Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

nghiên cứu bệnh héo vàng do nấm fusarium sp hại hành, tỏi và thử nghiệm phòng trừ bệnh bằng vi khuẩn đối kháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.1 MB, 77 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




TRẦN THỊ BÍCH PHƯƠNG


NGHIÊN CỨU BỆNH HÉO VÀNG DO NẤM FUSARIUM SP.
HẠI HÀNH, TỎI VÀ THỬ NGHIỆM PHÒNG TRỪ BỆNH
BẰNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ







HÀ NỘI, NĂM 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





TRẦN THỊ BÍCH PHƯƠNG


NGHIÊN CỨU BỆNH HÉO VÀNG DO NẤM FUSARIUM SP.
HẠI HÀNH, TỎI VÀ THỬ NGHIỆM PHÒNG TRỪ BỆNH
BẰNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG


CHUYÊN NGÀNH : BẢO VỆ THỰC VẬT
MÃ SỐ: 60.62.01.12


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HÀ VIẾT CƯỜNG



HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, chưa từng được sử dụng
trong bất kỳ một báo cáo khoa học nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho tôi thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.




Tác giả luận văn




Trần Thị Bích Phương


















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự động viên và giúp đỡ các cá nhân và tập thể.
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô khoa Nông học đã
giảng dạy và truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt những năm qua.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS Hà Viết Cường
– giám đốc trung tâm bệnh cây nhiệt đới, trưởng khoa Nông học đã trực tiếp hướng
dẫn, hết lòng quan tâm, chỉ bảo và hướng dẫn tận tình để tôi hoàn thành báo cáo luận
văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các anh chị trong cán bộ thuộc Trung
tâm nghiên cứu bệnh cây nhiệt đới đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi được học
hỏi, trau dồi kiến thức, tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu cho công việc
của tôi sau này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn những người thân, gia đình, bạn bè
đã hết lòng giúp đỡ, ủng hộ và động viên tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 17 tháng 6 năm 2015

Tác giả luận văn



Trân Thị Bích Phương









Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii


MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục
iii
Danh mục các chữ viết tắt
vi
Danh mục bảng
vii
Danh mục hình
viii
MỞ ĐẦU
1
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
4
1.1

Tình hình sản xuất hành tỏi trên thế giới và Việt Nam
4
1.1.1 Tình hình sản xuất hành tỏi trên thế giới
4
1.1.2 Tình hình sản xuất hành tỏi ở Việt Nam
5


1.2. Những nghiên cứu về nấm Fusarium trên hành tỏi
1.2.1 Nấm Fusarium oxysporum
8
1.2.2 Nấm Fusarium proliferatum
14
1.3. Những nghiên cứu về phòng trừ Fusarium bằng phương pháp sinh học
17
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
22
2.1 Đối tượng nghiên cứu
22
2.2 Phạm vi nghiên cứu
22
2.3 Nội dung nghiên cứu
22
2.4 Vật liệu nghiên cứu:
22
2.4.1. Vật liệu nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
22
2.4.2.

Một số môi trường chuyên cho phân lập Fusarium sp. (John
and Brett, 2006)
23
2.4.3. Vật liệu nghiên cứu trong nhà lưới
23
2.5. Địa điểm nghiên cứu và thời gian nghiên cứu: 23

2.6.


Phương pháp nghiên cứu 23

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.6.1

Phương pháp phân lập nấm Fusarium gây bệnh héo vàng
trên hành: 23

2.6.2.Phương pháp lây bệnh nhân tạo 24

2.6.3.Phương pháp tách chiết DNA tổng số 25

2.6.4.Phương pháp nhân gen ITS phục vụ việc giải trình tự 26

2.6.5.Phương pháp phân tích trình tự 28

2.6.6.Phương pháp nhuộm mô 28

2.6.7.Phương pháp đánh giá khả năng đối kháng của vi khuẩn
với nấm Fusarium sp. 28

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 31

3.1. Điều tra bệnh héo vàng trên hành tại Hải Dương và Hưng Yên 31

3.2. Phân lập nấm Fusarium sp. trên hành. 32

3.3. Đặc điểm hình thái của các nguồn nấm Fusarium sp. 33


3.4. Kết quả lây bệnh nhân tạo theo phương pháp trộn thạch nấm vào đất
trồng hành. 36
3.5. Kết quả lây bệnh nhân tạo theo phương pháp nhúng hành vào dịch
bào tử nấm bệnh 38

3.6. Thí nghiệm đặt ẩm hành 40

3.7. Thí nghiệm đặt ẩm tỏi 42

3.8. Kết quả định danh nấm Fusarium sp. 44

3.8.1.PCR và giải trình tự 44

3.8.2.Tìm kiếm trên Ngân hàng Gen 45

3.9. Đánh giá hình thái 2 của 2 mẫu nấm HC 1-2 và HC 1-3 46

3.10. Kết quả thí nghiệm thử khả năng nhiễm bệnh của một số giống hành
tỏi được trồng hàng năm tại Hải Dương, Hưng Yên và Bắc Ninh 49

3.11. Kết quả thí nghiệm thử khả năng nhiễm bệnh của một số giống hành
đang được khảo nghiệm tại Hải Dương 50

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.12. Kết quả thí nghiệm thử khả năng bị nhiễm bệnh với các nồng độ bào
tử nấm bệnh khác nhau của các giống hành đang được khảo nghiệm 52


3.13. Kết quả thí nghiệm đối kháng của nấm Fusarium sp. với các nguồn
vi khuẩn theo phương pháp cấy vạch 54

3.14. Kết quả thí nghiệm đối kháng của các nguồn vi khuẩn với các
nguồn nấm Fusarium sp. theo phương pháp giếng 55

3.15. Kết quả thí nghiệm đối kháng của các nguồn vi khuẩn với các nguồn
nấm Fusarium sp. theo phương pháp chiết bằng n-hexan 56

