Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo và ương nuôi cá trê mỹ ictalurus punctatus (rafinesque, 1818) từ giai đoạn cá bột lên cá giống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 78 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM







TRẦN THỊ KIM OANH


NGHIÊN CỨU KÍCH THÍCH SINH SẢN NHÂN TẠO
VÀ ƯƠNG NUÔI CÁ TRÊ MỸ ICTALURUS PUNCTATUS
(RAFINESQUE, 1818) TỪ GIAI ĐOẠN CÁ BỘT LÊN CÁ GIỐNG


CHUYÊN NGÀNH: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 60.62.03.01


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN HỮU NINH


HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học
vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn, thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Học viên



Trần Thị Kim Oanh


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp Thạc sĩ tại Trung tâm giống
thủy sản Miền Bắc, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ
nhân viên trong đề tài: “Nghiên cứu khả năng phát triển nuôi cá Nheo Mỹ
Ictalurus punctatus
(Rafinesque, 1818) ở miền Bắc Việt Nam”.

Tôi xin cảm ơn sự định hướng, giúp đỡ của thầy Nguyễn Hữu Ninh và
Ths Nguyễn Anh Hiếu trong suốt quá trình tôi triển khai thí nghiệm và hoàn
thiện báo cáo.
Nhân đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân trong gia

đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ trong thời gian tôi theo học khoá học
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của mọi người!



Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Học viên



Trần Thị Kim Oanh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng v
Danh mục hình vi
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu đề tài 2
3. Nội dung nghiên cứu 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Một số đặc điểm sinh học của cá Trê Mỹ Ictalurus punctatus 3
1.1.1. Hệ thống phân loại 3

1.1.2. Hình thái cấu tạo 4
1.1.3. Phân bố tự nhiên, tình hình di nhập và khả năng thích nghi
của cá Trê Mỹ 4
1.1.4. Đặc điểm sinh lý 5
1.1.5. Tính ăn và sinh trưởng 7
1.1.6. Đặc điểm sinh học sinh sản 8
1.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cá Trê Mỹ trên thế giới 10
1.2.1. Nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ 11
1.2.2. Kích thích sinh sản cá Trê Mỹ 11
1.2.3. Các phương pháp cho sinh sản 12
1.2.4. Ấp trứng cá 13
1.2.5. Ương nuôi cá Trê Mỹ 14
1.3. Tình hình nuôi và nghiên cứu cá Trê Mỹ trong nước 16
Chương 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
2.1. Vật liệu nghiên cứu 18
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 18
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 18
2.2. Phương pháp nghiên cứu 18
2.2.1. Nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo và ấp nở phôi 18
2.2.2. Nghiên cứu kỹ thuật ương từ cá bột lên cá giống 20
2.2.3. Phân tích số liệu 22
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 23
3.1. Kích thích sinh sản nhân tạo và ấp nở phôi 23
3.2. Kết quả ương nuôi cá Trê Mỹ giai đoạn cá bột lên cá hương 25
3.2.1. Theo dõi các yếu tố môi trường trong bể ương giai đoạn cá bột
lên cá giống 25
3.2.2. Ảnh hưởng của mật độ ương nuôi đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ

sống giai đoạn cá bột lên cá hương 26
3.3. Kết quả ương nuôi cá Trê Mỹ giai đoạn cá hương lên cá giống 28
3.3.1. Theo dõi các yếu tố môi trường nước giai đoạn ương từ cá hương
lên cá giống 28
3.3.2. Ảnh hưởng của mật độ ương nuôi đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ
sống giai đoạn cá hương lên cá giống 29
3.4. Thảo luận kết quả 32
3.4.1. Thử nghiệm kích dục tố 32
3.4.2. Ương nuôi từ cá bột lên cá giống 33
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 34
1. Kết luận 34
2. Đề xuất 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 38
PHỤ LỤC 40

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT Tên bảng Trang
Bảng 3. 1: Kết quả về tỷ lệ sinh sản và sức sinh sản 23
Bảng 3. 2: Kết quả ấp nở phôi 24
Bảng 3. 3: Mật độ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của cá Trê Mỹ giai
đoạn từ cá bột lên cá hương 26
Bảng 3. 4: Mật độ ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá Trê Mỹ giai đoạn từ cá
bột lên cá hương 27
Bảng 3. 5: Ảnh hưởng của mật độ ương đến tăng trưởng về chiều dài cá giai
đoạn ương nuôi từ cá hương lên cá giống 29

Bảng 3. 6: Ảnh hưởng của mật độ ương nuôi đến tăng trưởng về khối lượng
cá giai đoạn từ cá hương lên cá giống 30
Bảng 3. 7: Ảnh hưởng của mật độ đến tỷ lệ sống của cá Trê Mỹ giai đoạn
từ cá hương lên cá giống 31

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC CÁC HÌNH
STT Tên hình Trang
Hình 1. 1: Cá Trê Mỹ Ictalurus punctatus (Rafinesque, 1818) 3
Hình 1. 2: Phân biệt giới tính cá bằng quan sát hình thái ngoài của cá 8
Hình 1. 3: Ổ đẻ tự nhiên và nhân tạo của cá Trê Mỹ 9
Hình 1. 4: Giải phẫu cá Trê Mỹ đực lấy sẹ cho sinh sản 13
Hình 1. 5: Cá giống cỡ 20 g/con và cá thương phẩm 17
Hình 1. 6: Phân biệt giới tính và kiểm tra tuyến sinh dục cá Trê Mỹ 17
Hình 1. 7: Trứng cá Trê Mỹ cái nuôi thành thục ở tuổi 1+ tại Viện I. 17
Hình 2. 1: Sơ đồ thí nghiệm nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo cá Trê Mỹ 18
Hình 2. 2: Sơ đồ khối bố trí thí nghiệm ương cá Trê Mỹ giai đoạn từ bột
lên hương 20
Hình 2. 3: Sơ đồ khối bố trí thí nghiệm ương cá Trê Mỹ giai đoạn từ
hương lên giống 21
Hình 3. 1: Kết quả ấp nở phôi 24
Hình 3. 2: Biến động nhiệt độ nước trong thời gian ương từ cá bột lên cá hương 25
Hình 3. 3: Biến động pH, DO trong thời gian ương từ cá bột lên cá hương 25
Hình 3. 4: Tỷ lệ sống của cá Trê Mỹ ương từ bột lên hương 27
Hình 3. 5: Biến động nhiệt độ nước trong quá trình ương từ cá hương lên
cá giống 28
Hình 3. 6: Biến động pH, DO trong thời gian ương từ cá hương lên cá giống 28
Hình 3. 7: Tăng trưởng về chiều dài của cá ương từ hương lên giống 29

