân bào giảm nhiễm nếu điều kiện ngoại cảnh và điều kiện dinh dưỡng thuận
lợi thì hạt được hình thành với kích thước lớn. Sau khi trổ bông nếu dinh
dưỡng kém, thiếu ánh sáng ảnh hưởng đến quang hợp, quá trình vận chuyển
các chất về hạt bị cản trở sẽ làm giảm khối lượng của hạt. Để tăng khối lượng
hạt, trước khi trổ bông nên bón thúc đòng để làm tăng kích thước vỏ trấu. Sau
khi trổ bông cần tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tốt để quang hợp được tiến
hành mạnh mẽ.
Ngoài ánh sáng, yếu tố nhiệt độ nhất là biên độ chênh lệch ngày đêm, có
ảnh hưởng đến quá trình quang hợp, tích lũy, vận chuyển vật chất về hạt. Vì
vậy, giữ cho lá lúa xanh lâu, quang hợp vận chuyển tốt, là yếu tố quan trọng
tác động lên khối lượng hạt (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
2.5.5 Chỉ số thu hoạch (HI)
Theo Nguyễn Đình Giao và ctv. (1997), hoạt động quang hợp quyết định
chủ yếu quá trình tích lũy chất khô (năng suất sinh học) của quần thể, năng
suất kinh tế (năng suất hạt) còn phụ thuộc vào quá trình tích lũy và vận chuyển
chất từ thân vào hạt.
Chỉ số thu hoạch HI (Harvest index) được tính như sau:
Chỉ số thu hoạch HI = Năng suất thực tế/sinh khối toàn cây.
Năng suất hạt thay đổi trong phạm vi 3-10 tấn/ha, năng suất sinh học 10-
20 tấn/ha, thì chỉ số thu hoạch HI biến động trong khoảng 0,3-0,5. Các vùng

khác nhau có hệ số khác nhau và phụ thuộc vào các yếu tố giống.
Chỉ số thu hoạch (HI) cao hay thấp do 3 yếu tố quyết định:
- Khả năng tích lũy tinh bột trong bẹ lá, thân
- Khả năng vận chuyển các chất tích lũy từ thân, bẹ lá về bông hạt
- Khả năng tiếp thu các chất dinh dưỡng của bông hạt.
Chỉ số thu hoạch là một trong những đặc tính chủ yếu đáp ứng với việc
gia tăng năng suất. Gia tăng chỉ số thu hoạch làm cho lúa ít rơm rạ hơn hoặc
các phần không quang hợp của cây ít hơn và chiều cao cây giảm, giúp cây
tăng cường khả năng chống đổ ngã.


11
2.6 Đặc điểm của hai giống lúa OM5451 và MTL612
2.6.1 Đặc điểm của giống lúa OM5451
Giống lúa OM5451 được chọn từ tổ hợp lai Jasmine 85/OM2490. Đây
là giống lúa triển vọng mới được nông dân ưa thích trong một vài vụ lúa gần
đây, đã được canh tác khá nhiều tại ĐBSCL. Thời gian sinh trưởng từ 90-95
ngày. Chiều cao cây 95-100 cm. Trổ tập trung, có dạng hình đẹp, tương đối
cứng cây, khả năng đẻ nhánh khá, bông đóng hạt dầy, tỉ lệ lép thấp. Chống
chịu rầy nâu và bệnh đạo ôn khá, chống chịu bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá khá.
Năng suất trung bình vụ Đông Xuân: 6-8 tấn/ha, vụ Hè Thu: 5-6 tấn/ha. Tiềm
năng năng suất của giống lúa này khá cao và ổn định trong cả 2 vụ Đông Xuân
và Hè Thu. Khối lượng 1000 hạt trung bình: 25-26 g, hạt gạo dài, ít bạc bụng,
cơm mềm (Trung tâm giống Nông nghiệp Đồng Tháp, 2009).
2.6.2 Đặc điểm của giống lúa MTL612
Thời gian sinh trưởng của giống lúa MTL612 là từ 90-95 ngày. Chiều
cao cây 90-95 cm. Khối lượng 1000 hạt 27-28 g, dài hạt 7,1 mm. Năng suất từ
6-8 tấn/ha, cứng cây. Hơi kháng gầy nâu và bệnh cháy lá, ít bị nhiễm bệnh
vàng lùn. Mềm cơm, thon dài, gạo trong. Thích nghi vùng đất phù sa và đất
phèn (Viện nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, 2010).

