Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp của tổng công ty xây dựng công trình giao thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 107 trang )

Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP.
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI CHÍNH, TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1.1.1. Khái niệm, chức năng, vai trò của tài chính.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tài chính doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp.
1.1.4. Chức năng của tài chính doanh nghiệp.
1.1.5. Các mối quan hệ tài chính chủ yếu.
1.2. CÔNG TÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1.2.1. Khái niệm, nội dung tổ chức tài chính doanh nghiệp.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức tài chính doanh nghiệp.
1.2.3. Nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp.
1.3. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TRONG DOANH NGHIỆP.
1.3.1. Khái niệm phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.3.2. Mục đích của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.3.3. Ý nghĩa của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TRONG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP.
1.4.1. Phương pháp so sánh.
1.4.2. Phương pháp liên hệ cân đối.
1.4.3. Một số phương pháp khác.
1.5. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH.
1.5.1. Bảng cân đối kế toán.
1.5.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
1.5.3. Thuyết minh báo cáo tài chính.
1.5.4. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
1.6. NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp


CHƯƠNG II : PHÂN TÍCH KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA TỔNG CÔNG TY XÂY DỰNG CÔNG
TRÌNH GIAO THÔNG 4 NĂM 2013.
2.1. GIỚI THIỆU VỀ TỔNG CÔNG TY XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 4.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
2.1.2. Mô hình hoạt động và cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý.
2.1.3. Giới thiệu về phòng tài chính – kế toán.
2.1.4. Số liệu tài chính của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4.
2.2. PHÂN TÍCH VỀ QUY MÔ VỐN DOANH NGHIỆP SỬ DỤNG TRONG KÌ VÀ KHẢ
NĂNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP.
2.2.1. Mục đích, nội dung và chỉ tiêu phân tích.
2.2.2. Phương pháp phân tích.
2.2.3. Phân tích quy mô vốn sử dụng và khả năng huy động vốn của Tổng công ty.
2.3. PHÂN TÍCH KHÁI QUÁT VỀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN CỦA DOANH NGHIỆP.
2.3.1. Nội dung, chỉ tiêu phân tích và phương pháp phân tích.
2.3.2. Phân tích khả năng thanh toán hiện hành của Tổng công ty xây dựng công trình giao
thông 4
2.4. PHÂN TÍCH TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG CỦA DOANH NGHIỆP.
CHƯƠNG III : PHÂN TÍCH CHI TIẾT TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA TỔNG CÔNG TY XÂY DỰNG CÔNG
TRÌNH GIAO THÔNG 4.
3.1. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH ĐẢM BẢO VỐN CHO SẢN XUẤT KINH DOANH.
3.1.1. Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh bằng nguồn vốn chủ sở
hữu.
3.1.2. Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh bằng nguồn vốn chủ sở hữu
và vốn vay.
3.1.3. Phân tích mức độ đảm bảo nguồn vốn ngắn hạn cho tài sản ngắn hạn.
3.1.4. Phân tích mức độ đảm bảo nguồn vốn dài hạn cho tài sản dài hạn.
3.2. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG VÀ PHÂN BỔ TÀI SẢN.
3.2.1. Mục đích, ý nghĩa và phương pháp phân tích.
3.2.2. Phân tích biến động và phân bổ tài sản.
3.3. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG VÀ CƠ CẤU NGUỒN VỐN.

Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
3.3.1. Mục đích, ý nghĩa và phương pháp phân tích.
3.3.2. Phân tích biến động và cơ cấu nguồn vốn.
3.4. PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG THANH TOÁN CỦA TỔNG CÔNG TY.
3.4.1. Hệ số khả năng thanh toán tức thời (Ktt).
3.4.2. Hệ số khả năng thanh toán nhanh (Knhanh ).
3.4.3. Hệ số khả năng thanh toán bằng tiền.
3.4.4. Số vòng luân chuyển các khoản phải thu khách hàng.
3.4.5. Thời gian quay vòng của các khoản phải thu khách hàng.
3.4.6. Hệ số vòng quay hàng tồn kho.
3.5. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH QUA BÁO CÁO KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH
DOANH CỦA TỔNG CÔNG TY.
LỜI KẾT.
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Quản trị tài chính là một bộ phận quan trọng trong quản trị doanh nghiệp. Tất cả
các hoạt động kinh doanh đều ảnh hưởng tới tình hình phát triển của doanh nghiệp, tình
hình tài chính tốt hay xấu sẽ tác động đến sự phát triển hay kìm hãm quá trình kinh
doanh. Do đó, cần phải tổ chức phân tích tình hình tài chính cho tương lai. Bởi vì thông
qua việc tính toán, phân tích tình hình tài chính cho ta biết những điểm mạnh hay yếu
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như những tiềm năng cần
phát huy và những nhược điểm cần khắc phục, từ đó các nhà quản lý có thể tìm ra nguyên
nhân, giải pháp cải thiện tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị
mình trong tương lai.
Với bất kì một doanh nghiệp nào khi hoạt động đều muốn có hiệu quả cao và thu
về lợi nhuận tốt nhất. Để làm được điều đó đòi hỏi cần có rất nhiều yếu tố cấu thành nên
như vốn, nhân lực, công nghệ…Một trong những việc cần làm là phân tích báo cáo tài
chính của doanh nghiệp. Và sau đây em xin trình bày bài luận văn về đề tài “Phân tích
tình hình tài chính của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4”.
Nội dung đề tài gồm 3 chương :

CHƯƠNG I : Tổng quan về tài chính và phân tích hoạt động tài chính doanh
nghiệp.
CHƯƠNG II : Phân tích khái quát tình hình tài chính công ty Cổ phần tư vấn đầu
tư và xây dựng giao thông vận tải năm 2012.
CHƯƠNG III : Phân tích chi tiết tình hình tài chính của công ty Cổ phần tư vấn
đầu tư và xây dựng giao thông vận tải năm 2012.
Vì những hạn chế nhất định về trình độ hiểu biết và thời gian, bài luận văn của em
không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong thầy cô và các bạn góp ý để bài luận văn
của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
4
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Một số vấn đề chung về tài chính, tài chính doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm, chức năng, vai trò của tài chính.
1.1.1.1. Khái niệm tài chính:
Tài chính là phạm trù kinh tế phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội dưới
hình thức giá trị phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối các quỹ tiền tệ của các chủ
thể trong nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất định.
Tài chính còn là quan hệ phân phối sản phẩm xã hội và sự vận động các quỹ tiền tệ.
1.1.1.2. Bản chất, vai trò tài chính:
Tài chính có quan hệ đến sự vận động của tiền tệ, nhưng tài chính không phải là tiền
tệ và tài chính cũng không phải là bản thân các quỹ tiền tệ.
Tài chính được đặc trưng bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ chủ yếu với
chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất giữ trong quá trình tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho những sức mua nhất định ở các chủ thể kinh tế xã hội.
Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn lực tài
chính thông qua việc tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng nhu cầu khác
nhau trong đời sống kinh tế xã hội.
Vai trò của tài chính được phát huy nhiều hay ít phụ thuộc vào trình độ khai thác,

