Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

khảo sát tình hình bệnh tiêu chảy ở heo con theo mẹ,các bệnh liên quan khác và các biện pháp phòng trị tại trại heo trịnh xuân hướng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 67 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y









Luận văn tốt nghiệp
Ngành: THÚ Y





Tên đề tài:
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH BỆNH TIÊU CHẢY Ở
HEO CON THEO MẸ,CÁC BỆNH LIÊN QUAN
KHÁC VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ TẠI
TRẠI HEO TRỊNH XUÂN HƯỚNG












Cần Thơ, 2014



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y









Luận văn tốt nghiệp
Ngành: THÚ Y



Tên đề tài:
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH BỆNH TIÊU CHẢY Ở HEO
CON THEO MẸ, CÁC BỆNH LIÊN QUAN KHÁC VÀ
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ TẠI TRẠI HEO

TRỊNH XUÂN HƯỚNG











Giáo viên hướng dẫn:
Ths: Phạm Hoàng D
ũng
Cần Thơ, 2014

Sinh viên thực hiện:
Lâm Bình An
MSSV: 3102928
L
ớp: Thú Y K
36



i

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG







Đề tài: “Khảo sát tình hình bệnh tiêu chảy ở heo con theo mẹ, các bệnh liên
quan và các biện pháp phòng trị tại trại heo giống Trịnh Xuân Hướng” do sinh
viên Lâm Bình An thực hiện tại trại heo giống Trịnh Xuân Hướng huyện Thống
Nhất, tỉnh Đồng Nai từ tháng 04/08/2014 đến tháng 04/10/2014



















C

ần Thơ, ngày tháng năm 2014
Duyệt Bộ Môn
C
ần Thơ, ngày tháng năm 2014
Duyệt Giáo viên hướng dẫn
C
ần Thơ, ngày tháng năm 2014
Duyệt Khoa Nông nghiệp & SHƯD
Phạm Hoàng Dũng


ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì
công trình luận văn nào trước đây.



Tác giả luận văn




Lâm Bình An
















iii

LỜI CẢM TẠ
Thành kính ghi ơn cha, mẹ!
Ơn ba, má đã hy sinh cả đời mình để dạy bảo, nuôi con khôn lớn và cho con được
cắp sách đến trường. Anh, chị và những người thân trong gia đình đã chăm lo, động
viên tôi trong suốt quá trình học tập.
Xin cảm tạ!
Ban giám hiệu trường Đại Học Cần Thơ, khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng
Dụng, bộ môn Thú Y đã tạo điều kiện cho tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp này.
Quý thầy cô bộ môn Thú Y, Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, trường
Đại Học Cần Thơ đã ân cần và tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi
trong suốt thời gian qua.
Thầy Phạm Hoàng Dũng đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
thực tập để tôi có thể hoàn thành tốt bài luận văn tốt nghiệp này.
Cảm ơn.!
Cô, chú và tập thể anh chị em tại trại heo giống Trinh Xuân Hướng đã nhiệt tình
giúp đỡ và hỗ trợ tôi trong suốt thời gian thực tập.

Thầy Lê Hoàng Sĩ cùng tập thể lớp Thú Y 36, tất cả những người thân, những
người bạn đã động viên chia sẻ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập vừa qua.
Xin chân thành cảm ơn.!


LÂM BÌNH AN


iv

MỤC LỤC
Trang

CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN 2
2.1 SƠ LƯỢC 2
2.1.1 Một số nghiên cứu trên thế giới 2
2.1.2 Những nghiên cứu về bệnh ở Việt Nam 2
2.2 ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ CỦA HEO CON 4
2.2.1 Đặc điểm về thần kinh và cơ quan điều nhiệt 4
2.2.2 Đặc điểm cơ quan tiêu hóa heo con 5
2.2.3 Đặc điểm thích ứng của heo con 8
2.2.4 Hệ vi sinh vật đường tiêu hóa 8
2.3 MIỄN DỊCH Ở HEO CON 10
2.4 BỆNH TIÊU CHẢY PHÂN TRẮNG Ở HEO CON 10
2.4.1 Nguyên nhân gây bệnh 11
2.4.2 Cơ chế phát bệnh 18
2.4.3 Triệu chứng và bệnh tích 19
2.4.4 Điều trị 20
2.5 VÀI NÉT VỀ CÁC BỆNH LIÊN QUAN KHÁC 22

2.5.1 Giới thiệu về bệnh còi 22
2.5.2 Nguyên nhân gây bệnh 22
2.5.3 Cơ chế sinh bệnh 23
2.5.4 Triệu chứng và bệnh tích 23
2.5.5 Phòng bệnh và điều trị 24


v

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 26
3.1 ĐỊA ĐIỂM 26
3.2 SƠ LƯỢC VỀ TÌNH HÌNH TRẠI 26
3.2.1 Giới thiệu sơ lược về trại 26
3.2.2 Cơ cấu đàn và công tác giống 28
3.3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 28
3.3.1 Thời gian khảo sát 28
3.3.2 Đối tượng khảo sát 28
3.3.3 Phương tiện khảo sát 28
3.4 PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 31
3.4.1 Khảo sát tình hình chăm sóc nuôi dưỡng nái mang thai 31
3.4.2 Điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng bệnh cho heo con theo mẹ 33
3.4.3 Phương pháp tiến hành 33
3.4.4 Nội dung tiến hành 33
3.4.5 Các chỉ tiêu theo dõi 34
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 35
4.1 TÌNH HÌNH TIÊU CHẢY CỦA HEO THEO MẸ 35
4.1.1 Tình hình tiêu chảy của heo con theo giai đoạn 35
4.1.2 Tình hình tiêu chảy của heo con theo lứa đẻ 37
4.2 KHẢO SÁT HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐIỀU TRỊ BỆNH 38
4.3 TĂNG TRỌNG 38

4.4 TỈ LỆ CHẾT 40
4.5 TỶ LỆ CÒI 41
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 43
5.1 KẾT LUẬN 43
5.2 ĐỀ NGHỊ 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO 44


vi

DANH MỤC BẢNG
Trang

Bảng 1 : Lịch vaccin cho heo nái 32
Bảng 2: Lịch tiêm phòng vaccine cho heo con 33
Bảng 3: Tình hình tiêu chảy của heo con 35
Bảng 4: Tình hình tiêu chảy ở heo co con theo lứa đẻ 37
Bảng 5: Hiệu quả điều trị bệnh 38
Bảng 6: Trọng lượng trung bình qua các giai đoạn: 39
Bảng 7: Tăng trọng của heo con qua các giai đoạn: 39
Bảng 8: Tỉ lệ chết của đàn heo 40
Bảng 9 : Tỉ lệ heo còi 41


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang .

