Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

ảnh hưởng của biện pháp tưới ngập khô xen kẽ, liều lượng phân lân lên sinh trưởng và năng suất lúa om2517 vụ đông xuân 2012 2013 trên vùng đất phèn tại tà đảnh, tri tôn, an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 81 trang )


1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG


NGUYỄN ANH PHA


ẢNH HƯỞNG CỦA BIỆN PHÁP TƯỚI NGẬP -
KHÔ XEN KẼ, LIỀU LƯỢNG PHÂN LÂN LÊN
SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA OM2517
VỤ ĐÔNG XUÂN 2012 - 2013 TRÊN VÙNG ĐẤT
PHÈN TẠI TÀ ĐẢNH, TRI TÔN, AN GIANG



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NÔNG HỌC






Cần Thơ - 2014

2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG



Luận văn kỹ sư
Ngành: NÔNG HỌC

ẢNH HƯỞNG CỦA BIỆN PHÁP TƯỚI NGẬP -
KHÔ XEN KẼ, LIỀU LƯỢNG PHÂN LÂN LÊN
SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA OM2517
VỤ ĐÔNG XUÂN 2012 - 2013 TRÊN VÙNG ĐẤT
PHÈN TẠI TÀ ĐẢNH, TRI TÔN, AN GIANG

Cán bộ hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Ts. PHẠM PHƯỚC NHẪN NGUYỄN ANH PHA
MSSV: 3113264
LỚP: NÔNG HỌC K37






Cần Thơ - 2014

i
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Nông Học

ĐỀ TÀI:
“ẢNH HƯỞNG CỦA BIỆN PHÁP TƯỚI NGẬP - KHÔ

XEN KẼ, LIỀU LƯỢNG PHÂN LÂN LÊN SINH
TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA OM2517 VỤ ĐÔNG
XUÂN 2012 - 2013 TRÊN VÙNG ĐẤT PHÈN TẠI TÀ
ĐẢNH, TRI TÔN, AN GIANG”

Do sinh viên NGUYỄN ANH PHA thực hiện và đề nạp

Kính trình hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xem xét.
Cần Thơ, ngày……tháng… năm …
Cán bộ hướng dẫn



Ts. Phạm Phước Nhẫn







ii

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP

Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn với đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA BIỆN PHÁP TƯỚI NGẬP - KHÔ XEN KẼ, LIỀU
LƯỢNG PHÂN LÂN LÊN SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA

OM2517 VỤ ĐÔNG XUÂN 2012 - 2013 TRÊN VÙNG ĐẤT PHÈN TẠI
TÀ ĐẢNH, TRI TÔN, AN GIANG
Do sinh viên: NGUYỄN ANH PHA thực hiện và bảo vệ trước hội
đồng ngày……tháng……năm……
Luận văn đã được hội đồng chấp thuận và đánh giá ở mức:………
Ý kiến hội đồng:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Cần Thơ, ngày……tháng… năm …
Thành viên hội đồng

……………………. ……………………… ……………………
DUYỆT KHOA
Trưởng khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng






iii
LÝ LỊCH CÁ NHÂN
Sinh viên: Nguyễn Anh Pha
Sinh ngày: 08 tháng 11 năm 1993
Nơi sinh: xã Long Định , huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang
Họ tên cha: Nguyễn Hữu Dân
Họ tên mẹ: Lương Thị Hẹn
Đã tốt nghiệp tại Trường Trung Học Phổ Thông Vĩnh Kim, xã Vĩnh Kim,
huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

Vào trường Đại Học Cần Thơ năm 2011, theo Ngành Nông Học, khóa 37
Tốt nghiệp Kỹ Sư Nông Nghiệp chuyên ngành Nông Học năm 2014.

















iv
LỜI CẢM TẠ

Kính dâng!
Cha mẹ những người suốt đời tận tụy vì chúng con, xin cảm ơn những
người thân đã giúp đỡ, động viên con trong suốt thời gian qua.
Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
Thầy Phạm Phước Nhẫn đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động viên em
trong suốt thời gian làm và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Quí Thầy Cô trong ban lãnh đạo dự án CLUES đã cho phép em thực hiện
các thí nghiệm trong dự án và hoàn thành tốt các nghiên cứu này.

Chân thành cảm tạ thầy cố vấn học tập Nguyễn Lộc Hiền, cùng toàn thể
quý thầy cô khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng vì những kiến thức mà
quý thầy cô đã truyền dạy cho em trong suốt thời gian học tập tại trường. Đây
sẽ là hành trang vững chắc giúp em bước vào đời.
Gửi lời cảm ơn đến anh Nguyễn Trường Giang, Trần Phú Hữu, chị
Nguyễn Thị Diễm Kiều, các bạn sinh viên làm đề tài ở Bộ môn Sinh Lý – Sinh
Hóa: Hương Truyền, Tố Như, Ánh Như, Hân, Lan… cùng toàn thể các bạn
Nông Học khóa 37.


Nguyễn Anh Pha







v
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả
nghiên cứu của tôi trong khuôn khổ của dự án CLUES (Climate Change
Affecting Land Use in the Mekong Delta: Adaptation of Rice – based
Cropping System). Dự án có quyền sử dụng kết quả của luận văn này để phục
vụ cho dự án.