2.7 Chất điều hòa sinh trƣởng Naphthalene Acetic Acid
2.7.1 Định nghĩa
Naphthalene Acetic Acid (NAA) là một hợp chất hữu cơ có công thức
phân tử C
12
H
10
O
2,
có khối lượng phân tử 186,21 g/mol thuộc nhóm chất điều
hòa sinh trưởng auxin, có tinh thể màu trắng ngà bền vững, dạng bột không
tan trong nước nhưng tan trong các dung môi hữu cơ như: rượu, erther, acid
acetic, benzene, nóng chảy ở 135
0
C.
2.7.2 Vị trí tổng hợp và vai trò của auxin trong cây
Các mô phân sinh, lá non, quả và hạt đang phát triển là nơi tổng hợp
auxin trong cây. Sinh tổng hợp auxin liên kết với các mô đang phân chia
nhanh và đang sinh trưởng nhanh, đặc biệt trong cành. Mặc dù hầu như tất cả
các mô thực vật đều có khả năng sản ra lượng không lớn auxin, các mô phân
sinh đỉnh cành, các lá non, các quả và hạt đang phát triển là những vị trí đầu
tiên tổng hợp auxin (Ljung et al., 2006 trích dẫn của Nguyễn Như Khanh và
Nguyễn Văn Đính, 2011). Trong các mầm lá còn rất non của cây auxin được
tổng hợp tại đỉnh. Trong sự phát triển của lá có sự chuyển đổi hướng gốc từ vị
trí sản xuất auxin dọc theo các mép và muộn hơn, trong miền trung tâm của
phiến lá. Sự chuyển đổi hướng gốc trong tổng hợp auxin tương quan chặt với
12
trình tự trưởng thành hướng gốc trong sự phát triển của lá và sự phân hóa của
mạch dẫn (Aloni, 2001 trích dẫn của Nguyễn Như Khanh và Nguyễn Văn
Đính, 2011).

Thực vật có pha sinh trưởng đặc trưng là pha dãn dài. Auxin điều hòa sự
sinh trưởng dãn dài của tế bào, tác động đặc trưng của auxin là tăng sinh
trưởng dãn dài của các tế bào trong các đoạn bao lá mầm (thân) cây, tế bào
ống phấn và tế bào quả (Nguyễn Như Khanh và Nguyễn Văn Đính, 2011).
NAA là một auxin tổng hợp được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp và
là auxin có hiệu quả nhất để cải thiện sự duy trì trái trên cây, có vai trò quan
trọng trong sự kiểm soát sự tăng dài tế bào làm cho các vách tế bào trở nên
đàn hồi hơn, ảnh hưởng ngăn cản sự tăng trưởng của chồi bên nhưng kích
thích sự tăng dài của thân chính (Prakash and Ram, 1984). Theo Vũ Văn Vụ
và ctv. (2005), hiệu quả của auxin tùy thuộc vào nồng độ, ở nồng độ thấp (vài
mg/l đến vài chục mg/l) có tác dụng kích thích sinh trưởng, ở nồng độ cao (vài
nghìn mg/l) thì có tác dụng ức chế sinh trưởng, kéo dài thời gian ngủ nghỉ.
2.7.3 Cơ chế
Auxin hoạt hóa sinh trưởng dãn dài của tế bào trong thân và trong bao lá
mầm đồng thời ức chế sinh trưởng trong rễ. Auxin được tổng hợp trong đỉnh
cành và được vận chuyển hướng gốc xuống các mô phía dưới, sự cung cấp
auxin đến từ miền cận đỉnh của thân hoặc bao lá mầm là cần thiết cho sự sinh
trưởng dãn dài của các tế bào ấy được tiếp tục. Vì rằng nồng độ auxin trong
miền sinh trưởng dãn dài của cây khỏe bình thường gần như là tối ưu cho sinh
trưởng, phun auxin ngoại sinh cho cây chỉ gây nên sự kích thích vừa phải và
trong thời gian ngắn, thậm chí có thể trở nên ức chế trong trường hợp đối với
các cây non mọc trong tối do chúng vốn nhạy cảm hơn đối với các nồng độ
vượt quá tối ưu so với thực vật mọc ở ngoài sáng. Tuy nhiên, khi nguồn auxin
nội sinh đã được sử dụng hết bởi các đoạn thân cắt rời chứa miền dãn dài, tốc
độ sinh trưởng giảm nhanh. Các đoạn được cắt rời như vậy thường có phản
ứng đột ngột đối với auxin ngoại sinh bằng cách tăng nhanh tốc độ sinh trưởng
của chúng trở về mức trong cây nguyên vẹn. Trong các thực nghiệm thời gian
dài, xử lí auxin cho các đoạn cắt rời của bao lá mầm hoặc thân thực vật hai lá
mầm đã kích thích tốc độ dãn dài của đoan bao lá mầm (thân) đến tận 20 giờ.
Nồng độ auxin tối ưu đối với sinh trưởng dãn dài điển hình là 10