Biểu đồ 1: Tỉ lệ tiêu chảy ở heo con qua các giai đoạn 36
Biểu đồ 2: Tỉ lệ tiêu chảy ở heo con theo lứa đẻ 37
Biểu đồ 3 : Tăng trọng tuyệt đối của heo con 39



DANH MỤC HÌNH
Trang

Hình 1: Heo nái khảo sát 28
Hình 2: Heo nái khảo sát 28
Hình 3: thuốc Enrobac (CTC BIO VINA) 29
Hình 4: Thuốc Bio – Enrofloxacin (Bio Pharmachemie) 30
Hình 5 : Thuốc T- Mulin (CTCBIO) 30
Hình 6: Heo con bị tiêu chảy35
Hình 7: Heo con bị tiêu chảy 35
Hình 8 : Heo con bị còi 42


vii

TÓM LƯỢC

Qua thời gian chúng tôi thực hiện đề tài: “Khảo sát tình hình bệnh tiêu chảy
ở heo con theo mẹ, các bệnh lien quan và biện pháp phòng, trị tại trại heo Trịnh
Xuân Hướng” từ 04/08/2014 đến 04/08/2014.
Chúng tôi ghi nhận được các kết quả như sau:
Khảo sát 20 bầy heo, 223 heo con. Tỉ lệ tiêu chảy là 25.1%. Xét về độ tuổi
giai đoạn sơ sinh nhiễm cao nhất,giai đoạn 8 - 16 ngày ít nhiễm hơn. Cụ thể ở giai
đoạn sơ sinh là 20.6%, giai đoạn (8 – 16 ngày tuổi) là 4.5%.Từ 17 ngày tuổi trở lên
không xuất hiện bệnh. Tỉ lệ tiêu chảy ở heo con theo mẹ cao đối với những nái có
số lứa đẻ trên 4 là (20.2%) so với những nái có số lứa đẻ nhỏ hơn 4 (4.9%). Quá
trình điều trị bệnh tại trại có hiệu quả cao (96.4%). Trong đó 3.6% chết trong quá
trình điều trị là do heo con bị tiêu chảy quá nặng. Trọng lượng trung bình lúc sơ

sinh là 1.4(kg/con), 7 ngày tuổi 2.8(kg/con), 14 ngày tuổi 4.4(kg/con) và 21 ngày
tuổi là 5.9(kg/con). Tỉ lệ chết ở heo con theo mẹ qua quan sát và ghi nhận có kết
quả là 11.8%. Chủ yếu chết ở giai đoạn 0-10 ngày tuổi là cao (9,2%) so với giai
đoạn 11-21 ngày tuổi (2.9%). Tỉ lệ heo còi là: 5.3%.
Qua khảo sát hiệu quả điều trị bệnh tiêu chảy ở heo con tại trại bằng loại
thuốc Enrobac cho hiệu quả khá tốt, tỷ lệ khỏi bệnh 96,4%. Thời gian điều trị chỉ
kéo dài trong ngày, tỷ lệ heo chết và heo còi sau điều trị thấp.



1
CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ

Chăn nuôi heo là nghề truyền thống của nước ta nhưng để chăn nuôi heo phát
triển tốt hơn theo hướng gắn với thị trường, an toàn dịch bệnh, vệ sinh thú y, bảo vệ
môi trường nhằm nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả và vệ sinh an toàn thực
phẩm, các địa phương đang đẩy mạnh phát triển các sản phẩm chăn nuôi có lợi thế
và khả năng cạnh tranh khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư chăn nuôi theo
hướng trang trại, hổ trợ tạo điều kiện cho các hộ chăn nuôi truyền thống chuyển dần
sang chăn nuôi trang trại và công nghiệp.
Cùng với việc chăn nuôi được mở rộng thì dịch bệnh là yếu tố không nhỏ
ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi. Một trong những bệnh gây thiệt hai kinh tế cho
các cơ sở chăn nuôi heo sinh sản là bệnh phân trắng heo con ở giai đoạn sơ sinh đến
21 ngày tuổi. Bệnh xảy ra khắp nơi trên thế giới. Ở các nước đang phát triển như
Việt Nam xảy ra hầu như quanh năm, đặc biệt khi thời tiết có sự thay đổi đột ngột
(lạnh, ẩm, gió lùa ) kết hợp với các điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng không đảm bảo
vệ sinh ; heo bị ảnh hưởng bởi các yếu tố stress, heo con sinh ra không được bú sữa
kịp thời hoặc do sữa đầu của mẹ thiếu không đảm bảo chất lượng dinh dưỡng. Khi
heo con mắc bệnh nếu điều trị kém hiệu quả sẻ gây còi cọc chậm lớn ảnh hưởng đến
giống, cũng như khả năng tăng trọng của chúng, gây tổn thất lớn về kinh tế. Do đó

phòng tiêu chảy cho heo con góp phần làm tăng hiệu quả chăn nuôi heo sinh sản,
đảm bảo cung cấp con giống có chất lượng tốt.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước về hội chứng tiêu chảy ở heo
con và đưa ra các biện pháp phòng trị bệnh, góp phần không nhỏ trong việc hạn chế
những thiệt hai do tiêu chảy gây ra ở heo con theo mẹ. Tuy nhiên sự phức tạp của
cơ chế gây bệnh, những tác động phối hợp của các nguyên nhân, đặc điểm cơ thể
gia súc non…đã ảnh hưởng không nhỏ đến ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Vì thế
các giải pháp đưa ra chưa thật sự đem lại kết quả mong muốn. Hội chứng tiêu chảy
ở heo con theo mẹ vẫn là nguyên nhân gây thiệt hại lớn cho các cơ sở chăn nuôi
heo.
Xuất phát từ những thực tế trên, đồng thời được sự phân công, hướng dẫn và
giúp đỡ của quý thầy cô thuộc bộ môn Thú Y Trường Đại Học Cần Thơ chúng tôi
tiến hành thực hiện đề tài “Khảo sát tình hình bệnh tiêu chảy ở heo con theo mẹ,
các bệnh liên quan và biện pháp phòng trị tại trại heo Trịnh Xuân Hướng” mục
đích để xác định được tỷ lệ tiêu chảy, các bệnh liên quan, tình hình của dịch bệnh,
đề ra biện pháp phòng và điều trị hợp lý.


2
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN

2.1 SƠ LƯỢC
Bệnh tiêu chảy phân trắng heo con rất hay gặp trong chăn nuôi heo. Bệnh
gây thiệt hại không nhỏ cho ngành chăn nuôi , làm giảm tăng trọng, heo con dễ bị
suy kiệt và chết.
2.1.1 Một số nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới đã có rất nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu về bệnh phân
trắng heo con.
Theo Purvis G.M. và cộng sự (1985) cho rằng phương thức cho ăn không phù
hợp là nguyên nhân quan trọng gây tiêu chảy ở heo.

Niconxki V.V. (1971) đã nhấn mạnh “khi cơ thể gia súc non bị lạnh kéo dài
sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm số lượng bạch cầu và tác dụng thực bào,
giảm khả năng diệt trùng của máu do đó gia súc dễ bi vi khuẩn tấn công”.
Năm 1992, Fairbrother J.M và cộng sự cho biết độc tố Enterotoxin do E.coli
sinh ra Enterotoxinogenic Escherichia coli (ETEC) gây ỉa chảy trầm trọng cho heo
con từ 1- 4 ngày tuổi.
Năm 1972, Mouwen đã kết luận niêm mạc ruột non của heo có sự biến đổi
lớn trong trường hợp heo con ỉa phân trắng do Rotavirus.
Akita và cộng sự (1993) đã nghiên cứu sản xuất kháng thể đặc hiệu qua lòng
đỏ trứng gà dung trong phòng và chữa bệnh tiêu chảy ở heo con.
2.1.2 Những nghiên cứu về bệnh ở Việt Nam
Bệnh phân trắng heo con ở nước ta đã được nghiên cứu từ năm 1959 tại các cơ
sở chăn nuôi tập trung ( trại chăn nuôi và các nông trường quốc doanh)
Năm 1993, Lê Văn Tạo và cộng sự đã nghiên cứu các yếu tố gây bệnh của các
chủng E.coli gây bệnh, chọn chủng E.coli để chế tạo vacxin chết dưới dạng cho
uống. Vacxin dung cho heo con sau đẻ 2 giờ, uống với liều 1ml/con liên tục trong 3
– 5 ngày. Kết quả làm giảm tỷ lệ mắc bệnh phân trắng ở heo con từ 30 – 35% so với
đối chứng.
Theo Nguyễn Như Thanh và cộng sự (2001) thì bệnh phân trắng heo con là
một hội chứng hay nói cách khác là một trạng thái lâm sang rất đa dạng, đặc biệt là


