KHẢO SÁT ĐỘC LỰC VÀ TÍNH GÂY BỆNH
CỦA CHỦNG VIRUS VIÊM GAN VỊT TYPE I
(KG6) TRÊN PHÔI VỊT VÀ TRÊN VỊT CON
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
PHẠM DIỆU ANH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH THÚ Y
Cần Thơ, 2014
i
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHẢO SÁT ĐỘC LỰC VÀ TÍNH GÂY BỆNH
CỦA CHỦNG VIRUS VIÊM GAN VỊT TYPE I
(KG6) TRÊN PHÔI VỊT VÀ TRÊN VỊT CON
Sinh viên thực hiện:
PHẠM DIỆU ANH
MSSV: 3102930
LỚP: THÚ Y – K36
Giáo viên hướng dẫn:
PGS.TS. HỒ THỊ VIỆT THU
ii
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
Đề tài: “Khảo sát độc lực và tính gây bệnh của chủng virus viêm gan
vịt type I (KG6) trên phôi vịt và trên vịt con”. Do sinh viên Phạm Diệu Anh
thực hiện tại Cần Thơ từ tháng 08/2014 đến tháng 12/2014.
Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2014 Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2014
Duyệt Bộ môn Duyệt Giáo viên hƣớng dẫn
PGS.TS. HỒ THỊ VIỆT THU
Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2014
Duyệt khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu,
kết quả trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ luận văn nào trước đây.
Cần thơ, ngày … tháng … năm 2014
Tác giả luận văn
Phạm Diệu Anh
iv
LỜI CẢM TẠ
Trong suốt quá trình học tập ở giảng đường Đại học và hơn 3 tháng làm
đề tài luận văn tốt nghiệp, tôi luôn nhận được sự động viên, giúp đỡ và hướng
dẫn từ gia đình, thầy cô và bạn bè. Nay, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân
thành đến:
Cha mẹ, những người luôn cố gắng tạo điều kiện để tôi thực hiện hoài
bão của mình.
Cô Hồ Thị Việt Thu đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho
tôi hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Thầy Lê Hoàng Sĩ – Cố vấn học tập đã tận tình chỉ dạy và giúp đỡ tôi
trong suốt 5 năm học vừa qua.
Ths. Bs. Nguyễn Văn Luân và PGS.TS. Nguyễn Văn Khanh đã nhiệt tình
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Quý thầy, cô Trường Đại Học Cần Thơ, đặc biệt là các thầy, cô thuộc Bộ
Môn Chăn Nuôi và Bộ Môn Thú Y khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng
Dụng đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học tại
trường.
Chị Nguyễn Thị Minh Thùy, anh Lê Trần Hoài Khanh, chị Vũ Ngọc
Minh Thư đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Các bạn trong và ngoài lớp Thú Y K36 đã giúp đỡ và động viên tôi trong
quá trình học tập cũng như trong cuộc sống.
Xin kính gửi tới quý thầy, cô, người thân lời chúc sức khỏe, thành công
và xin nhận nơi tôi lòng biết ơn sâu sắc.
Xin gửi đến bạn bè tôi lời chúc sức khỏe và lời chúc thành công trên con
đường sự nghiệp tương lai.
Phạm Diệu Anh
v
TÓM LƢỢC
Đề tài “Khảo sát độc lực và tính gây bệnh của chủng virus viêm gan
vịt type I (KG6) trên phôi vịt và trên vịt con” được tiến hành từ tháng
08/2014 đến tháng 12/2014, tại trại nghiên cứu và thực nghiệm trường Đại học
Cần Thơ. Đề tài được thực hiện nhằm khảo sát những bệnh lý của bệnh viêm
gan vịt gây ra trên phôi vịt và trên vịt con của virus viêm gan vịt type I (KG6)
phân lập từ gan vịt bệnh tại Kiên Giang được nuôi cấy trên tế bào xơ phôi vịt.
Qua thời gian nghiên cứu đã ghi nhận được kết quả như sau:
Sau khi tiêm huyễn dịch virus viêm gan vịt type I được trữ tại phòng thí
nghiệm virus học, bộ môn Thú Y vào xoang niệu mô của phôi vịt 12 ngày tuổi
với liều 0,1 ml đã xác định được liều gây chết 50% phôi (ELD
50
- Embryo
lethal dose) là 10
7,625
. Phôi bắt đầu chết sau 24 giờ gây nhiễm, thời gian chết
phôi trung bình cao nhất lúc 42 giờ. Các bệnh tích trên phôi được ghi nhận là
da phôi xuất huyết (100%); gan sưng, xuất huyết (94,44%); phôi còi cọc
(86,11%); phôi phù (47,22%); gan nhạt màu (30,56%). Bên cạnh đó, còn có
các biểu hiện bệnh tích khác như tim nhạt màu (11,11%) và dịch niệu màu
xanh (5,56%).
Kết quả gây nhiễm thực nghiệm trên vịt con với liều 0,2 ml xác định
được liều gây chết 50% vịt (LD
50
-Lethal dose) trên vịt con 2 ngày tuổi là
5x10
2,68
/1ml huyễn dịch virus gốc. Triệu chứng ghi nhận được là: ít hoặc
không đi lại, bỏ ăn ủ rũ, tiêu chảy phân trắng, co giật, chân duỗi thẳng, đầu
ngoẹo, chết nhanh. Trong đó, tần suất xuất hiện triệu chứng cao nhất là ít vận
động, ủ rũ (100%) và thấp nhất là chảy nước mũi (11,43%). Tỷ lệ vịt chết cao
nhất (50%) tập trung vào ngày thứ ba sau khi gây nhiễm. Qua mổ khám chúng
tôi ghi nhận được những bệnh tích đại thể như : gan sưng xuất huyết (100%),
gan nhạt màu (81,25%) và mật sưng (68,75%). Ngoài ra bệnh tích còn xuất
hiện ở những cơ quan khác như thận sung huyết (43,75%), lách sưng đốm đỏ
(18,25%) và tim nhạt màu có tần suất xuất hiện ít nhất là 12,5%. Quan sát
dưới kính hiển vi điện tử những tiêu bản vi thể cho thấy bề mặt gan bị xuất
huyết, tế bào bị hoại tử, có hiện tượng viêm, ống dẫn mật tăng sinh, thâm
nhiễm tế bào viêm ở thận.