Hình 3. 8: Tăng trưởng về khối lượng của cá ương từ hương lên giống 30
Hình 3. 9: Tỷ lệ sống của cá ương từ hương lên giống 32

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cá Trê Mỹ là loài cá có ngưỡng nhiệt độ rộng (0-40
o
C), khả năng chịu
đựng tốt hơn cá Rô phi, cá Chim trắng và nhiều loài cá nhập nội khác nên cá Trê
Mỹ có khả năng phát triển nuôi ở nhiều loại hình vực nước và các vùng địa lý
khác nhau. Bên cạnh đó, những năm gần đây việc nuôi cá Trê Mỹ đã được nhiều
người dân quan tâm và phát triển cả hai phương diện là quy mô nuôi và sản
lượng. Điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp, người dân rất quan tâm đến việc nuôi
đối tượng cá Trê Mỹ có giá trị kinh tế này.
Cá Trê Mỹ là loài cá bản địa của châu Mỹ, phân bố phía nam Canada và
phía đông bắc Mỹ cũng như phía bắc của Mexico. Cá Trê Mỹ có giá trị dinh
dưỡng cao, tỷ lệ protein cao, mỡ và cholesterol thấp, thành phần khoáng và
vitamin phong phú do đó đây là một trong những đối tượng cá da trơn đang được
ưa chuông trên thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ và một số nước
Châu Âu (Nettleton và ctv, 1990). Ở Việt Nam, những năm gần đây cá Trê Mỹ
được người dân nhập theo con đường tiểu ngạch và nuôi ở một số tỉnh phía Bắc.
Qua một số năm phát triển tự phát, phong trào nuôi đang ngày càng được mở
rộng tại một số tỉnh như Hải Dương, Hà Nội, Quảng Ninh, Hưng Yên và Vĩnh
Phúc….Cá nuôi nhanh lớn, chất lượng thịt ngon và khả năng chống chịu tốt với
môi trường, bệnh và có thể thu được lợi nhuận lớn.
Hiện nay các kỹ thuật sinh sản nhân tạo và ương nuôi cá Trê Mỹ được

thực hiện tương tự như những kỹ thuật được phát triển sau những năm 1940. Sử
dụng hormone kích thích rụng trứng được thực hiện qua nghiên cứu của Giudice
(1966), Dunham và ctv (1998) và được hầu hết các nước đã di nhập áp dụng để
nghiên cứu vào điều kiện thực tế tại địa phương.
Ở miền Bắc Việt Nam, cá Trê Mỹ đang được nuôi ở một số tỉnh với quy
mô nhỏ lẻ, chưa sản xuất được con giống nên nguồn giống chủ yếu được nhập từ
Trung Quốc và không chủ động. Để chủ động nguồn giống cung cấp cho người
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

dân mở rộng diện tích nuôi, làm đa dạng hóa đối tượng nuôi thủy sản ở Việt Nam
chúng ta cần nghiên cứu thử nghiệm kích thích sinh sản và ương nuôi thành cá
giống trong điều kiện nhân tạo.
Việc nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản xuất nhân tạo giống cá Trê Mỹ
là bước quan trọng giúp chủ động được nguồn giống góp phần khép kín vòng đời
đối tượng nhập nội có giá trị kinh tế cao này. Trước thực trạng đó, cần thực hiện
đề tài “Nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo và ương nuôi Trê Mỹ
Ictalurus punctatus (Rafinesque, 1818) giai đoạn từ cá bột lên cá giống”.
2. Mục tiêu đề tài
- Mục tiêu chung: Góp phần xây dựng quy trình sản xuất nhân tạo giống
cá Trê Mỹ trong điều kiện miền Bắc Việt Nam.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Xác định được loại và liều lượng kích dục tố phù hợp sử dụng để kích
thích sinh sản nhân tạo cá Trê Mỹ.
+ Xác định được mật độ phù hợp để ương nuôi cá Trê Mỹ từ cỡ cá bột lên
cá giống.
3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo cá Trê Mỹ.
- Nghiên cứu sử dụng các công thức mật độ ương nuôi cá Trê Mỹ từ giai
đoạn cá bột lên cá giống.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Một số đặc điểm sinh học của cá Trê Mỹ Ictalurus punctatus
1.1.1. Hệ thống phân loại
Cá Trê Mỹ thuộc bộ cá Nheo Siluriformes, bộ này có trên hai nghìn loài
và phần lớn sống trong các thủy vực nước ngọt vùng nhiệt đới (Chapman, 2000).
Ở Mỹ, cá Trê Mỹ thuộc họ Ictaluridae là loài cá bản địa của vùng Gulf và thung
lũng Mississippi, họ này có khoảng 43 loài. Một số loài quan trọng trong họ này
đang được nuôi thương phẩm rộng rãi là cá Trê Mỹ xanh (I. furcatus), cá Trê Mỹ
trắng (I. catus), cá Trê Mỹ đầu vàng (I. natalis), cá Trê Mỹ đầu nâu (I.
nebulosus), cá Trê Mỹ đầu đen (I. melas), cá Trê Mỹ đầu bẹt (Pylodictis olivaris)
(Chapman, 2000). Loài I. punctatus được nuôi phổ biến nhất ở Mỹ và thường
được gọi là cá Trê Mỹ.
Cá Trê Mỹ thuộc:
Lớp: Actinopterygii
Bộ cá Nheo: Siluriformes
Họ: Ictaluridae
Giống: Ictalurus
Loài: Ictalurus punctatus (Rafinesque,
1818). Tên tiếng Anh: Channel Catfish

Hình 1. 1: Cá Trê Mỹ Ictalurus punctatus (Rafinesque, 1818)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

1.1.2. Hình thái cấu tạo

Cá Trê Mỹ (I. punctatus) có thân thon dài, không vẩy, tia vây trên các vây
là tia vây mềm ngoại trừ tia vây trên vây lưng và ngực. Vây mỡ nằm giữa vây
lưng và vây đuôi không có chứa tia vây. Mắt cá nhỏ, miệng nằm phía trước có 4
đôi râu quanh miệng. Đuôi cá hình lưỡi mác, vây hậu môn hình vành khuyên
(Ross, 2001).
Vây hậu môn có 24-27 tia vây, vây lưng có 6-7 tia vây, vây ngực có 7-9
tia vây, vây bụng có 8-9 tia vây, có 13-18 lược mang (Ross, 2001).
Màu sắc: Cá nhỏ thường có màu ánh bạc và màu trắng hồng. Viền ngoài
của vây lưng, vây mỡ, vây hậu môn và vây đuôi thường có màu đen. Cá giống
khi đạt kích thước 6-7 cm bắt đầu xuất hiện chấm đen trên thân, các đốm này từ
từ biến mất khi cá có tuổi đời lớn hơn 3 tuổi (Wellborn, 1988). Cá hương râu
không màu, khi cá trưởng thành râu chuyển màu sáng bạc (Ross, 2001). Cá lớn
có màu xanh đen dọc theo lưng, cá cái có màu sáng hơn cá đực. Đầu cá đực
trưởng thành có màu xanh đen.
1.1.3. Phân bố tự nhiên, tình hình di nhập và khả năng thích nghi của cá
Trê M