Tác giả luận văn
(ký tên)



Nguyễn Anh Pha














vi
MỤC LỤC

LÝ LỊCH CÁ NHÂN iii
LỜI CẢM TẠ iv
LỜI CAM ĐOAN v
MỤC LỤC vi
DANH SÁCH BẢNG ix
DANH SÁCH HÌNH x
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT xi
TÓM LƯỢC xii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3

1.1 KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA ĐIỂM THÍ NGHIỆM VÀ GIỐNG LÚA
THÍ NGHIỆM 3
1.1.1 Vị trí địa lí 3
1.1.2 Hiện trạng sản xuất lúa 3
1.1.3 Giống lúa thí nghiệm 4
1.2 ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN CỦA CÂY LÚA
VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT LÚA 4
1.2.1 Đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây lúa 4
1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lúa 6
1.3 ĐẤT PHÈN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 7
1.3.1 Định nghĩa đất phèn 7
1.3.2 Phân bố đất phèn 8
1.3.3 Các trở ngại của đất phèn 8
1.4 NƯỚC VỚI ĐỜI SỐNG CÂY LÚA 12
1.4.1 Vai trò của nước trong đời sống cây lúa và ảnh hưởng của
nó đến sự sinh trưởng và năng suất lúa 12
1.4.2 Nhu cầu nước cho quá trình sinh trưởng phát triển của cây
lúa 14
1.4.3 Sự cân bằng nước trên ruộng lúa 15
1.4.4 Phương pháp quản lí nước tiết kiệm của IRRI 16

vii
1.4.5 Tổng quan về tình hình nghiên cứu tưới tiết kiệm nước cho
lúa trên thế giới 18
1.4.6 Lợi ích của việc tiết kiệm nước 20
1.5 LÂN TRONG ĐẤT LÚA VÀ VAI TRÒ CỦA LÂN 20
1.5.1 Vai trò của dưỡng chất lân (P) đối với cây lúa. 20
1.5.2 Lân trong đất 23
1.5.2.1 Sự lưu tồn lân trong đất 23
1.5.2.2 Lân tổng số 23

1.5.2.3 Lân dễ tiêu 25
1.5.2.4 Sự biến đổi của lân trong đất ngập nước 26
CHƯƠNG II: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP 27
2.1 THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM THÍ NGHIỆM 27
2.2 PHƯƠNG TIỆN 27
2.3 PHƯƠNG PHÁP 28
2.3.1 Bố trí thí nghiệm 28
2.3.2 Biện pháp canh tác 29
2.3.3 Các chỉ tiêu theo dõi 29
3.3.3.1 Các chỉ tiêu nông học 29
2.3.3.2 Chỉ tiêu nước 29
2.3.3.3 Chỉ tiêu năng suất 30
2.3.3.4 Chỉ tiêu dưỡng chất phân phân tích 31
2.3.4 Xử lí số liệu 31
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ THẢO LUẬN 32
3.1 SỰ BIẾN ĐỘNG CỦA NƯỚC TRÊN ĐỒNG RUỘNG 32
3.2 SỰ BIẾN ĐỘNG pH CỦA NƯỚC TRÊN ĐỒNG RUỘNG 35
3.3 SỰ BIẾN ĐỘNG EC CỦA NƯỚC TRÊN ĐỒNG RUỘNG 37
3.4 SỰ BIẾN ĐỘNG pH VÀ EC CỦA NƯỚC TRÊN ĐỒNG
RUỘNG 38
3.5 ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ THÍ NGHIỆM LÊN SỰ
SINH TRƯỞNG CỦA CÂY LÚA 39
3.5.1 Chiều cao cây 39
3.5.2 Số chồi/m
2
40

viii
3.5.3 Chỉ số diệp lục tố 42
3.6 ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ THÍ NGHIỆM LÊN SINH

KHỐI TRÊN MẶT ĐẤT CỦA CÂY LÚA 43
3.7 ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ THÍ NGHIỆM LÊN
THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT VÀ NĂNG SUẤT LÚA 43
3.7.1 Thành phần năng suất 43
3.7.2 Năng suất 45
3.8 ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ THÍ NGHIỆM LÊN HÀM
LƯỢNG LÂN TRONG ĐẤT VÀ TRÊN CÂY LÚA 47
3.9 ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ THÍ NGHIỆM LÊN HIỆU
QUẢ LỢI NHUẬN 48
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 50
4.1 KẾT LUẬN 50
4.2 ĐỀ NGHỊ 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
















ix

DANH SÁCH BẢNG

Bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Mức độ chịu đựng của cây lúa đối với những độc tố trong đất
9
1.2
Năng suất, sử dụng nước, và hiệu quả sử dụng nước ở chế độ tưới
AWD và tưới ngập liên tục. Dữ liệu từ Bouman và ctv. (2006)
18
1.3
Đánh giá khả năng cung cấp lân cho lúa nước
22
1.4
Đánh giá đất theo hàm lượng lân tổng số, %P
2
O
5
(Lê Văn Căn,
1978)
24
3.1
Tổng lượng nước bơm vào trong vụ cho 1 ha (m
3
)
33
3.2
Ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm lên chiều cao cây (cm)

39
3.3
Ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm lên số chồi/m
2

41
3.4
Ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm lên chỉ số diệp lục tố
42
3.5
Ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm lên sinh khối trên mặt đất
(tấn/ha)
43
3.6
Ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm lên các thành phần năng
suất
45
3.7
Ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm lên năng suất
47
3.8
Ảnh hưởng của nhân tố thí nghiệm lên hàm lượng P trong đất và
trong cây lúa
48
3.9
Ảnh hưởng của kỹ thuật tưới ướt – khô xen kẽ (AWD) và liều
lượng phân lân lên hiệu quả lợi nhuận
49








x
DANH SÁCH HÌNH
















Hình
Tên hình
Trang
1.1
Sự cân bằng nước ở vùng rễ ruộng lúa nước (Nguyễn Ngọc Đệ,
2008)
16

2.1
Bản đồ hành chính huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang
27
2.2
Sơ đồ bố trí thí nghiệm
28
3.1
Diễn biến mực nước trên đồng ruộng
33
3.2
Diễn biến của pH ở ba chế độ quản lí nước
35
3.3
Diễn biến của EC ở ba chế độ quản lí nước
37
3.4
Sự biến động của EC theo pH nước
38

xi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
Diễn giải Tiếng Việt
AWD
Tưới ngập – khô xen kẽ
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
EC
Độ dẫn điện