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 59

Kết luận 59

Đề nghị 60

TÀI LIỆU THAM KHẢO 61

Tài liệu trong nước 61

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

F.oxysporum: Fusarium oxysporum
F.proliferatum: Fusarium proliferatum
T.harzianum: Trichoderma harzianum
T.viride: Trichoderma viride
T. koningii: Trichodema kiningii
T. aureoviride: Trichoderma aureoviride

T. pseudokoningii: Trichoderma pseudokiningii
B.subtilis: Bacillus sutilis
CLA: Môi trường thạch lá cẩm chướng
PGA: Môi trường thạch khoai tây đường glucose
PDB: Môi trường khoai tây lỏng
VK: vi khuẩn
WA: Môi trường thạch nước cất

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang
1: Các loài Fusarium oxysporum gây héo trên cây trồng ở Việt Nam 10
3.1: Điều tra bệnh héo trên hành tại Hải Dương và Hưng Yên 31
3.2: Phân lập nấm Fusarium sp. trên hành 32
3.3: Đặc điểm hình thái của 11 nguồn nấm Fusarium sp. 34
3.4: Hình thái bào tử của nấm Fusarium sp. 35
3.5: Kết quả lây bệnh nhân tạo bằng phương pháp trộn thạch nấm vào đất 37
3.6: Kết quả lây bệnh nhân tạo bằng phương pháp dịch bào tử 39
3.7 Kết quả thí nghiệm đặt ẩm hành trong dịch bào tử nấm 41
3.8 Kết quả thí nghiệm đặt ẩm tỏi 42
3.9. Kết quả giải trình tự các mẫu nấm Fusarium sp. 45
3.10. Kết quả tìm kiếm loài gần gũi trên GenBank của 2 mẫu HC1-2 và
HC1-3 dựa trên trình tự vùng ITS. 46
3.11: Đặc điểm hình thái của một số nấm Fusarium sp. thuộc phức hợp
loài G. fujikuroi 47
3.12. Kết quả lây bệnh nhân tạo của một số giống hành, tỏi 49
3.13 Kết quả lây bệnh nhân tạo của một số giống hành đang được
khảo nghiệm 51

3.14 Kết quả lây bệnh nhân tạo với các nồng độ bào tử nấm bệnh khác nhau 52
3.15. Thí nghiệm đối kháng của các dòng vi khuẩn với nấm HC 1-2 theo
phương pháp cấy vạch 54
3.16. Thí nghiệm đối kháng của các dòng vi khuẩn với nấm HC 1-3 theo
phương pháp cấy vạch 54
3.17 Thí nghiệm đối kháng của các nguồn vi khuẩn với nguồn nấm
Fusarium sp. theo phương pháp giếng sau 5 ngày 56
3.18 Thí nghiệm đối kháng của các nguồn vi khuẩn với nguồn nấm
Fusarium sp. bằng phương pháp chiết với n-hexan sau 5 ngày 57

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC HÌNH
STT Tên hình Trang
1: Nấm Fusarium oxysporum (John and Brett, 2006) 9
2: Nấm Fusarium proliferatum (John and Brett, 2006) 15
3.1: Điều tra hành tại Hải Dương, Hưng Yên 32
3.2: Các mẫu hành héo thu được và phân lập hành 33
3.3: Bào tử và tản nấm Fusarium sp. đã phân lập được 36
3.4: Lây bệnh cho hành bằng phương pháp trộn nấm Fusarium sp. vào đất 38
3.5: Lây bệnh nhân tạo trên hành bằng phương pháp dịch bào tử 40
3.6: Kết quả lây bệnh bằng phương pháp đặt hành trong bông thấm dịch
nấm Fusarium sp. sau 10 ngày lây bệnh 41
3.7: Lây bênh bằng phương pháp đặt ẩm tỏi 43
3.8: Phân lập lại tỏi được lây bệnh bằng phương pháp đặt ẩm 43
3.9: Kiểm tra nấm bệnh phát triển trong mô tỏi thí nghiệm 44
3.10 Kết quả điện di sản phẩm PCR 45
3.11: Đặc điểm tế bào sinh bào tử nhỏ và cách sinh bào tử nhỏ của 2 mẫu
nấm HC1-2 và HC1-3. 48

3.12: Kết quả lây bệnh nhân tạo của một số giống hành, tỏi 50
3.13 Lây bệnh nhân tạo với một số giống hành được lựa chọn 51
3.14 Lây bệnh nhân tạo với nguồn nấm HC 1-2 53
3.15 Lây bệnh nhân tạo với nguồn nấm HC 1-3 53
3.16 Khả năng đối kháng của một số dòng vi khuẩn với nấm Fusarium sp. 55
3.17 Thí nghiệm đối kháng của các dòng vi khuẩn theo phương pháp giếng 56
3.18 Thí nghiệm đối kháng của vi khuẩn bằng dịch chiết n-hexan với 58


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây hành (Allium fistulosum) là một trong những loại cây gia vị quan
trọng ở nước ta cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới. Bên cạnh việc được
dùng làm gia vị, cây hành còn được dùng làm thành phần quan trọng trong nhiều
bài thuốc để chữa bệnh cho người như: giảm đau đầu, giảm ho, giảm đau họng,
chữa bệnh thiếu máu hay ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư…Trong
những năm gần đây, sản phẩm hành củ của nước ta không những đáp ứng đủ nhu
cầu trong nước mà còn được xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới và được thị
trường ưa chuộng nhờ có chất lượng tốt.
Cây tỏi (Allium sativum) là một loài thực vật thuộc họ Hành, nghĩa là có họ
hàng với hành tây, hành ta, hành tím, tỏi tây, v.v và cũng được con người sử dụng
làm gia vị, thuốc, rau như những loài họ hàng của nó. Theo nghiên cứu của các nhà
khoa học trong và ngoài nước đã phát hiện ra nhiều công dụng của tỏi đối với sức
khỏe của con người. Trong tỏi có chất Alixin có tác dụng diệt khuẩn. Trong y học
người ta đã dùng tỏi để chữa bệnh thương hàn, tả lỵ, bạch hầu. Tỏi còn chữa đầy hơi
bằng cách ăn trực tiếp hoặc giã nhỏ xoa vào bụng khi bị cúm thì ăn tỏi sống hoặc
uống rượu tỏi cũng khỏi. Tỏi được cho là có tính chất kháng sinh và tăng khả năng