Cá Trê Mỹ là loài cá bản địa của châu Mỹ, phân bố phía Nam Canada và
phía Đông Bắc Mỹ cũng như phía Bắc của Mexico. Cá Trê Mỹ có thể tìm thấy ở
khắp lục địa châu Mỹ phía đông bờ biển Đại Tây Dương cũng như phần vùng núi
phía Tây (Wellborn, 1988). Ngày nay cá Trê Mỹ đã có mặt ở trên 13 quốc gia
trên thế giới (FAO, 2013). Cá Trê Mỹ được giới thiệu đầu tiên tại Puerto Rico
năm 1938, tiếp đó cá được đưa tới cộng hòa Dominican năm 1954, Bỉ và Anh
năm 1968, Nigeria năm 1970, Hàn Quốc năm 1972, Philippines năm 1974, Trung
Quốc năm 1984, Thái Lan năm 1989… (Eli, 2005).
Cá Trê Mỹ là loài có khả năng thích nghi khá tốt. Theo Galasun (1984) cá
Trê Mỹ nhập vào Ukraine năm 1972 thích nghi và sinh trưởng tốt trong điều kiện
ao nuôi tại nước này. Sau 3 năm di nhập sinh sản nhân tạo và ương nuôi đã được
thực hiện thành công tại Ukraine. Ở Brazil cá Trê Mỹ giống nhập về được nuôi
trong bể xi măng, ao đất với mật độ khác nhau cũng thích nghi biểu hiện qua sinh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

trưởng khác nhau (Esquivel và ctv., 1998). Tại Trung Quốc, sau khi di nhập cá
Trê Mỹ được nuôi trong ao cho ăn thức ăn chính là đậu tương kết quả cho thấy cá
thể hiện sinh trưởng tốt. Hiện nay Trung Quốc là một trong những quốc gia có
sản lượng cá Trê Mỹ lớn trên thế giới (Cremer và ctv., 2001). Theo Eli (2007)
hầu hết các nước nhập cá Trê Mỹ về nuôi thì cá đều thích nghi tốt và phát triển
thành một nghề sản xuất.
1.1.4. Đặc điểm sinh lý
Theo Starnes và Etnier (1993), cá Trê Mỹ phân bố rộng trên các hồ tự
nhiên, hồ chứa, các dòng suối nước sạch nơi có hàm lượng ôxy cao, có thể tìm
thấy trên các suối có tốc độ dòng chảy chậm và nước phù sa, thường thấy cá ở
cuối nguồn của các đập nước, cũng có thể tìm thấy cá trong các vùng nước lợ.
Trong tự nhiên cá Trê Mỹ hoạt động chủ yếu vào ban đêm, ban ngày chúng
thường sống trong khu vực nước sâu và các nơi tối có vật chú ẩn. Cá nhỏ thường
tập trung ở nơi có lưu tốc dòng nước nhỏ và các khu vực có độ đục cao (Brown
và ctv., 1970).
Cá Trê Mỹ được biết đến bởi khả năng sống và chịu đựng trong môi
trường bất lợi. Cá có thể sống trong biên độ dao động nhiệt độ lớn, cá giống và
cá trưởng thành có thể sống trong môi trường nhiệt độ từ 0-40
o
C, trong biên độ
nhiệt độ từ 8-35
o
C cá vẫn bắt mồi và sinh trưởng tốt (Cacho và ctv., 1991). Theo
Buentello và ctv. (2000), nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển của cá Trê Mỹ là 26-
30
o
C. Nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ và sức khỏe cá, Bly và Clem (1991)

cho rằng sự thay đổi nhanh của nhiệt độ có thể gây mất cân bằng hệ thống miễn
dịch. Cụ thể khi nhiệt độ giảm từ 23-11
o
C trong vòng 24 giờ làm ức chế tế bào B
và T trong 3-5 tuần. Wellborn (1988) cho rằng sinh trưởng và khả năng ăn của cá
giảm khi nhiệt độ giảm thấp hơn nhiệt độ tối ưu (26-30
o
C).
Ôxy hòa tan là yếu tố quan trọng trong nuôi cá Trê Mỹ. Ôxy hòa tan trong
môi trường nuôi cá Trê Mỹ phụ thuộc vào sự tương tác gữa các yếu tố như chế
độ dinh dưỡng cho ăn, mật độ tảo, cỡ cá, mật độ cá cũng như nhiệt độ nước
(Meyer, 1970). Nhiệt độ nước ảnh hưởng tới sự hòa tan của ôxy, nhiệt độ cao vào
mùa hè làm tăng trao đổi chất của cá dẫn tới hàm lượng ôxy trong nước giảm.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

Với ấp trứng và ương nuôi cá hương cá giống hàm lượng ôxy cần thiết từ 4-5
mg/l, khi hàm lượng ôxy hòa tan giảm xuống 1,5-1,0 mg/l cá bỏ ăn (Hargreaves
và Tucker, 2004). Nghiên cứu cho biết khi ôxy giảm xuống còn 2,5 mg/l, lượng
tiêu thụ thức ăn của cá hương và cá giống giảm 6%; khi ôxy giảm xuống còn 1,5
mg/l lượng thức ăn giảm 45%. Steeby và Hargreaves (1999) theo dõi cá trong ao
nuôi cá thương phẩm hàm lượng ôxy xuống tới 2,2 mg/l nhưng không ảnh hưởng
đến hoạt động ăn của cá, tuy nhiên khi lượng ôxy hòa tan giảm còn 1 mg/l thì gây
ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ thức ăn và làm giảm sinh trưởng của cá.
Có rất ít nghiên cứu về ảnh hưởng của pH lên sinh trưởng của cá Trê Mỹ
vì sự thay đổi của pH liên quan trực tiếp tới hàm lượng ammonia và CO
2
trong
môi trường ao nuôi, tuy nhiên pH thích hợp cho nuôi cá Trê Mỹ dao động từ 6,5
đến 9,0. Thí nghiệm của Bergerhouse (1990) chứng minh cá Trê Mỹ 19 ngày tuổi