vi
MỤC LỤC
Trang tựa i
Trang duyệt ii
LỜI CAM ĐOAN iii
LỜI CẢM TẠ iv
TÓM LƢỢC v
MỤC LỤC vi
DANH MỤC BẢNG viii
DANH MỤC HÌNH ix
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT x
CHƢƠNG 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƢƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2
2.1 Bệnh viêm gan do virus ở vịt (Duck Hepatitis) 2
2.1.1 Lịch sử và sự phân bố 2
2.1.1.1Tình hình bệnh viêm gan vịt trên thế giới 2
2.1.1.2 Tình hình bệnh viêm gan vịt trong nước 3
2.2 Virus viêm gan vịt 5
2.2.1 Virus viêm gan vịt type I 5
2.2.1.1 Đặc điểm hình thái 5
2.2.1.2 Đặc tính sinh học của virus 6
2.2.1.3 Sức đề kháng 6
2.2.1.4 Đặc tính nuôi cấy 6
2.2.1.5 Biến dị của virus 8
2.2.2 Virus viêm gan vịt type II 8
2.2.3 Virus viêm gan vịt type III 8
2.3 Truyền nhiễm học 9
2.3.1 Sự lan truyền bệnh 9
2.3.2 Cơ chế sinh bệnh 10
2.3.3 Triệu chứng lâm sàng 10
2.3.4 Bệnh tích 11
2.3.4.1 Bệnh tích đại thể 11
2.3.4.2 Bệnh tích vi thể 12
2.3.5 Chẩn đoán 13
2.3.5.1 Chẩn đoán lâm sàng 13
2.3.5.2 Chẩn đoán bằng phương pháp huyết thanh học 13
2.3.5.3 Chẩn đoán virus học 14
2.3.6 Phòng bệnh 15
2.3.6.1 Phòng bệnh bằng vệ sinh thú y 15
vii
2.3.6.2 Phòng bệnh bằng vaccine 15
2.3.7 Điều trị bệnh 16
2.4 Miễn dịch chống virus viêm gan vịt 16
2.4.1 Miễn dịch thụ động 17
2.4.2 Miễn dịch chủ động 18
2.4.3 Phương pháp đánh giá đáp ứng miễn dịch 18
CHƢƠNG 3. NỘI DUNG, PHƢƠNG TIỆN VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 19
3.1 Nội dung nghiên cứu 19
3.2 Phương tiện nghiên cứu 19
3.2.1 Thời gian 19
3.2.2 Địa điểm thực hiện đề tài 19
3.2.3 Đối tượng thí nghiệm 19
3.2.4 Vật liệu thí nghiệm 19
3.2.4.1 Vật liệu và dụng cụ 19
3.2.4.2 Hóa chất và sinh phẩm 20
3.2.5 Chuẩn bị nuôi vịt thí nghiệm 20
3.3 Phương pháp nghiên cứu 20
3.3.1 Xác định nồng độ liều gây chết 50% phôi (ELD
50
) và các bệnh lý trên
phôi của DHV type I (KG6) 20
3.3.2 Xác định nồng độ liều gây chết 50% vịt (LD
50
) và các bệnh lý của
DHV type I (KG6) trên vịt con 22
3.3.3 Thống kê và xử lý số liệu 24
CHƢƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 25
4.1 Kết quả khảo sát liều gây chết 50% trên phôi vịt thí nghiệm 25
4.2 Kết quả theo dõi thời gian chết phôi trung bình theo nồng độ 27
4.3 Kết quả khảo sát bệnh tích gây ra trên phôi vịt thí nghiệm 29
4.4 Kết quả khảo sát liều gây chết 50% của virus trên vịt con 32
4.5 Kết quả khảo sát triệu chứng lâm sàng ở vịt thí nghiệm 34
4.6 Kết quả khảo sát tỷ lệ chết theo thời gian ở vịt thí nghiệm 36
4.7 Kết quả khảo sát bệnh tích đại thể ở vịt thí nghiệm 37
4.8 Kết quả khảo sát bệnh tích vi thể ở vịt con thí nghiệm 40
CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 44
5.1 Kết Luận 44
5.2 Đề nghị 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
PHỤ LỤC 49
viii
DANH SÁCH BẢNG
Bảng 3.1 Bố trí thí nghiệm gây nhiễm trên phôi vịt 20
Bảng 3.2 Bố trí thí nghiệm gây nhiễm trên vịt con 23
Bảng 4.1 Kết quả xác định liều gây chết 50 % trên phôi vịt 25
Bảng 4.2 Kết quả theo dõi thời gian chết phôi trung bình theo nồng độ 27
Bảng 4.3 Tần suất xuất hiện bệnh tích trên phôi vịt thí nghiệm 29
Bảng 4.4 Kết quả xác định liều gây chết 50 % trên vịt con 32
Bảng 4.5 Tần suất xuất hiện triệu chứng ở vịt bệnh thí nghiệm 34
Bảng 4.6 Kết quả tỷ lệ vịt chết theo thời gian 36
Bảng 4.7 Tần suất xuất hiện bệnh tích đại thể ở vịt thí nghiệm 37
ix
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1 Virus viêm gan vịt 5
Hình 2.2 Cấu trúc không gian của Picornaviridae 6
Hình 4.1 Gan nhạt màu 30
Hình 4.2 Phôi phù, tích nước 30
Hình 4.3 Da phôi xuất huyết 31
Hình 4.4 Phôi còi cọc, xuất huyết 31
Hình 4.5 Gan phôi xuất huyết 31
Hình 4.6 Vịt bỏ ăn, ủ rũ 35
Hình 4.7 Vịt co giật, ngoẹo đầu 35
Hình 4.8 Vịt tiêu chảy phân trắng 35
Hình 4.9 Vịt chết ngoẹo đầu 35
Hình 4.10 Gan sưng, xuất huyết 38
Hình 4.11 Gan nhạt màu 38
Hình 4.12 Mật sưng 38
Hình 4.13 Lách sưng, đốm đỏ 39
Hình 4.14 Thận sung huyết 39
Hình 4.15 Gan xuất huyết, nhiều tế bào bạch cầu, thoái hóa mỡ 41
Hình 4.16 Mạch máu sung huyết, gan viêm, nhiều bạch cầu trong mô gan 41
Hình 4.17 Mô liên kết quanh ống dẫn mật dày lên, tế bào biểu mô tăng sinh,
bong tróc, nhiều tế bào bạch cầu 42
Hình 4.18 Tiểu thể Malpighi bị teo nhỏ, 1 ít giọt mỡ nhỏ trong ống lượn, viêm
thận, 1 ít bạch cầu trong kẽ thận 42
Hình 4.19 Tế bào của ống lượn gần bị hoại tử 43
x
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Nguyên văn
Tiếng việt
ARN Acid ribonucleic
CAM Chorioallantoic membrance Màng nhung niệu
CPE Cytopathic effect Bệnh tích tế bào
DK Duck kidney Thận vịt
DHV Duck Hepatitis virus Virus viêm gan vịt
DEK Duck embryo kidney Tế bào thận phôi vịt
DHV-1 Duck hepatitis virus type I Virus viêm gan vịt type I
DHV-2 Duck hepatitis virus type II Virus viêm gan vịt type II
DHV-3 Duck hepatitis virus type III Virus viêm gan vịt type III
DAstV – 1 Duck Astrovirus 1
DAstV – 2 Duck Astrovirus 2
dp Proportional distance Khoảng cách tỷ lệ
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ELD Embryo lethal dose Liều gây chết phôi
LD Lethal dose Liều gây chết vịt
K.T.V Kháng thể vịt
OIE Office International Epizooties Tổ chức thú y thế giới
PBS Phosphat buffered saline Dung dịch đệm
RT-PCR Revese Trancription – Kỹ thuật khuếch đại gene,
Polymerase Chain Reaction phiên mã ngược
1
CHƢƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Đã từ rất lâu, chăn nuôi gia cầm gắn liền với đời sống của người nông
dân ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Theo số liệu thống kê của Cục
Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì năm 2012 cả nước
hiện có 308,460 triệu con gia cầm các loại, trong đó gà chiếm 223,746 triệu
con, riêng vịt chiếm 84,71 triệu con, đóng góp 27% sản phẩm chăn nuôi gia
cầm, ngành còn giúp phong phú thêm nguồn thực phẩm cho người tiêu dùng.