phòng ngừa ung thư, chống huyết áp cao, mỡ máu ở con người. Một số dân tộc trên
thế giới tin rằng tỏi giúp họ chống lại ma, quỷ, ma cà rồng.
Theo Tạ Thị Thu Cúc và cộng sự ngày nay hành tỏi được trồng nhiều ở
Tiên Sơn - Bắc Ninh, Mê Linh, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Ngãi,
Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Đà Lạt. Hành, tỏi có thời gian sinh trưởng
ngắn, đáp ứng được yêu cầu tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho nông
nghiệp. Và là cây trồng rất thích hợp cho vụ thu đông và đông xuân sau khi thu
hoạch lúa mùa ở miền Bắc nước ta. Trong những năm gần đây diện tích rau màu
vụ đông đã tăng dần do cơ cấu chuyển đổi cây trồng ở vùng ĐBSH và phổ biến
nhất là các tỉnh: Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Vĩnh phúc, Bắc Giang cây
rau màu đã phát triển mạnh thay thế dần cây có thu nhập thấp nhằm áp ứng nhu
cầu tiêu dùng và suất khẩu. Ngoài những cây rau truyền thống như: Cà chua, su
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

hào, bắp cải, cây đậu ăn rau thì cây hành, cây tỏi đang được đầu tư phát triển sản
xuất (Tạ Thu Cúc et al., 2000)
Ở nước ta điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, mưa nhiều
rất thích hợp cho các bệnh do nấm gây ra. Đặc biệt là bênh héo vàng trên hành
tỏi do nấm Fusarium sp. gây ra. Trong thực tế bệnh có thể phát triển gây hại đến
nhiều vùng trồng hành tỏi. Việc phòng chống dịch hại cho cây trồng nông nghiệp
đã và đang là nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định trong việc mở rộng diện
tích, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Bệnh
héo vàng trên hành tỏi do nấm Fusarium sp. gây ra có nguồn gốc từ đất phổ biến
và gây hại nghiêm trọng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Bệnh héo vàng cũng
khó phòng trừ do nấm có khả năng tồn tại trong đất, trong cơ thể cây ký chủ, tàn
dư thực vật, hạt giống, củ giống. Nấm Fusarium sp. có phổ ký chủ rất rộng gây
hại trên cà chua, khoai tây, dưa chuột, hành ta, tỏi ta. Và trên đồng ruộng cũng
khó để phân biệt được héo vàng do Fusarium sp. gây ra trên hành tỏi so với các
triệu chứng héo khác. Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu thì nhiều vùng

đã tiến hành đầu tư thâm canh nâng cao năng suất cho các vùng trồng hành tỏi
cùng với quá trình phát triển sản xuất là sự phát phát triển của các loài vi sinh vật
gây bệnh mà chủ yếu là do nấm. Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có một nghiên cứu
nào về bệnh héo vàng do Fusarium sp. gây ra trên hành tỏi.
Xuất phát từ thực tiễn trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu
bệnh héo vàng do nấm Fusarium sp. hại hành, tỏi và thử nghiệm phòng trừ
bệnh bằng vi khuẩn đối kháng.”
2. Mục đích, yêu cầu đề tài
2.1. Mục đích
Xác định nguyên nhân gây bệnh héo vàng hại hành, tỏi và thử nghiệm ức
chế nấm bằng vi khuẩn đối kháng trong điều kiện invitro.
2.2. Yêu cầu của đề tài
- Xác định bệnh do nấm Fusarium trên và hành tỏi tại Hưng Yên và Hải
Dương về mức độ nhiễm và tỷ lệ nhiễm
- Đánh giá tính gây bệnh của nấm Fusarium trên hành tỏi
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

- Đánh giá khả năng kháng và nhiễm nấm Fusarium trên một số giống
hành tỏi
- Xác định loài nấm Fusarium thông qua hình thái và giải trình tự
- Đánh giá khả năng phòng chống nấm Fusarium của một số vi khuẩn đối
kháng
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu đề tài là xác định được tác nhân gây bệnh héo vàng
hành tỏi tại Hưng Yên, Hải Dương và đặc điểm phát triển của bệnh làm cơ sở
cho biện pháp phòng trừ có hiệu quả.
- Thử nghiệm và xây dựng các biện pháp phòng trừ bệnh héo vàng hại hành,
tỏi trong điều kiện invitro

3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần xây dựng quy trình quản lý dịch hại tổng hợp trên hành, tỏi làm
giảm tỷ lệ bệnh héo vàng gây ra, nhằm nâng cao năng suất góp phần và thu nhập
cho người dân vùng trồng hành, tỏi tại các địa phương chuyên trồng rau màu.






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1 Tình hình sản xuất hành tỏi trên thế giới và Việt Nam
1.1.1 Tình hình sản xuất hành tỏi trên thế giới
Tỏi được cho là có nguồn gốc từ Trung Á (Tiên Sơn, Trung Quốc) sau đó
lan đến khu vực Địa Trung Hải trong thời cổ đại và đã được biết đến ở Ai Cập
trong năm 3000 TCN. Đây cũng là một cây cổ đại ở Ấn Độ và Trung Quốc.
Người Tây Ban Nha, trên thế giới ở các vĩ độ khác nhau, từ vĩ độ 5 đến 50 ở cả
hai bán cầu, nhưng phổ biến nhất ở Địa Trung Hải và Trung Quốc.
Trên thế giới, hành tỏi được trồng trên 175 quốc gia, đem lại nguồn thu
nhập lớn cho người sản xuất. Theo hiệp hội hành tỏi Hoa Kỳ, năm 2004 diện tích
trồng hành tỏi trên thế giới là 2.680.000 ha, năng suất 17,77 triệu tấn/ha, sản
lượng 47.670.000 tấn. Nước dẫn đầu về diện tích là Hoa Kỳ, về sản lượng là
Trung Quốc (chiếm 31%) và năng suất là Nga. Ngoài ra Trung Quốc còn là nước
trồng tỏi chiếm 1/2 châu Á, 1/3 thế giới (USDA, 2006)
Hiện nay diện tích trồng hành tỏi ngày càng có chiều hướng ngày
càng tăng. Tại nước Mỹ có khoảng 18.000 vùng trồng hành tỏi. Ở hầu hết các