có hiện tượng chết trong môi trường nước có pH 10,2-10,5.
Cá Trê Mỹ là loài thích nghi với biên độ dao động độ mặn lớn, khả năng
chịu độ mặn của cá Trê Mỹ thay đổi theo các giai đoạn phát triển của vòng đời
(Allen và Vault, 1970). Trứng cá Trê Mỹ có thể chịu được độ mặn 16 ppt, cá bột
mới nở có thể chịu được độ mặn 8 ppt. Cá khi tiêu hết noãn hoàng khả năng chịu
đựng độ mặn tăng lên 9-10 ppt và 12 ppt. Cũng theo nghiên cứu này, sinh trưởng
và tiêu thụ thức ăn của cá giống 42-148 ngày tuổi nuôi trong độ mặn 5 ppt và cá
nuôi trong nước ngọt là như nhau.
Khả năng chịu ammonia (NH
3
) của cá Trê Mỹ liên quan mật thiết tới hàm
lượng ôxy hòa tan trong môi trường nuôi. Thí nghiệm được tiến hành trên cá Trê
Mỹ thương phẩm 500-600 g nuôi trong môi trường có nồng độ NH
3
là 0,4 mg/l
và lượng ôxy hòa tan 6 mg/l kết luận lượng ammonia không làm ảnh hưởng tới
lượng thức ăn tiêu thụ của cá. Tuy nhiên lượng thức ăn tiêu thụ của cá giảm 68%
khi môi trường nuôi có NH
3
là 0,4 mg/l và hàm lượng ôxy hòa tan giảm xuống
2,3 mg/l. Theo Tucker và Robinson (1990) lượng ammonia hòa tan trong môi
trường nuôi cá Trê Mỹ không nên vượt quá 0,2 mg/l.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

1.1.5. Tính ăn và sinh trưởng
Cá Trê Mỹ là loài ăn tạp, cá ăn cả thức ăn động vật và thực vật (Wellborn,
1988), tuy nhiên trong thành phần thức ăn của cá Trê Mỹ cũng bao gồm cả các
chất lắng đọng. Động vật không xương sống trong thành phần thức ăn của cá Trê
Mỹ gồm ấu trùng simuliids, caddisflies và giáp xác (Weisburg và Janicki, 1990).

Trong các sông lớn ở Mỹ, thành phần thức ăn chủ yếu của cá là ấu trùng côn
trùng, giáp xác, cá và các động vật thân mềm (Weisburg và Janicki, 1990). Trong
các hồ chứa cá ăn động vật phù du, daphnia, moina, các chất lắng đọng và cá.
Trên các dòng suối vào mùa lũ cá ăn giun đất, thậm chí chuột và xác động vật
trên cạn (Robinette và Knight, 1981). Thời gian bắt mồi của cá tập trung vào
buổi chiều tới nửa đêm trong biên độ nhiệt độ nước từ 10-34
o
C (Bailey và
Harrison, 1945). Ấu trùng cá Trê Mỹ ăn động vật phù du, cá bột các loài cá khác,
hoạt động bắt mồi chủ yếu vào buổi sáng và buổi chiều (Armstrong và Brown,
1983). Ấu trùng các loại động vật thủy sinh là nguồn thức ăn chủ yếu của cá Trê
Mỹ có kích cỡ nhỏ hơn 102 mm (Bailey và Harrison, 1945). Cá Trê Mỹ cỡ lớn
hơn 102 mm bên cạnh ăn các loài động vật thủy sinh chúng ăn ấu trùng côn trùng
và động vật trên cạn. Cá cỡ 279 – 381 mm ăn cùng loại thức ăn trên nhưng thành
phần thức ăn có thêm cả cá và giáp xác cỡ lớn.
Trong tự nhiên, sinh trưởng của cá Trê Mỹ phụ thuộc vào chế độ dinh
dưỡng trong mỗi thủy vực. Theo Carlander (1969), số liệu theo dõi sinh trưởng
về chiều dài của cá Trê Mỹ 8 năm liên tục trong khu vực sông Tennessee lần lượt
là: 86 – 163 mm, 170 – 239 mm, 206 – 290 mm, 241 – 333 mm, 269 – 366 mm,
295 – 404 mm, 325 – 427 mm, và 462 – 495 mm. Trong vùng hồ Mississippi
sinh trưởng về chiều dài trung bình năm đầu của cá Trê Mỹ là 72 – 102 mm, các
năm tiếp theo trong 7 năm lần lượt là 132 – 189 mm, 203 – 272 mm, 266 – 341
mm, 304 – 370 mm, 353 mm và 425 mm. Appelget và Smith (1950) thống kê
chiều dài xương sống của cá từ năm thứ nhất tới năm thứ 12 lần lượt là 75 mm,
161 mm, 231 mm, 299 mm, 361 mm, 423 mm, 488 mm, 536 mm, 620 mm, 676
mm, 658 mm và 709 mm. Cá Trê Mỹ có thể sống đến 40 năm tuổi, khối lượng
26,3 kg và chiều dài 1.300 mm (Glodek, 1980).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8


Trong sinh sản nhân tạo và nuôi cá Trê Mỹ, vòng đời của cá có thể chia
làm các giai đoạn khác nhau: Cá bột, cá hương, cá gống, cá thịt, và cá bố mẹ
(Hunter và Dupree, 1984). Cá bột mới nở có chiều dài 5,5-6,0 mm. Cá hương
nuôi từ cá bột sau 40 ngày tuổi có thể đạt 50 mm. Sau 120 ngày tuổi cá có thể đạt
chiều dài 230 mm. Để hoàn thành một chu kỳ nuôi cá Trê Mỹ từ cá bột đến giai
đoạn cá thương phẩm cần 18 tháng (Zimba và ctv., 2003).
1.1.6. Đặc điểm sinh học sinh sản
- Phân biệt giới tính
Phương pháp phổ biến để phân biệt giới tính cá là lấy mẫu tuyến sinh dục
của cá đã biệt hoá giới tính và quan sát. Cá Trê Mỹ có thể xác định giới tính ở
khoảng 4 tháng tuổi (Reynaldo, 1996), tuy nhiên giới tính của cá Trê Mỹ có thể
phân biệt bằng quan sát hình thái ngoài của cá ở một số giai đoạn nhất định.