3
dạng viêm dạ dày ruột, tiêu chảy và gầy sút nhanh. Tác nhân gây bệnh chủ yếu là
E.coli, ngoài ra còn có sự tham gia của Salmonella và vai trò thứ yếu là Proteus,
Streptococcus. Bệnh xãy ra quanh năm ở những nơi tập trung nhiều gia súc, bệnh
thường phát mạnh từ mùa đông sang mùa hè (tháng 11 đến tháng 5) đặc biệt khi
thời tiết thay đổi đột ngột ( từ oi bức chuyển sang mưa rào, từ khô ẩm chuyển sang
rét). Tỷ lệ mắc bệnh tới 50% và tỷ lệ chết 30 – 40% ( Nguyễn Như Thanh, 1997 ).
Lý Thị Liên Khai (2001) đã phân lập và xác định độc tố ruột và các chủng

E.coli gây bênh tiêu chảy cho heo con. Tác giả cho rằng các chủng K88 sinh độc tố
LT và ST; K99 và 987P sinh độc tố ruột ST, độc tố ruột ST trở nên rất độc khi sức
đề kháng của vật chủ giảm, gây tiệu chảy cho heo con đang bú mẹ, phổ biến 1 đến 2
tuần tuổi.
Theo Đổ Ngọc Thúy và Cừu Hữu Phú (2002) các chủng Enterotoxingenic
Escherichia coli (ETEC) gây bệnh cho heo con ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam thuộc
về 5 tổ hợp các yếu tố gây bệnh và 5 nhóm serotyp kháng nguyên O (O149: K91),
O8: G7, O8, O101, O64). Trong đó chủng O149: K91 mang các yếu tố gây bệnh
F4/STa/STb/LT là chủng phổ biến nhất gây bênh tiêu chảy o heo con trước cai sữa.
Trần Thị Hạnh và Đặng Xuân Bình (2002) công bố heo con theo mẹ đều
phân lập được E.coli Cl.perfigens ở hầu hết các cơ quan phủ tạng, trong đó sự có
mặt của E.coli luôn chiếm một tỷ lệ cao và rất phổ biến, vi khuẩn hiếm khí
Cl.perfigens chỉ được phát hiện ở gan, và ruột non với một tỷ lệ khá cao. Khi sử
dụng các sinh phẩm E.coli sữa Cl.perfigens – toxoit trong quy trình phòng bệnh tiêu
chảy cho heo con, kết quả thu được bước đầu cho thấy tác dụng và hiệu quả khá rỏ
rệt: đã giảm được số heo con bị mắc bệnh (28.12% so với 55.5%), số ngày điều trị
cho mỗi heo bệnh củng rút ngắn từ 3 ngày xuống 1,8 ngày và khống chế được tỷ lệ
heo con chết do bị tiêu chảy (7.4% so với đối chứng). Ngoài ra, các sinh phẩm còn
cho thấy hiệu quả kinh tế khi khối lượng bình quân lúc cai sữa của heo con được
nâng lên 0.46kg/con và 1.3kg/con so với đối chứng.
Đoàn Thị Kim Dung (2003) dùng Apramycin hoặc Apramycin phối hợp với
Bioseptin có tác dụng tốt nhất đối với bệnh tiêu chảy ở heo con (dùng riêng khỏi
80%, dùng phối hợp khỏi 98%). Bên cạnh đó các phác đồ điều trị đều không thể
thiếu được việc bổ sung các chất điện giải cho heo bệnh vì nó nâng cao hiệu quả
điều trị, rút ngắn thời gian điều trị.
Theo tác giả Đinh Xuân Phát và cộng sự (2005), việc dùng kháng thể chiết
tác từ long đỏ trứng đã khống chế bệnh cho hiệu quả cao. Sau khi chế tạo thành


4

công kháng thể E.coli dạng bột từ long đỏ trứng gà đã được miễn dịch các chủng
K88; K99; 987P.
Trịnh Quang Tuyên (2005) qua nghiên cứu cho rằng tỷ lệ nhiễm vi khuẩn
môi sinh trong các trại chăn nuôi tập trung cao có liên quan đến tình hình dịch bệnh
của đàn heo. Trong đó E.coli có tỷ lệ nhiễm từ 28,5% đến 44.1%, Staphylococcus
spp từ 29.8% đến 38.9%, Streptococcus từ 24.3% đến 41.3%, giảm xuống khi cơ sở
chăn nuôi được cải tạo chuồng trại và nguồn nước cấp.
2.2 ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ CỦA HEO CON
2.2.1 Đặc điểm về thần kinh và cơ quan điều nhiệt
Cơ thể heo con phát triển chịu sự tác động của các yếu tố ngoại cảnh, tính
thống nhất của cơ thể với ngoại cảnh nhờ vai trò của hệ thần kinh. (Trương Lăng
2003).
Tuy nhiên ở heo con lúc mới sinh các cơ quan đều chưa thành thục về chức
năng, đặc biệt là hệ thần kinh. Do đó heo con phản ứng rất chậm chạp đối với yếu tố
ngoại cảnh tác động lên chúng. Do chúng chưa thành thục nên cơ quan tiêu hóa
cũng dễ bị rối loạn hoạt động và rất dễ bị bệnh (Đào Trọng Đạt, 1996).
Hệ thần kinh điều khiển sự cân bằng thân nhiệt của heo con chưa phát triển
đầy đủ, mô dưới da chưa phát triển và glycogen trong cơ thể còn thấp, da mỏng
lông thưa nên chống lạnh kém, dễ nhiễm lạnh và rối loạn hoạt động của cơ quan
trong đó có cơ quan tiêu hóa (Lê Hồng Mận, 2002)
Theo Phùng Thị Văn (2004) cho rằng: Heo con dưới 3 tuần tuổi, có khả năng
điều nhiệt chưa hoàn chỉnh, nên thân nhiệt heo con chưa ổn định, nghĩa là sự sinh
nhiệt và thải nhiệt chưa cân bằng.
Trên cơ thể heo con, phần thân có nhiệt độ cao hơn phần chân và phần tai. Ở
phần thân thì nhiệt độ ở bụng là cao nhất cho nên khi bị cảm lạnh thì phần bụng bị
mất nhiệt nhiều nhất.
Lúc còn ở trong bụng mẹ, sự trao đổi nhiệt của bào thai được xác định do
thân nhiệt của heo mẹ. Sau khi sinh cơ thể của heo con chưa có thể bù đắp được
lượng nhiệt mất đi do ảnh hưởng của môi trường bên ngoài.Vì vậy, hầu như tất cả
heo con sau khi sinh đều bị giảm thân nhiệt, sau đó thân nhiệt dần tăng lên cho nên

cần thiết phải điều chỉnh nhiệt độ chuồng úm cho heo con: thích hợp nhất là 32 –
34
0
C trong tuần đầu và 29 – 30
0
C ở tuần sau (Đào Trọng Đạt và cộng sự, 1996).