ET
Bốc thoát hơi nước
IRRI
Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế
KPa
Hiệu thế nước
N
Đạm
NSLT
Năng suất lí thuyết
NSTT
Năng suất thực tế
NSKS
Ngày sau khi sạ
P
Lân
pH
Độ pH
SPAD
Chỉ số diệp lục tố













xii
NGUYỄN ANH PHA, 2014. “ẢNH HƯỞNG CỦA BIỆN PHÁP TƯỚI
NGẬP – KHÔ XEN KẼ VÀ LIỀU LƯỢNG PHÂN LÂN LÊN SINH
TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA OM2517 VỤ ĐÔNG XUÂN 2012 – 2013
TRÊN VÙNG ĐẤT PHÈN TẠI TÀ ĐẢNH, TRI TÔN, AN GIANG”. Luận
văn tốt nghiệp kỹ sư Nông Học, Khoa Nông Nghiệp và sinh học ứng dụng,
Trường Đại học Cần Thơ. Cán bộ hướng dẫn: Ts. PHẠM PHƯỚC NHẪN
TÓM LƯỢC
Đồng Bằng Sông Cửu Long là vùng trọng điểm sản xuất lúa của cả nước,
góp phần vào đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đóng góp phần lớn vào
xuất khẩu gạo. Trong điều kiện biến đổi khí hậu theo hướng bất lợi cho sản
xuất nông nghiệp, đặc biệt là với tình trạng nước ngọt không còn dồi dào cho
sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt, trong khi canh tác lúa đòi hỏi một khối
lượng nước rất lớn. Do đó, để duy trì sản xuất, năng suất ổn định trong khi
lượng nước sử dụng thấp thì vấn đề tưới nước tiết kiệm cần được quan tâm,
nên đề tài: “Ảnh hưởng của biện pháp tưới ngập – khô xen kẽ và liều lượng
phân lân lên sinh trưởng và năng suất lúa OM2517 vụ Đông Xuân 2012 –
2013 trên vùng đất phèn tại Tà Đảnh, Tri Tôn, An Giang” được thực hiện.
Trong nghiên cứu này, kỹ thuật tưới ngập – khô xen kẽ (AWD) kết hợp
với việc giảm liều lượng phân lân đã được khảo sát nhằm đánh giá các ảnh
hưởng của chúng lên sinh trưởng, năng suất và hiệu quả lợi nhuận trên giống
lúa OM2517. Kết quả cho thấy, không bón phân lân vẫn không ảnh hưởng đến
sinh trưởng cũng như không làm giảm năng suất của lúa tiết kiệm từ 34 đến 68
kg P
2
O
5
/ha. Kỹ thuật tưới ngập – khô xen kẽ làm giảm chi phí đầu tư nhưng

năng suất lúa vẫn được đảm bảo đạt 7,34 đến 7,73 tấn/ha, tiết kiệm được từ
1.336 đến 1.352 m
3
nước/ha, khoảng 53% nước tưới. Việc kết hợp kĩ thuật
tưới ngập – khô xen kẽ và giảm lượng phân lân có thể làm tăng lợi nhuận đến
4,9 triệu đồng/ha. EC và pH của nước ruộng không khác biệt giữa hai chế độ
tưới ngập – khô xen kẽ và ngập liên tục. Kết hợp biện pháp tưới tiết kiệm và
giảm liều lượng phân lân không ảnh hưởng đến các thành phần năng suất, hàm
lượng lân trong thân lá, hạt, chỉ số diệp lục tố và sinh khối trên mặt đất của cây
lúa.
Từ khóa: Kỹ thuật tưới ngập – khô xen kẽ, AWD, liều lượng phân lân.



1
MỞ ĐẦU
Cây lúa có tên khoa học là Oryza sativa L, là một trong những cây lương
thực chủ yếu và quan trọng trên thế giới, có ảnh hưởng tới đời sống của ít nhất
65% số dân trên thế giới. Ở Việt Nam, lúa vừa đảm bảo lương thực cho hầu
hết dân số vừa đóng góp vào việc đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu
gạo đứng thứ 2 thế giới (Theo Nguyễn Như Hà, 2006). Mùa vụ 2011 – 2012
nước ta xuất khẩu 7,72 triệu tấn gạo trong tổng sản lượng 27,15 triệu tấn, tiếp
tục giữ vị trí thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, sau Ấn Độ. Theo Hiệp hội
Lương thực Việt Nam, tổng kim ngạch xuất khẩu gạo nước ta đạt 3,45 tỉ đô la
Mỹ (Theo Cục xúc tiến thương mại, 2013).
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng kinh tế quan trọng của cả
nước, giàu tiềm năng về nhiều mặt, chiếm vị trí quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội và là chìa khóa chính trong chiến lược an ninh lương thực
quốc gia. Sản lượng lúa chiếm trên 50% (xuất khẩu 95%). Tập quán tưới nước
cổ truyền (tưới ngập, tưới nhiều lần/vụ) của nông dân đã được duy trì từ bao

đời nay nhưng mang lại hiệu quả không cao, đã xảy ra hiện tượng lãng phí
nước ở một số giai đoạn. Song vấn đề biến đổi khí hậu đang diễn ra và ảnh
hưởng ngày càng lớn đến nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt Việt Nam được
đánh giá là một trong các nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí
hậu toàn cầu gây ra. Tuong and Bouman (2003) ước tính rằng vào khoảng năm
2015 khoảng 15 – 20 triệu ha lúa sẽ gặp vấn đề về khan hiếm nước. Nguồn tài
nguyên nước có xu hướng suy thoái do tác động của con người và biến đổi khí
hậu toàn cầu. Nguồn nước mặt khan hiếm trong mùa khô gây hạn hán, và quá
trình dư thừa trong mùa mưa gây lũ lụt. Bên cạnh đó trong bối cảnh biến đổi
khí hậu – nước biển dâng nên các tác động này sẽ càng trở nên phức tạp, lũ có
thể gây ngập sâu và kéo dài hơn, đe dọa sự phát triển bền vững và an ninh
lương thực của Việt Nam (Tăng Đức Thắng và Tô Quang Toản, 2011).
Phân lân là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc gia tăng năng suất và
chất lượng lúa gạo ở An Giang và Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là trên
vùng đất phèn. Hiệu quả sử dụng phân lân trên đất phèn thấp do các độc tố
trong đất như ion sắt, nhôm cố định làm cây trồng khó hấp thu được nên lượng
phân lân được sử dụng rất nhiều. Theo cục trồng trọt (2007) trong vụ Đông
Xuân lượng phân lân được khuyến cáo bón trong khoảng 60 – 80 kg P
2
O
5
trên
đất phèn nặng và trong khoảng 30 – 50 kg P
2
O
5
trên đất phèn nhẹ. Vì vậy, việc


2

nghiên cứu liều lượng phân lân trên vùng đất phèn ở tỉnh An Giang là cần thiết
nhằm xác định công thức phân lân thích hợp để khuyến cáo vào sản xuất.
Mục tiêu của đề tài “Ảnh hưởng của biện pháp tưới ngập – khô xen kẽ và
liều lượng phân lân lên sinh trưởng và năng suất lúa OM2517 vụ Đông – Xuân
2012 – 2013 trên vùng đất phèn tại Tà Đảnh, Tri Tôn, An Giang” là xem xét
các ảnh hưởng của việc kết hợp 2 yếu tố: tưới ngập – khô xen kẽ (AWD) và
các liều lượng phân lân lên sinh trưởng và năng suất lúa OM2517 vụ Đông
Xuân 2012 – 2013.
