Tại ĐBSCL, đàn thuỷ cầm chiếm tỷ lệ cao nhất nước, khoảng 40%, cung cấp
số lượng lớn thịt, trứng cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Chăn
nuôi gia cầm đang ngày càng chứng tỏ được vị trí của mình trong thời kì hiện
nay.
Cùng với sự phát triển ngành chăn nuôi, chăn nuôi vịt cũng ngày càng
phát triển với số lượng lớn. Tuy đầu năm 2013 đàn gia cầm trong khu vực
giảm nhưng đàn vịt khá ổn định, chứng tỏ lợi nhuận từ chăn nuôi vịt và đầu ra
của sản phẩm rất tốt. Hiện có khoảng 6/13 tỉnh, thành ĐBSCL có tổng đàn vịt
tăng trưởng. Ở ĐBSCL, trung bình mỗi năm tổng đàn tăng khoảng 12,4%, từ
21 triệu con năm 2006 lên trên 67,5 triệu con năm 2012 (Cục chăn nuôi Việt
Nam, 2012). Kèm theo sự phát triển là những mối nguy hại cũng không ngừng gia
tăng từ dịch bệnh truyền nhiễm do virus như: bệnh cúm gia cầm, dịch tả vịt mà trong
đó còn phải kể đến bệnh viêm gan vịt. Viêm gan vịt (Duck Hepatitis) là một bệnh
truyền nhiễm cấp tính, lây lan nhanh do virus với nhiều type khác nhau gây ra
trên vịt con dưới 6 tuần tuổi, mẫn cảm nhất là vịt từ 1 đến 3 tuần tuổi, bệnh
diễn biến rất nhanh, thời gian nung bệnh từ 3-5 ngày và tỉ lệ chết cao từ 50-
95%, có thể đến 100% (Hồ Thị Việt Thu và Nguyễn Đức Hiền, 2012). Bệnh do
3 type virus gây ra: type I, type II, type III trong đó virus type I gây bệnh phổ biến
nhất và gây thiệt hại nhiều nhất cho vịt con tại nhiều quốc gia (Woolcock, 2008).
Bệnh nguy hiểm nhưng hiện nay ở nước ta vẫn ít có nghiên cứu về bệnh
này. Chính vì mức độ nguy hiểm của bệnh gây tổn thất nặng nề cho người
chăn nuôi nếu không phát hiện bệnh kip thời cũng như hiểu rõ được những đặc
điểm bệnh lí để có thể biết được biểu hiện của bệnh nhằm tìm biện pháp phòng
chống kịp thời. Chúng tôi tiến hành đề tài: “Khảo sát độc lực và tính gây
bệnh của chủng virus viêm gan vịt type I (KG6) trên phôi vịt và trên vịt
con”.
Mục tiêu đề tài:
Khảo sát bệnh lý của chủng virus viêm gan vịt type I (KG6) gây ra trên
phôi vịt và trên vịt con để đánh giá độc lực của virus làm cơ sở để tiến hành
nghiên cứu việc phòng và trị bệnh viêm gan vịt.
2
CHƢƠNG II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Bệnh viêm gan do virus ở vịt (Duck Hepatitis Virus - DHV)
2.1.1 Lịch sử và sự phân bố
2.1.1.1 Tình hình bệnh viêm gan vịt trên thế giới
Vào năm 1945 ở tại Long Island, New York Levine và Hofstad đã phát
hiện ra bệnh viêm gan do virus ở vịt xảy ra lần đầu tiên trên đàn vịt Bắc Kinh
trắng với bệnh tích gan sưng to, nhiều điểm xuất huyết tuy nhiên vẫn chưa
phân lập được mầm bệnh.
Mùa xuân năm 1949, Levine và Fabricant theo dõi một bệnh tương tự
trên một đàn vịt khác cũng tại Long Island, New York. Bệnh lây lan nhanh và
có tới 70 trại vịt lớn mắc bệnh gây thiệt hại nặng nề trong vùng. Ban đầu, ở
những trại mắc bệnh nặng tỉ lệ chết lên đến 95%, về sau vào thời điểm cuối ổ
dịch thì tỉ lệ chết giảm chỉ còn 15%. Tổng số vịt chết trong ổ dịch lên đến
75000 con (Woolcock và Fabricant, 1997).
Levine và Fabricant lần đầu tiên đã phân lập được virus viêm gan vịt type I
bằng phương pháp nuôi cấy trên phôi gà năm 1950 (Nguyễn Đức Lưu, 2002).
Bệnh cũng xảy ra ở một số bang của Mỹ như: Massachusetts, Illinois
(Hanson và Alberts, 1956) và Michigan. Sau đó bệnh được ghi nhận đã xảy ra
ở nhiều nơi trên thế giới: Canada (macpherson và Avery, 1957), Anh (Asplin
và McLauchlan, 1954; Asplin 1956), Đức và Ai Cập (Shehata and Reuss,
1957), Hà Lan (Smits, 1957), Nga (Prokifiva and Doroshko, 1960) và
Hungary (Derzsky, trích dẫn bởi Reuss, 1959) (Levine, 1972). Ở Mỹ và Canada,
bệnh viêm gan vịt bắt buộc phải khai báo như bệnh Newcastle (OIE, 2000).
Năm 1965, bệnh viêm gan vịt xảy ra ở Norfolk – Anh trên những đàn vịt
đã được tiêm phòng vaccine nhược độc type I. Asplin đã phân lập được virus
viêm gan vịt type II khác hoàn toàn với virus viêm gan vịt type I (Gough, 1984).
Toth (1969) đã phát hiện được virus từ vịt chết dưới hai tuần tuổi và là
một type khác với DHV type I. Một nghiên cứu bởi Haider và Canek (1979)
cho thấy nó không liên quan đến DHV type I và II nên được đề nghị gọi tên là
DHV type III (Gough et al., 1985). Bệnh xảy ra nhẹ hơn so với DHV type I và
tỉ lệ chết ít vượt quá 30% (Woolcock và Fabricant, 1997).
Bệnh cũng đã xảy ra ở Trung Quốc và Hàn Quốc (Woolcock và
Fabricant, 1997).
Viêm gan vịt do virus đã được xác nhận lần đầu tiên tại Hàn Quốc bằng
cách quan sát thuyết thanh và gan vịt bệnh dưới kính hiển vi điện tử ở hai
trang trại gần thành phố Kwangju vào năm 1985 (Park, 1985).
3
Năm 2006, Kim et al., đã tiến hành phân tích virus viêm gan vịt type 1 ở
mức độ phân tử và kết quả cho thấy virus viêm gan vịt type 1 có quan hệ gần
gủi với chi Parechovirus thuộc họ Picornaviridae.
Ding và Zhang (2007) phân tích đặc tính phân tử của virus viêm gan vịt
type 1 và cho thấy kết luận rằng DHV-1 thuộc về một chi mới của gia đình
Picornaviridae có thể tạo thành một chi riêng biệt liên quan chặt chẽ nhất với
chi Parechovirus.
Virus viêm gan vịt type I hiện nay được phân loại gồm 3 genotype:
genotype 1 (DHAV – 1), genotype 2 (DHAV – 2) và genotype 3 (DHAV – 3)
(Hwang, et al., 2008).