5
Nói chung khả năng điều tiết thân nhiệt của heo con dưới 3 tuần tuổi còn
kém, nhất là trong tuần đầu mới đẻ ra, cho nên nếu nuôi heo con trong chuồng có
nhiệt độ thấp và ẩm độ cao thì thân nhiệt của heo con hạ xuống nhanh, sức đề kháng
giảm và dễ bị bệnh. Mức độ hạ thân nhiệt nhiều hay ít, nhanh hay chậm chủ yếu
phụ thuộc vào nhiệt độ của chuồng nuôi và tuổi của heo con. Nhiệt độ chuồng nuôi
càng thấp thân nhiệt của heo hạ xuống càng nhanh. Tuổi heo con càng ít thân nhiệt
hạ xuống càng nhiều.
2.2.2 Đặc điểm cơ quan tiêu hóa heo con
Heo con mới sinh ra sống nhờ vào sữa mẹ, sau khi cai sữa cơ thể heo trải qua
một quá trình thay đổi không ngừng về hình thái, cấu tạo và sinh lý của ống tiêu hóa
để thích nghi với điều kiện mới.
Sau khi sinh ra, ở heo con chức năng tiêu hóa của dạ dày còn hạn chế dễ gây
rối loạn trao đổi chất mà hậu quả là rối loạn tiêu hóa, gây tiêu chảy, còi cọc, thiếu
máu và chậm lớn.
Bộ máy tiêu hóa của heo con chưa phát triển toàn diện, hệ thống Enzym chưa
đầy đủ. Tuy nhiên cơ quan tiêu hóa của heo con giai đoạn theo mẹ phát triển nhanh
về cấu tạo và hoàn thiện dần về chức năng tiêu hóa. Chức năng tiêu hóa của heo con
mới sinh chưa có hoạt lực cao, trong giai đoạn theo mẹ chức năng tiêu hóa của một
số men tiêu hóa được hoàn thiện dần như men pepsin tiêu hóa protit, men tiêu hóa
bột đường (Phùng Thị Văn, 2004).
Theo Lê Thị Mến (2000) thì Heo con khi mới sinh ra có thể hấp thu glucose

ngay, tiêu hóa lactose ngay, sau 2 tuần tuổi mới tiêu hóa saccharose, sau 3 tuần tuổi
mới tiêu hóa tinh bột.
Heo con trước 1 tháng tuổi có hàm lượng HCl tự do trong dạ dày rất ít, giai
đoạn này gọi là giai đoạn thích ứng cần thiết tự nhiên giúp cơ thể thẩm thấu được
các kháng thể miển dịch trong sữa đầu của heo mẹ. Dịch vị không có hoạt tính phân
giải protein mà chỉ có hoạt tính làm vón sữa đầu, albumin va globulin được chuyển
xuống ruột để vào máu.
Tuy nhiên, heo con trên 14 – 16 ngày tuổi thì tình trạng thiếu HCl ở dạ dày
không còn là sự cần thiết cho sinh lý bình thường nữa (Đào Trọng Đạt và cộng sự,
1996). Vì vậy việc tập cho heo con ăn sớm đã rút ngắn được giai đoạn thiếu HCl ,
giúp hoạt hóa hoạt động tiết dịch, tạo khả năng xây dựng nhanh chóng các đáp ứng
miễn dịch của cơ thể.


6
Sau 20 ngày lượng sữa ở heo mẹ giảm dần trong khi nhu cầu dinh dưỡng của
heo con tăng lên. Vì vậy heo con rất dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng. Để khắc
phục tình trạng này cần tập cho heo con ăn sớm để bổ sung them chất dinh dưỡng,
có tác dụng kích thích tăng tiết dịch, tăng hàm lượng HCl và men tiêu hóa, sự phát
triển của dạ dày và ruột để đáp ứng kịp thời với chế độ sau cai sữa.
Nói chung heo con bú sữa chỉ có khả năng tiêu hóa tốt các chất dinh dưỡng
trong sữa heo mẹ, còn khả năng tiêu hóa thức ăn kém. Trong khâu nuôi dưỡng
chúng ta cần chú ý chế biến thức ăn tốt để nâng cao khả năng tiêu hóa ở heo con.
 Tiêu hóa ở miệng:
Heo mới sinh trong những ngày đầu hoạt tính amylaza nước bọt cao. Nếu
heo con tách mẹ sớm, hoạt tính amylaza nước bọt cao nhất ở ngày thứ 14, còn heo
con do mẹ nuôi phải đến ngày thứ 21. Tùy lượng thức ăn, lượng nước bọt tiết khác
nhau. Thức ăn có phản ứng acid yếu và khô thì nước bọt tiết ra mạnh, thức ăn lỏng
thì giảm hoặc ngừng tiết dịch. Vì vậy cần chú ý không cho heo con ăn thức ăn lỏng
(Trương Lăng, 2004).

Lượng nước bọt thay đổi tùy theo số lần cho ăn và chất lượng thức ăn. Ăn
chỉ một loại thức ăn kéo dài sẽ làm tăng nhiệm vụ của một tuyến, gây ức chế, heo
con ít thèm ăn. Ăn nhiều loại thức ăn khác nhau, ăn đổi bữa thì cả hai tuyến hoạt
động không gây ức chế, heo con sẽ thèm ăn, tiết nước bọt liên tục, giúp tiêu hóa tốt
thức ăn.
Ở miệng hầu như không hấp thu vì thức ăn ở lại đây không lâu, chỉ có khả năng
hấp thu đường glucose, nhưng lượng này không đáng kể nên có thể coi như không hấp
thu. Ở heo con thức ăn chủ yếu là sữa và tiêu hóa diễn ra lớn nhất là ở dạ dày và ruột,
vì vậy vai trò của nước bọt ở giai đoạn nầy ít quan trọng ( Trần Cừ, 1972).
 Tiêu hóa ở dạ dày:
Thức ăn sau khi vào dạ dày ảnh hưởng bởi tác động cơ học và hóa học. Tác
động cơ học là do cơ trơn vách dạ dày co bóp nhào trộn thức ăn, đẩy thức ăn vào
ruột. Tác động hóa học là do tác dụng của dịch vị ở tuyến dạ dày tiết ra để tiêu hóa
thức ăn.
Trương Lăng (2004) cho rằng heo con mới đẻ, dạ dày chỉ nặng 4 – 5g chứa
được từ 5– 40g sữa, khi đạt 10 ngày tuổi, dung tích dạ dày tăng gấp 3 lần so với sơ
sinh, đến 20 ngày tuổi đạt 2 lít, sau đó tăng chậm, đến tuổi trưởng thành dung tích
dạ dày đạt 3,5 – 4 lít.


7
Dịch vị tiết ra tương ứng với sự phát triển của dung tích dạ dày, tăng mạnh
nhất ở 3– 4 tháng tuổi, sau đó kém hơn.
Lượng dịch vị biến đổi tùy theo ngày và đêm.
Thời gian Heo lớn Heo con
Ngày 62% 31%
Đêm 38% 69%
Heo con 20 ngày tuổi, phản xạ tiết dịch vị chưa rõ. Ban đêm heo mẹ nhiều
sữa, kích thích sự tiết dịch vị ở heo con. Sau khi cai sữa, lượng dịch vị của heo con
tiết ra ngày và đêm bằng nhau.

Heo dưới 1 tháng tuổi trong dịch vị không có acid Chlohydric (HCl) tự do, vì
lúc này lượng HCl tiết ra rất ít và nhanh chóng liên kết với niêm dịch và thức ăn, làm
hàm lượng HCl tự do rất ít hoặc hoàn toàn không có trong dạ dày heo con bú sữa, hiện
tượng này gọi là thiếu HCl. Vì thiếu HCl tự do trong dịch vị nên hệ vi sinh vật phát
triển gây bệnh đường tiêu hóa ở heo con. Đến 25 ngày tuổi, trong dạ dày heo con mới
có HCl tự do, trên 40 ngày tuổi tính kháng khuẩn xuất hiện (Trần Cừ, 1972).
Tiêu hóa ở ruột:
Heo con tiêu hoá ở dạ dày chỉ mới bắt đầu, tiêu hoá ở ruột non mới là chính.
Quá trình tiêu hoá ở ruột non rất phức tạp vì dịch vị, dịch mật và dịch ruột đều đổ
vào đấy. Sự tiêu hoá ở ruột non heo thời kì đầu rất mạnh do hoạt tính cao của
enzym dịch tụy (Trần Cừ,1972).
Tiêu hoá ruột non nhờ tuyến tuỵ. Emzym tripsin trong dịch thuỷ phân protein
thành axit amin.
Trong dịch ruột heo có chứa enzyme tiêu hoá như: amino peptidaza,
dipeptidaza, enterrokinaza, lipaza và amilaza. Dịch ruột tác động tiêu hoá đạt hiệu
quả cao đối với các chất lactose, casein,…ở heo con.
Bên cạnh đó, đối với tiêu hóa của heo con, dịch mật cũng đóng vai trò rất
quan trọng. Dịch mật xúc tiến tiêu hóa lipid và tăng cường nhu động ruột. Vì vậy
heo con cần phải có một lượng dịch mật tương ứng để tiêu hóa lipid trong sữa một
cách dễ dàng (Trần Cừ, 1972).