3
CHƯƠNG I
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA ĐIỂM THÍ NGHIỆM VÀ GIỐNG LÚA THÍ
NGHIỆM
1.1.1 Vị trí địa lí
Tri Tôn là huyện miền núi nằm về hướng Tây Nam tỉnh An Giang với
diện tích tự nhiên khoảng 60.039,74 ha (lớn nhất tỉnh An Giang và chiếm gần
17% diện tích toàn tỉnh), trong đó đất nông nghiệp chiếm 74,48%, đất lâm
nghiệp chiếm khoảng 8,89%, còn lại là đất ở và đất chuyên dùng, gồm 2 thị
trấn Tri Tôn, Ba Chúc và 13 xã. Trong đó thị trấn Tri Tôn là trung tâm huyện
lỵ, cách không xa các đô thị lớn và cửa khẩu trong khu vực (TP. Long Xuyên,
TX. Châu Đốc, cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên, Thị xã du lịch - cửa khẩu quốc tế
Hà Tiên, TP. Rạch Giá),… So với nhiều huyện, thị xã trong tỉnh An Giang, Tri
Tôn có vị trí địa lý khá thuận lợi khi phía Bắc và Đông Bắc Tri Tôn giáp
huyện Tịnh Biên (tỉnh An Giang) và nước bạn Campuchia. Phía Đông giáp
huyện Châu Thành và Thoại Sơn (tỉnh An Giang). Phía Tây và Tây Nam giáp
huyện Kiên Lương, Hòn Đất (tỉnh Kiên Giang) (Theo Văn phòng HĐND –
UBND huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang).
1.1.2 Hiện trạng sản xuất lúa
Huyện Tri Tôn tỉnh An Giang nằm ở phía Tây Nam đồng bằng sông
Cửu Long với phần lớn diện tích đất là đồi núi nên sản xuất nông nghiệp gặp
rất nhiều khó khăn. Kinh tế của người dân địa phương chủ yếu dựa vào sản
xuất nông nghiệp. Với các điều kiện tự nhiên và địa hình của vùng cao, sản
xuất nông nghiệp tại huyện Tri Tôn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nguồn nước
sử dụng trong trồng trọt. Thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô, nguồn nước
chủ yếu là nước trời. Bên cạnh đó, trình độ dân trí của người dân tại địa
phương tương đối thấp, tập quán canh tác còn lạc hậu dẫn đến hiệu quả kinh tế
còn thấp so với tiềm năng sản xuất nông nghiệp trong vùng (Lê Văn Khoa và

ctv., 2012). Diện tích trồng lúa vụ Đông Xuân năm 2010 của toàn huyện là
39.959 ha với năng suất cây lúa vụ Đông Xuân năm 2010 của toàn huyện đạt
68,11 tạ/ha. Sản lượng lúa của toàn huyện đạt 272.161,6 tấn/ha. Trong đó Xã
Tà Đảnh có 3.460 ha trồng lúa với năng suất 7,2 tấn/ha và sản lượng 24.912
tấn (Niên giám thống kê huyện Tri Tôn, An Giang, 2006 – 2010).



4
1.1.3 Giống lúa thí nghiệm
 Giống lúa
OM2517 là giống được chọn từ tổ hợp lai OM1325/OMCS94.
Được công nhận giống theo Quyết định số 2182 QĐ/BNN-KHCN, ngày 29
tháng 7 năm 2004.
 Đặc tính nông sinh học
OM2517 là giống lúa có thể gieo cấy được ở cả 2 vụ. Thời gian sinh
trưởng ở trà Đông xuân (các tỉnh phía Nam) là 90 – 95 ngày. Chiều cao cây:
90 - 100 cm. Khả năng đẻ nhánh khá. Hạt thon dài, màu vàng sáng. Chiều dài
hạt trung bình: 7,30 mm. Tỷ lệ chiều dài/chiều rộng hạt là: 3,30. Trọng lượng
1000 hạt: 27 – 28 gram. Gạo hạt dài, ít bạc bụng. Hàm lượng amylose (%):
25,0. Năng suất trung bình: 45 - 50 tạ/ha, cao có thể đạt: 60 – 80 tạ/ha. Khả
năng chống đổ khá. Là giống kháng vừa với bệnh đạo ôn, nhiễm nhẹ với bệnh
khô vằn, kháng với rầy nâu.
1.2 ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN CỦA CÂY LÚA VÀ
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT LÚA
1.2.1 Đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây lúa
Đời sống cây lúa bắt đầu từ lúc hạt nẩy mầm cho đến khi lúa chín. Theo
Yoshida (1981) cây lúa thường chiếm 3 – 6 tháng từ lúc nẩy mầm cho đến khi
chín, phụ thuộc vào giống và môi trường sinh trưởng. Có thể chia làm 3 giai
đoạn chính: giai đoạn tăng trưởng (sinh trưởng dinh dưỡng), giai đoạn sinh sản