loại hành tỏi phù hợp với vùng khí hậu mát mẻ nên được trồng nhiều ở Miền Bắc
Đài Loan. Năm 2002 khoảng 179.500 ha đất được sử dụng trồng rau tập chung
chủ yếu ở các tỉnh Vân Lâm, Trương Hoa, Đài Nam và Chiayi sản lượng đạt
3.462.000 tấn với năng xuất trung bình khoảng 19.300kg/ha trong đó có tỏi. Bên
cạnh đó Braxin luôn là quốc gia đi đầu trong sản xuất nông sản với 2,4 triệu tấn
trị giá 518 triệu USD, tăng 28% về khối lượng và 11% về giá trị với cùng kỳ năm
2005. Trong đó lúa mỳ đạt 272 triệu USD, Lê đạt 23 triệu USD, tỏi trên 21 triệu
(Medine and García, 2007)
Theo thống kê của tổ chức FAO, trong năm 2007, diện tích trồng tỏi trên
toàn thế giới là 1.072.000 ha và sản lượng đạt 11,8 triệu tấn, trong đó sản
lượng ở khu vực Châu Á là 10,4 triệu tấn, chiếm 88,1% so với tổng sản
lượng trên thế giới. Đến năm 2010, diện tích trồng tỏi trên toàn thế giới đã
tăng lên 1.199.929 ha, với tổng sản lượng 17.674.893 tấn/năm. Trong đó, Trung
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

Quốc là nước sản xuất tỏi lớn nhất thế giới với sản lượng khoảng 13.664.069
tấn/năm (chiếm hơn 77,3% sản lượng của thế giới), kế đến là Ấn Độ (khoảng
833.970 tấn/năm) và Hàn Quốc (271.560 tấn/năm).
Về năng suất, theo số liệu thống kê FAO (2010), năng suất tỏi bình quân
của các quốc gia trên thế giới dao động từ 4,4 - 30,0 tấn/ha. Trong đó, Tajikistan
là quốc gia đạt năng suất cao nhất (đạt 30,0 tấn/ha), kế đến là Ai Cập (đạt 25,3
tấn/ha) và Trung Quốc (đạt 20,6 tấn/ha). Tuy nhiên, ở khía cạnh ứng dụng khoa
học công nghệ để nâng cao năng suất tỏi phải kể đến Trung Quốc. Bởi vì, tuy
năng suất tỏi của Tajikistan và Ai Cập đạt cao hơn so với Trung Quốc nhưng
diện tích gieo trồng lại quá ít, trong khi đó, với diện tích gieo trồng là 664.144 ha
nhưng năng suất bình quân của Trung Quốc đã đạt đến 20,6 tấn/ha.
Theo thống kê về hành tỏi của Olam thì năm 2012 sản lượng hành tỏi tăng
cao. Trong đó, sản lượng hành đạt sấp sỉ 83 triệu tấn, trong đó Trung Quốc là
nước đi đầu về sản lượng chiếm 27% sản lượng của toàn thế giới, Ấn Độ cũng có

sản lượng cao chiếm 20% sản lượng toàn thế giới, tiếp theo là Mỹ chiếm 4% sản
lượng toàn thế giới. Sản lượng tỏi đạt sấp sỉ 25 triệu tấn, trong só Trung Quốc
chiếm đến 42% sản lượng tỏi toàn thế giới, Ấn Độ đứng thứ 2 chiếm 2% sản
lượng toàn thế giới (Olam, 2014)



1.1.2 Tình hình sản xuất hành tỏi ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tỏi được du nhập khá lâu và được trồng phổ biến trong cả
nước, nhưng tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành là Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh, Quảng Ngãi và Ninh Thuận với tổng diện tích khoảng 6.000 ha. Đặc biệt,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

mặc dù các giống tỏi đang được trồng ở nước ta đều có nguồn gốc từ nhập nội (vì
trung tâm khởi nguyên của cây tỏi là khu vực Trung Á), nhưng có thể do quá
trình chọn lọc tự nhiên đã hình thành các giống tỏi địa phương có giá trị sử dụng
cao. Tuy nhiên, đến nay năng suất bình quân chỉ mới đạt từ 6 - 8 tấn/ha, thuộc
nhóm các quốc gia có năng suất tỏi trung bình trên thế giới và còn thấp so với
tiềm năng vốn có về khí hậu cũng như điều kiện đất đai.
* Đảo Lý Sơn - Quảng Ngãi
Trong bài báo “ Quảng Ngãi và các huyện trong tỉnh “ của Uỷ ban Nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi cho thấy rằng việc trồng hành, tỏi vẫn rất thịnh đạt, hành tỏi Lý
Sơn ngon nổi tiếng không chỉ trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi. Nhờ hành tỏi, nông
dân ở Lý Sơn có đời sống tương đối ổn định. Thời điểm 2005, diện tích trồng tỏi
là 297ha, sản lượng 1.557 tấn (trong đó xã An Vĩnh 146ha, 796 tấn; xã An Hải
151ha, 761 tấn); diện tích trồng hành 282,4ha, sản lượng 1.790 tấn (trong đó xã
An Vĩnh 139ha, 898 tấn; xã An Hải 117,4ha, 671 tấn; xã An Bình 26ha, 221 tấn)
* Huyện Ninh Hải Tỉnh Ninh Thuận
Theo Bạch Thương của Sở kế hoạch và đầu tư Ninh Thuận trong bài báo