8
2.2.3 Đặc điểm thích ứng của heo con
Sự thích ứng của heo con khi thay đổi môi trường sống là rất kém. Đặc biệt
là ở giai đoạn heo con chuyển từ sống trong bụng mẹ ra môi trường bên ngoài, từ
nuôi dưỡng qua sữa mẹ đến chế độ tập ăn sớm.
Hơn nữa, sự thành thục và thiếu hoàn chỉnh về chức năng của các cơ quan
nội tạng, nhất là bộ máy tiêu hóa, liên quan mật thiết đến sự phát triển của hệ vi sinh
vật có lợi hoặc có hại trong ruột và sức đề kháng chống lại bệnh tật. Quá trình tuần

hoàn chuyển từ tuần hoàn máu qua nhau thai sang tuần hoàn nhờ tim phổi, toàn bộ
máu ở mạch máu rốn qua gan. Sự cân bằng nhiệt của heo con cũng phải tự thiết lập
để thích ứng đến môi trường bên ngoài, không thể nhờ vào cân bằng nhiệt lượng
của cơ thể mẹ như trong giai đoạn bào thai.
Quá trình chuyển hóa, cân bằng năng lượng từ giai đoạn bào thai sang giai
đoạn sau khi sinh rất chậm, chưa thích nghi ngay nên dễ bị tác động bởi môi trường.
Nhờ quá trình oxy hóa mô mỡ nên heo con điều chỉnh được thân nhiệt. Khả năng
điều chỉnh thân nhiệt khác nhau ở heo con là do mức độ phát triển mô mỡ khác
nhau ở từng cá thể, từng loại gia súc (Đào Trọng Đạt và cộng sự, 1996).
Heo con có nhu cầu dinh dưỡng rất cao. Axit amin là nguyên liệu chủ yếu
cho sự sinh trưởng và phát triển của heo con. Tốc độ sinh trưởng của gia súc con rất
nhanh, trong vòng 10 – 14 ngày, thể trọng tăng gấp 1,3 lần; sau 2 tháng tuổi khối
lượng heo con có thể tăng 14 đến 15 lần so với sơ sinh. Nếu sữa mẹ không đảm bảo
được chất lượng, trong khẩu phần ăn thiếu đạm, sự sinh trưởng của cơ thể sẽ chậm
hoặc ngừng lại, khả năng chống lại bệnh tật rất kém nên rất dễ bị nhiễm bệnh.
2.2.4 Hệ vi sinh vật đường tiêu hóa
Vi sinh vật có trong dạ dày heo con tương đối ít , do tác động diệt khuẩn dịch
chua của dạ dày. Tuy nhiên trong dạ dày heo con luôn lúc nào cũng có sự hiện diện
của vi khuẩn làm lên men như trực khuẩn lactic.
Theo Đào Trọng Đạt và cộng sự (1996) thì heo con mới sinh hệ vi sinh vật
đường ruột chưa phát triển, chưa đủ số lượng vi khuẩn có lợi, chưa đủ khả năng
kháng lại vi khuẩn gây bệnh nên rất dễ nhiễm bệnh nhất là các bệnh đường tiêu hóa.
Ở gia súc trưởng thành, trong đường ruột có hệ vi sinh vật có lợi thường trực
cộng sinh khống chế sự xâm nhập và nhân lên của các loài vi sinh vật khác lạ từ
môi trường bên ngoài, đồng thời tham gia vào quá trình tiêu hóa hấp thu. Trong
đường ruột của gia súc non, hệ vi sinh vật có lợi – vi sinh vật đối kháng với vi
khuẩn gây bệnh chưa hình thành, chức năng tiêu hóa chưa thành thục, môi trường


9

sống điều kiện ngoại cảnh, chăm sóc không tốt đều là những stress đối với gia súc
non. Khi chuyển từ bào thai sang nuôi dưỡng bằng sữa mẹ và chế độ tập ăn, tiếp
xúc thường xuyên với môi trường bên ngoài và nhất là điều kiện không vệ sinh, vi
sinh vật dễ dàng gây bệnh đường ruột cho gia súc non, có thể ở dạng cấp tính hay
mãn tính.
Khi động vật sơ sinh được nuôi dưỡng bằng sữa thì trong ruột có nhiều vi
khuẩn lactic. Lúc động vật chuyển sang ăn thức ăn thì thành phần của vi sinh vật
cũng bị thay đổi tuỳ loại thức ăn nếu thức ăn chứa nhiều gluxit thì số lượng vi
khuẩn tạo acid trong ruột phát triển nhanh.
Hệ vi sinh vật có hại thường gặp trong đường ruột là vi khuẩn salmonella
spp, E.coli, một số chủng Clostridium spp, shigella. Cho đến nay nhiều công bố
nghiên cứu khoa học đã cho biết nguyên nhân gây tiêu chảy ở gia súc non gồm 3
loại chính là E.coli salmonella spp và Clostridium perfringens.
Trong hệ vi khuẩn đường ruột E.coli là phổ biến nhất và chúng xuất hiện
sớm trong đường ruột người, động vật sơ sinh, thường ở phần sau của ruột, đôi khi
còn thấy ở niêm mạc của nhiều bộ phận trong cơ thể (Nguyễn Như Thanh, 2001).
Clostridium perfringens typ C gây bệnh viêm ruột hoại tử cho heo ở lứa tuổi
1 – 14 ngày tuổi, đặc biệt xãy ra trầm trọng ở 1 – 7 ngày tuổi, tỷ lệ chết cao (50%),
bệnh lây nhiễm qua phân.
Tiêu chảy ở heo con do salmonella cholerasuis gây ra thường thể hiện ở 2
dạng là bại huyết và thần kinh. Khi mổ khám chúng ta thấy có hiện tượng viêm ruột
hoại tử có xuất huyết ở ruột, màng treo ruột, viêm màng ruột đoạn trước trực tràng
phình to.
Trong điều kiện bình thường, vi sinh vật sống cộng sinh trong đường tiêu
hoá của heo con không gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ cho chúng. Nhưng khi điều
kiện sống thay đổi như thiếu dinh dưỡng, thời tiết thay đổi, vệ sinh chăn nuôi
kém,…thì một số vi khuẩn trở thành tác nhân gây bệnh: E.coli, Bacilluc
perfringens… (Trần Cừ, 1972).
Ở trạng thái bình thường giữa cơ thể vật chủ và hệ vi sinh vật trong đường
tiêu hóa củng như giữa các loài vi sinh vật trong khu hệ vi sinh vật với nhau luôn

luôn ở trạng thái cân bằng, sự cân bằng này là cần thiết cho sức khỏe của vật chủ.
Do đó phòng bệnh đường ruột quan trọng nhất là cân bằng hệ vi sinh vật đường tiêu
hóa bằng cách bổ sung những chế phẩm vi sinh vật đường ruột sẽ đem lại hiệu quả
khá cao trong việc phòng và trị bệnh đường tiêu hóa cho heo con.