Kim et al., (2009), nghiên cứu chế tạo vaccine nhược độc viêm gan vịt từ
chủng virus viêm gan vịt thuộc genotype 3 phân lập được bằng cách tiêm
truyền 100 lần qua phôi gà SPF. Kết quả cho thấy, virus viêm gan vịt nhược
độc an toàn cho vịt 1 ngày tuổi và có hiểu quả bảo hộ tốt.
Hiện nay, virus viêm gan vịt type I đã gây ra bệnh ở khắp nơi trên thế
giới còn virus viêm gan vịt type II chỉ xảy ra ở Anh, virus viêm gan vịt type III
chỉ xảy ra ở Mỹ (OIE, 2008).
2.1.1.2 Tình hình bệnh viêm gan vịt trong nƣớc
Ở nước ta, từ năm 1978 Trần Minh Châu và Nguyễn Thu Hồng đã ghi
nhận có bệnh viêm gan vịt nhưng chưa phân lập được virus.
Năm 1979 – 1983, bệnh xảy ra ở nhiều địa phương làm chết nhiều vịt con
(Lê Thanh Hòa et al., 1986).
Trần Minh Châu et al., đã phân lập được một chủng virus viêm gan tại
một trại ở Hà Sơn Bình vào năm 1983. Qua nuôi cấy trên phôi gà chủng virus
này yếu đi, không gây bệnh cho vịt con và có khả năng tạo được sức đề kháng
với bệnh cho vịt con.
Theo Nguyễn Văn Cảm et al., từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2001 qua điều
tra 12 ổ dịch tại các địa phương: Hưng Yên, Hà Tây, Hà Nam, Hà Nội, Tuyên
Quang kết luận đó là bệnh viêm gan vịt do virus với tỷ lệ nhiễm trong đàn tới
100%, lứa tuổi mắc bệnh từ 1 – 21 ngày tuổi, tỷ lệ chết từ 48,57 – 90%.
Theo Nguyễn Hữu Vũ, Nguyễn Đức Lưu et al., (2001), thời gian đó có
nhiều giống vịt, ngan cao sản nhập vào nước ta chưa thích nghi với điều kiện
môi trường nên bệnh viêm gan vịt xảy ra nhiều hơn, đặc biệt ở các địa phương
như Hà Tây, Hà Nam, Thái Bình và các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long gây
thiệt hại rất lớn.
Theo Lê Văn Tạo (2001), tháng 3 năm 2001 tại Nông Cống (Thanh Hóa)
xảy ra bệnh viêm gan vịt có tỷ lệ chết cao, xóa sổ nhiều đàn vịt, chỉ trong 5
4
ngày có đàn chết không còn con nào (trích dẫn Nguyễn Đức Lưu và Vũ Như
Quán, 2002).
Theo thông báo của cục Thú y (2002), tại Nam Định tháng 5 năm 2001
đã xảy ra một ổ dịch lớn tại xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, đàn vịt 10000
con mới nở đã mặc bệnh viêm gan vịt đến 5 ngày tuổi chết 7,000 con, nhưng
sau đó số chết giảm dần. Tổng số chết lên đến 80% tổng đàn.
Năm 2004, Nguyễn Phục Hưng đã điều tra 10 huyện thuộc 4 tỉnh và
thành phố là Hà Nội, Hưng Yên, Bắc ninh và Hà Tây nhận thấy bệnh xảy ra ở
vịt con dưới 40 ngày tuổi, đặc biệt xảy ra nhiều và có tỷ lệ chết cao ở lứa tuổi
1 – 7 ngày tuổi.
Năm 2008, Nguyễn Thị Diễm Quỳnh đã nghiên cứu giải mã vùng gen
VP1 của các chủng virus dùng làm vaccine viêm gan vịt tại Việt Nam. Kết quả
cho thấy: chủng vaccine Ai Cập (do trường đại học Nông Nghiệp I Hà Nội
cung cấp) có thể có nguồn gốc từ Trung Quốc, còn chủng vaccine của xí
nghiệp thuốc thú y trung ương mặc dù vẫn nằm trong nhánh các chủng của
Trung Quốc nhưng có quan hệ xa hơn so với chủng vacxin Ai Cập, và có thể
có nguồn gốc từ một chủng cổ điển của Hàn Quốc.
Đoàn Thị Thanh Hương et al., (2009), nghiên cứu đặc tính phân tử của
virus vaccine viêm gan vịt bằng việc khảo sát chuỗi gen kháng nguyên VP1
của virus.
Năm 2010, Đoàn Thị Thanh Hương et al., đã phát hiện được virus viêm
gan vịt thuộc genotype 3 (DHAV – 3) bằng phương pháp giám định phân tử từ
một ổ dịch ở Đồng Nai. Đến năm 2011, đã giải mã hoàn toàn trình tự bộ gen
của virus DHAV – 3 phân lập được ở Đồng Nai – Việt Nam (Đoàn Thị Thanh
Hương et al., 2011).
Năm 2014, tại Nam Trung Bộ, sau khi kiểm tra 300 mẫu bệnh phẩm từ
vịt nghi bệnh viêm gan vịt thu thập tại 4 tỉnh: Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú
Yên và Bình Định. Đã xác định được kháng thể chuẩn và type virus viêm gan
vịt lưu hành tại Việt Nam bằng kĩ thuật RT – PCR. Tất cả các mẫu virus kiểm
tra và 5 chủng virus viêm gan vịt phân lập được đều thuộc genotype 1 (Phạm
Hùng et al., 2014).
Từ các mẫu bệnh phẩm thu thập được từ đàn vịt mắc bệnh viêm gan vịt
tại tỉnh Ninh Thuận năm 2013, một chủng virus đã phân lập được và kí hiệu là
chủng NT. Sau khi phân tích phả hệ nguồn gốc cũng khẳng định virus viêm
gan vịt chủng NT Việt nam thuộc về genotype 3 thuộc type I, cùng với các
chủng virus viêm gan vịt của Hàn Quốc và Trung Quốc, đặc biệt có quan hệ
gần gũi nhất với chủng B – N của Trung Quốc (Đoàn Thị Thanh Hương et al.,
2014).
5
2.2 Virus viêm gan vịt
2.2.1 Virus viêm gan vịt type I
2.2.1.1 Đặc điểm hình thái
Theo OIE 2010, virus viêm gan type I là một RNA virus thuộc nhóm
Enterovirus, thuộc chi Avihepatovirus mới nằm trong họ Picornaviridae.
Virus có kích thước 20 – 40 nm, không ngưng kết hồng cầu. Virus viêm gan
vịt là những hạt nhỏ, có hình cầu và không có vỏ ngoài với capside gồm 32
capsomere (Nguyễn Đức Hiền, 2011).
Hình 2.1 Virus viêm gan vịt
/>earch=virus
Virus có cấu trúc hệ gen là RNA sợi đơn dương, gồm 7600 đến 7700
nucleotitde, chứa duy nhất một khung đọc ở gồm 3 tổ hợp gen P1, P2, P3 và
hai vùng không mã hóa 5’UTR và 3’UTR. Trong chuỗi polypeptide của virus
viêm gan vịt, phần protein đầu tiên là protein dẫn (kí hiệu là L), tiếp theo là 4
loại protein cấu trúc bao gồm VP4, VP2, VP3 và VP1; cuối cùng là protein
không cấu trúc là 2A, 2B, 2C, 3A, 3B, 3C và 3D (Ding, Zhang, 2007).