“Triển vọng mô hình Tổ hợp tác sản xuất hành tỏi Khánh Tân” cho biết Khánh
Tân (Ninh Thuận) là vùng đất pha cát, tơi xốp giàu mùn và khoáng chất, có giờ
nắng trong ngày cao nên rất thích hợp với cây trồng hành, tỏi. toàn thôn có
khoảng 200-250 ha diện tích chuyên canh cây hành, tỏi cung cấp cho thị trường
mỗi năm từ 500 đến 1.000 tấn, trong đó có 50% là hành lá làm rau. Khánh Tân
được thiên nhiên ưu đãi, có khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp với hành, tỏi, ngay cả
trồng trong mùa mưa hành, tỏi vẫn rất ít khi bị nấm bệnh. Trồng hành, tỏi là nghề
truyền thống có từ lâu đời ở đây, với đặc điểm củ tỏi thơm nồng khó nơi nào
bằng, còn củ hành nhổ lên dù để lâu cũng không sợ hư thối.
* Huyện Sơn Động Tỉnh Bắc Giang
Theo báo Bắc Giang trong bài “Cây tỏi trên đất Giáo Liêm

” cho biết
trước đây, nông dân xã Giáo Liêm - Sơn Động - Bắc Giang chỉ cấy hai vụ lúa.
Nhưng nay, đồng ruộng được canh tác thêm vụ thứ ba trong năm với cây trồng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

chính là tỏi, loại cây chịu hạn tốt và cho hiệu quả kinh tế cao. Thấy trồng tỏi có
hiệu quả kinh tế cao, nhiều hộ đã trồng tỏi vào vụ đông
* Huyện Nam Sách Tỉnh Hải Dương
Theo Bảo Trung và Đại Hoàng của báo điện tử Nhân dân trong bài báo
“Nông dân Hải Dương làm giàu trên đất thuần nông

cho biết

xã Nam Trung
huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương nhờ trồng tỏi kết hợp với hai vụ lúa đã đưa
diện tích bình quân của xã đạt hơn 55 triệu/ha/năm, vụ tỏi 2004- 2005 xã thu
hoạch khoảng 4,4 tỷ đồng đến năm 2005 – 2006 tăng 7,5 tỷ đồng. Nhờ biết tận

dụng và phát huy thế mạnh của địa phương nên nếu năm 2000 thu nhập bình
quân theo đầu người của xã chỉ đạt 4,5 triệu đồng/người/năm thì đến 2005 thu
nhập bình quân đầu người đạt 6,3 triệu đồng/người/năm. Có đến 60- 70% gia
đình giàu lên nhờ cây tỏi, có những hộ đã đưa được thương hiệu hành tỏi của quê
hương vượt khỏi lũy tre làng. Ở xã đã thành lập nhiều cơ sở sản xuất chế biến tỏi
và các sản phẩm được chế biến từ tỏi đã được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế
giới như Đài Loan, Nhật Bản.
* Huyện Kinh Môn Tỉnh Hải Dương
Theo Nguyễn Thị Thuận, Sở Khoa học và công nghệ Hải Dương trong bài
báo “Cây hành Kinh Môn cần thương hiệu

cho thấy nếu như trước đây, người
dân Kinh Môn chỉ trồng cây hành với diện tích nhỏ, thu nhập chủ yếu từ cấy 2 vụ
lúa, thì nay người dân Kinh Môn coi vụ đông là vụ sản xuất chính, trong đó xác
định cây hành là cây trồng chủ lực mang lại hiệu quả kinh tế cao gấp 2-3 lần
lúa. Vụ đông 2014, toàn huyện có gần 2.500ha trồng hành, chiếm hơn 80% diện
tích trồng cây vụ đông. Giá trị sản xuất bình quân đạt hơn 100 triệu đồng/ha
* Huyện Quỳnh Phụ Tỉnh Thái Bình
Theo Vũ Mạnh báo điện tử Thái Bình trong bài báo “Quỳnh Hải vụ đông
đến sớm” cho thấy rằng tỉnh Thái Bình cũng là nơi có diện tích trồng tỏi lớn của
cả nước. Riêng xã Quỳnh Hải huyện Quỳnh Phụ là xã luôn dẫn đầu huyện về
phong trào trồng cây vụ đông. Năm 2005 toàn xã phấn đấu gieo trồng 275 ha cây
công nghiệp trong đó diện tích trồng tỏi chiếm 15 ha

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

* Huyện Phù Yên Tỉnh Sơn La
Theo Quốc Tuấn của báo điện tử Sơn La trong bài “Sớm tạo dựng thương
hiệu cho tỏi tía Phù Yên


cho thấy huyện Phù Yên tỉnh Sơn La có sản phẩm tỏi
tía, nhất là tỏi một củ hay còn gọi là tỏi 1 nhánh đã trở thành đặc sản của Phù
Yên, thường được người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh chọn mua. Từ năm 2005-
2007, diện tích trồng tỏi của Phù Yên đạt cao nhất từ 150 đến 250 ha. Sau giai
đoạn đó đến nay, diện tích giảm dần, dao động từ 40-60 ha và hiện là 50 ha.
1.2 Những nghiên cứu về nấm Fusarium trên hành tỏi
1.2.1 Nấm Fusarium oxysporum
1.2.1.1 Phân loại nấm Fusarium oxysporum
Fusarium oxysporum thuộc:
Giới : nấm thật
Ngành : Ascomycota
Lớp : Sordariomycetes
Phân lớp : Hypocreomycetidae
Bộ : Hypocreales
Họ : Nectriaceae
Chi : Fusarium
Loài : Fusarium oxysporum
Theo Burgess (1994) đã đưa ra cơ sở phân loại nấm F.oxysporum gồm 7
chỉ tiêu như sau:
1) Hình thành bào tử lớn.
2) Hình thành bào tử nhỏ.
3) Hình dạng và kiểu bào tử nhỏ.
4) Kích thước của bào tử nhỏ.
5) Sự có mặt hay không có mặt của bào tử hậu trên môi trường PGA.
6) Đường kính tản nấm trên môi trường PGA.
7) Hình thái tản nấm.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9