Hình 1. 2: Phân biệt giới tính cá bằng quan sát hình thái ngoài của cá
Vào mùa vụ sinh sản, cá đực có lỗ sinh dục nhú dài cách xa lỗ hậu môn,
độ dài phụ thuộc vào tuổi của cá. Cá cái lỗ sinh dục thường là khe nhỏ phẳng
hình ô van liền kề sau lỗ hậu môn và thường có màu đỏ. Có thể phân biệt bằng
cách quan sát phần cơ trên lưng cá. Phần cơ trên đầu và lưng của cá đực thường
có 3 vùng phình rộng từ đầu xuống bụng, trong khi đó cá cái có 2 phần phân biệt
giữa phần đầu và bụng. Về màu sắc của cá đực chuyển từ màu xanh xám sang
màu đen. Cá cái có màu xám và màu nâu vàng.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

- Tuổi và cỡ cá thành thục
Theo Carlander (1969), điều kiện sinh sản nhân tạo và nuôi trong ao cá
Trê Mỹ thành thục sinh dục ở tuổi thứ 2 khi đạt chiều dài khoảng 350- 359 mm
với cá cái và 330-339 mm với cá đực. Thông thường cá thành thục khi đạt chiều
dài 305 mm. Santiago (1979) cho rằng tỷ lệ sinh sản thành công với cá 2 năm
tuổi thường thấp và với cá 3 năm tuổi khoảng 12,7%. Theo Steeby và Avery

(2005), khi tiến hành sinh sản cá Trê Mỹ nên chọn cá bố mẹ có tuổi từ 3 tuổi trở
lên, tuổi tốt nhất cho cá bố mẹ là 5 tuổi. Kenneth (2009) cho rằng thành thục của
cá Trê Mỹ có thể thay đổi theo chu kỳ mùa và sự thay đổi về chu kỳ ánh sáng, cá
Trê Mỹ 22 tháng tuổi có thể kích thích thành thục sinh dục.
- Sức sinh sản
Cá Trê Mỹ có sức sinh sản tương đối lớn 10.000 – 20.000 trứng/cá cái tùy
theo khối lượng cá. Thông thường cá đẻ từ 6.000-8.000 trứng/kg khối lượng cơ
thể (Hunter và Dupree, 1984). Cá cái có khối lượng khoảng 0,45-1,81 kg thường
có khoảng 8.800 trứng/kg khối lượng (Clemens và Sneed, 1957).
- Tập tính sinh sản và quá trình phát triển của phôi
Trên các sông suối khi cá đẻ, cá đực tìm vị trí thích hợp, thường là nơi có
các vật trú ẩn, dưới các gốc cây, hay các hốc đá. Trong các ao nuôi hay hồ chứa
cá đẻ có thể làm tổ trên bùn đáy (Clemens và Sneed, 1957). Giai đoạn cá đẻ
thường kéo dài từ 4-6 giờ, mỗi giờ cá đẻ khoảng 9 lần, mỗi lần đẻ khoảng 150
trứng. Trứng cá Trê Mỹ mới đẻ có màu vàng, đường kính từ 3,0- 4,0 mm, trung
bình 3,2 mm (Menzel, 1945). Cá cái sau khi đẻ bơi đi, cá đực ở lại chăm sóc ổ
trứng (Hunter và Dupree, 1984). Trong sinh sản nhân tạo các vật trú ẩn, thùng
chứa được thiết kế làm tổ đẻ cho cá.

Ổ đẻ tự nhiên Ổ đẻ nhân tạo Thu trứng cá Khay ấp trứng cá
Hình 1. 3: Ổ đẻ tự nhiên và nhân tạo của cá Trê Mỹ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

Cá Trê Mỹ đẻ trứng dính, màu sắc của trứng thay đổi theo giai đoạn phát
triển của phôi từ màu vàng sang đỏ nhạt (Pawiroredjo và ctv., 2005), thời gian ấp
nở của trứng thụ tinh phụ thuộc vào nhiệt độ, với nhiệt độ từ 21-29
o
C trứng
thường nở sau 8 và 5 ngày ấp. Trứng thụ tinh nở sau 6 ngày ở nhiệt độ 25

o
C và
10 ngày ở nhiệt độ 15,6
o
C (Clemens và Sneed, 1957). Nghiên cứu ấp trứng ở
nhiệt độ cao trên 36
o
C, Allen và Strawn (1968) cho rằng cá bị biến đổi hình thái
của xương sống. Ấu trùng cá mới nở thường dài khoảng 6,4 mm và thường tập
trung quanh ổ đẻ. Sau khoảng 7 ngày cá bắt đầu tiêu hết noãn hoàn và bơi kiếm
thức ăn.
1.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cá Trê Mỹ trên thế giới
Nghiên cứu sinh sản cá Trê Mỹ được tiến hành đầu tiên ở Mỹ vào năm
1890 (Shira, 1917). Năm 1916, phương pháp nuôi vỗ cá bố mẹ và sử dụng ổ đẻ,
thu trứng ấp trong điều kiện nhân tạo thành công. Tiếp theo sự thành công các
nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu ương nuôi cá hương, cá giống trong trại sản
xuất giống (Clapp, 1929). Hiện nay các kỹ thuật sinh sản nhân tạo và ương nuôi
cá Trê Mỹ được thực hiện tương tự như những kỹ thuật được phát triển sau
những năm 1940. Sử dụng hormone kích thích rụng trứng được thực hiện qua
nghiên cứu của Dunham và ctv. (1998). Nghiên cứu bảo quản tinh cá Trê Mỹ
trong dung dịch bảo quản giúp giữ tinh lâu hơn và chủ động thời gian sinh sản
được thực hiện bởi Christensen và Tiersch (1996). Ngoài những phương pháp ấp
trứng truyền thống thì phương pháp khử dính và ấp trứng trong bình McDonald
cũng được nghiên cứu thành công (Dorman, 1993). Bên cạnh những nghiên cứu
cho sinh sản nhân tạo, một số nghiên cứu lai tạo giữa các loài cá Trê Mỹ khác
nhau để tạo con lai có ưu thế lai như khả năng sinh trưởng nhanh và kháng bệnh
cũng được tiến hành. Giudice (1966) nghiên cứu lai tạo giữa cá cái của cá Trê
Mỹ Ictalurus punctatus và cá đực cá Trê Mỹ xanh Ictalurus furcatus, kết quả thu
được con lai có sức sinh trưởng tăng 20% so với cá bố mẹ. Hệ số chuyển đổi
thức ăn của con lai giảm từ 10-20% so với cá bố mẹ. Bên cạnh khả năng về sinh

trưởng và hiệu quả chuyển đổi thức ăn, khả năng kháng bệnh của con lai cũng tốt
hơn Ella (1984).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