6
Hình 2.2 Cấu trúc không gian của Picornaviridae
2.2.1.2 Đặc tính sinh học của virus
Virus không gây ngưng kết hồng cầu gà, vịt, cừu, ngựa, chuột, rắn, heo…
Virus không gây miễn dịch chéo với virus viêm gan ở người và virus dịch tả
vịt (Hồ Thị Việt Thu và Nguyễn Đức Hiền, 2011).
2.2.1.3 Sức đề kháng
Virus kháng với ether, chloroform, chịu được sức nóng tương đối và có
khả năng tồn tại lâu trong môi trường thông thường. Virus không bị bất hoạt
bởi lysol 2% hoặc formalin 0,1%, creolin 15% hoặc anhydrous sodium
carbonate 20%. Virus bất hoạt hoàn toàn với formaldehyde 1%, hypochloride
2% trong 3 giờ ở 15 – 20
0
C và chloramine 3% trong 5 giờ hoặc formalin
0,2% trong 2 giờ, phenol 5% và dung dịch sodium hypochlorite.
Nhiệt độ 50
0
C trong 1 giờ không làm ảnh hưởng đến hoạt lực của virus.
Hầu hết virus bị bất hoạt ở 56
0
C trong 60 phút, nhưng không sống được ở 62
0
C
trong 30 phút. Virus có thể sống sót 21 ngày ở 37
0
C. Trong điều kiện tự nhiên
đồng ruộng virus có thể sống đến 10 tuần, trong môi trường nhiễm bẩn và
trong phân hơn 37 ngày. ở 4
0
C virus sống sót trong 2 năm và 20
0
C sống được
9 năm (Nguyễn Đức Hiền, 2011).
2.2.1.4 Đặc tính nuôi cấy
Nuôi cấy trên động vật cảm thụ
Virus viêm gan vịt có khả năng nhân lên trong vịt con, nhất là vịt con
dưới 7 ngày tuổi. Các loại động vật khác như thỏ, chuột lang, chuột bạch,
chó… virus không có khả năng nhân lên.
Tiêm truyền dưới da hoặc tiêm bắp huyễn dịch bệnh phẩm nghi nhiễm
virus viêm gan vịt type 1 cho vịt con 1 – 7 ngày tuổi. Các biểu hiện triệu
chứng lâm sàng đặc trưng sẽ xuất hiện và vịt chết sau 18 – 24 giờ gây nhiễm.
7
Bệnh tích đại thể ở gan sẽ dùng để tái phân lập virus để chẩn đoán khẳng định
(Nguyễn Đức Hiền, 2011).
Nuôi cấy trên phôi trứng
Tiêm truyền huyễn dịch bệnh phẩm nghi nhiễm virus viêm gan vịt type 1
vào túi niệu mô phôi trứng vịt 10 – 14 ngày hoặc phôi gà 8 – 10 ngày. Phôi vịt
có thể chết trong vòng 24 – 72 giờ, còn phôi gà thì có những đáp ứng bất
thường hơn và chết trong vòng 5 – 8 ngày. Cụ thể như sau:
+ Trên phôi vịt: Tiêm virus vào xoang niệu mô phôi vịt 10 – 14 ngày, 24
– 72 giờ sau khi gây nhiễm, phôi chết. Với bệnh tích: Phôi còi cọc, xuất huyết
dưới da đặc biệt là da vùng đầu, bụng, chân, phôi phù thủng, gan sưng có màu
đỏ hoặc hơi vàng, có thể có điểm hoại tử. Ở những phôi chết muộn nước trong
xoang niệu mô có màu xanh nhạt, bệnh tích thấy được rõ hơn.
+ Trên phôi gà: Tiêm virus viêm gan vịt vào xoang niệu mô của phôi gà
8 – 10 ngày tuổi. Ở lần cấy chuyển đầu tiên, sau 5 – 8 ngày gây nhiễm thì phôi
chết với tỷ lệ từ 10 – 60%, phôi chết với bệnh tích: còi cọc, phù phôi, xuất
huyết dưới da (Levine và Fabricant, 1950). Ở lần cấy chuyển thứ 63 thì cho tỷ
lệ phôi chết là 100%. Theo Toth (1969), sau 80 lần cấy chuyển qua phôi gà thì
cho hiệu giá virus là cao nhất. Vào thời điểm 53 giờ sau khi gây nhiễm phôi,
lượng virus ở màng nhung niệu là 10
5,79
, ở dịch niệu mô là 10
3,26
. Lượng virus
có hiệu giá cao nhất vào thời điểm 53 – 69 giờ sau khi nuôi cấy. Trong một số
trường hợp nuôi cấy virus trên phôi gà, vào thời điểm 48 giờ sau khi nuôi cấy
hiệu giá virus có thể lên đến 10
8
, và kéo dài 6 – 24 giờ sau.
+ Trên phôi ngỗng: virus viêm gan vịt cũng có khả năng nhân lên khi cấy
vào xoang niệu mô, sau 2 – 3 ngày thì phôi chết.
Nuôi cấy trên môi trƣờng tế bào
Virus viêm gan vịt type 1 nhân lên được trên nhiều loại môi trường tế
bào khác nhau như: tế bào xơ phôi vịt, xơ phôi gà, thân phôi vịt, thận phôi gà,
gan phôi vịt, thận phôi ngỗng… (Hwang, 1966).
Tiêm truyền huyễn dịch bệnh phẩm vào môi trường tế bào sơ cấp của tế
bào gan phôi vịt. Những độ pha loãng tuần tự của huyễn dịch chứa virus viêm
gan vịt type 1 sẽ gây bệnh tích tế bào đặc trưng. Theo Maiboroda (1972), trên
môi trường nuôi cấy tế bào ta có thể quan sát được sự hủy hoại tế bào của
virus sau 8 giờ gây nhiễm, đạt cực đại sau 2 – 4 ngày và sự hủy hoại tế bào
được biểu hiện dưới dạng cụm tế bào co tròn. Khi được phủ với môi trường
duy trì chứa 1% agarose, bệnh tích tế bào phát triển hình thành những vệt tan
(plaque) có đường kính khoảng 1mm.
8
2.2.1.5 Biến dị của virus
Trong tự nhiên, kháng nguyên của virus viêm gan vịt type I không ổn
định, dễ bị biến dị (Shalaby, 1978). Người ta đã phân lập được các type biến dị
ở Ấn Độ, Ai Cập và chứng minh sự biến dị của virus type I bằng phản ứng
huyết thanh học. Sandhu (1988), cho biết vịt được miễn dịch với virus viêm
gan vịt type I không đủ bảo hộ khi công cường độc bằng chủng virus biến dị.
Trên thế giới, từ năm 2007 trở lại đây, nhiều nghiên cứu sâu sắc về gen
và hệ gen đã cho thấy sự biến đổi mạnh mẽ và đa dạng trong hệ gen của quần
thể virus viêm gan vịt (Wang et al.,).
2.2.2 Virus viêm gan vịt type II
Virus viêm gan vịt type II có đường kính 28 – 30 nm. Đây là một
Astrovirus có tính kháng nguyên khác với Astrovirus của gà, gà tây. Virus
được Asplin xác định vào năm 1965 (Gough, 1984). Hiện nay được đặc tên là
DAstV – 1 (Theo OIE, 2010).
Vịt bị nhiễm virus viêm gan vịt type II, triệu chứng, bệnh tích giống như
khi bị nhiễm virus viêm gan vịt type I.