-6
đến 10
-5
M
(Nguyễn Như Khanh và Nguyễn Văn Đính, 2011).
Auxin nồng độ từ 0,01-10 mg/l, có tác dụng trong sự phân cắt tế bào
(Jacob, 1956; Salisbury and Ross, 1992). Cơ chế tác động của NAA trong sự
tăng trưởng của tế bào non, giả thiết hiện nay cho rằng NAA kích thích hoạt
13
động của bơm proton màng nguyên sinh chất, giúp H
+
được bơm ra khỏi vách
tế bào và pH của vách giảm làm cho một số nối giữa extension, hemicelluloz,
các hợp chất peptic và celluloz bị phá vỡ Ca
2+
nối liền giữa các chuổi hợp chất
pectic bị loại đi, vài enzyme thủy giải được hoạt hóa. Các vi sợi celluloz trở
nên lỏng lẻo, cần thiết cho sự tăng trưởng của tế bào. Trong trường hợp này
proton được xem là chất thông tin thứ hai của auxin (Bùi Trang Việt, 1998).
Cơ chế ức chế nảy mầm của NAA vẫn chưa rõ. Việc sử dụng auxin trên
các loài cây song tử diệp thường dẫn đến kích thích sản xuất ethylene nội sinh.
Tác dụng ức chế sự phát triển chồi của auxin trong một số loài là gián tiếp do
ethylene và ABA, việc sử dụng auxin dẫn đến kích thích sản xuất ethylene,
dẫn đến sự tăng ABA. Ethylene và ABA được coi là các chất ức chế sự tăng
trưởng nội sinh, ức chế sự phát triển mầm (Grossmann, 2000).
Tuy nhiên, những báo cáo khác cho rằng auxin ức chế sự phát triển chồi
độc lập với sự tổng hợp và hoạt động của ethylene (Valenzuela-Valenzuela et
al., 2002). Các nghiên cứu của Suttle (2003) chỉ ra rằng ethylene không đóng
một vai trò trong sự ức chế chồi của auxin. Mặc dù ethylene là một chất ức chế
sự phát triển của chồi. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu được cho thấy

auxin ức chế sự phát triển chồi độc lập với sự tổng hợp và hoạt động của
ethylene. Theo Paton and Scriuen (1988), có thể ảnh hưởng của NAA đến khả
năng nảy mầm bằng cách thay đổi tính thấm tế bào, làm độ ẩm mất tăng lên,
do đó tăng nồng độ của các chất chuyển hóa trên bề mặt tế bào, làm ức chế hô
hấp.
Tùy theo bộ phận của cây mà NAA có nồng độ tối hảo khác nhau. Sau
nồng độ tối hảo hiệu ứng của NAA giảm và trở nên độc ở nồng độ cao. Nồng
độ ở thân thường cao hơn nồng độ ở rễ (Salisbury and Ross, 1992).
2.8 Những ứng dụng của NAA trong nông nghiệp
Phun auxin (α-NAA) cho cây đậu tương vào thời kì trước khi ra hoa và
ra hoa rộ cho cây phát triển tốt, tăng số lượng lá trên cây, tăng số lượng và
kích thích nốt sần ở rễ và tăng năng suất đậu từ 15 – 17%. Xử lý auxin (NAA)
nồng độ 20 – 30 mg/l cho cà chua, bầu bí làm tăng hiệu quả (Nguyễn Mạnh
Chinh, 2001). Đối với lúa, áp dụng chất điều hòa sinh trưởng NAA với mức
90 ml/ha lúc bắt đầu trổ bông trên giống lúa IR-6 giúp tăng năng suất hạt
(Bakhsh et al.,2011).
Theo Adam and Jahan (2011) đã làm thí nghiệm trên hai giống lúa BRRI
Dhan-29 và BRRI Dhan-50 ở các nồng độ 0 mg/l, 100 mg/l và 200 mg/l cho
thấy sử dụng NAA với nồng độ 100 mg/l là thích hợp nhất trên cả hai giống
lúa. Sử dụng Naphthalene Acetic Acid với nồng độ 20 mg/l cho thấy hiệu quả

×