10
2.3 MIỄN DỊCH Ở HEO CON
Khả năng miễn dịch của cơ thể là khả năng phản ứng của cơ thể đối với các
chất lạ khi xâm nhập vào cơ thể. Các chất lạ có thể là mầm bệnh, mầm bệnh xâm
nhập vào cơ thể gia súc non tương đối dễ do các cơ quan bảo vệ cơ thể chưa hoàn
chỉnh. Trong hệ thống tiêu hóa của heo con lượng enzyme tiêu hóa và lượng HCl
tiết ra chưa đủ đễ đáp ứng cho quá trình tiêu hóa, gây rối loạn trao đổi chất, tiêu hóa
và hấp thu dinh dưỡng kém. Do vậy, các mầm bệnh như E. coli, salmonella…dễ
dàng xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa và gây bệnh.
Ở heo con các yếu tố miễn dịch như bổ thể, profecdin và lysozim được tổng
hợp còn ít, khả năng thực bào kém. Vì vậy, việc cho heo con bú sữa đầu là rất cần
thiết do trong sữa đầu có rất nhiều globulin miễn dịch, bảo vệ cơ thể heo con chống
lại mầm bệnh. Sữa đầu chứa nhiều vitamin A, D, B12 gấp 5 lần sữa thường, khoáng
gấp 2 lần.Vì vậy, sữa đầu rất quan trọng đối với heo con, chứa nhiều globulin miễn
dịch, vitamin hoà tan trong dầu, cả những chất béo bảo vệ heo con mới đẻ chống
nhiễm bệnh. 2 giờ sau khi đẻ, heo con phải được bú sữa đầu. Nó hấp thu được nhiều
globulin miễn dịch sữa đầu vào máu trong thời gian 24-36 giờ (Trương Lăng,
2003).
Khả năng hấp thu globulin rất cao khi heo con mới sinh nhưng giảm sau 24
giờ, từ tuần lễ thứ 3 thì khả năng hấp thu

-globulin chấm dứt và heo con bắt đầu tự
sản xuất kháng thể, hàm lượng kháng thể tăng theo thời gian.
Sữa đầu quyết định sức khoẻ và sinh trưởng phát triển của đàn heo con. Sữa

đầu giúp heo tăng sức đề kháng chống lại một số bệnh cho giai đoạn phát triển của
heo (Lê Minh Hoàng, 2002).
Tuy nhiên còn một yếu tố quan trọng nữa là sự phát triển của hệ vi sinh vật
đường ruột gia súc non có những đặc thù riêng. Việc cân bằng khu hệ vi sinh vật
trong đường ruột nhằm khắc phục, hạn chế sự loạn khuẩn trong quá trình phát triển
và trưởng thành của cơ thể heo con là rất quan trọng. Sử dụng chế phẩm sinh học để
phòng và trị tiêu chảy cho heo con là rất cần thiết.
2.4 BỆNH TIÊU CHẢY PHÂN TRẮNG Ở HEO CON
Ở nước ta bệnh thường hay xãy ra nhưng chủ yếu vào mùa đông xuân nhất là
sau những trận mưa lớn, những ngày có độ ẩm cao và thời tiết thay đổi đột ngột.
Ở các trại chăn nuôi tập trung bệnh xãy ra rất nhiều mặc dù thực hiện tốt các
khâu về chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho heo con, heo mẹ nhưng bệnh vẩn
xãy ra lúc lẻ tẻ, lúc ồ ạt gây thiệt hại kinh tế.


11
2.4.1 Nguyên nhân gây bệnh
Theo Đào Trọng Đạt (1996) và Nguyễn Vĩnh Phước (1978) thì bệnh tiêu
chảy ở heo con theo mẹ được xem như là một hội chứng ở đường tiêu hóa gây ra
bởi nhiều nguyên nhân, bệnh có thể do tác động của yếu tố môi trường như điều
kiện thời tiết, thức ăn, nước uống…cũng có thể do yếu tố nội tại bản thân của con
vật về khả năng đề kháng bệnh.
Cho đến nay, việc xác định nguyên nhân chính gây bệnh tiêu chảy heo con
theo mẹ vẫn còn đang tiếp tục tranh luận, nhưng tập trung vào 2 quan điểm lớn sau:
- Quan điểm 1
Bệnh phân trắng heo con trong thời gian theo mẹ không phải là bệnh nhiễm
trùng mà là chứng khó tiêu, hậu quả của các yếu tố ngoại cảnh như: điều kiện ngoại
cảnh thay đổi đột ngột, chất lượng sữa mẹ, vệ sinh chuồng trại kém, khâu chăm sóc
nuôi dưỡng heo con, heo mẹ kém…gây nên.
- Quan điểm 2

Bệnh phân trắng heo con trong thời gian theo mẹ là do nhiễm trùng ống tiêu
hóa bởi các loại vi sinh vật bao gồm một số loại vi khuẩn Vibrio coli, Escherichia
coli, Salmonella…bệnh do virus như: Corona virus, Rota virus…
Gần đây có nhiều nghiên cứu cho rằng bệnh do nhiều nguyên nhân phối hợp,
liên quan đến hàng loạt các yếu tố. Do đó, việc xác định nguyên nhân nào là chính,
nguyên nhân nào là phụ để có biện pháp điều trị hiệu quả.
 Do điều kiện ngoại cảnh:
Trong điều kiện sinh lý bình thường có sự cân bằng giữa sức đề kháng với
các yếu tố gây bệnh. Khi sức đề kháng của cơ thể giảm thì cân bằng này mất đi, làm
cho cơ thể rơi vào trạng thái bệnh lý.
Khi còn nằm trong bụng mẹ sự cân bằng nhiệt của bào thai do thân nhiệt của
cơ thể mẹ quy định. Sau khi sinh ra cơ thể heo con chưa thể bù đắp được lượng
nhiệt mất đi do ảnh hưởng của môi trường bên ngoài. Lúc này các yếu tố bất lợi làm
giảm sức đề kháng của cơ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh phát sinh và
tiến triển. Trong những yếu tố về khí hậu thì yếu tố về nhiệt độ, ẩm độ là quan trọng
nhất. Nhiệt độ từ 28 – 30 , ẩm độ từ 75% - 85% là thích hợp cho heo con. Vì vậy
vào những tháng giao mùa, tháng mưa nhiều, độ ẩm cao, 86% - 90%, nhiệt độ thay
đổi thất thường heo con sẽ mắc bệnh nhiều, có khi tỷ lệ bệnh phân trắng heo con
trong đàn 90% - 100% (Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, 1996)


12
Nhiều tác giả cho rằng nguyên nhân của bệnh phân trắng heo con không có
tính đặc hiệu nhưng mang tính tổng hợp, trong đó yếu tố lạnh, ẩm được đánh giá là
yếu tố hàng đầu của bệnh. Lạnh, ẩm làm hệ thống điều hòa rối loạn, dẫn đến rối
loạn trao đổi chất của các cơ quan, các mô bào, các tế bào của cơ thể, làm giảm sức
đề kháng, tạo điều kiện thuận lợi cho virus, vi khuẩn có sẵn trong đường ruột hay
từ ngoài vào có cơ hội phát triển tăng nhanh về số lượng và tăng độc lực gây bệnh.
Mặc khác, do thời tiết thay đổi đột ngột, đang nắng chuyển sang mưa ẩm độ
tăng cao làm cho cơ thể heo con mất cân bằng sinh lí, do đó, sẽ tiêu hao nhiều năng