1.2.1. Nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ
Theo Davis (1986), cá Trê Mỹ bố mẹ có thể được thu từ tự nhiên hay mua từ
các trại sản xuất, số lượng cần đủ lớn để đảm bảo đa dạng di truyền tránh rủi ro mất
cá, cá bố mẹ bị bệnh, làm giảm số lượng quần đàn. Cá bố mẹ trước khi cho vào nuôi
vỗ cần tắm formaline với liều 150 ppm trong 30 phút để loại bỏ mầm bệnh. Cá bố
mẹ có tuổi đời từ 3 tuổi trở lên, cùng cỡ, tỷ lệ cá đực cái là 1:1 hay 2:3. Lượng cá cái
ước tính theo Steeby và Avery (2005) là 600-900 kg để sản xuất được 1 triệu cá
hương. Lượng cá thả trong ao không quá 1.340 kg/ha (0,134 kg/m
2
).
Cá bố mẹ đực và cái đưa vào nuôi vỗ trong cùng một ao, mùa vụ thả nên
vào cuối mùa thu. Độ cứng của nước nên lớn hơn 50 mg/l. Sau khi lấy nước có
thể bón phân urea với lượng 44,8 kg/ha, hàng ngày có thể bón thêm 2,2-3,3 kg/ha
tới khi tảo phát triển. Ôxy hòa tan duy trì cao hơn 4 mg/l, NH
3
+
< 2,5 mg/l
(Stickney, 1994). Cho ăn 3% khối lượng cơ thể mỗi ngày khi nhiệt độ cao hơn
21
o
C, 2% khối lượng cơ thể mỗi ngày khi nhiệt độ lớn hơn 15
o
C. Khi nhiệt độ
nước giảm xuống dưới 15
o

C có thể cho ăn 1% khối lượng cơ thể (Anita, 2004).
Cá phát dục tốt cần đạt được 50% khối lượng từ mùa sinh sản trước tới mùa sinh
sản sau (Jensen và ctv, 1983).
1.2.2. Kích thích sinh sản cá Trê Mỹ
Kích dục tố sử dụng kích thích sinh sản cá Trê Mỹ có thể dùng là não thùy
cá chép CCP (Common carp pituitary extract – CCP), LHRHa (Lutenizing
hormone releasing hormone analog – LHRHa), hoặc HCG (Human chorionic
gonadotropin). Cách tiêm kích thích rụng trứng cho cá Trê Mỹ phụ thuộc vào các
phương pháp cho sinh sản khác nhau. Tuy nhiên với CCP và LHRHa quá trình
kích thích thường chia làm 2 liều, liều 1 thường tiêm cho cá cái vào cuối giờ
chiều hay đầu giờ buổi sáng, liều 2 tiêm sau liều 1 khoảng 10-18 giờ. Sau khi
tiêm liều 2 khoảng 20-30 giờ cá sẽ rụng trứng. Nghiên cứu của Dunham và ctv.
(1998) sử dụng CCP tiêm kích thích rụng trứng cá Trê Mỹ liều 1 sử dụng 2 mg
CCP/kg cá cái, sau thời gian tiêm liều 1 từ 12-18 giờ thì cá cái tiếp tục được tiêm
liều 2 với lượng 8 mg CCP/kg, kết quả sau 20-30 giờ cá cái rụng trứng. Nghiên
cứu sinh sản nhân tạo cá Trê Mỹ của Kristanto (2004) sử dụng LHRHa tiêm liều
1 với lượng 20 µg/kg cá cái, sau 12 giờ tiếp tục tiêm liều 2 với lượng 100 µg/kg
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

cá cái. Kết quả 100% cá cái rụng trứng. Cũng theo tác giả, sử dụng LHRHa kích
thích rụng trứng cho kết quả cao hơn 35-40% so với sử dụng CCP. Bên cạnh
CCP và LHRHa, HCG đã được Giudice (1966) nghiên cứu khi kích thích cho cá
Trê Mỹ sinh sản trong lồng với lượng tiêm 1,543 IU HCG/kg và chỉ tiêm 1 lần.
Những nghiên cứu tiếp theo của Goudie và ctv. (1992), Kristanto (2004) đề xuất
liều tối ưu của HCG nên dùng 1.100 IU/kg.
1.2.3. Các phương pháp cho sinh sản
Cách chọn cá bố mẹ: Cần kiểm tra cá cái trước 15 ngày hay 1 tháng so với
thời gian cá sinh sản sớm nhất để xác định chính xác mùa vụ cá đẻ. Cá mẹ cần
kiểm tra mức độ thành thục bằng cách nắm đuôi cá dốc ngược đầu xuống đất

chọn cá cái có bụng to, mềm, lỗ hậu môn đỏ (Dunham và ctv, 1998). Có thể dùng
que thăm trứng lấy khoảng 20 hạt trứng thông qua lỗ niệu sinh dục, quan sát màu
sắc, kích cỡ và mức độ thành thục của trứng. Cá thành thục tốt trứng cá thường
có màu trắng sáng hoặc màu vàng, hạt trứng căng tròn đều, đường kính dao động
trong khoảng 3,2 mm. Có thể kiểm tra độ chín của trứng thông qua quan sát độ
lệch của nhân bằng cách lấy trứng cho vào dung dịch có chứa 85 ml cồn 95%, 10
ml formaline, và 5 ml acetic axid quan sát nhân của trứng sau 2-3 phút. Nếu nhân
của trứng nằm ở trung tâm của trứng hay không thể nhìn thấy nghĩa là trứng chưa
chín hoặc thoái hóa, nếu nhân của trứng nằm lệch về cực động vật nghĩa là trứng
chín và có thể cho sinh sản (Nwadukwe và ctv., 1991).
Cho cá bố mẹ tự đẻ trong ao (Tucker và Robinson, 1990): Ao cho sinh sản
có diện tích 0,04-0,4 ha, cần phơi đáy, vét bùn, lấy nước đảm bảo chất lượng
nước trong ao, cá bố mẹ không cần tiêm kích dục tố thả đực cái với mật độ 1:1
hay 1:4. Chuẩn bị ổ đẻ: Ổ đẻ của cá được chuẩn bị bằng sử dụng các thùng kim
loại, hộp nhựa hay có thể đóng các hộp gỗ. Ổ đẻ có thể tích khoảng 40-60 lít,
miệng của ổ đẻ đủ rộng để cá mẹ có thể chui vào trong, ổ đặt ở đáy ao, 50-75 ổ
cho 500 cá cái. Kiểm tra định kỳ ổ đẻ 2-3 ngày/lần để thu trứng đã đẻ mang về bể
ấp. Thông thường tỷ lệ đẻ trong ao chỉ đạt khoảng 20-30%, cao có thể đạt tới 40-
60%. Các yếu tố ảnh hưởng tới tỷ lệ đẻ của cá như ôxy (Ôxy hòa tan phải đảm
bảo cao hơn 5 mg/l), nhiệt độ và các yếu tố kỹ thuật như chế độ cho ăn, chăm
sóc, chuẩn bị ổ đẻ, cũng như lựa chọn cá bố mẹ.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

Cho cá bố mẹ đẻ trong lồng: Lồng có kích cỡ đủ rộng để nhốt cá bố mẹ,
có mắt lưới phù hợp, thông thường chọn lồng có kích thước 1,2×1,8 m hay
1,2×3,2 m, mắt lưới cỡ 1,2-5,0 cm. Chọn cá mẹ thành thục tốt, bụng to mềm,
lỗ sinh dục mở và đỏ, cá cái sau khi chọn có thể tiêm với liều lượng 1.100-
1.800 IU (HCG)/kg, LHRHa 100 mg/kg hay 2 mg não thùy cá Chép, cá đẻ sau
72 giờ từ khi tiêm thả trong lồng. Một số trường hợp cá có thể đẻ sau 1 tuần