Nấm F. oxysporum có phạm vi ký chủ rất rộng lớn và tồn tại nhiều dạng
khác nhau trong đất. Mặt khác, thành phần và sự phân bố của nấm F. oxysporum
trong đất có liên quan chặt chẽ với sự xuất hiện và mức độ gây hại trên cây ở
mỗi vùng sinh thái khác nhau.
Đặc điểm sinh học của nấm F. oxysporum rất rõ rệt, sợi nấm phát trển
mạnh, màu sắc biến đổi từ màu trắng đến màu tím violet, tản nấm thường sinh
sắc tố màu hồng đến màu tím đậm trên môi trường PDA. Bào tử lớn hình thành
trên môi trường PDA có kích thước ngắn trung bình hoặc dài, phần lớn có 3 vách
ngăn mỏng, một đầu nhọn hoặc thon nhọn, một đầu hình bàn chân. Bào tử nhỏ
hình thành trên cành bào tử phân sinh đơn nhánh ngắn thường không có ngăn
ngang, đôi khi có một ngăn. Hình dạng bào tử thay đổi từ hình ovan, hình elip
hoặc hình quả thận. Hậu bào tử thường hình thành hầu hết trên các mẫu phân lập
sau 3 – 6 tuần nuôi cấy trên bề mặt thạch của môi trường PDA (Burgess, 1994)
Nấm có 3 chủng sinh lý. Chủng 1 phân bố rộng khắp thế giới; chủng 2
được tìm thấy ở bang Ohito, Florida, Australia, Brazil, Anh, Meehico; chủng 3
có ở Brazil, California và Florida (Hoda et al., 2000)

Hình 1: Nấm Fusarium oxysporum (John and Brett, 2006)
A-B: bào tử lớn. C-D: bào tử nhỏ. E-F: bào tử nhỏ trên môi trường CLA.
Mỗi dạng loài F. oxysporum thường chỉ gây héo trên một loài ký chủ. Một
số dạng loài Fusarium gây héo và các bệnh do chúng gây ra ở Việt Nam. Cụ thể:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

Bảng 1: Các loài Fusarium oxysporum gây héo trên cây trồng ở Việt Nam
STT Cây ký chủ Tên loài
1 Cây chuối F. oxysporum f.sp.cubense
2 Cây cà chua F. oxysporum f.sp. lycopersici
3 Cây đậu Hà Lan F. oxysporum f.sp.pisi
4 Cây dưa hấu F. oxysporum f.sp. niveum

5 Cây cúc tây F. oxysporum f.sp. callistephi
6 Cây gừng F. oxysporum f.sp. ziniberi
7 Cây cẩm chướng F. oxysporum f.sp. dianthy
8 Cây hành, cây tỏi Fusarium oxysporum f.sp.cepae
Nấm Fusarium oxyporum phát triển trong đất thích hợp với mọi độ ẩm
trong đất. Nấm gây bệnh cho cây trong mọi điều nhiệt độ từ 15 – 35
0
C tối thích
từ 25 – 28
0
C, gây hại mạnh nhất trong điều kiện 26
o
C. Các nghiên cứu của
trường đại học Illinois cho thấy thông qua các vết thương cơ giới hay qua tuyến
trùng hoặc các loại côn trùng khác, sau khi xâm nhập vào cây, nấm phát triển
trong các mô dẫn nước (xylem) và lan rộng sang các phần khác của cây. Nấm bịt
kín các mạch dẫn và triệu chứng điển hình xuất hiện trên lá. Sau khi cây bị bệnh
héo chét nấm Fusarium sản sinh ra bào tử trong mô cây chết và có thể tồn tại một
thời gian dài trong đất cho đến khi gặp môi trường thuận lợi để phát triển.
(Illinois University, 1988)
Theo như các báo cáo trước đây hầu hết các nấm Fusarium gây héo nằm
trong nhóm Fusarium oxyporum. Nhóm nấm Fusarium oxyporum có rất nhiều
dạng chuyên tính khác nhau, mỗi dạng gây hại trên một nhóm ký chủ nhất định
và thường chúng có rất nhiều chủng có khả năng gây bệnh nấm xâm nhiễm bộ rễ
thực vật làm cản trở quá trình hút nước và trao đổi dinh dưỡng, làm cho cây còi
cọc và lá bị vàng. Các rễ còn non rất dể bị nhiễm nấm bệnh, các vết thương cơ
giới ở phần rễ trong quá trình trồng, canh tác thường góp phần làm bệnh bị trầm
trọng thêm. Đất nghèo dinh dưỡng thiếu lân hoặc kali, muối và pH không cân
bằng cũng làm giảm sức đề kháng của cây đối với các bệnh về rễ (Burgess, 1994)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11