quản lý và sử dụng các chức năng của tài chính; phụ thuộc vào thể chế kinh tế của nền
kinh tế.
Tài chính có những vai trò chủ yếu sau đây:
 Điều tiết kinh tế.
Nhà nước thực hiện vai trò này thông qua sự kết hợp hai chức năng: phân phối và
giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, Nhà nước nắm được thực tế hoạt
động của nền kinh tế, từ đó phát hiện ra những vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các
chính sách phân phối, Nhà nước điều tiết nền kinh tế theo kế hoạch đã định. Nhà nước có
thể dùng biện pháp đầu tư thêm vốn, bổ sung vốn để đẩy mạnh những ngành phát triển
kém và các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước cũng có thể dùng biện
pháp giảm vốn đầu tư và hỗ trợ để hạn chế phát triển những ngành và những khâu chưa
cần thiết Đồng thời, Nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng cao hoặc hạ thấp thuế
5
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các ngành. Với tác dụng điều tiết kinh
tế, tài chính là công cụ trọng yếu thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển cân đối theo
định hướng các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
 Xác lập và tăng cường các quan hệ kinh tế - xã hội.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tự chủ về vốn kinh doanh
thông qua vốn tự có, các loại vốn tín dụng và một phần do chiếm dụng vốn lẫn nhau, dẫn
đến tình trạng nợ nần dây dưa làm rối loạn tài chính. Để làm lành mạnh hoá quan hệ tài
chính, một mặt, Nhà nước cần có những biện pháp điều chỉnh các quan hệ tài chính kể cả
biện pháp cấp bách buộc các doanh nghiệp thanh toán nợ nần trong thời gian ngắn. Mặt
khác, Nhà nước còn phải chủ động tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời các thị trường vốn
trung hạn, dài hạn, nhất là thị trường chứng khoán và hướng dẫn chúng phát triển đúng
hướng.
 Tích tụ và tập trung vốn, cung ứng vốn cho các nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong nền kinh tế luôn diễn ra quá trình di chuyển nguồn tài chính hai chiều từ lĩnh
vực sản xuất sang lĩnh vực phi sản xuất, từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại. Nếu
Nhà nước có chính sách tốt điều chỉnh các quan hệ tài chính nảy sinh trong các quá trình

di chuyển nói trên thì có thể thúc đẩy quá trình tập trung vốn cho đầu tư phát triển, giảm
bớt các chi phí không cần thiết và thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Đây là
nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, nhất là trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
 Tăng cường tính hiệu quả của sản xuất, kinh doanh.
Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ thu - chi tài chính và phân phối thu nhập theo
nguyên tắc khuyến khích vật chất, xử lý chính xác mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa
nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, tài chính có thể nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất, kinh doanh; thông qua giám đốc tài chính mà duy trì kỷ luật tài chính, góp phần
đẩy lùi lãng phí, tham ô
 Hình thành quan hệ tích luỹ, tiêu dùng hợp lý.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, việc phân phối thu nhập được thực
hiện theo nhiều nguyên tắc khác nhau, trong đó có nguyên tắc phân phối theo vốn hay
theo tài sản, có khả năng dẫn đến sự phân phối không công bằng, thiếu hợp lý. Chính vì
vậy, Nhà nước cần thường xuyên thực hiện việc phân phối lại và điều chỉnh sự phân phối
6
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
từng bước cho phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước có thể điều tiết bằng
cách đánh thuế thu nhập người có thu nhập cao, hỗ trợ người có thu nhập thấp; hoặc cũng
có thể thành lập các quỹ xoá đói, giảm nghèo, quỹ hỗ trợ tạo việc làm cho người nghèo,
nâng lương cho người lao động ở các ngành có thu nhập thấp.
 Củng cố liên minh công - nông, tăng cường vai trò của Nhà nước và an ninh quốc phòng.
Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, một nền tài chính lành mạnh theo hướng
tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội, sẽ tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc
cho việc củng cố liên minh công - nông - trí thức, nền tảng cho việc tăng cường vai trò
của Nhà nước và an ninh quốc phòng.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tài chính doanh nghiệp.
1.1.2.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế biểu hiên dưới hình thức giá trị, phát
sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ quá

trình sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp và góp phần tích lũy vốn cho Nhà
nước.
Tài chính doanh nghiệp là toàn bộ các quan hệ tài chính biểu hiện qua quá trình huy
động và sử dụng vốn để tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp. Hai yếu tố đó gắn liền với
nhau qua hoạt động đầu tư vì đầu tư tạo điều kiện cho sự vận động của các quỹ tiền tệ
trong toàn xã hội. Tài chính được xem như là một hệ thống trong đó thị trường tài chính là
trung tâm của quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Hoạt động của ngân sách
nhà nước, tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm và của mọi tổ chức tín dụng đều xoay quanh
thị trường tài chính.
 “Huy động” chỉ quá trình tạo ra các quỹ tiền tệ từ các nguồn lực bên trong và bên ngoài
để doanh nghiệp hoạt động trong lâu dài với chí phí thấp nhất.
 “Sử dụng vốn” hay còn gọi là đầu tư, liên quan đến việc phân bổ vốn ở đâu, lúc nào sao
cho vốn được sử dụng có hiệu quả nhất.
1.1.2.2. Đặc điểm tài chính doanh nghiệp:
 Gắn liền với quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có các quan hệ tài
chính doanh nghiệp đa dạng phát sinh như quan hệ nộp, cấp giữa doanh nghiệp với
nhà nước, quan hệ thanh toán với chủ thể khác trong xã hội, với người lao động
trong doanh nghiệp.
7
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
 Sự vận động của quỹ tiền tệ, vốn kinh doanh có những nét riêng biệt đó là: sự vận
động của vốn kinh doanh luôn gắn liền với các yếu tố vật tư và lao dông, ngoài phần
tạo lập ban đầu chúng còn được bổ sung từ kết quả kinh doanh, sự vận động của vốn
kinh doanh vì mục tiêu doanh lợi.
1.1.3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp.
1.1.3.1. Là công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu tư
kinh doanh của doanh nghiệp.
Cạnh tranh và khát vọng lợi nhuận đã thực sự trở thành động lực thôi thúc các doanh
nghiệp tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, đầu tư vào những ngành nghề mới, đầu tư
để chiếm lĩnh thị trường….Điều đó làm gia tăng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.

Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước hiện nay, sự hoạt động của
quy luật cung - cầu rất mạnh mẽ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp luôn nảy sinh nhu cầu vốn để đáp ứng các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Khi các doanh nghiệp có nhu cầu vốn thì tất yếu thị trường vốn sẽ được hình thành với
những hình thức đa dạng của nó. Đây là môi trường hết sức thuận lợi để các doanh nghiệp
chủ động khai thác, thu hút các nguồn vốn trong xã hội (kể cả vốn nước ngoài) nhằm phục
vụ các mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để thực hiện mọi quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trước hết phải có một yếu tố
tiền đề đó là vốn kinh doanh. Vai trò của tài chính trước hết được thể hiện ở việc xác định
đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kì. Tiếp đó
phải lựa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các
nhu cầu vốn về hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện một cách nhịp nhàng liên
tục với chi phí huy động vốn thấp nhất.
1.1.3.2. Là công cụ quan trọng trong việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
Cũng như việc khai thác, huy động vốn, việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả
được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp
có vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư, chọn ra dự án đầu tư
tối ưu, huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh, phân bổ hợp lý các nguồn
vốn, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả năng sinh lời
của vốn kinh doanh. Trong điều kiện hiện nay, yêu cầu của các quy luật kinh tế (quy luật
cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị) đã đặt ra trước mọi doanh nghiệp những
8
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
chuẩn mực hết sức khắt khe: sản xuất kinh doanh không thể với bất cứ giá nào; phải bán
được những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà thị trường cần và chấp nhận được, chứ không
phải bán những gì mà mình có. Trước sức ép nhiều mặt của thị trường đã buộc các doanh
nghiệp phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả.
Nói chung, sự gia tăng hiệu quả kinh tế sẽ bao hàm cả yếu tố tăng chỉ tiêu lợi nhuận.
Song ngược lại, có những trường hợp tăng chỉ tiêu lợi nhuận nhưng lại không có hiệu quả,
ví dụ: để đạt được mức lợi nhuận tăng gấp đôi mà phải sử dụng vốn tăng gấp 10 lần thì đó

không phải hiệu quả kinh tế. Vì thế, hiệu quả kinh tế chỉ có thể có được khi vốn được sử
dụng tiết kiệm mà vẫn đảm bảo mức gia tăng lợi nhuận.
1.1.3.3. Kích thích, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay các quan hệ tài chính doanh nghiệp
được mở ra trên một phạm vi rộng lớn. Đó là những quan hệ với hệ thống ngân hàng
thương mại, với các tổ chức tài chính trung gian, các thành viên góp vốn đầu tư kinh
doanh, các cổ đông, các khách hàng mua bán sản phẩm, dịch vụ và các quan hệ tài chính
trong nội bộ doanh nghiệp… Các quan hệ này có thể diễn ra khi cả hai bên cùng có lợi và
trong khuôn khổ của pháp luật. Dựa vào khả năng này, doanh nghiệp có thể sử dụng các
công cụ tài chính như: đầu tư, xác định lãi suất, cổ tức, giá bán hoặc giá mua sản phẩm,
dịch vụ, tiền lương, tiền thưởng… để kích thích tăng năng suất lao động, kích thích tiêu
dùng, kích thích thu hút vốn… nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông qua việc tạo ra sức mua hợp lý
để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định giá bán hợp lý khi phát
hành cổ phiếu, hàng hoá bán, dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối để phân phối thu
nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ tiền thưởng, quỹ tiền lương, thực hiện các hợp đồng
kinh tế
1.1.3.4. Là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tình hình tài chính phản ánh trung thực mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
thông qua các chỉ tiêu tài chính mà các nhà quản lý doanh nghiệp sử dụng như: hệ số nợ,
hệ số khả năng thanh toán, hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu vốn…Qua đó, người quản lý có
thể dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình kinh doanh của doanh nghiệp để có thể đánh giá
khái quát và kiểm soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những
9
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
vướng mắc, tồn tại để từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh các hoạt động kinh doanh
nhằm đạt mục tiêu đã định.
 Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động phụ thuộc vào
sự nhận thức và vận dụng các chức năng của tài chính doanh nghiệp và các nguyên
tắc cần quán triệt trong mọi hoạt động tài chính doanh nghiệp, môi trường kinh

doanh, cơ chế tổ chức tài chính doanh nghiệp.
1.1.4. Chức năng của tài chính doanh nghiệp.
1.1.4.1. Chức năng phân phối.
Chức năng phân phối là chức năng vốn có khách quan của tài chính doanh nghiệp, nó
thể hiện công dụng và khả năng của tài chính trong việc phân phối dưới hình thức giá trị
của cải xã hội trên các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Chức năng phân phối được coi là chức năng vốn có khách quan của tài chính doanh
nghiệp vì: Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có
một lượng vốn ban đầu. Song như thế vẫn chưa đủ, mà số vốn đó phải được phân chia
thành những phần vốn nhỏ hơn (vốn cố định, vốn lưu động, …) tương ứng với các yếu tố
cần thiết của quá trình sản xuất kinh doanh. Khi kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh
và để tiếp tục chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo thì thu nhập của doanh nghiệp lại
được phân phối, một phần để bù đắp những chi phí đã bỏ ra, một phần được tích lũy
Và như vậy, phân phối đã trở thành một đòi hỏi tất yếu khách quan của mọi quá trình sản
xuất kinh doanh.
Quan niệm về phân phối và đối tượng phân phối:
+ Phân phối tài chính có thể diễn ra giữa 2 chủ thể khác nhau, chuyển dịch một bộ
phận giá trị từ hình thức sở hữu này sang hình thức sở hữu khác; hoặc có thể
diễn ra trong cùng một hình thức sở hữu; hoặc diễn ra trong từng khâu của quá
trình sản xuất kinh doanh.
+ Phạm vi và đối tượng phân phối là phân phối thu nhập và tích lũy tiền tệ.
+ Phân phối tài chính doanh nghiệp biểu hiện ở việc phân phối thu nhập của
doanh nghiệp, tức là sau khi kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp thu được một khoản tiền về tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, hoặc các khoản
10
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
thu từ hoạt động tài chính. Để tiếp tục chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo, thu
nhập của doanh nghiệp tất yếu phải được phân phối.
1.1.4.2. Chức năng giám đốc tài chính.
Chức năng giám đốc tài chính cũng là một chức năng vốn có khách quan của phạm