(Giudice, 1966).
Sinh sản nhân tạo: Chọn cá cái bụng mềm, lỗ sinh dục đỏ hồng và mở,
nhân trứng lệch cực, cân xác định khối lượng đưa vào bể sinh sản, cá được tiêm 2
liều nếu sử dụng CCP hay LHRHa. Cá đẻ 36 giờ sau khi tiêm liều 1 ở nhiêt độ
30
o
C. Kiểm tra cá cái bằng cách ấn nhẹ vào bụng cá thấy trứng cá chảy thì tiến
hành cho sinh sản. Trước khi vuốt trứng, cá đực được mổ lấy sẹ, tiếp theo thấm
khô và loại bỏ máu dính vào sẹ, cân sẹ để xác định khả năng thụ tinh của cá
(Michael và Dunham, 1998).

Hình 1. 4: Giải phẫu cá Trê Mỹ đực lấy sẹ cho sinh sản
Thông thường 0,5 g sẹ đủ để thụ tinh cho 100 ml trứng. Sau khi đã lấy
được sẹ tiến hành cho bảo quản trong 4
o
C. Hoặc trong dung dịch bảo quản HBSS
(Hanks Buffered Salt Solution).
1.2.4. Ấp trứng cá
Trước khi tiến hành ấp trứng, làm vệ sinh bể ấp và các dụng cụ liên quan
cũng như xử lý trứng. Nước ấp trứng có thể sử dụng là nước ngầm hoặc nước ao.
Cần lưu ý nước ngầm đảm bảo không có chứa khí độc. Nước ao cần tiến hành
khử trùng và lọc trước khi dùng để ấp trứng, mục đích cung cấp các điều kiện tốt
nhất cho cá nở. Để nâng cao hiệu quả của việc ấp trứng cần nắm được thời gian
và sự phát triển của phôi. Theo Dorman (1993), nhiệt độ tối ưu cho ấp trứng dao
động từ 25-27°C, nhiệt độ dao động từ 21-29
o
C thời gian ấp nở từ 5-10 ngày,
không nên ấp trứng mật độ quá cao, ấp khoảng 0,4-0,5 kg trứng/1 khay có diện
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14


tích (20 cm × 41 cm × 10 cm), không nên ấp trứng trong môi trường nhiệt độ
thấp hơn 21
o
C hay ở nhiệt độ cao hơn 29
o
C (Small và Bates, 2001).
Nếu trứng thu từ ao mang vào bể ấp cần tiến hành làm thích nghi nhiệt độ.
Thời gian vận chuyển của trứng từ ao tới bể ấp không nên quá 15-30 phút vì thời
gian lâu làm ảnh hưởng tới chất lượng nước cũng như hàm lượng ôxy trong dụng
cụ chuyển trứng, trứng cá vận chuyển trong thùng sau 30 phút làm giảm tỷ lệ nở
25%. Nước trong dụng cụ vận chuyển cần đảm bảo lượng ôxy > 5 mg/l, pH 6,5-
8,0. Độ cứng của nước là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ lệ nở vì
canxi trong nước đóng vai trò cho sự phát triển của ấu trùng. Trứng ấp 24 giờ từ
khi đẻ trong nước có hàm lượng canxi nhỏ hơn 10 ppm làm giảm tỷ lệ nở 70%.
Các giai đoạn sau tỷ lệ nở có thể giảm tới 25%. Do đó cần duy trì độ cứng của
nước ít nhất 20 ppm (
Trong quá trình ấp trứng cần tiến hành tắm phòng bệnh cho trứng.
Kristanto (2004) sử dụng formaline nồng độ 100 ppm tắm phòng bệnh cho trứng
3 lần/ngày, mỗi lần 15 phút cho tỷ lệ nở cao. Cũng theo tác giả, xử lý trứng nên
từ 8-12 giờ sau khi thụ tinh, không nên xử lý trứng sau khi thụ tinh 46 giờ vì phôi
của cá giai đoạn này rất nhạy cảm với hóa chất. Ngoài formaline có thể sử dụng
hydrogen peroxide với liều 250 ppm trong 15 phút có tác dụng diệt vi khuẩn. Sử
dụng povidone iodine 100 ppm trong 10 phút cũng cho tác dụng tương tự.
Ấp trứng cá Trê Mỹ bằng bình McDonald sau khi được khử dính bằng
dung dịch được pha như sau: Cân 150 g Na
2
SO
3
pha vào 1lít nước lọc, khi tiến

hành khử dính tiếp tục nấy 100 ml nước lọc đã pha + 900 ml nước dùng ấp trứng,
điều chỉnh pH bằng với pH của nước ấp, thời gian khử dính cho trứng khoảng 4-
10 phút tới khi màng dính tan hoàn toàn. Rửa lại trứng bằng nước ấp 2-3 lần
trước khi đem trứng vào bình ấp.Bình McDonald có dung tích 13 lít, đáy tròn
hình xy lanh, cao 0,5m và đường kính 0,2 m, có thể ấp 10.000-40.000 trứng/bình,
tốc độ dòng nước nên điều chỉnh vào khoảng 2-3 lít/phút.
1.2.5. Ương nuôi cá Trê Mỹ
- Ương cá Trê Mỹ từ cá bột lên cá hương:
Cá sau khi nở 5-7 ngày tiêu hết noãn hoàng có thể bơi chủ động được
chuyển tới ao ương (Busch, 1985), mật độ thả thông thường 370.000-
500.000cá/ha. Cũng có thể ương cá trong bể. Bể ương kích thước 234 cm × 55
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

cm × 29 cm cần lắp đặt hệ thống sục khí, duy trì nước chảy và thường xuyên
siphon thức ăn thừa và phân ra khỏi bể. Vào khoảng 3 ngày sau khi cá nở, chúng
được xác định số lượng và chuyển sang ương. Có thể thả 6.000-80.000 cá bột/bể.
Cá bột sau khi tiêu hết noãn hoàng được cho ăn bột cá nghiền nhỏ, hàm lượng
đạm khoảng 50%, cho ăn 4-6 lần/ngày trong 7-10 ngày, các ngày tiếp theo cá cho
ăn thức ăn có kích cỡ lớn hơn phù hợp với cỡ miệng của cá. Cũng có thể sử dụng
thức ăn tươi sống như Artemia nauplii để ương cá.
- Ương cá Trê Mỹ từ cá hương lên cá giống:
Chuẩn bị ao ương, tẩy dọn, vét bùn, lọc nước bằng lưới lọc có kích cỡ 500 µm.
Với bể ương nên rửa bể bằng 10% formaline, lắp đặt hệ thống sục khí hay thiết
kế hệ thống dòng chảy. Đối với cá hương cỡ 50-75mm mật độ thích hợp cho
ương từ cá hương lên cá giống trong ao từ 24.700 – 37.000 con/ha. Cá cỡ 50 mm
được chuyển sang bể ương kích thước 234 cm × 55 cm × 29 cm với mật độ 600
con/bể. Sau thời gian nuôi 80 ngày cỡ cá có thể đạt 230 mm. Trong ao đất nếu
thả với mật độ 12.350-14.820 con/ha sau thời gian nuôi 80-100 ngày cỡ cá có thể
đạt 305 mm.