(sinh dục) và giai đoạn chín (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
+ Giai đoạn tăng trưởng: bắt đầu từ khi hạt nảy mầm đến khi cây lúa
bắt đầu phân hóa đòng. Giai đoạn này, cây phát triển về thân lá, chiều cao tăng
dần và ra nhiều chồi mới (nở bụi). Trong điều kiện đầy đủ dinh dưỡng, ánh
sáng và thời tiết thuận lợi, cây lúa có thể bắt đầu nở bụi khi có lá thứ 5 – 6.
Thời điểm có chồi tối đa có thể đạt được trước, cùng lúc hay sau thời kỳ bắt
đầu phân hóa đòng tùy theo giống lúa. Thời gian sinh trưởng của các giống lúa
kéo dài hay ngắn khác nhau chủ yếu là do giai đoạn tăng trưởng này dài hay
ngắn. Thông thường, số chồi hình thành bông (chồi hữu hiệu hay còn gọi là
chồi có ích) thấp hơn so với số chồi tối đa và ổn định khoảng 10 ngày trước
khi đạt được chồi tối đa. Các chồi ra sau đó, thường sẽ tự rụi đi không cho
bông được do chồi nhỏ, yếu không đủ khả năng cạnh tranh dinh dưỡng, ánh
sáng với các chồi khác, gọi là chồi vô hiệu. Trong canh tác, người ta hạn chế


5
đến mức thấp nhất việc sản sinh ra số chồi vô hiệu này bằng cách tạo điều kiện
cho lúa nở bụi càng sớm càng tốt và khống chế sự mọc thêm chồi từ khoảng 7
ngày trước khi phân hóa đòng trở đi, để tập trung dinh dưỡng cho những chồi
hữu hiệu.
+ Giai đoạn sinh sản: bắt đầu từ lúc phân hóa đòng đến khi lúa trổ bông.
Giai đoạn này kéo dài khoảng 27 – 35 ngày, trung bình 30 ngày và giống lúa
dài ngày hay ngắn ngày thường không khác nhau nhiều. Lúc này, số chồi vô
hiệu giảm nhanh, chiều cao tăng lên rõ rệt do sự vươn dài của 5 lóng trên cùng.
Đòng lúa hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn, cuối cùng thoát ra khỏi
bẹ của lá cờ: lúa trổ bông. Trong suốt thời gian này, nếu đầy đủ dinh dưỡng,
mực nước thích hợp, ánh sáng nhiều, không sâu bệnh và thời tiết thuận lợi thì
bông lúa sẽ hình thành nhiều hơn và vỏ trấu sẽ đạt được kích thước lớn nhất
của giống, tạo điều kiện gia tăng trọng lượng hạt sau này.
+ Giai đoạn chín: bắt đầu từ lúc trổ bông đến lúc thu hoạch. Giai đoạn

này trung bình khoảng 30 ngày đối với hầu hết các giống lúa ở vùng nhiệt đới.
Tuy nhiên, nếu đất ruộng có nhiều nước, thiếu lân, thừa đạm, trời mưa ẩm, ít
nắng trong thời gian này thì giai đoạn chín sẽ kéo dài hơn và ngược lại. Giai
đoạn này cây lúa trải qua các thời kỳ sau:
 Thời kì chín sữa (ngậm sữa): các chất dự trữ trong thân lá và sản phẩm
quang hợp được chuyển vào trong hạt. Hơn 80% chất khô tích lũy trong hạt là
do quang hợp ở giai đoạn sau khi trổ. Kích thước và trọng lượng hạt gạo tăng
dần làm đầy vỏ trấu. Bông lúa nặng cong xuống nên gọi là “cong trái me”. Hạt
gạo chứa một dịch lỏng màu trắng đục như sữa, nên được gọi là thời kỳ lúa
ngậm sữa.
 Thời kỳ chín sáp: hạt mất nước, từ từ cô đặc lại, lúc bấy giờ vỏ trấu vẫn
còn xanh.
 Thời kỳ chín vàng: hạt tiếp tục mất nước, gạo cứng dần, trấu chuyển
sang màu vàng đặc thù của giống lúa, bắt đầu từ những hạt cuối cùng ở chót
bông lan dần xuống các hạt ở phần cổ bông nên gọi là “lúa đỏ đuôi”, lá già rụi
dần.
 Thời kỳ chín hoàn toàn: Hạt gạo khô cứng lại, ẩm độ hạt khoảng 20%
hoặc thấp hơn, tùy ẩm độ môi trường, lá xanh chuyển vàng và rụi dần. Thời
điểm thu hoạch tốt nhất là khi 80% hạt lúa ngã sang màu trấu đặc trưng của
giống.



6
1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lúa
a. Số bông/đơn vị diện tích
Số bông trên đơn vị diện tích hình thành dựa vào hai yếu tố chủ yếu: mật
độ cấy và tỉ lệ đẻ nhánh của cây lúa. Mật độ thưa, ánh sáng đầy đủ, dinh
dưỡng nhiều thì lúa đẻ nhánh mạnh và cuối cùng đạt được một số lượng bông
nhất định trên đơn vị diện tích. Mật độ cấy dày, lúa đẻ nhánh ít và cuối cùng

cũng đạt được một số bông tương đương nhất định trên một đơn vị diện tích
(Đinh Văn Lữ, 1978).
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008) số bông trên đơn vị diện tích được quyết
định vào giai đoạn sinh trưởng ban đầu của cây lúa (giai đoạn tăng trưởng),
nhưng chủ yếu là giai đoạn từ khi cấy đến khoảng 10 ngày trước khi có số chồi
tối đa. Các giống lúa cải thiện thấp cây có số bông trên m
2
trung bình phải đạt
500 – 600 bông/m
2
đối với lúa sạ hoặc 350 – 450 bông/m
2
đối với lúa cấy, mới
có thể có năng suất cao.
b. Số hạt trên bông
Số hạt trên bông được quyết định từ lúc tượng cổ bông đến 5 ngày trước
khi trổ, nhưng quan trọng nhất là thời kì phân hóa hoa và giảm nhiễm tích cực.
Ở giai đoạn này, số hạt trên bông có ảnh hưởng thuận đối với năng suất lúa do
ảnh hưởng đến số hoa được phân hóa. Sau giai đoạn này, số hạt trên bông đã
hình thành có thể bị thoái hóa có ảnh hưởng âm (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Số hạt trên bông hình thành do hai yếu tố quyết định là tổng số hoa phân
hóa và số hoa thoái hóa. Số hoa phân hóa càng nhiều, số hoa thoái hóa càng ít
thì số hạt trên bông càng nhiều (Đinh Văn Lữ, 1978).
c. Tỉ lệ hạt chắc
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008) tỉ lệ hạt chắc tính bằng phần trăm hạt chắc
trên tổng số hạt. Tỉ lệ hạt chắc được quyết định từ đầu thời kỳ phân hóa đòng
đến khi lúa vào chắc nhưng quan trọng nhất là các thời kì phân bào giảm
nhiễm, trổ bông, phơi màu, thụ phấn, thụ tinh và vào chắc. Tỷ lệ hạt chắc có
ảnh hưởng tới năng suất rõ vì số hạt chắc ít mà số hạt lép trên bông nhiều thì
năng suất giảm (Đinh Văn Lữ, 1978). Tỉ lệ hạt chắc tùy thuộc vào số hoa trên