trù tài chính doanh nghiệp, nó thể hiện khả năng của tài chính trong việc giám sát tính
mục đích, tính hiệu quả của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp.
Tính khách quan của chức năng giám đốc tài chính được xuất phát từ một nguyên lý
đơn giản: Mục đích của doanh nghiệp là khi bỏ vốn và sử dụng vốn trong sản xuất kinh
doanh đều có một mong muốn là đưa lại hiệu quả cao, vốn phải được sinh lợi, do đó cần
thiết phải giám sát tính tiết kiệm, tính hiệu quả của đồng vốn được đầu tư.
Đặc trưng cơ bản của giám đốc tài chính là giám đốc bằng đồng tiền thông qua các
chỉ tiêu tài chính. Bởi các chỉ tiêu tài chính phản ánh trung thực và toàn diện quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó đánh giá được thực trạng về năng lực tài chính
của doanh nghiệp tại các kỳ nhất định, giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp tăng cường quản
lý, điều chỉnh hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Biểu hiện của chức năng giám đốc tài chính là giám đốc quá trình hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Quá trình phân phối sẽ tạo ra hàng loạt các quỹ
tiền tệ của doanh nghiệp, nhưng các quỹ này phải được hình thành từ các nguồn tài chính
hợp lý và sử dụng phải có hiệu quả, do vậy đây chính là công việc của chức năng giám
sát. Ví dụ như: Vốn doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác và trong quá
trình sản xuất kinh doanh, nó thường xuyên biến động và được bổ sung như vốn vay,
phát hành trái phiếu, cổ phiếu hoặc có thể điều chỉnh từ nguồn vốn cố định sang nguồn
vốn lưu động trong nội bộ Khả năng giám đốc tài chính cho phép người quản lý lựa
chọn những quyết định tài chính đúng đắn trong việc hình thành và sử dụng các nguồn tài
trợ và các quỹ của doanh nghiệp, cho phép lựa chọn những dự án đầu tư có hiệu quả và
hạn chế được rủi ro trong kinh doanh. Chức năng giám đốc tài chính trong doanh nghiệp
còn giúp cho các nhà quản lý ở các cấp có biện pháp làm lành mạnh hoá quan hệ tài
chính trong quá trình sản xuất kinh doanh.
11
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
 Tóm lại: Tài chính doanh nghiệp có hai chức năng là phân phối và giám đốc, hai chức
năng này có quan hệ hữu cơ với nhau, ở đâu có phân phối tài chính thì ở đó có giám đốc
tài chính. Nhờ có phân phối mà tài chính doanh nghiệp có khả năng giám đốc và ngược
lại nhờ có giám đốc thì phân phối mới đúng hướng,có hiệu quả và lành mạnh.

1.1.5. Các mối quan hệ tài chính chủ yếu.
1.1.5.1. Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước.
Quan hệ này thể hiện thông qua việc phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm quốc
dân (GNP) và thu nhập quốc nội (GDP). Quan hệ kinh tế này ít chịu sự chi phối của quan
hệ sở hữu mà chịu sự chi phối của các quan hệ có tính luật pháp thông qua các sắc luật thuế
mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải thực hiện.
Trong các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, vốn sản xuất kinh doanh ban đầu do
ngân sách Nhà nước cấp để các doanh nghiệp hoạt động và ngân sách Nhà nước hỗ trợ trực
tiếp các nguồn tài chính để doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà
nước. Doanh nghiệp có quyền lợi và trách nhiệm quản lý sử dụng, bảo toàn và phát triển
vốn sản xuất kinh doanh, đồng thời nộp đầy đủ các khoản phải thu theo luật định cho ngân
sách Nhà nước. Trong các doanh nghiệp này không có sự chuyển dịch quan hệ về sở hữu
vốn, tài sản thuộc về Nhà nước, còn quyền sử dụng lại được trao cho doanh nghiệp. Ngược
lại, trong các loại hình doanh nghiệp khác như: công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn… mặc dù ngân sách Nhà nước không cấp phát vốn trực tiếp
ban đầu nhưng có thể Nhà nước tham gia góp vốn cổ phần hoặc cho vay trong các công ty
cổ phần, hoàn thuế, miễn thuế, trợ giá… Ngân sách Nhà nước được hưởng cổ tức theo tỷ lệ
tham gia vốn tương ứng (trong công ty cổ phần) và ngược lại sự kinh doanh thua kém của
công ty dẫn đến hao hụt vốn trong kinh doanh thì vốn ngân sách Nhà nước cũng phải chia
sẻ tổn thất hao hụt.
Như vậy, quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước được biểu hiện
khác nhau tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp:
+ Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, các quan hệ này phản ánh hai chiều:
• Một mặt ngân sách Nhà nước là người giao vốn sản xuất kinh doanh ban
đầu cho các doanh nghiệp khi doanh nghiệp mới bước vào hoạt động. Với tư
cách là người nhận được quyền sử dụng vốn, các doanh nghiệp có trách
nhiệm sử dụng, bảo toàn, phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng.
12
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
• Mặt khác doanh nghiệp có trách nhiệm trích nộp đầy đủ, kịp thời các khoản

phải nộp Ngân sách.
+ Đối với các loại hình doanh nghiệp khác, quan hệ này là quan hệ một chiều, các doanh
nghiệp có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các khoản nộp ngân sách Nhà nước.
1.1.5.2. Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh doanh.
Quan hệ này phát sinh khi doanh nghiệp tiến hành các nghiệp vụ huy động vốn, cho
vay vốn với các doanh nghiệp khác… Khi đã thực hiện các quan hệ này để phục vụ các
hoạt động sản xuất kinh doanh thì quan hệ mua bán cũng nảy sinh như mua bán nguyên vật
liệu, công cụ dụng cụ, tài sản cố định, hàng hóa… Tất cả các mối quan hệ kinh tế này phụ
thuộc vào các điều kiện của thị trường hàng hóa, thị trường vốn, thậm chí là thị trường lao
động. Nói đúng hơn, các quan hệ kinh tế này luôn bị chi phối bởi các quy luật kinh tế: quy
luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Thế nhưng bao trùm toàn bộ lên hệ
thống thị trường chứa đựng các quan hệ kinh tế này là sự quản lý của pháp luật Nhà nước.
Xét cả về lý luận và thực tiễn, các nhà khoa học kinh tế đều cho rằng :trong cơ chế kinh tế,
các quan hệ kinh tế này của doanh nghiệp là hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Nếu coi nhẹ, không nắm bắt được và thiếu hiểu biết về nó thì sức
cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng không thể đạt tới đỉnh cao.
Doanh nghiệp thực hiện quá trình trao đổi mua bán các sản phẩm nhằm thoả mãn mọi
nhu cầu về vốn của mình. Trong quá trình đó, doanh nghiệp luôn phải tiếp xúc với thị
trường tài chính mà chủ yếu là thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
+ Thị trường tiền tệ : Thông qua các hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp có thể tạo ra được
nguồn vốn ngắn hạn và trung hạn để tài trợ cho mọi hoạt động của mình. Đồng thời, mỗi
doanh nghiệp cần phải mở tài khoản tại một ngân hàng nhất định và thực hiện các giao
dịch mua bán chuyển khoản.
+ Thị trường vốn : Doanh nghiệp có thể tạo được nguồn vốn dài hạn bằng cách phát hành
chứng khoán của mình như : cổ phiếu,… mặt khác, doanh nghiệp có thể tiến hành kinh
doanh trên thị trường chứng khoán để kiếm lời.
Với quan hệ này, doanh nghiệp vừa đóng vai trò là “người bán”, “người mua”, vừa
đóng vai trò sử dụng hoặc tạo lập các quỹ tiền tệ hay vốn sản xuất kinh doanh.
13
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp

+ Với tư cách là người mua: các doanh nghiệp chủ động sử dụng vốn, quỹ của mình để
mua các yếu tố sản xuất như: máy móc thiết bị, nguyên vật liệu,… hoặc đầu tư vào thị
trường vốn: mua cổ phiếu, trái phiếu… của doanh nghiệp khác.
+ Với tư cách là người bán: các doanh nghiệp bán sản phẩm, dịch vụ do mình sản xuất ra
để tạo vốn và quỹ của mình.
1.1.5.3. Quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp.
Biểu hiện của quan hệ này là sự luân chuyển vốn trong doanh nghiệp. Đây là các quan
hệ tài chính giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh với nhau, giữa các đơn vị thành viên
với nhau, giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn… Các mối quan hệ này được biểu hiện
thông qua chính sách tài chính của doanh nghiệp như: Chính sách phân phối thu nhập cho
người lao động, chia lãi cho các cổ đông, các chính sách về cơ cấu nguồn vốn, chính sách
về cơ cấu nguồn vốn đầu tư và cơ cấu đầu tư.
Quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp bao gồm:
+ Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các phòng ban, xí nghiệp, đội sản xuất trong việc
nhận tạm ứng, thanh toán tài sản, vốn…
+ Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với cán bộ công nhân viên trong quá trình phân phối
thu nhập cho người lao động dưới hình thức tiền lương, tiền thưởng, tiền phạt và lãi cổ
phần.
 Những quan hệ kinh tế trên được biểu hiện trong sự vận động của tiền tệ thông qua
việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Vì vậy thường được xem là các quan hệ
tiền tệ. Những quan hệ này một mặt phản ánh rõ doanh nghiệp là một đơn vị kinh
tế độc lập, chiếm địa vị chủ thể trong quan hệ kinh tế, đồng thời phản ánh rõ nét
mối liên hệ giữa tài chính doanh nghiệp với các khâu trong hệ thống tài chính cả
nước.
1.2. Công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp.
1.2.1. Khái niệm, nội dung tổ chức tài chính doanh nghiệp.
1.2.1.1. Khái niệm tổ chức tài chính doanh nghiệp.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ tài chính, phát huy vai trò tích cực của chúng trong
sản xuất kinh doanh, cần thiết phải tổ chức tài chính doanh nghiệp.
14

Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
Tổ chức tài chính doanh nghiệp là việc hoạch định những chiến lược tài chính cho
việc tạo lập, sử dụng và phân phối quỹ tiền tệ và hệ thống các biện pháp để thực hiện
chiến lược đó nhằm đạt được các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Nội dung tổ chức tài chính doanh nghiệp.
 Tham gia đánh giá, lựa chọn các dự án đầu tư và kế hoạch kinh doanh.
Việc xây dựng, đánh giá và lựa chọn các dự án đầu tư và kinh doanh do nhiều bộ
phận trong doanh nghiệp cùng phối hợp thực hiện. Trên góc độ tài chính, điều chủ yếu
cần phải xem xét là hiệu quả tài chính của dự án – tức là xem xét cân nhắc giữa chi phí
bỏ ra, những rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải và khả năng thu lợi nhuận khi thực
hiện dự án, dùng thước đo tài chính để lựa chọn được những dự án có mức sinh lợi cao.
Vấn đề quan trọng của người quản lý tài chính doanh nghiệp ở đây là xem xét việc sử
dụng vốn như thế nào. Trên cơ sở tham gia đánh giá, lựa chọn dự án đầu tư, cần chú ý tới
việc tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp để đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế
trước mắt và lâu dài.
 Xác định nhu cầu vốn, tổ chức huy động các nguồn vốn để đáp ứng kịp thời cho các
hoạt động của doanh nghiệp.
Mọi hoạt động của doanh nghiệp đòi hỏi phải có vốn. Bước vào kinh doanh, tài chính
doanh nghiệp phải xác định nhu cầu vốn cần thiết cho các hoạt động của doanh nghiệp
trong kỳ. Vốn hoạt động gồm: vốn dài hạn và vốn ngắn hạn. Tiếp theo, phải tổ chức huy
động các nguồn vốn để đáp ứng kịp thời, đầy đủ cho các hoạt động của doanh nghiệp. Việc
tổ chức huy động các nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của một doanh nghiệp.
Để đi đến quyết định lựa chọn hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp, cần xem
xét, cân nhắc trên nhiều mặt như: kết cấu nguồn vốn, những điểm lợi và bất lợi của các
hình thức huy động…
 Tổ chức sử dụng có hiệu quả số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi,
đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp phải tìm ra các biện pháp góp phần huy động tối đa số vốn
hiện có vào hoạt động kinh doanh, giải phóng kịp thời các khoản vốn còn bị ứ đọng. Theo
dõi chặt chẽ và thực hiện tốt việc thu hồi tiền bán sản phẩm, các khoản thu khác, đồng thời

quản lý chặt chẽ cá khoản chi tiêu phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
15
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
Thường xuyên tìm các biện pháp lập lại sự cân bằng giữa thu và chi bằng tiền để đảm bảo
cho doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán. Mặt khác, cũng cần xác định rõ các loại chi
phí kinh doanh của doanh nghiệp, các khoản thuế mà doanh nghiệp phải nộp, xác định các
khoản chi phí nào là chi phí hoạt động kinh doanh, những khoản chi phí nào thuộc về các
hoạt động khác. Những chi phí vượt quá mức quy định hay những chi phí đã thuộc về các
nguồn kinh phí khác tài trợ, không được tính là chi phí hoạt động kinh doanh.
 Thực hiện tốt việc phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp.
Thực hiện việc phân phối hợp lý lợi nhuận sau thuế cũng như trích lập và sử dụng tốt
các quỹ của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển doanh nghiệp và cải
thiện đời sống của người lao động trong doanh nghiệp. Lợi nhuận là mục tiêu của hoạt
động kinh doanh, là chỉ tiêu mà doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm vì nó liên quan đến
sự tồn tại, phát triển và mở rộng của doanh nghiệp. Không thể nói doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh tốt, hiệu quả cao trong khi lợi nhuận hoạt động lại giảm. Doanh nghiệp
cần có phương án tối ưu trong việc phân chia lợi nhuận, trong việc định tỷ lệ và hoàn
thành các quỹ của doanh nghiệp như: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ
khen thưởng phúc lợi…
 Đảm bảo kiểm soát thường xuyên đối với tình hình hoạt động của doanh nghiệp và thực
hiện tốt việc phân tích tài chính.
Thông qua tình hình thu chi tiền tệ hàng ngày, tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài
chính cho phép tài chính doanh nghiệp thường xuyên kiểm tra, kiểm soát tình hình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, cần định kỳ tiến hành phân tích tình hình
tài chính doanh nghiệp nhằm đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu về tình hình tài chính
và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như khả năng thanh toán, tình hình luân
chuyển vốn, hiệu quả hoạt động kinh doanh… Từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn
về sản xuất và tài chính, xây dựng được kế hoạch tài chính khoa học, đảm bảo mọi tài
sản, tiền vốn và mọi nguồn tài chính của doanh nghiệp được sử dụng một cách có hiệu
quả nhất.