Bảng 1. 1: Một số chỉ tiêu về cỡ cá, tỷ lệ cho ăn và kích cỡ thức ăn của cá Trê Mỹ
Chiều dài cá
cm
Tỷ lệ cho ăn (% khối lượng cơ
thể)
Đường kính của thức ăn
(mm)
< 1,2 10-25kg/ha/day 0,42-0,59
1,2-2,5 6 0,59-0,84
2,5-3,7 6 0,84-1,1
3,7-6,2 5 1,1-1,6
6,2-10 4 1,6-2,3
10-15 3 2,3-3,3
> 15 3 9,5
Theo Huner và Dupree, 1984
Giai đoạn này có thể cho cá ăn thức ăn có hàm lượng đạm 40%. Theo
Evans và Pasik (2005) có thể cho ăn thức ăn chứa 45% nguyên liệu đậu tương
thay thế bột cá không làm giảm sinh trưởng của cá so với cá nuôi với thức ăn là
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

bột cá. Tuy nhiên, có thể phối trộn bột đậu tương và bột cá với tỷ lệ 3:1 làm thức
ăn cho cá mà không làm ảnh hưởng tới sinh trưởng của cá nuôi.
1.3. Tình hình nuôi và nghiên cứu cá Trê Mỹ trong nước
Ở nước ta, cá Trê Mỹ được nuôi một vài năm gần đây, ban đầu một số
người dân nuôi lồng tại huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương nhập cá giống cỡ 3-
5cm từ Trung Quốc về ương trong ao, khi đạt cỡ từ 50-100 con/kg thì tiến hành
thả ra lồng để nuôi lên cá thương phẩm, nguồn thức ăn chính của cá là cá tạp và
thức ăn công nghiệp. Sau thời gian nuôi khoảng 20-24 tháng cá đạt khối lượng
2,5-3 kg/con. Giá bán dao động từ 110.000-130.000 đồng/kg. Nhận thấy đây là

loài cá dễ nuôi, có giá trị kinh tế nên việc phát triển nuôi loài cá này nhanh chóng
được nhân rộng.
Mô hình nuôi cá Trê Mỹ trong ao và lồng thực sự phát triển từ năm 2012
khi diện tích ao nuôi và số lồng nuôi tăng nhanh, mở rộng ra một số huyện khác
như Chí Linh, Kinh Môn, Thanh Miện…Hiện nay trên địa bàn tỉnh Hải Dương
diện tích ao nuôi cá Trê Mỹ khoảng >10ha, nhưng diện tích này chủ yếu dùng để
ương nuôi cá giống nhỏ lên cỡ giống lớn. Có khoảng 50-70 hộ dân nuôi lồng,
mỗi hộ có từ 70-100 lồng, thể tích lồng chủ yếu từ 100-150 m3/lồng, trong đó 2/3
diện tích lồng dùng để nuôi cá Trê Mỹ, còn lại là nuôi các loài khác như Trắm
Cỏ, Chép, Diêu Hồng. Sản lượng nuôi cá Trê Mỹ toàn tỉnh ước đạt 300-500
tấn/năm.
Từ đầu năm 2013, một số hộ dân đã đầu tư hệ thống lồng ở một số hồ
chứa lớn tại các tỉnh miền núi như hồ chứa Hòa Bình-tỉnh Hòa Bình, hồ chứa Na
Hang-tỉnh Tuyên Quang với quy mô hành trăm lồng nuôi. Việc mở rộng diện tích
cũng như vùng nuôi cho thấy đây là loài có tiềm năng phát triển, có giá trị kinh
tế, mở ra hướng phát triển mới cho người nuôi thủy sản.
Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 bắt đầu thu thập quần đàn và tiến
hành cách ly nghiên cứu về cá Trê Mỹ năm 2010-2011.Sau đây là kết quả nghiên
cứu ban đầu về một số đặc điểm sinh trưởng và kích thích sinh sản do Viện
nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 (Viện 1) thực hiện:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 17

Sau 12 tháng nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp 28% protein, cá có sinh
trưởng nhanh và đạt 1,5 kg/con với cỡ cá thả ban đầu 20 g/con. Đã xác định được
giới tính (đực, cái) bằng quan sát hình thái ngoài. Cá bố mẹ thành thục ở tuổi 1
+
,
trứng phát triển ở giai đoạn IV vào các tháng 5-7 trong năm. Sử dụng kích dục tố
LRHa với liều 120 µg/kg cá cái và HCG với liều 1500 UI/kg cá cái kích thích đã

thấy cá cái rụng trứng, tuy nhiên kết quả còn rất hạn chế.


Hình 1. 5: Cá giống cỡ 20 g/con và cá thương phẩm

Hình 1. 6: Phân biệt giới tính và kiểm tra tuyến sinh dục cá Trê Mỹ

Hình 1. 7: Trứng cá Trê Mỹ cái nuôi thành thục ở tuổi 1+ tại Viện I.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 18

Chương 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên đàn cá Trê Mỹ Ictalurus punctatus tuổi 2+
hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt miền
Bắc, Hải Dương.
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ tháng 5 năm 2013 đến tháng 2 năm 2014 tại
Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt miền Bắc, Phú Tảo - Thạch Khôi
– TP Hải Dương.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo và ấp nở phôi
- Kích thích sinh sản nhân tạo
Sử dụng đàn cá bố mẹ tuổi 2+ đã được nuôi vỗ thuộc đề tài “Nghiên cứu
khả năng phát triển nuôi cá Trê mỹ Ictalurus punctatus, Rafinesque 1818 tại
miền Bắc Việt Nam”. Vì lý do thời gian, nghiên cứu của tôi thừa hưởng kết quả
nuôi vỗ của đề tài để thử nghiệm kích thích sinh sản nhân tạo cá Tre mỹ.











Hình 2. 1: Sơ đồ thí nghiệm nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo cá Trê Mỹ
Thử nghiệm kích dục tố kích thích
sinh sản
CT1 CT2
CT3
CT4
Xác định loại và liều lượng kích dục
tố kích thích cá sinh sản

×