bông, đặc tính sinh lí của cây lúa và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện ngoại
cảnh. Thường số hoa trên bông quá nhiều dễ dẫn đến tỉ lệ hạt chắc thấp. Các
giống lúa có khả năng quang hợp, tích lũy và chuyển vị các chất mạnh, cộng
với cấu tạo mô cơ giới vững chắc không đổ ngã sớm, lại trổ và tạo hạt trong
điều kiện thời tiết tốt, dinh dưỡng đầy đủ thì tỉ lệ hạt chắc sẽ cao và ngược lại.


7
Muốn có năng suất cao, tỷ lệ hạt chắc phải đạt trên 80% (Nguyễn Ngọc Đệ,
2008).
d. Trọng lượng hạt
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008) trọng lượng hạt được quyết định ngay từ
thời kỳ phân hóa hoa đến khi lúa chín, nhưng quan trọng nhất là các thời kì
giảm nhiễm tích cực và vào chắc rộ. Trọng lượng hạt tùy thuộc cỡ hạt và độ
mẩy (no đầy) của hạt lúa. Đối với lúa, người ta thường biểu thị trọng lượng hạt
bằng trọng lượng của 1000 hạt với đơn vị là gram. Ở phần lớn giống lúa, trọng
lượng 1000 hạt thường biến thiên tập trung trong khoảng 20 – 30 g. Theo Đinh
Văn Lữ (1978) trọng lượng hạt quyết định do hai yếu tố: hạt thóc to nhỏ và
phôi nhũ đẫy nhiều ít. Hạt thóc to nhỏ phụ thuộc vào vỏ trấu to hay nhỏ. Mức
độ hạt đẫy nhiều ít phụ thuộc vào quá trình tích lũy tinh bột trong hạt sau khi
lúa trổ bông. Cần chú ý điều kiện dinh dưỡng và ngoại cảnh trước và sau khi
trổ bông để có biện pháp tăng trọng lượng hạt.
1.3 ĐẤT PHÈN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
1.3.1 Định nghĩa đất phèn
Theo Nguyễn Như Hà (2006) nhóm đất phèn có tên gọi theo FAO –
UNESCO là Thionic Fluvisols (FLt). Đất phèn (Acid sulphate soil) là tên gọi
dùng để chỉ đất có chứa các vật liệu mà kết quả của các tiến trình sinh hóa xảy
ra là acid sulphuric được tạo thành hoặc sẽ sinh ra với một số lượng có ảnh
hưởng lâu dài đến những đặc tính chủ yếu của đất (Pons, 1973 trích trong Võ
Thị Gương, 2010). Theo Đỗ Thanh Hải và ctv. (2006) axit sulfuric phá hủy

khoáng sét giải phóng ra nhiều sắt, nhôm và cùng với lượng sắt, nhôm tự do
có sẵn chúng kết hợp với gốc anion SO
4
2-
tạo ra các dạng muối phèn sắt, nhôm
cao trong đất.
Đất phèn là tên gọi loại đất sau khi cày, bừa, nước ruộng trong như được
đánh phèn, nước có vị chua chát như phèn chua, độ pH dưới 4,0. Đất phèn
chứa nhiều muối hòa tan mà thành phần chủ yếu là sulphate sắt và sulphate
nhôm. Về sự hình thành đất phèn gắn liền với việc tạo khoáng Pyrite trong đất,
Pyrite là hợp chất tạo bởi sắt và lưu huỳnh, công thức là FeS
2
(Ngô Ngọc
Hưng, 2009).
Theo Lê Văn Khoa (2003) nhóm đất phèn, tầng mặt thường chứa nhiều
hữu cơ và các tầng đất bên dưới là tầng phèn hoặc tầng đất có chứa vật liệu
sinh phèn. Theo Nguyễn Mỹ Hoa và Trịnh Thị Thu Trang (2006) hàm lượng


8
hữu cơ trong đất phèn khá cao đến rất cao, biến động từ 3 – 20% chất hữu cơ.
Hàm lượng đạm tổng số trong đất phèn khá cao biến động từ 0,17 – 0,32% N.
Mức độ phân giải chất hữu cơ chậm biến động từ 14,5 đến 23,8. Hàm lượng
Al trao đổi biến động từ 2,6 đến 12,1 meq/100g. Theo Đỗ Thanh Hải (2006)
nếu đất chỉ có tầng sinh phèn gọi là đất phèn tiềm tàng, đất có tầng phèn (đôi
khi có cả tầng sinh phèn) gọi là đất phèn hoạt động.
1.3.2 Phân bố đất phèn
Theo Lê Văn Khoa (2003) đất phèn là nhóm đất quan trọng, là đối tượng
của các nhà nghiên cứu ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, thường định vị
ở địa hình trũng thấp. Theo Lê Văn Khoa (2003, Trích Võ Thị Gương và