 Thực hiện tốt việc kế hoạch hóa tài chính.
Các hoạt động tài chính của doanh nghiệp cần được dự kiến trước thông qua việc lập
kế hoạch tài chính. Thực hiện tốt việc lập kế hoạch tài chính là công việc cần thiết giúp
16
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
doanh nghiệp có thể chủ động đưa ra các giải pháp kịp thời khi có sự biến động của thị
trường. Quá trình thực hiện kế hoạch tài chính là quá trình đưa ra các quyết định tài chính
thích hợp nhằm đạt tới các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức tài chính doanh nghiệp.
1.2.2.1. Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp.
Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp, ở nước ta hiện nay có các loại hình
doanh nghiệp sau đây:
- Doanh nghiệp Nhà nước.
- Công ty cổ phần.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Công ty hợp danh.
- Doanh nghiệp tư nhân.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những đặc điểm riêng về mặc hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp giữa các
doanh nghiệp trên có ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức tài chính của doanh nghiệp như:
- Tổ chức và huy động vốn.
- Phân phối lợi nhuận.
Chẳng hạn, doanh nghiệp Nhà nước được Ngân sách Nhà nước đầu tư vốn toàn bộ
hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu. Ngoài vốn Nhà nước đầu tư, doanh nghiệp được
quyền huy động vốn dưới các hình thức phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận góp liên
doanh… nhưng không thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Việc phân phối lợi
nhuận sau thuế được thực hiện theo quy định của chính phủ. Đối với doanh nghiệp tư
nhân thì vốn là do chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ ra, cũng có thể huy động thêm từ bên
ngoài dưới hình thức đi vay. Loại doanh nghiệp này không được phép phát hành một loại
chứng khoán nào trên thị trường để tăng vốn. Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu

và sử dụng của chủ doanh nghiệp. Còn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn thì vốn điều
lệ của công ty là do các thành viên đóng góp. Trong quá trình hoạt động vốn có thể tăng
nên nhờ kết nạp thêm thành viên mới, trích từ quỹ dự trữ hoặc đi vay bên ngoài nhưng
17
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
không được phép phát hành chứng khoán. Việc phân chia lợi nhuận sau thuế do các thành
viên quyết định, mức lợi nhuận các thành viên nhận được phụ thuộc vào vốn đóng góp…
1.2.2.2. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành kinh doanh.
Tổ chức tài chính doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng bởi đặc điểm kinh tế - kỹ thuật
của ngành kinh doanh, thể hiện ở:
+ Ảnh hưởng của tính chất ngành kinh doanh: Thể hiện trong thành phần và cơ cấu, quy
mô vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh có đặc điểm về mặt kinh tế
và kỹ thuật riêng. Những đặc điểm đó đã ảnh hưởng đến cơ cấu vốn kinh doanh của
doanh nghiệp (ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến vốn cố định chiếm tỷ
trọng khác nhau trong tổng số vốn kinh doanh); ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển vốn
(tốc độ luân chuyển vốn của doanh nghiệp sản xuất chậm hơn tốc độ luân chuyển vốn của
các doanh nghiệp thương mại dịch vụ)…
+ Ảnh hưởng của tính thời vụ và chu kỳ sản xuất kinh doanh: thời vụ và chu kỳ sản xuất
kinh doanh (chu kỳ ngắn hoặc dài) ảnh hưởng đến nhu cầu vốn và doanh thu tiêu thụ sản
phẩm.
1.2.2.3. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả các điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt
động của doanh nghiệp. Do đó, việc tổ chức tài chính doanh nghiệp phải tính đến tác
động của môi trường kinh doanh.
Môi trường kinh doanh bao gồm: sự ổn định về kinh tế, thị trường, lãi suất, cơ sở hạ
tầng của nền kinh tế, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, chính sách kinh tế,
tài chính của nhà nước… Sự ổn định của nền kinh tế sẽ tạo môi trường thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế biến động có thể gây nên những rủi ro
cho kinh doanh, những rủi ro đó ảnh hưởng tới các khoản chi phí đầu tư, ảnh hưởng nhu
cầu về vốn, ảnh hưởng tới thu nhập của doanh nghiệp, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế phát

triển cũng ảnh hưởng đến tiết kiệm chi phí trong kinh doanh…
Thị trường tài chính, thị trường hàng hoá phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp huy động vốn từ bên ngoài cũng như mua vật tư, thiết bị bán hàng hoá của doanh
nghiệp được dễ dàng.
18
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
Giá cả, lãi suất đều ảnh hưởng tới sự tăng giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn của
các hình thức tài trợ khác nhau. Mức lãi suất cũng là một yếu tố đo lường khả năng huy
động vốn vay.
Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ đòi hỏi doanh nghiệp không ngừng cải
tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ đảm bảo cho sản phẩm của doanh nghiệp tồn tại và phát
triển, đứng vững trong cạnh tranh. Từ đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn đầu tư lớn và
chọn hướng đầu tư thích hợp…Chính sách kinh tế và tài chính của nhà nước đối với
doanh nghiệp (như chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách tín dụng
và lãi suất, chính sách ngoại hối, chế độ khấu hao…) phù hợp với môi trường tài chính vĩ
mô sẽ ổn định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển, khuyến khích các
doanh nghiệp tích tụ vốn, sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
1.2.3. Nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp.
1.2.3.1. Nguyên tắc tôn trọng luật pháp.
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu chung của các doanh nghiệp là đều hướng
tới lợi nhuận. Vì lợi nhuận tối đa mà các doanh nghiệp có thể kinh doanh với bất cứ giá
nào có thể phương hại tới lợi ích quốc gia và lợi ích của doanh nghiệp khác. Do đó , song
song với bàn tay vô hình của nền kinh tế thị trường cần phải có sự điều chỉnh của Nhà
nước. Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô như : luật pháp, chính sách tài chính
tiền tệ, giá cả để điều tiết nền kinh tế thị trường nhằm tạo điều kiện kích thích đầu tư và
tạo môi trường kinh doanh lành mạnh công bằng. Một nền kinh tế thi trường hoàn hảo
cần thiết phải tồn tại cả hai cơ chế: Thị trường và sự quản lý của nhà nước.
Những phân tích trên đây cho thấy, trong nền kinh tế thị trường hiện nay không thể
vắng mặt sự quản lý của nhà nước. Để quản lý thị trường nói chung, các doanh nghiệp
nói riêng, nhà nước phải sử dụng các công cụ vĩ mô như luật pháp, các chính sách tài