lượng để cân bằng nhiệt độ cơ thể với môi trường. Nếu nhiệt độ thấp kéo dài lượng
đường huyết sẽ giảm, sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiết dịch của dạ dày, ruột, dẫn tới
rối loạn tiêu hoá làm cho heo con tiêu chảy (Nguyễn Xuân Bình, 2002).
Bên cạnh đó, ở gia súc non các men tiêu hóa chưa hoàn chỉnh, đặc biệt trong
dịch vị chưa có đủ HCl tự do nên không hoạt hóa được men pepsin. Vì vậy mà
không tiêu hóa được hết sữa mẹ trong khi sữa mẹ là môi trường phát triển tốt của
nhiều loại vi khuẩn (Sử An Ninh, 1993).
Tuy nhiên, heo còn phụ thuộc rất nhiều vào vấn đề chăm sóc nuôi dưỡng, ăn
uống không đúng lúc, thay đổi chăm sóc đột ngột, vệ sinh trong chuồng kém, việc
không ổn định thời gian ăn,….tất cả điều có thể gây ra bệnh cho heo con nhất là
bệnh tiêu chảy (Lê Minh Hoàng, 2002).
 Do đặc điểm sinh lý heo con
Theo Đào Trọng Đạt và cộng sự (1996), Hệ vi sinh vật đường ruột heo con chưa
phát triển hoàn thiện, chưa đủ số lượng vi khuẩn có lợi, chưa đủ khả năng kháng lại vi
khuẩn gây bệnh, nên rất dễ bị nhiễm bệnh nhất là bệnh về đường tiêu hoá.
Khi mới sinh ra, cơ thể heo con phát triển để dần hoàn chỉnh về cấu tạo, chức
năng hệ tiêu hóa và hệ miễn dịch. Heo con trước một tháng tuổi không có HCl tự do
trong dịch vị vì lúc này lượng axit tiết ra và nhanh chóng liên kết với dịch nhầy. Đây là
điều kiện để vi sinh vật phát triển gây bệnh dạ dày - ruột ở heo con. Hơn nữa vì thiếu
axit HCl nên pepsinogen tiết ra không trở thành pepsin hoạt động được gây rối loạn
tiêu hóa sữa, sữa bị kết tủa dưới dạng casein gây rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy màu phân
trắng (màu của casein chưa được tiêu hóa).
Mặt khác khi mới sinh vỏ não và các trung tâm điều tiết thân nhiệt chưa hoàn chỉnh.
Hơn nữa lượng mỡ dưới da của heo con mới sinh chỉ có khoảng 1%. Lúc khí hậu thay đổi
heo con mất cân bằng giữa hai quá trình sản nhiệt và thải nhiệt. Đặc điểm này đã lý giải tại
sao bệnh lại hay xảy ra hàng loạt ồ ạt khi thời tiết thay đổi thất thường.


13
Theo Cù Xuân Dần (1996) lượng sữa mẹ từ khi đẻ tăng đến ngày thứ 15 là cao

nhất, đến ngày thứ 20 đột ngột giảm xuống thấp trong khi nhu cầu về sữa mẹ của heo
con tăng lên. Do đó nếu ở giai đoạn này heo mẹ mà thiếu chất dinh dưỡng thì heo con
lại càng thiếu sữa, cơ thể heo con trở nên suy nhược, giảm sức đề kháng, heo dễ bị
stress.
Một trong các nguyên nhân quan trọng nhất gây bệnh đường tiêu hóa là do thiếu
sắt. Khi còn là bào thai lượng sắt cần thiết được mẹ cung cấp. Khi ra ngoài môi trường
sống, sữa mẹ chỉ cung cấp được 1/6 lượng sắt mà cơ thể non yêu cầu. Trong khi cơ thể
sơ sinh cần tới 40- 50 mg sắt/ngày, nhưng heo con chỉ nhận được 1mg/ngày thông qua
sữa mẹ. Vì vậy, cần bổ sung thêm ít nhất là 200- 250mg/con để heo con tránh thiếu
máu. Trong sữa mẹ không những chỉ thiếu sắt mà còn thiếu cả Coban, Vitamin B
12

tham gia vào quá trình tạo máu, tổng hợp và hoạt hóa một số enzym. Do đó heo con dễ
sinh bần huyết, cơ thể suy yếu, sức đề kháng giảm, heo con dễ mắc bệnh phân trắng.
Trường hợp heo thiếu Clo trong khẩu phần sẽ làm giảm sự phân tiết HCl trong
dạ dày, điều này tạo điều kiện dễ dàng cho vi khuẩn đường ruột phát triển, đồng thời
làm giảm khả năng tiêu hóa protid dẫn đến tình trạng rối loạn tiêu hóa gây tiêu chảy ở
heo con (Trần Cừ,1972).
Bên cạnh đó nhu cầu nước uống của heo là rất cao, do độc tố sinh trưởng của
heo con nhanh chóng đòi hỏi có đủ nước để thực hiện trao đổi với mô bào, đồng thời
hoà tan lượng lipit dư thừa. Do đó nếu cung cấp nước không đầy đủ dẫn dến việc heo
con uống nước bẩn trên nền chuồng gây ra bệnh tiêu chảy cho heo con do bị nhiễm
trùng. (Phùng Thị Văn, 2004).
 Do vi khuẩn
E.coli
Có nhiều loại vi trùng là nguyên nhân nguyên phát hoặc nguyên nhân kế phát
gây ra chứng tiêu chảy trên heo con như: Samonella, Proteus, Clostridium Perfringens,
Shigella ,… Đặc biệt quan trọng và phổ biến là E.coli với nhiều chủng gây bệnh và
chúng có sự thay đổi về thời gian và các vùng (Nguyễn Dương Bảo, 2002).
Theo Lê Văn Năm và cộng sự 1999, cho rằng E.coli thuộc họ vi khuẩn đường

ruột Entero-bacteriaceaae, nhóm Escherichae, loài Escherichia. E.coli là trực khuẩn
đa hình không bắt màu (gram âm) không tạo thành nha bào, phần lớn là di động, có ba
loại kháng nguyên chủ yếu: kháng nguyên O (kháng nguyên thân), kháng nguyên K
(kháng nguyên bề mặt), kháng nguyên H (kháng nguyên lông). Trong các loài E.coli
thì E.coli chủng K thường xuyên gây bệnh tiêu chảy phân trắng heo con theo mẹ.


14
Khả năng chống đỡ của E.coli đối với tác dụng của các yếu tố lý hóa thấp,
chúng bị chết ở 60
0
C trog vòng 15 phút, khi đun sôi chết ngay. Các loại thuốc sát
trùng bình thường giết E.coli trong vòng 15-20 phút. Sức sống E.coli bị giảm xuống
đáng kể khi nhiệt độ chuồng hạ xuống 30
o
C.
Trong các vi khuẩn đường ruột, loài Escherchia E.coli là phổ biến nhất. Loài
này xuất hiện và sinh sống trong đường ruột động vật chỉ vài giờ sau khi sinh và tồn
tại cho đến lúc chết. E.coli sống bình thường trong đường ruột của người và động
vật. khi điều kiện nuôi dưỡng, khẩu phần thức ăn, vệ sinh thú y kém, sức chống đỡ
bệnh tật của con vật kém thì E.coli trở nên cường độc và có khả năng gây bệnh.
Theo Hồ Thị Việt Thu (2002), hiện nay người ta phân lập được 163 tuye
E.coli khác nhau và được chia làm 2 nhóm:
Nhóm vi khuẩn không sinh độc tố, không gây bệnh ( Ponpathogenic E.coli)
Nhóm vi khuẩn sinh độc tố, gây bệnh ( Pathogenic E.coli).
Các chủng thường xuyên gây bệnh cho heo là: K88, K99, 987P và F41. Heo
sơ sinh, heo theo mẹ và sau cai sữa đều cảm nhiễm nhưng xảy ra nặng hơn heo dưới
10 ngày tuổi.
Salmonella
Salmonella có mặt trong thức ăn, nước uống, môi trường thiên nhiên và trong