1.2.1.2 Những nghiên cứu về bệnh héo trên hành, tỏi do nấm Fusarium
oxysporum f.sp.cepae gây ra
Theo Đoàn Thị Thanh, Ở Việt Nam, nấm Fusarium sp. đã gây thiệt hại
lớn trên chuối, khoai tây, cà chua, hành ta và nhiều cây trồng khác. Nhiều năm
dịch bệnh gây tổn thất rất lớn đến sản xuất (Đoàn Thị Thanh, 2012)
Theo báo Hải Dương, vụ đông 2013, cây hành ở huyện Nam Sách (Hải
Dương) đang có tình trạng bị nấm héo rũ gây hại. Triệu chứng ban đầu xuất hiện
1 - 2 dọc trong khóm chuyển màu vàng nhạt và bị uốn hơi cong queo; sau đó dọc
chuyển vàng nhiều, bò khoằm trên mặt rạ và héo rũ. Phát sinh từ giai đoạn cây
hành có dọc vươn cao gần 1 gang tay, cây đang được tưới thúc lần 2 và chủ yếu
tập trung ở ruộng không thường xuyên được duy trì ở độ ẩm 80% độ ẩm đồng
ruộng (với tỷ lệ từ 1 - 3% khóm bị). Có thể bệnh đã xâm nhập từ phần củ đến
phần rễ rồi mới biểu hiện bị hại lên phần dọc lá và lây lan từng phần củ và dọc
trong khóm. Do phát sinh từ phần củ nên đã gây ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý
và sinh hóa của bộ rễ. Thời gian từ bắt đầu bị đến héo rũ hoàn toàn thường kéo
dài từ 7 - 8 ngày. Theo những chuẩn đoán ban đầu bệnh do một số loài nấm héo
rũ (Fusarium oxysporum, Sclerotium rolfsii, Rhyzoctonia solani) tồn tại trong đất
trồng, củ giống… Gặp thời tiết hanh khô, độ ẩm đất không được duy trì hoặc
bơm hay tưới nước quá võng, tưới thừa đạm, nhiều sương về đêm và sáng sớm…
đã làm cho các loài nấm này chiếm ưu thế và xâm nhập gây hại cây hành.
Theo Crame thì Fusarium oxysporum f.sp.cepae là một bệnh truyền qua
đất quan trọng của hành trên toàn thế giới, là nguyên nhân gây bệnh của phần
thân hành, củ hành và cuối cùng giết chết toàn bộ cây. Phương pháp chính của
nhiễm bệnh thông qua sự thâm nhập trực tiếp của nấm vào phần gốc thân.
Nhiễm bệnh cũng có thể xảy ra thông qua các mô bị thương đặc biệt là rễ cây và
phần vỏ của củ (Cramer, 2000)
Theo những nghiên cứu bệnh trên hành ở Iran thì héo Fusarium do nấm
Fusarium oxysporum f.sp.cepae là một trong những bệnh quan trọng nhất của

hành ở Iran (Sharifi and Ramezani, 2003).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

Thối Fusarium trên hành tây, do Fusarium oxysporum f.sp. cepae, là một
bệnh ngày càng tăng tại Hà Lan. Thiệt hại rất lớn cho nông dân Hà Lan khi phải
đối mặt với bệnh thối Fusarium trên hành, do giảm năng suất và tăng chi phí bảo
quản. Thối Fusarium là một mối đe dọa ngày càng tăng đối với sản xuất hành tây
ở vùng ôn đới. Nghiên cứu ở Hà Lan nói rõ rằng giống chống chịu có sẵn. Tuy
nhiên, sản lượng của những giống này vẫn còn thấp và họ không thích hợp cho
việc lưu trữ lâu dài. (Visser et al., 2006)
Hành tây là một loại rau quả quan trọng về kinh tế và New Mexico sản
xuất một số lượng đáng kể trong những tháng mùa hè. New Mexico sản xuất 1/3
lượng hành mùa hè của Mỹ với các giống ngắn và trung ngày. Thối Fusarium
nhân gây bệnh Fusarium oxysporum f. sp. cepae là một bệnh truyền qua đất, gây
thiệt hại trước và sau thu hoạch cho hành trên toàn thế giới. (Ashish and
Christopher, 2009)
Tại Thổ Nhỹ Kỳ thì 2 loại nấm Aspergillus niger V. Tieghem và
Fusarium oxysporum f. sp. cepae gây ra nấm mốc màu đen và thối củ trong hành
tây (Allium cepa L.). Cả hai loại nấm trên củ giống và đất thường hiện diện trong
đất trồng hành tây rất rộng rãi. Hành có thể bị nhiễm bệnh trong quá trình phát
triển cây con và củ, và trong lưu trữ phụ thuộc vào thời gian của năm, điều kiện
môi trường, và giống cây trồng (Özer et al., 2009)
Hành tây là cây trồng kinh tế quan trọng trên thế giới. Hành cũng được
trồng phổ biến ở Ghana. Ở khu vực phía đông và xung quanh Bawku, Bolgatanga
và khu vực Kusasi là vùng đất rất thích hợp cho trồng hành. Một bệnh của hành
tây đe dọa sản xuất vụ mùa ở huyện Kwahu Nam (đặc biệt là tại khu vực New
Oworobong) của khu vực phía Đông của Ghana đã được chứng minh là thối
Fusarium gây ra bởi nấm Fusarium oxysporum f. sp. cepae. Các loại nấm thường
xuyên được phân lập từ các tấm thân, củ và rễ của cây bị bệnh trưởng thành, cây

bị bệnh và rễ của một số cây con trông còn khỏe mạnh. Các triệu chứng chẩn
đoán của bệnh là héo rũ dẫn đến chết toàn cây và củ bị thối mềm. Bệnh này được
biết là đã có mặt tại khu vực từ những năm 1980 nhưng gần đây nó đã trở nên
nghiêm trọng và gây thiệt hại về kinh tế (Awuah et al., 2009)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

Ba mươi hai chủng loài Fusarium thu được từ hành tây xứ Wales bị héo
(Allium fistulosum ) trồng trên chín trang trại từ sáu khu vực ở Nhật Bản và được
xác định được trong đó chủ yếu là F. oxysporum (18 chủng ) , F. verticillioides
(7 chủng ) , và F. solani ( 7 chủng ). (Dissanayake et al., 2009)
Theo nghiên cứu của Yvonnes J.smith trường đại học Adelaide, Austrailia
cho thấy Fusarium oxysporum f.sp. cepae là tác nhân cơ bản gây lên hiện tượng
thối rễ trên những ruộng hành, và gây ra thối củ trong bảo quản. Các cây hành
tây còi cọc thu thập từ khu vực trung Murray đã được nghiên cứu tạ viện nghiên
cứu và phát triển Nam Úc, Adelaide vào năm 1995 và Fusarium oxysporum f.sp.
cepae được chẩn đoán là nguyên nhân gây bệnh. Fusarium oxysporum f.sp.
cepae sau đó đã được phân lập từ các cây hành ở miền Nam Úc và được cho là
một tác nhân gây bệnh chủ yếu của hành tây. (Smith, 2009)
Fusarium oxysporum f.sp. cepae là một bệnh gây thiệt hại kinh tế trên cây
hẹ. Hiện tượng thối do Fusarium gây ra 45% thiệt hại về sản lượng và 12-30%
mất củ trong lưu trữ tại Debre Zeit (Assefa et al., 2010)
Theo một cuộc điều tra khác tại Thổ Nhỹ Kỳ, người ta tiến hành phân lập
để xác định các loài Fusarium liên quan đến các bệnh về rễ và thân của hành tây,
các cuộc điều tra được thực hiện tại bảy tỉnh của Thổ Nhĩ Kỳ trong năm 2007.
Lấy được 332 mẫu và 223 phân lập được 7 loài Fusarium sp. Các loài phân lập
được xác định là F. oxysporum , F. solani , F. acuminatum , F. equiseti , F.
proliferatum, F. redolens , và F. culmorum dựa trên đặc điểm hình thái. Ngoài ra,
người ta còn sử dụng mồi đặc hiệu loài để xác định danh tính của các loài
Fusarium và F.oxysporum là loài phổ biến nhất, bao gồm 66,57 % của tổng số