chính, tiền tệ, giá cả Các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, một mặt tạo điều kiện
mở rộng đầu tư, tạo môi trường kinh doanh, mặt khác tạo ra khuôn khổ luật pháp kinh
doanh rất chặt chẽ. Vì vậy, nguyên tắc hàng đầu của tổ chức tài chính doanh nghiệp là
phải tôn trọng pháp luật. Người cán bộ tài chính cần phải hiểu luật để làm đúng pháp luật,
đồng thời hiểu luật để hướng kinh doanh đầu tư vào những nơi được nhà nước khuyến
19
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
khích (như giảm thuế, có tài trợ tín dụng ). Đó chính là một hướng đi khôn ngoan của
các nhà doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
1.2.3.2. Nguyên tắc hạch toán kinh doanh.
Tức là lấy thu nhập bản thân doanh nghiệp để bù đắp chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ
ra đảm bảo có lãi, để thực hiện điều đó thì việc tổ chức tài chính doanh nghiệp phải được
tự chủ về mặt tài chính, tự chủ trong kinh doanh và phải hướng vào một loạt các phương
pháp như : chủ động khai thác các nguồn vốn, bảo toàn và phát huy hiệu quả nguồn vốn,
chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và kí kết hợp đồng, tuyển thuê lao động theo
yêu cầu kinh doanh, chủ động áp dụng phương thức quản lý khoa học hiện đại để nâng
cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh… từ chối và tố cáo mọi yêu cầu cung cấp các nguồn
lực không được luật pháp quy định. Hạch toán kinh doanh là nguyên tắc quan trọng nhất,
quyết định tới sự sống còn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Hạch toán kinh doanh chỉ có thể được phát huy tác dụng trong môi trường đích thực
của nó là nền sản xuất hàng hoá thực thụ, mà đỉnh cao của nó là cơ chế thị trường. Sở dĩ
như vậy là do yêu cầu tối cao của nguyên tắc này (lấy thu bù chi, có doanh lợi) đã hoàn
toàn trùng hợp với mục tiêu của các doanh nghiệp là kinh doanh để đạt được lợi nhuận tối
đa. Do có sự thống nhất đó, nên trong nền kinh tế thị trường, hạch toán kinh doanh không
chỉ có điều kiện thực hiện, mà còn là một nhu cầu bắt buộc các doanh nghiệp phải thực
hiện, nếu như không muốn doanh nghiệp của mình bị phá sản.
Để thực hiện được nhu cầu lấy thu bù chi, có doanh lợi của nguyên tắc hạch toán
kinh doanh, việc tổ chức công tác tài chính và doanh nghiệp phải hướng vào hàng loạt
các biện pháp như: chủ động tận dụng khai thác các nguồn vốn; bảo toàn và phát huy
hiệu quả đồng vốn; việc đầu tư vốn phải bám sát những yêu cầu của thị trường tất cả

các biện pháp trên đây đều nhằm thực hiện một mục đích là kinh doanh phải có hiệu quả.
Đó là mục tiêu số một bao trùm và chi phối toàn bộ hoạt động tài chính của mọi doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
1.2.3.3. Nguyên tắc giữ chữ tín.
Là nguyên tắc nghiêm ngặt trong kinh doanh. Để thực hiện nguyên tắc này thì doanh
nghiệp phải nghiêm túc tôn trọng kỉ luật thanh toán, tôn trọng những điều khoản ghi trong
hợp đồng kinh tế, tôn trọng các cam kết đã kí.Giữ chữ tín không chỉ là một tiêu chuẩn đạo
20
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
đức trong đời thường, mà còn là một nguyên tắc nghiêm ngặt trong kinh doanh nói chung,
trong tổ chức tài chính doanh nghiệp nói riêng. Trong các hợp đồng kinh tế, các quan hệ tài
chính, nếu vì một lời hứa mà chúng ta bị thô lỗ thì tốt nhất là chúng ta chịu mất tiền, còn
hơn là mất danh dự, mất uy tín để làm ăn. Trong thực tế kinh doanh đã cho thấy: kẻ làm
mất chữ tín, chỉ tham lợi trước mắt sẽ bị bạn hàng xa lánh. Đó là một nguy cơ dẫn đến phá
sản. Mặt khác để giữ chữ tín doanh nghiệp cũng cần mạnh dạn đầu tư, đổi mới công nghệ,
cải tiến kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm để luôn giữ được giá trị của thương hiệu
của doanh nghiệp.
Trong công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp, để giữ gìn chữ tín, cần nghiên túc tôn
trọng kỷ luật thanh toán, các điều khoản trong hợp đồng kinh tế, các cam kết trong liên
doanh, góp vốn, hùn vốn, đầu tư và phân chia lợi nhuận.
Trong kinh doanh, đi đôi với việc giữ gìn chữ tín cũng phần phải tỉnh táo, đề phòng sự
bội tín của đối phương để đảm bảo an toàn về vốn kinh doanh
1.2.3.4. Nguyên tắc an toàn phòng ngừa rủi ro bất trắc.
Đảm bảo an toàn, đề phòng rủi ro bất trắc cũng được coi là một trong những nguyên
tắc kinh doanh nói chung, trong tổ chức tài chính doanh nghiệp nói riêng. Đảm bảo an
toàn là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện các mục tiêu kinhdoanh có hiệu quả.
Nguyên tắc an toàn là nguyên tắc cần quán triệt trong mọi khâu của công tác tài
chính của doanh nghiệp. Có nghĩa là an toàn trong việc chọn nguồn vốn, an toàn trong
việc góp vốn đầu tư liên doanh, an toàn trong sử dụng vốn Để đảm bảo an toàn, trước
khi ra một quyết đinh tài chính, cần cân nhắc, xem xét trên nhiều phương án, nhiều góc

độ khác nhau. Có thể chấp nhận một phương án đầu tư mang lại mức lợi nhuận vừa phải
còn hơn là một phương án có lợi nhuận cao nhưng lại phiêu lưu, mạo hiểm. Tuy nhiên an
toàn và mạo hiểm trong kinh doanh là hai thái cực đối lập nhau. Mạo hiểm trong đầu tư
có cơ hội lớn mang lại hiệu quả cao hơn nhưng cũng có rất nhiều rủi ro. Còn lựa chọn
giải pháp an toàn thì nguy cơ rủi ro ít tuy nhiên lợi nhuận thu được của doanh nghiệp
ít.Ngoài biện pháp lựa chọn các phương án, để đảm bảo an toàn trong kinh doanh, cần
thiết phải tạo lập các quỹ dự phòng (quỹ dự trữ tài chính) hoặc mua bảo hiểm. Trong việc
21
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
thành lập công ty, hình thức phát hành cổ phiếu cũng là một biện pháp vừa để tập trung
vốn, vừa để san sẻ rủi ro cho nhiều cổ đông, nhằm làm tăng độ an toàn cho vốn kinh
doanh.
1.2.3.5. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Xét ở tầm vĩ mô, tập trung là sự hướng dẫn chỉ đạo một cách thống nhất của hệ thống
tài chính Nhà nước và của hệ thống pháp luật hiện hành. Dân chủ thể hiện ở việc các
doanh nghiệp được quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh và được quyền tự chủ về
tài chính, chủ động tạo nguồn vốn và đưa ra những quyết định về tài chính của doanh
nghiệp mình… với điều kiện đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả, bảo đảm lợi ích
của Nhà nước , doanh nghiệp và người lao động.
Xét ở tầm vi mô, tập trung thể hiện ở quyền quản lý và quyền quyết định các vấn đề
sản xuất kinh doanh thuộc về người đứng đầu doanh nghiệp. Dân chủ thể hiện ở việc
tham gia đóng góp ý kiến của tập thể và người lao động.
Như vậy, nhà quản lý tài chính chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và
thường đưa ra các quyết định tài chính trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày do
các nhân viên cấp thấp cung cấp. Do vậy, trong quá trình thực hiện cấp dưới phản ánh
những kiến nghị của mình lên cấp trên, chủ động sáng tạo trong hoạt động thực hiện của
mình cho phù hợp và cấp trên thu thập những ý kiến của cấp dưới để đưa ra các quyết
định đúng đắn.
1.2.3.6. Nguyên tắc quản lý theo kế hoạch gắn với thị trường
Tất cả các quyết định tài chính đều phải xem xét, cân nhắc cho phù hợp với yêu cầu