Nguyễn Mỹ Hoa, 2010) ở miền Nam Việt Nam, đất phèn chủ yếu phân bố ở 2
miền: miền Tây và miền Đông Nam bộ (Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước,
Đồng Nai và khu ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh). Ở Đồng bằng sông Cửu
Long nhóm đất phèn chiếm diện tích rộng lớn gần ½ tổng diện tích tự nhiên
của đồng bằng (chiếm 1,6 triệu ha) phân bố tập trung thành các vùng: Vùng
phèn Tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, Vùng trũng phèn Đồng Tháp Mười,
Vùng phèn phía Tây sông Hậu và khu vực trũng giữa sông Tiền và sông Hậu,
và vùng phèn mặn Bán đảo Cà Mau và ven Vịnh Thái Lan. Vùng phèn Tứ
Giác Long Xuyên – Hà Tiên: Chủ yếu phân bố ở các huyện: Hà Tiên, Hòn Đất
thuộc tỉnh Kiên Giang và Tịnh Biên, Tri Tôn thuộc tỉnh An Giang. Bao gồm
các biểu loại đất chính như: Sulfuric Humaquepts, Typic Sulfaquepts, Sunfuric
Tropaquepts. Vùng trũng phèn Đồng Tháp Mười: Đại diện là các biểu loại đất
Sulfidic Humaquepts, Sulfuric Humaquepts, Typic Sulfaquepts và Umbric
Sulfaquepts. Vùng phèn phía Tây sông Hậu và khu vực trũng giữa sông Tiền
sông Hậu: Đất phèn phân bố chủ yếu ở các huyện Châu Thành, Tam Bình,
Bình Minh thuộc tỉnh Vĩnh Long và huyện Phụng Hiệp thuộc tỉnh Cần Thơ,
gồm các biểu loại đất: Sulfuric Humaquepts, Sulfidic Humaquepts, Typic
Sulfaquepts. Vùng phèn mặn Bán đảo Cà Mau và ven Vịnh Thái Lan chiếm
khoảng 24% so với tổng diện tích đất Đồng bằng sông Cửu Long.
1.3.3 Các trở ngại của đất phèn
Có nhiều yếu tố hạn chế cho sản xuất nông nghiệp trên đất phèn. Tầng
pyrite (FeS
2
) trong đất phèn khi tiếp xúc với oxy sẽ bị oxy hóa tạo ra acid
sulfuric, làm cho đất chua và gây bất lợi cho sự phát triển của cây trồng (Trần
Thị Nhe và Nguyễn Mỹ Hoa, 2010). Các yếu tố bất lợi chính của đất phèn là
pH thấp, nhôm và sắt hòa tan trong dung dịch đất cao, ảnh hưởng bất lợi đến


9

sinh trưởng và năng suất cây trồng (Foy, 1988; Hanhart, 1993). Mức độ chịu
đựng những chất độc trong đất của cây lúa còn tùy thuộc vào hàm lượng của
chúng trong đất (Bảng 1.1). Đất phèn thường có hàm lượng nhôm, sắt, mangan
cao, lượng lân và tính bão hòa bazơ thấp và thiếu dinh dưỡng (Aard and
Lawoo, 1992).
Bảng 1.1 Mức độ chịu đựng của cây lúa đối với những độc tố trong đất
pH
EC (ms/cm)
Al
3+
(ppm)
Fe
2+
(ppm)
SO
4
2-
(ppm)
5,0 ÷ 5,5
< 2.500
≤ 30
≤ 150 ÷ 200
1.500
(Nguồn: Đào Xuân Học và Hoàng Thái Đại, 2005)
Trong đất phèn các nguyên tố sắt, nhôm, suphat (dưới dạng Fe
2+
, Fe
3+
,
SO

4
2-
, H
+
, Cl
-
và hợp chất của sắt với lưu huỳnh là pyrite, jarosit) luôn có hàm
lượng rất cao, trên mức chịu đựng của cây trồng rất nhiều, vì vây gọi là độc tố
trong đất phèn.
a. Ảnh hưởng pH
Theo Thúy Hằng (2001) độ pH tác động nhiều đến các tính chất vật lý,
hóa học và vi sinh vật của đất đến sự phát triển và năng suất của cây lúa. pH
đất thấp gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự hấp thu các dưỡng chất làm ảnh
hưởng đến sinh trưởng của cây. Quan trọng nhất là pH đất thấp đưa đến nồng
độ Fe, Al và Mn rất cao gây độc cho cây trồng. Mặt khác, pH đất thấp làm
giảm đáng kể độ hữu dụng của N, P, Ca, Mg trong đất, gây thiếu dinh dưỡng
nếu không được cải thiện pH và không cung cấp bổ sung các dưỡng chất này.
Thông thường sự phóng thích các kim loại gia tăng khi pH giảm, vì vậy
các nguyên tố kim loại thường dễ hòa tan trong môi trường acid. Ở giá trị pH<
4,5 Al
3+
có khả năng hòa tan cao và hàm lượng của nó có tương quan rất chặt
với pH, hàm lượng Al
3+
tăng lên 10 lần khi pH hạ xuống 1 đơn vị (Lê Huy Bá,
1982). Theo Astrom (1998) thì pH là một yếu tố quan trọng kiểm soát nồng độ
của hầu hết các kim loại nặng trong các kênh thoát nước vùng đất phèn, trừ As.
Mức độ phóng thích của các kim loại như Al, Cu, Cr, V có liên quan nhiều
vào pH (Trích Ngô Ngọc Hưng, 2009).
b. Ảnh hưởng của Sắt (Fe

2+
, Fe
3+
)
Theo Võ Thị Gương (2010) sắt là một trong bốn nguyên tố chiếm số
lượng nhiều nhất trong lớp vỏ trái đất sau oxy, silicon và nhôm. Hàm lượng


10
sắt trung bình trong đất, trầm tích và đá chiếm khoảng 5%. Hầu hết sắt trong
đất hiện diện dưới dạng oxyt sắt, màu sắt đặc trưng ở trong đất là màu nâu, đỏ
và vàng. Theo Võ Thị Gương (2001) hàm lượng sắt trong hạt, thân, lá biến
thiên từ 0,5 – 0,8%. Nếu dựa vào hàm lượng sắt trong cây thì có thể xếp sắt là
nguyên tố đa lượng, nhưng nếu căn cứ vào lượng sắt cần thiết cho cây và cơ
chế tác dụng của nó thì xếp nguyên tố này vào nhóm nguyên tố vi lượng. Theo
Yoshida (1981) trên đất trung tính và đất kiềm thường xảy ra thiếu sắt. Trên
đất cạn thường thiếu sắt hơn đất ngập nước. Độc hại của sắt lại chỉ xảy ra trên
đất trũng và thường xảy ra trên đất cát chua, đất đỏ chua và đất phèn. Theo
Đào Xuân Học và ctv. (2005) Fe
2+
dễ tan trong nước và khi tan gây chua cho
đất. Trong môi trường axit sunphuaric, sắt di động mạnh, có thể ở các dạng
Fe(OH)
2
, FeSO
4
, Fe
2
(SO
4