Virus viêm gan vịt type II có khả năng nhân lên trên phôi vịt, phôi gà.
Khi gây nhiễm virus vào xoang niêu mô hay túi lòng đỏ virus viêm gan vịt
type 2 nhân lên yếu hơn so với virus viêm gan vịt type I, cụ thể 6 - 10 ngày
sau khi gây nhiễm mới xuất hiện phôi chết.
Trên phôi gà, sau nhiều lần tiêm truyền qua xoang niệu mô, virus mới
gây chết một số phôi ở thời điểm 7 ngày sau khi gây nhiễm. Những phôi chết
có biểu hiện còi cọc, gan hoại tử có màu xanh.
Trên môi trường nuôi cấy tế bào, virus không có khả năng nhân lên trên
các loại tế bào của phôi gà, vịt (Gough, 1984).
2.2.3 Virus viêm gan vịt type III
Vào năm 1969 ở Mỹ, virus viêm gan vịt type III lần đầu tiên được phát
hiện (Toth, 1969). Năm 1979 virus được Haider và Calnek đặt tên. Virus là
một Picornavirus, không có quan hệ kháng nguyên với virus viêm gan vịt type
I. Quan sát dưới kính hiển vi điện tử trên tế bào thận bị nhiễm virus cho thấy:
virus viêm gan vịt type III là một ARN có đường kính 30nm, ký sinh trong tế
bào chất của tế bào ký chủ. Tuy nhiên theo OIE (2010), thì virus viêm gan vịt
type III là một astrovirus thuộc họ astroviridae và được đặt tên là DAstV – 2
để phân biệt với virus viêm gan vịt type II (DAstV – 1).
9
Trên phôi vịt 9 - 10 ngày tuổi, sau khi gây nhiễm qua màng nhung niệu,
7-8 ngày mới có phôi chết, tỷ lệ chết phôi ở mức độ thấp. Ở phôi chết thấy
màng nhung niệu biến màu, dầy gấp 10 lần so với bình thường, phôi còi cọc,
phù, xuất huyết dưới da, gan sưng, xuất huyết.
Virus viêm gan vịt type 3 không thể nhân lên trên môi trường phôi gà. Có
thể phát hiện virus viêm gan vịt type 3 trên môi trường tế bào thận, gan phôi
vịt bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (OIE, 2010).
2.3 Truyền nhiễm học
Trong tự nhiên các ổ dịch do DHV – 1 chỉ xảy ra trên vịt con dưới 6 tuần tuổi,
thường xảy ra ở vịt con 1 – 3 tuần tuổi. Vịt trưởng thành khi nhiễm DHV type I sẽ
không thể hiện triệu chứng lâm sàng của bệnh và có thể tiếp tục đưa vào sản xuất
(OIE, 2010).
Một số loài vịt hoang dã như: le le, vịt trời là những động vật mang
trùng, những động vật này khi di cư có thể mang virus qua xa hàng ngàn
kilomét. Chúng bài thải virus theo phân vào nguồn nước làm lan truyền bệnh
(Hồ Thị Việt Thu và Nguyễn Đức Hiền, 2012).
Gà tây và gà kháng với DHV-1, tuy nhiên cũng phát hiện những con gà
một ngày tuổi và một tuần tuổi phơi nhiễm với DHV-1 có triệu chứng, bệnh
tích và kháng thể trung hòa. Bệnh tích có thể quan sát ở gà khi gây nhiễm
virus viêm gan vịt type I vào 1 ngày tuổi là gan có đốm lấm chấm, mật, lách
và túi khí phồng to, DHV-1 phân lập được ở gan gà 17 ngày sau khi gây
nhiễm. Gà con có thể mang virus, truyền cho các gà khác qua tiếp xúc nhưng
không gây chết. Trong thí nghiệm có thể gây bệnh cho ngỗng con, gà tây, bồ
câu và cút. Các loài vật khác như thỏ, chuột lang, chuột nhắt trắng và chó đều
không cảm thụ với bệnh (Nguyễn Đức Hiền, 2011).
2.3.1 Sự lan truyền bệnh
Trong tự nhiên bệnh thường lây qua đường tiêu hóa như thức ăn, nước
uống và chất bài tiết của vịt. Virus xâm nhập vào cơ thể qua niêm mạc đường
tiêu hóa, hô hấp hoặc qua vết thương rồi vào máu. Virus theo máu đến các cơ
quan, phủ tạng và tập trung nhiều nhất ở gan. Ngoài ra, Virus có sức đề kháng
mạnh với ngoại cảnh nên các yếu tố lan truyền gián tiếp như con người, dụng
cụ chăn nuôi, máy ấp bị nhiễm trùng trở thành những nhân tố truyền bệnh
nguy hiểm.
Trong đàn vịt bệnh, virus viêm gan vịt type I lây lan rất nhanh từ vịt bệnh
sang vịt khỏe, tỷ lệ nhiễm có thể lên đến 100%. Mặc dù tỉ lệ bệnh và chết cao
nhưng một số ngoại lệ cũng xảy ra, có trại có đến 65% vịt chết trong khi một
trại khác thì số chết lại không đáng kể.
10
Theo Asplin (1961), virus có thể lây lan đến các nơi xa hơn do loài chim
hoang dại mang virus viêm gan vịt từ vùng này bay sang vùng khác. Ngoài ra,
chuột cống nâu cũng có thể là nguồn chứa virus viêm gan vịt type I. Virus xâm
nhập vào cơ thể, tồn tại trong cơ thể 35 ngày, và sau đó được bài thải ra bên
ngoài trong khoảng thời gian 18 – 22 ngày sau khi nhiễm. Trong huyết thanh
của chuột nhiễm virus có kháng thể và kháng thể tồn tại từ 12 – 24 ngày
(Demakov, 1975).
Virus gây bệnh khi được tiêm bắp thịt hoặc cho uống huyễn dịch virus
phân lập từ trứng. Thời kỳ ủ bệnh trong 24 giờ, gần như tất cả vịt đều chết vào
ngày thứ 4. Những vịt con không tiêm truyền cũng bị lây và chết chậm hơn vịt
được tiêm virus. Sự lan truyền qua trứng dự đoán không xảy ra (Levine và
Fabricant, 1957).
Virus viêm gan vịt type II xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa và
đường lỗ huyệt. Ở những vịt khỏi bệnh, virus được bài xuất theo phân ít nhất
một tuần sau khi nhiễm bệnh (Asplin, 1965).
Một số báo cáo cho thấy viêm gan vịt type I kết hợp với Chlamydia
psittaci là nguyên nhân gây chết rải rác đến 15% chim 4 – 6 tuần tuổi hay
DHV type I kết hợp với virus cúm ở vịt trời 2 – 5 tuần tuổi (Nguyễn Đức
Hiền, 2011).
2.3.2 Cơ chế sinh bệnh
Virus xâm nhập vào cơ thể qua niêm mạc đường tiêu hóa, đường hô hấp
hoặc qua vết thương rồi vào máu. Virus theo máu đến các cơ quan phủ tạng và
tập trung nhiều nhất ở gan và gây ra các biểu hiện bệnh lý. Virus tác động lên
tế bào gan diễn ra qua 2 giai đoạn:
+ Dưới tác động của virus, quá trình trao đổi chất ở gan bị rối loạn, lượng
glycogen ở gan giảm thấp, lượng lipit tăng do quá trình chuyển quá mỡ bị đình trệ.