của thị trường, phù hợp với diễn biến của thị trường, phải coi thì trường là nơi kiểm
nghiệm tính đúng đắn và hiệu quả của các quyết định tài chính.
Các nhà quản lý khi đưa ra các quyết định tài chính cần hiểu rõ về thị trường và
quản lý kế hoạch có gắn thị trương để đạt hiệu quả cao nhất trong các quyết định quản lý.
1.2.3.7. Nguyên tắc trách nhiệm và quyền lợi vật chất.
Xét ở góc độ vĩ mô, doanh nghiệp được quyền sử dụng vốn một cách linh hoạt, được
quyền phân phối thu nhập. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
22
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
nộp ngân sách Nhà nước. Xét ở góc độ vi mô, nguyên tắc trách nhiệm và quyền lợi vật
chất thể hiện ở việc áp dụng các hình thức thưởng phạt vật chất phù hợp.
Người đưa ra các quyết định quản lý phải chịu trách nhiệm về các quyết định của
mình. Bên cạnh với các trách nhiệm thì họ cũng có được những quyền lợi nhất định.
Nếu không có các quy định về trách nhiệm vật chất thì sẽ không thể đảm bảo được
mọi người, mọi tập thể tự giác và có trách nhiệm đầy đủ trong việc thực hiện nghĩa vụ.
Điều này sẽ góp phần vào việc người lao động sẽ cố gắng hoàn thành nghĩa vụ của mình,
đồng thời đảm bảo được kỷ luật, trật tự trong doanh nghiệp. Song, trách nhiệm luôn đi
cùng với quyền lợi. Quyền lợi vật chất là động lực thúc đẩy cho việc hoàn thành các trách
nhiệm vật chất một cách có hiệu quả.
1.3. Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp.
1.3.1. Khái niệm phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là tập hợp các công cụ và phương pháp
cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh
nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính hiện tại và trong quá khứ của doanh nghiệp,
đánh giá hiệu quả kinh doanh cũng như đánh giá khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp,
giúp các nhà quản lý đưa ra các quyết định tài chính và các quyết định quản lý phù hợp
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp, mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài
chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính thông qua một hệ thống các phương pháp, công
cụ và kỹ thuật phân tích, giúp cho việc đánh giá toàn diện, tổng hợp, khái quát và xem xét
một cách chi tiết hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó nhận biết, phán

đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài chính, quyết định tài trợ đầu tư phù hợp.
1.3.2. Mục đích của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
+ Cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các chủ nợ để họ có thể đưa ra các
quyết định đầu tư, tín dụng đúng đắn.
+ Cung cấp thông tin để các đối tượng sử dụng có thể đánh giá số lượng, thời gian và rủi
ro của các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp.
23
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
+ Cung cấp thông tin về các nguồn lực kinh tế, về nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các
nguồn lực đó, về tác động của những sự kiện, những nghiệp vụ… làm thay đổi nguồn lực
và thay đổi nghĩa vụ…
+ Cung cấp thông tin và phân tích rõ thực trạng tài chính để phục vụ cho chính bản thân
doanh nghiệp trong việc lập và điều hành phương án sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
+ Phân tích tài chính là đánh giá những gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra, trên
cơ sở đó kiến nghị các biện pháp để tận dụng triệt để các điểm mạnh và khắc phục các
điểm yếu.
1.3.3. Ý nghĩa của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản
xuất kinh doanh ở doanh nghiệp. Do đó tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có
ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngược lại tình hình tài chính tốt hay
xấu đều có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh.
Hoạt động tài chính là nội dung chủ yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các báo
cáo tài chính phản ánh kết quả và tình hình của các mặt hoạt động của doanh nghiệp,
bằng các chỉ tiêu kinh tế, những báo cáo này do kế toán soạn thảo định kỳ, nhằm mục
đích cung cấp thông tin về kết quả và tình hình tài chính của doanh nghiệp, hoặc của tổ
chức cho những người cần sử dụng chúng.
 Mục đích quan trọng nhất của phân tích tình hình tài chính là giúp những người ra quyết
định đánh giá chính xác thực trạng, tiềm năng của doanh nghiệp, từ đó lựa chọn phương
án hành động tối ưu.

1.4. Các phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm một hệ thống các cách thức,
các công cụ, các biện pháp nhằm nghiên cứu các sự kiện, các hiện tượng, các mối liên hệ
bên trong, bên ngoài, các luồng di chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng
hợp và chi tiết nhằm đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp.
24
Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp
Người ta sử dụng rất nhiều phương pháp phân tích tài chính khác nhau. Tuy nhiên, trên
thực tế thường sử dụng hai phương pháp phổ biến đó là phương pháp so sánh và phương
pháp phân tích tỉ lệ.
1.4.1. Phương pháp so sánh.
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi để xác định hướng và mức độ biến động của
các chỉ tiêu phân tích. Khi sử dụng phương pháp này, trước hết cần phải xác định gốc so
sánh, điều kiện so sánh và mục tiêu so sánh.
 Gốc so sánh
Tuỳ theo mục đích của việc so sánh mà ta chọn gốc khác nhau:
+ Nếu nghiên cứu nhịp độ biến động hay tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu thì gốc so
sánh là trị số thực tế của chỉ tiêu ở kỳ trước.
+ Nếu đánh giá mức độ biến động so với mục tiêu dự kiến (kế hoạch đề ra) thì gốc so
sánh là trị số kế hoạch của chỉ tiêu.
+ Nếu nghiên cứu khả năng đáp ứng với nhu cầu của thị trường thì gốc so sánh là mức
của hợp đồng đã ký.
Ngoài ra còn có thể so sánh theo không gian (giữa các đơn vị trực thuộc). Khi đó gốc so
sánh là trị số của các chỉ tiêu của một đơn vị điển hình nào đó trong từng lĩnh vực.
 Điều kiện so sánh
Các chỉ tiêu khi đưa ra so sánh phải chú ý các điều kiện sau:
+ Nội dung kinh tế của các chỉ tiêu so sánh phải giống nhau.
+ Phương pháp tính các chỉ tiêu so sánh phải giống nhau.
+ Đơn vị đo của các chỉ tiêu so sánh phải giống nhau.
Đối với các chỉ tiêu thời gian thì cần chú ý thêm:

+ Phạm vi tính toán của các chỉ tiêu so sánh phải giống nhau
+ Độ dài thời gian tính các chỉ tiêu so sánh phải giống nhau
 Mục tiêu so sánh
Mục tiêu so sánh trong phân tích hoạt động kinh tế là xác định mức độ biến động tuyệt
đối và mức độ biến động tương đối cùng xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích.
a. So sánh định gốc.
25

×