)
3
hay Fe(HCO
3
)
2
, cũng có khi là hợp chất sắt hữu cơ.
Theo Lê Huy Bá (2000) Fe
2+
là nguyên tố độc của môi trường sinh thái đất
phèn, Fe
2+
xuất hiện trong đất phèn trước Al
3+
. Trong đất yếm khí chúng ở
dạng có thể kết hợp kết hợp với H
2
S tạo thành FeS bám vào rễ cây và làm ngộ
độc cho cây.
Nồng độ Fe
2+
cao gây độc cho cây: ngộ độc sắt chỉ thấy trên đất phèn khi
pH khoảng 5,0. Ngộ độc sắt có thể nghi ngờ khi thấy xuất hiện Fe(OH)
3
trên
mặt đất làm thành cặn bã màu nâu trong hơi đỏ, trên mặt làm thành ván dầu
(Van Breemen et al., 1982). Nồng độ Fe
2+
hòa tan vượt quá 300 – 400 ppm
gây độc cho cây. Nồng độ này thường ít tìm thấy trên đất Sulfaquepts ngập

nước (Van Breemen, 1978). Nồng độ sắt tới ngưỡng gây độc trong dung dịch
thay đổi tùy theo pH đất, khoảng 100 ppm ở pH 3,7 và 300 ppm hoặc cao hơn
ở pH 5 (Yoshida, 1981).
Trong đất phèn, nồng độ Fe
2+
, hay Fe
3+
khoảng từ vài trăm đến 3.000
ppm. Sắt thường gây độc ở dạng Fe
2+
và một ít ở dạng Fe
3+
. Fe
3+
bám dính
quanh rễ cây làm khả năng trao đổi chất của cây bị hạn chế. Biến đổi về độc tố
sắt rất rộng cho nên ảnh hưởng của nó rất đa dạng. Hàm lượng sắt có thể gây
độc cho cây lúa biến thiên từ 10 đến 1000 mg/L. Mức biến thiên rộng như vậy
khiến cho người ta khó xác định tiêu chuẩn gây hại của sắt, dạng hiện diện của
nó, giai đoạn cây lúa nhạy cảm nhất, giống lúa, sự có mặt của chất ức chế hô
hấp, tình trạng dinh dưỡng của cây và yếu tố môi trường khác (Ngô Ngọc
Hưng, 2009).




11
c. Ảnh hưởng của nhôm (Al
3+
)

Theo Đào Thái Học và ctv. (2005) độc chất nhôm có hóa trị là +3 (Al
+3
).
Trong dung dịch khi pH = 4,1 nhôm sẽ lắng tụ (điểm đó được gọi là điểm trầm
lắng của nhôm). Trong môi trường axit H
2
SO
4
, Al
+3
có khả năng di động mạnh.
Độc chất nhôm: đối với cây trồng cạn thì độc chất nhôm là trở ngại rất
quan trọng ảnh hưởng đến sinh trưởng và năng suất. Đất phèn có pH đất thấp,
nồng độ ion H
+
, Fe và Al
3+
cao, nhôm bị thủy phân phóng thích ion H
+
làm đất
càng chua hơn (Van Breemen, 1978). Nồng độ Al hòa tan vượt quá 10 – 50
ppm có thể gây độc cho cây trồng, tùy thuộc vào giống và giai đoạn sinh
trưởng của cây trồng (Van Breemen, 1993). Ngộ độc Al là một trong những
nhân tố chính giới hạn năng suất cây trồng trên đất phèn và thường kết hợp với
thiếu lân. Nhôm hòa tan tích lũy trong mô rễ sẽ ngăn cản sự phân chia của tế
bào, làm ức chế sự hoạt động của các enzyme liên quan đến sự tổng hợp tế bào
làm cho bộ rễ cây còi cọc và bị xù xì. Thêm vào đó sự thu hút phosphate của
cây bị cản trở vì nhôm đã cố định lân trong đất và ngay cả trong rễ cây. Sự
giới hạn chiều dài của rễ cây trồng cũng là thông số cơ bản cho việc nghiên
cứu khả năng chịu đựng của cây trồng đối với độc chất nhôm. Ngộ độc Al

3+

trên cây lúa thường xuất hiện ở những lá già trước. Biểu hiện đặc trưng là
những vệt màu vàng lục hoặc màu trắng lục trên các gân lá, trong trường hợp
bị nặng, các phần màu lục sẽ bị hủy hoại.
Hàm lượng Al gây độc không thể đánh giá qua hàm lượng Al
3+
trong cây
vì đã bị kết tủa bởi lân và tích lũy trong rễ. Nồng độ Al
3+
trong dung dịch 0,05
– 2 ppm gây độc đối với cây lúa non, đối với lúa 3 – 4 tuần tuổi là 25 ppm.
Theo Dent (1986) Al
3+
có thể gây độc cho cây lúa ở nồng độ thấp 1 – 2 ppm.
Al ở dạng hòa tan sẽ tích lũy trong tế bào rễ, ngăn cản tế bào phân chia dài ra,
ngăn cản hoạt động của các enzyme liên quan đến quá trình tổng hợp vách tế
bào. Mặt khác, Al
3+
ảnh hưởng tới sự hấp phụ và trao đổi của các chất dinh
dưỡng khác như là Ca và P.
d. Thiếu lân
Trong đất chua, hàm lượng các ion Fe, Al và Mn cao, chúng phản ứng
nhanh với ion H
2
PO
4
-
tạo thành hợp chất lân không hòa tan. Một đặc điểm
quan trọng của chất lân trong đất là hàm lượng lân dễ tiêu hiện diện trong đất

phèn rất thấp do chúng dễ bị cố định dưới dạng các hợp chất khó hòa tan (Võ
Thị Gương và ctv., 1994). Đặc tính cố định P của đất tùy thuộc vào pH, hàm

×