Bởi vậy, vịt con mắc bệnh bị thiếu năng lượng và sức đề kháng bị giảm sút.
+ Virus phát triển trong gan, trực tiếp phá hoại tế bào gan và các tế bào
nội mô huyết quản gây nên xuất huyết đặc hiệu. Virus nhân lên trong gan, tại
các tế bào thuộc hệ võng mạc nội mô như tế bào Kupffer, hình thành các thể
bao hàm đặc trưng. Tổ chức gan bị phá hoại, gan không giải độc được và con
vật bị chết do bị ngộ độc (Phạm Sỹ Lăng et al., 2005).
2.3.3 Triệu chứng lâm sàng
Bệnh xảy ra rất nhanh, tỷ lệ mắc bệnh trong đàn là 100%, vịt chết trong
3-4 ngày và tỷ lệ chết thay đổi tùy theo tuổi vịt mắc bệnh. Khi vịt nhỏ hơn một
tuần tuổi tỷ lệ chết có thể lên đến 95%, khi vịt 1 - 3 tuần tuổi tỷ lệ chết có thể
11
đến 50% hoặc ít hơn. Ở vịt con 4-5 tuần tuổi số bệnh và chết thấp hoặc không
đáng kể.
Nếu nhiễm type II, thì thời gian nung bệnh khoảng 3 – 4 ngày. Vịt chết
trong vòng 1–2 giờ sau khi có triệu chứng lâm sàng đầu tiên. Virus DHV type
II thường gây chết thấp ở giai đoạn vịt con, nhưng lại cao ở tuổi vịt lớn
(Nguyễn Đức Lưu et al., 2003).
Thời gian nung bệnh từ 2–4 ngày, bệnh thường xảy ra đột ngột, lúc đầu
chỉ thấy vài con đi rớt lại phía sau đàn nhưng sau đó bệnh xảy ra ồ ạt, vịt ít vận
động, buồn ngủ, bỏ ăn sã cánh, một số bị tiêu chảy, sau một vài giờ niêm mạc
miệng xanh tím, vịt bị co giật, nằm la liệt nghiêng sườn hoặc nằm ngửa, chân
duỗi thẳng đầu ngoẹo sang sườn hoặc lên lưng. Sau đó, vịt co giật rồi chết
nhanh chóng có khi chỉ 2 - 3 giờ kể từ khi phát bệnh, vịt chết thường có tư thế
đặc trưng là ngoẹo đầu về phía lưng, cũng có trường hợp vịt chết mà không có
triệu chứng rõ rệt. Trong trường hợp bệnh kéo dài, có thể do kế phát của vi
khuẩn Salmonella làm cho vịt bệnh ủ rũ cao độ và tiêu chảy (Hồ Thị Việt Thu
và Nguyễn Đức Hiền, 2012).
2.3.4 Bệnh tích
2.3.4.1 Bệnh tích đại thể
Bệnh tích chủ yếu của viêm gan vịt type I tập trung chủ yếu ở gan như:
gan viêm, sưng, nhũn, dễ bị nát khi ấn nhẹ.
Theo Phạm Sỹ Lăng, những biến đổi bệnh lý xảy ra chủ yếu ở gan. Gan
phình to, trên bề mặt gan có những điểm xuất huyết bằng đầu đinh ghim hoặc
to hơn với số lượng thay đổi.
Trên bề mặt gan có hiện tượng xuất huyết lan rộng, không có ranh giới.
Các nốt xuất huyết bằng đầu đinh ghim, màu đỏ, đôi khi nhỏ li ti lan tràn khắp
bề mặt gan, các nốt xuất huyết cũng có thể được quan sát ở mặt dưới của gan.
Bên cạnh các điểm xuất huyết còn thấy các điểm tụ máu đỏ, hoặc những đám
màu vàng nhạt do tổ chức gan bị thoái hóa.
Ngoài bệnh tích gan còn thấy các bệnh tích thường gặp là: cơ tim nhợt
nhạt (giống như luộc), màng bao tim và túi khí bị viêm, thận tụ huyết nhẹ đôi
khi sưng, lách hơi sưng và có lấm chấm đốm. Trong trường hợp kế phát do
salmonella thì lách sưng to. Gan có thêm những điểm hoại tử lấm tấm màu
vàng xám (Hồ Thị Việt Thu và Nguyễn Đức Hiền, 2012).
Theo Nguyễn Văn Cảm et al., (2001), khi mổ khám 751 con vịt chết
trong các ổ dịch tự nhiên thấy bệnh tích ở gan biểu hiện ở 691 con, ở thận 141
con, ở lách 97 con. Trong đó quan sát thấy đặc trưng nhất là gan sưng to, có
12
nhiều điểm xuất huyết lấm tấm hay thành đám màu đỏ sẫm hoặc đỏ tím trên bề
mặt gan, lách sưng phù đôi khi có lấm chấm trắng hoại tử, các mạch máu sung
huyết rõ ở thận.
Theo Nguyễn Bá Hiên (2007), bệnh tích đại thể mà chủng virus nhược
độc VGV DH-EG-2000 gây ra trên phôi gà: phôi xuất huyết trên da: 96,7%,
phù phôi: 74,4%, xuất huyết gan: 85,5%, hoại tử gan: 24,4%.
2.3.4.2 Bệnh tích vi thể
Fabriant và Levin (1957) cho biết: các biến đổi vi thể rất phức tạp, những
biến đổi nguyên thủy trong thể cấp tính bao gồm thay đổi đầu tiên là hoại tử tế
bào gan, ống dẫn mật tăng sinh dãn rộng. Việc thay đổi mức độ tế bào viêm và
xuất huyết xảy ra. Sự tái sinh nhu mô gan xảy ra ở những vịt con không chết.
Sự tổn thương ở tế bào vịt con mắc bệnh viêm gan virus giống như những tổn
thương như ở viêm gan của người (Bùi Thị Cúc, 2002).
Vịt con 6 ngày tuổi cho nhiễm type I bằng cách tiêm dưới da và giết chết
14 – 24 giờ sau cho thấy một giờ sau khi nhiễm đã có sự bẻ gãy của glycogen
bên trong tế bào gan, các tiểu thể hình cầu đường kính 100 – 300 nm. Trong
trường hợp vịt bị bệnh ở thể cấp tính, 24 giờ sau khi nhiễm virus, tế bào gan
thoái hóa, hoại tử, trong tế bào có các tiểu phần virus (Adamiker, 1969).
Woolcock và Fabricant (1997), không tìm thấy thể bao hàm trong tế bào
gan vịt bệnh, đây là một điểm khác biệt đối với bệnh dịch tả vịt.
Kết quả kiểm tra bệnh tích vi thể Nguyễn Văn Cảm et al., (2001) đã miêu
tả những biến đổi đầu tiên gồm có hoại tử các tế bào gan và tăng sinh các tế
bào biểu mô ống mật, có các mức độ phản ứng viêm khác nhau, thấy nhiều tế
bào viêm đơn nhân ở quanh ống mật hoặc tâp trung thành đám trong nhu mô
gan, hồng cầu thoát ra ngoài mạch quản tràn lan tỷ lệ đến 100%, một số con
thoái hóa mỡ.