cơ thể động vật, có khả năng gây bệnh khi gặp điều kiện thuận lợi.
Salmonella cũng đóng vai trò rất quan trọng trong nguyên nhân gây hội
chứng tiêu chảy ở heo con vì vi khuẩn này là nguyên nhân gây bệnh phó thương
hàn ở heo bao gồm Salmonelle cholera suis (chủng kunzendorf) và Salmonella
typhysuis (chủng Voldagsen) (Nguyễn Như Thanh, 2001).
Salmonella là trực khuẩn hình gậy, hai đầu tròn, kích thước 0,4-06

x 1-3

,
không hình thành giáp mô và nha bào, di động, gram âm, chúng vừa hiếu khí vừa
yếm khí, mọc trong môi trường pH= 7,2-7,6, nhiệt độ 37
o
C. Thuộc họ
Enterobacteriaeceae, hiện nay các nhà khoa học đã phát hiện được khoảng 1600
chủng Salmonella khác nhau. Ngoài hai chủng Salmonella có độc lực cao gây ra
bệnh phó thương hàn cho heo là: Salmonella Cholerae suis và Salmonella
Typhimurium Suis, các chủng còn lại thường xuyên có mặt trong ruột của gia súc
khỏe. Nhưng khi sức đề kháng của cơ thể thay đổi, hoạt động tiêu hóa bị rối loạn thì
chúng phát triển mạnh và gây ra tiêu chảy. Đối với heo con theo mẹ chúng thường


15
xuyên gây bệnh ở dạng rối loạn tiêu hóa, gây tiêu chảy do tiết nội độc tố làm viêm
loét ruột (Lê Văn Năm và cộng sự,1999).
Shigella
Shigella gây bệnh tiêu chảy ở heo con theo mẹ và heo cai sữa. Vi trùng được bài
xuất ra môi trường theo phân, các chủng thường gây bệnh là: Shigella dysentery và
Shigella flexmitia. Chúng xâm nhập vào đường tiêu hóa, sinh sản và tiết độc tố gây
bệnh tiêu chảy.

Clostridium perfringens
Một trong những nguyên nhân quan trọng khác đóng vai trò kế phát gây bệnh
là vi khuẩn yếm khí Cl.perfringens hình thành độc tố gây dung huyết, gây hoại tử tổ
chức phần mềm và gây chết. Vi khuẩn có khả năng gây ra các chứng nhiễm độc,
viêm ruột xuất huyết trầm trọng ở heo con.
Các chủng Cl.perfringens sản sinh ra nhiều độc tố và enzym khác nhau, mỗi
chủng có những đặc điểm riêng trong việc sản sinh ra một vài loại độc tố hay
enzym nào đó. Theo Bergeland và Taylor (1992), những độc tố gây bệnh chủ yếu
do Cl.perfringens bao gồm độc tố α, β, δ. Dựa vào hầu hết các đặc điểm mô tả thì
Cl.perfringens typ C gây ra viêm ruột hoại tử.
Đào Trọng Đạt và cộng sự, 1996 cho rằng Clostridium Perfringens được
phân thành 6 serotyp A, B, C, D, E, F. Có 3 loài C. perfringens A, B và C là mầm
gây bệnh đường ruột quan trọng đối với heo. C. perfringens type C là vi khuẩn
gram dương, tạo nha bào, vi khuẩn yếm khí không di động, có kích thước 1-1,5

x
4-8

. Chúng tạo thành bào tử có hình trứng cân xứng hoặc lệch tâm.
Cl.perfringens typ C sản sinh ra độc tố α, β chủ yếu là độc tố β, nhân tố quan
trọng nhất trong sinh bệnh học của bệnh viêm ruột hoại tử do Cl.perfringens typ C
gây ra. Bệnh xảy ra chủ yếu trên heo con ở giai đoạn theo mẹ, lứa tuổi mắc phổ biến
nhất là 12 giờ sau khi sinh ra đến 7 ngày tuổi, hay gặp nhất ở 1 đến 3 ngày tuổi.
Ngoài ra bệnh cũng có thể xảy ra đối với heo con từ 2 đến 4 tuần tuổi và cả khi cai
sữa, heo mắc bệnh thường bị chết ở những ổ heo mẹ không được tiêm phòng, tỷ lệ
khỏi rất thấp, tỷ lệ chết có thể lên tới 100% (Bergeland, Taylor, 1992).
Vi khuẩn còn gây tác hại suốt chiều dài của không tràng, nên tiêu chảy
thường có máu và niêm mạc hoại tử trong phân. Tỷ lệ chết và còi cao ở heo sơ sinh,
heo 3-4 tuần tuổi thì bệnh khó bình phục, tốc độ tăng trưởng chậm.



16
 Do virus
Rotavirus
Theo Phạm Sĩ Lăng, 2006 thì Virus Rotavirus thuộc họ Rotaviridae, có hình
răng cưa khi quan sát dưới kính hiển vi điện tử, chịu được pH thấp, tan trong mỡ, bị
tiêu diệt bởi các chất sát trùng thông thường (Formalin 5%, NaOH 3%, nước vôi
10%) nhưng chúng lại tồn tại rất lâu trong môi trường bình thường.
Sau khi xâm nhập vào cơ thể heo, Vius Rotavirus đi vào cac tế bào của lớp
nhung mao ruột và gây ra các tổn thương ở đây. Do tác động của virus, nhung mao
co lại, tù đầu, làm cho sự hấp thu chất dinh dưỡng kém đi, gây ra trạng thái rối loạn
tiêu hóa. Rotavirus thường phối hợp với các chủng E. coli có độc lực gây bệnh phân
trắng, còn gọi là bệnh phân sữa ở heo 1-6 tuần tuổi và gây bệnh tiêu chảy ở heo sau
cai sữa.
 Bệnh viêm ruột dạ dày truyền nhiễm (Transmissible gastroenteritis-TGE)
Bệnh viêm ruột dạ dày truyền nhiễm thường xảy ra ở đàn heo từ sơ sinh đến
2 tháng tuổi, làm cho heo chết nhiều. Bệnh có tính chất lây lan cao. Heo ở mọi lứa
tuổi đều có thể nhiễm bệnh, song heo từ 5 tuần tuổi trở lên bị bệnh lại chết ít (Phạm
Sỹ Lăng, 2006).
TGR do một virus thuộc nhóm coronavirus họ coronaviridae gây ra. Virus
được phủ lớp bọc có nhiều hình dạng.
Khi virus TGE vào trong tế bào, hàng ngàn phân tử virus được giải phóng và
nhiễm sang các tế bào khác. Sau 4-5 chu kỳ nhân lên của virus hầu hết các tế bào
đường tiêu hóa ở heo sơ sinh bị chết.
Virus xâm nhiễm tự nhiên qua miệng hoặc mũi của heo do tiếp xúc với phân
của heo bệnh hoặc thức ăn bị nhiễm virus, heo nhiễm bệnh mới nhập vào trại là
nguyên nhân gây bệnh quan trọng nhất. Sau khi xâm nhập vào cơ thể virus tấn công
vào nhung mao ruột non và phát triển ở đó, làm nhung mao ruột non bị phá hủy gây
bệnh tiêu chảy kém hấp thu, kém tiêu hóa. Bệnh càng trầm trọng khi bị tác động bởi
stress, lạnh ẩm ướt và nhiễm kế phát (Đào Trọng Đạt, 1996).

 Do ký sinh trùng
Các bệnh ký sinh trùng ở đường tiêu hoá cũng là nguyên nhân dẫn đến tiêu
chảy ở heo con cũng như ở một số gia súc khác. Nguyên nhân này xảy ra chủ yếu ở
heo lứa tuổi sau cai sữa, còn heo con theo mẹ ít gặp hơn vì đa số tỷ lệ nhiễm ký
sinh trùng tăng theo độ tuổi của heo.

×