loài Fusarium (Bayraktar and Dolar, 2011)
Theo Muharrem Turkkan của trường đại học Ordu, thấy rằng Fusarium
oxysporum f.sp. cepae gây ra thối trên hành là một trong những bệnh nghiêm
trọng nhất của hành tây và gây ra thiệt hại năng suất quan trọng trong tất cả các
khu vực đang phát triển của thế giới. Tác nhân gây bệnh làm cây con chậm lớn
và chết đi. Triệu chứng ban đầu của bệnh bao gồm cong, héo, vàng và cuối cùng
chết của lá bị héo ban đầu. Ngoài ra, củ hành bị bệnh thường bị đổi màu và các
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

mô bị nhiễm bệnh xuất hiện màu nâu và chảy nước mắt bên trong khi cắt củ hành
ra (Muharrem, 2013)
Hành tây là một trong những cây trồng quan trọng nhất được trồng ở Ấn
Độ. Ở Ấn Độ, hành tây là một trong những quan trọng nhất trong số các loại cây
trồng khác nhau, hành phát triển và bao gồm diện tích 772,8 ha và sản lượng là
2,970.1 tấn sản xuất trong năm 2010-2011. Ở Maharashtra nó chiếm một diện
tích khoảng 170 ha và sản xuất 2800 tấn. Cây hành tây bị tấn công bởi nhiều
bệnh, gây thiệt hại về chất lượng và số lượng. Trong số những bệnh thối củ do
Fusarium oxysporum f.sp. cepae là một trong những bệnh phổ biến nhất và quan
trọng về kinh tế của hành tây. Ở Ấn Độ, sự xuất hiện của bệnh này lần đầu tiên
được báo cáo từ Rajasthan. Bệnh được đặc trưng bởi các triệu chứng như héo và
chết nhanh chóng của lá. Rễ bị ảnh hưởng là màu nâu sẫm, phẳng, rỗng. (Ilhe et
al., 2013)
1.2.2 Nấm Fusarium proliferatum
1.2.2.1 Phân loại nấm Fusarium proliferatum
Fusarium proliferatum thuộc:
Giới : nấm thật
Ngành : Ascomycota
Lớp : Sordariomycetes
Phân lớp : Hypocreomycetidae

Bộ : Hypocreales
Họ : Nectriaceae
Chi : Fusarium
Loài : Fusarium proliferatum
Nấm F.proliferatum được thu hồi từ nhiều vùng trên toàn thế giới. Nó là
một nguyên nhân gây ra bệnh thối gốc của cây thông, thối rễ của măng tây, thối
thân và bắp ngô và nhiều loại cây khác.
Nấm F.proliferatum phát triển thích hợp ở nhiệt độ 25-30
0
C, có sợi nấm
ban đầu là màu trắng sau đó chuyển dần sang màu tím trên môi trường PDA.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

Nấm thường gây ra sự nhầm lẫn với nấm F.oxysporum về đặc điểm hình thái.
Tuy nhiên với nấm F.proliferatum có thể phân biệt qua quan sát đặc điểm bào tử
nấm. Bào tử lớn thưởng mảnh và thẳng, có từ 3-5 vách ngăn. Bào tử nhỏ thường
không có vách ngăn và mọc theo chuỗi ngắn. Hạch nấm màu xanh-đen có thể
phát triển ở một số trường hợp nhưng hiếm gặp (John and Brett, 2006)

Hình 2: Nấm Fusarium proliferatum (John and Brett, 2006)
A-B: bào tử lớn. C-D: bào tử nhỏ. E-F: bào tử nhỏ trên môi trường CLA
1.2.2.2 Những nghiên cứu về bệnh héo trên hành, tỏi do nấm Fusarium
proliferatum gây ra
Năm 2007, từ những cây hành tỏi bị héo tại Serbia, người ta đã phân lập
được nấm bệnh F. proliferatum , các nhà khoa học bằng phương pháp lây bệnh
nhân tạo còn thấy được rằng nấm này sinh ra độc tố tích tụ lại trong các cây hành
tỏi bị bệnh. Và nấm F. proliferatum được xác định là loài nấm gây bệnh quan
trọng cho hành tỏi tại châu Âu (Stankovic et al., 2007)
Fusarium proliferatum đã được báo cáo như là một tác nhân gây thối nâu

tép tỏi ở Đông Bắc Hoa Kỳ và Serbia. Gần đây, các tác nhân gây bệnh đã được
báo cáo ở Tây Ban Nha từ giống tỏi trắng "Garcua" và "Blancomor de Vallelado"
trồng ở các tỉnh Segovia. Sau đó, củ tỏi bị bệnh từ tỉnh Albacete (cv. Morado de
Pedroñeras) cũng được phân lập và tìm ra là nấm F. proliferatum. Có rất ít tài liệu
tham khảo cho rằng tác nhân gây bệnh này có thể ảnh hưởng đến tỏi trong chu kỳ

×