Theo Nguyễn Bá Hiên (2007), sau khi tiêm chủng virus nhược độc VGV
DH-EG gây ra trên phôi gà. Cấu trúc gan bị biến đổi, xuất huyết lan tràn trong
nhu mô gan, tế bào lympho tăng sinh mạnh, một số tế bào gan bị thoái hóa mỡ
và thoái hóa không bào.
Lách bắt đầu thoái hóa từ 6 giờ khi nhiễm và biến đổi thành hoại tử lúc
24 giờ. Có những thoái hóa trong nucleic của tế bào huyết tương có thể là do
virus. Những hạt virus thì chưa được xác định. Chỉ có sự thay đổi nhẹ được
thấy ở trong những bắp thịt (Nguyễn Đức Hiền, 2011).
13
2.3.5 Chẩn đoán
2.3.5.1 Chẩn đoán lâm sàng
- Chẩn đoán qua triệu chứng và bệnh tích
Bệnh xảy ra trên đàn vịt con một cách đột ngột, diễn biến cấp tính, chỉ
xảy ra ở vịt 60 ngày tuổi với tỷ lệ chết cao. Vịt con mắc bệnh biểu hiện ủ rũ,
rối loạn vận động, chết nhanh, co giật, lúc chết đầu ngoẹo ra sau, hai chân duỗi
thẳng được coi là dấu hiệu đặc biệt của bệnh viêm gan vịt do virus.
Dựa vào bệnh tích đặc trưng: gan sưng to, xuất huyết lốm đốm trên gan.
Tuy nhiên có thể dựa vào triệu chứng và bệnh tích để biết được là bệnh viêm
gan do virus nhưng chưa thể phân biệt được bệnh do type virus nào gây ra, để
phân biệt được type virus thì cần phải tiến hành các biện phấp chẩn đoán
phòng thí nghiệm.
- Chẩn đoán phân biệt
Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh có triệu chứng tương tự:
+ Bệnh dịch tả vịt (Duck plague): hai bệnh có triệu chứng giống nhau về
tiêu chảy, lông xù, khát nước. Nhưng dịch tả vịt xảy ra trên cả vịt con và vịt
lớn, vịt bệnh còn có triệu chứng đầu, hầu cổ, mí mắt sưng, phù thũng, chảy
nước mắt. Ngoài bệnh tích xuất huyết ở gan, vịt còn có bệnh tích đặc trưng là
tổn thương nặng ở đường tiêu hóa: xuất huyết và viêm loét đường tiêu hóa,
các cơ quan phủ tạng khác cũng bị xuất huyết, bao tim viêm tích nước vàng,
mỡ vành tim, cơ tim xuất huyết.
+ Bệnh phó thương hàn vịt: có thể xảy ra ở vịt con một ngày tuổi có triệu
chứng tiêu chảy, co giật bất ngờ rồi chết, bệnh tích chủ yếu ở ruột: tụ máu,
xuất huyết, có sự tích tụ fibrin, gan có điểm hoại tử màu trắng, có thể phòng
và trị bằng kháng sinh.
+ Trúng độc thức ăn: triệu chứng lâm sàng là co giật, mệt mỏi, chết nhanh,
nhưng triệu chứng này xảy ra cả ở vịt lớn, khi thay đổi thức ăn thì bệnh giảm.
2.3.5.2 Chẩn đoán bằng phƣơng pháp huyết thanh học
Người ta sử dụng phản ứng huyết thanh học để chuẩn độ virus hoặc đánh
giá mức độ miễn dịch của vịt sau khi sử dụng vaccine hoặc điều tra dịch tễ.
Nguyên lý cơ bản của phản ứng trung hòa virus: trên đối tượng nuôi cấy
(động vật cảm thụ, môi trường tế bào) virus sẽ nhân lên và gây bệnh tích cho
đối tượng trên. Còn khi hỗn hợp virus với kháng thể đặc hiệu tương ứng thì
chúng sẽ trung hòa, không nhân lên được và không gây bệnh tích (Nguyễn
Như Thanh, 1996).
14
Phản ứng trung hòa được sử dụng để xác định virus viêm gan vịt type I
(Woolcock, 1998): dùng vịt con 1 - 7 ngày tuổi, mỗi con tiêm 1 - 2 ml huyễn
dịch kháng thể đặc hiệu chế từ lòng đỏ vào dưới da. Sau 24 giờ tiến hành tiêm
virus cường độc. Kết quả 80 - 100% vịt đối chứng chết và 80 - 100% vịt thí
nghiệm sống.
Dùng phản ứng bảo hộ chéo để phân biệt virus viêm gan vịt type I, type
II và type III: tiêm virus viêm gan vịt type I, type II cho vịt 2-4 ngày tuổi. Sau
3 ngày tiến hành công cường độc virus phân lập được (Gough, 1985).
2.3.5.3 Chẩn đoán virus học
Có thể dựa vào các phương pháp sau để kiểm tra sự hiện diện của virus
viêm gan vịt type I:
Tiêm truyền dưới da hoặc tiêm bắp huyễn dịch bệnh phẩm là gan vịt nghi
nhiễm virus viêm gan type I cho vịt con 1-7 ngày tuổi. Nếu có sự hiện diện của
virus, các dấu hiệu đặc trưng của bệnh sẽ xuất hiện và vịt chết thường xảy ra trong
24 giờ. Bệnh tích đại thể ở gan sẽ dùng để tái phân lập chẩn đoán xác định.
Tiêm truyền huyễn dịch gan vịt nghi nhiễm virus viêm gan type I pha
loãng vào túi niệu của phôi trứng vịt 10-14 ngày hoặc phôi gà 8-10 ngày, phôi
vịt có thể chết trong vòng 24-72 giờ, còn phôi gà thì chết trong vòng 5-8 ngày.
Dịch xoang niệu có màu trắng đục hoặc xanh lục, nhợt nhạt. Bệnh tích trong
phôi bao gồm phôi chậm hoặc không phát triển, xuất huyết toàn bộ cơ thể, tích
nước đặc biệt là vùng bụng, gan có thể sưng đỏ, vàng nhạt và có nốt hoại tử.
Tiêm truyền huyễn dịch virus trên tế bào xơ phôi vịt. Những pha loãng
tuần tự của huyễn dịch chứa virus viêm gan type I sẽ gây bệnh tích tế bào
(CPE) đặc trưng là cuộn tròn và hoại tử. Khi được cấy vào môi trường duy trì
chứa 1% agarose CPE mọc thành những mảng có đường kính khoảng 1mm.
Kỹ thuật kháng thể huỳnh quang cho phép chẩn đoán nhanh bệnh viêm
gan vịt do virus type I khi xảy ra tự nhiên hay gây nhiễm trên phôi vịt.
Đối với virus viêm gan vịt type II Có thể phân lập bằng sự tiêm truyền
lập lại vào túi niệu phôi trứng hoặc gây bệnh cho vịt con cảm nhiễm thì sự đáp
ứng đối với bệnh có thể thay đổi, số chết có thể lên đến 20 % trong vòng 2-4
ngày sau khi tiêm.
Đối với virus viêm gan vịt type III có thể chẩn đoán bằng cách tiêm
huyễn dịch gan vào màng nhung niệu phôi vịt 10 ngày tuổi. Có thể phân lập và
định danh virus type III trong môi trường DK hoặc DEK và kiểm tra bởi
huyễn dịch huỳnh quang 48-72 giờ sau gây nhiễm với kháng huyết thanh đặc