Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Luận văn: NGHIÊN CỨU TRUYỆN DÂN GIAN KHMER NAM BỘ DƯỚI GÓC NHÌN BỐI CẢNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.81 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Vũ Lam
NGHIÊN CỨU TRUYỆN DÂN GIAN KHMER
NAM BỘ DƯỚI DÓC NHÌN BỐI CẢNH
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 62.22.01.21
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA
VIỆT NAM
Năm 2015
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Sư phạm Tp.
Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Hồ Quốc Hùng – Trường ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh
2. PGS.TS. Phan Thị Thu Hiền – Trường ĐH KHXH&NV, ĐH
Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
Phản biện 1:
TS. Nguyễn Thị Ngọc Điệp –Trường ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh
Phản biện 2:
TS. Trần Minh Hường – Trường ĐH Sài Gòn
Phản biện 3:
TS. Võ Phúc Châu – Trường ĐH Tiền Giang
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Trường, họp tại Trường ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh
Lúc … giờ ngày… tháng … năm……
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
-Thư viện Quốc gia Việt Nam
-Thư viện Khoa học xã hội Tp. Hồ Chí Minh
-Thư viện trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
1


DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Nghiên cứu Văn học dân gian Việt Nam đã có bề dày lịch sử nhất
là sau năm 1945 và đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy vậy, những
phương pháp tiếp cận theo văn bản truyền thống đối với Văn học dân
gian ngày càng cho thấy nhiều “bất cập”, mà rõ nhất là chưa chỉ ra được
cấu tạo tác phẩm văn học dân gian trong môi trường sinh hoạt cụ thể để
thấy những nguyên tắc hình thành và phát triển của nó trong lịch sử. Do
vậy, việc tìm một hướng đi khác để góp phần bổ sung cho hệ thống
phương pháp tiếp cận tác phẩm Văn học dân gian hiện có là việc làm cần
thiết.
Để hỗ trợ cho cách nghiên cứu truyền thống, việc nghiên cứu
truyện dân gian theo vùng văn hoá và tộc người là một hướng tiếp cận
khoa học. Cách làm này đã mang đến một số nhận thức có ý nghĩa
phương pháp luận đáng ghi nhận. Nhưng vận dụng lí thuyết nhân học văn
hoá tiến tới quy chuẩn và quy phạm hóa tác phẩm Văn học dân gian
trong sinh hoạt thực tại vẫn là một thách đố cho công tác nghiên cứu hiện
nay theo khuynh hướng này.
Sinh hoạt văn hóa độc đáo đã giúp người Khmer lưu giữ một bầu
không khí có khả năng tồn tại và phát triển cho các loại hình văn hóa dân
gian, trong đó có Văn học dân gian. Vì vậy, nghiên cứu truyện dân gian
Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn bối cảnh sẽ giúp cho việc nhìn nhận đúng
bản chất của tác phẩm Văn học dân gian trong quá trình hình thành và
phát triển.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Từ việc tiếp cận, phân tích, đối chiếu và hệ thống hóa các lí thuyết
nghiên cứu folklore trên thế giới theo hướng xem Văn học dân gian là
một quá trình, luận án đề xuất hướng nghiên cứu truyện kể dân gian
trong bối cảnh nhằm bổ sung thêm cho những điểm “bất cập” của hướng
2

nghiên cứu dựa trên văn bản thuần túy. Trong đó, việc đề xuất mô hình
ghi chép và cách thức kiến giải truyện kể dân gian Khmer trong bối cảnh
được xem như những mục tiêu khoa học quan trọng.
3. Lịch sử vấn đề
3.1. Nghiên cứu Văn học dân gian theo bối cảnh ở Việt Nam – những
ứng dụng khởi đầu
Ở Việt Nam, từ đầu thập niên 60 của thế kỉ trước, việc nghiên cứu
Văn học dân gian có lưu ý đến hoàn cảnh diễn xướng hay bối cảnh văn
hóa xuất phát từ tính chất nguyên hợp của tác phẩm đã được xác định
như là một yếu tố thuộc bản chất của văn học dân gian. Trên cơ sở tính
nguyên hợp, các phương pháp: hệ thống, tổng hợp, nghiên cứu liên
ngành, loại hình học trong Văn học dân gian … đều được xem như
những cách thức tiếp cận có hiệu quả. Tuy vậy, về cơ bản, tất cả các
phương pháp vừa nêu vẫn xem văn bản là đối tượng chính, còn bối cảnh
văn hóa rộng lớn của Văn học dân gian vẫn không phải là đối tượng
nghiên cứu chính của Văn học dân gian.
Việc xem xét bối cảnh như một phần không tách rời việc thể hiện
tác phẩm Văn học dân gian, hoặc xem hành động kể một câu chuyện là
một đối tượng nghiên cứu thì chỉ mới bắt đầu vào những năm 60 của thế
kỉ XX ở Hoa Kì và các nước phương Tây. Ở Việt Nam, hướng tiếp cận
này bắt đầu vào những năm cuối của thế kỉ XX qua một số công trình
giới thiệu lí thuyết của Chu Xuân Diên, Nguyễn Thị Hiền, Trần Thị An,
Ngô Đức Thịnh, Hồ Quốc Hùng, … và bước đầu vận dụng vào nghiên
cứu qua một vài luận văn thạc sĩ với phạm vi chưa rộng.
3.2. Nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ - cái nhìn tổng quan
3.2.1. Các công trình về văn hóa
Văn hóa tộc người Khmer Nam Bộ đã được giới nghiên cứu quan
tâm từ rất sớm và đặc biệt nở rộ sau năm 1975. Từ nhiều cuộc hội thảo
khoa học, các công trình của các nhà dân tộc học, và từ công tác nghiên
3

cứu-giảng dạy ở các cở sở giáo dục (mà sản phẩm là các luận án-luận văn
của người học), đặc điểm văn hóa Khmer Nam Bộ đã dần dần được bóc
tách ở nhiều phương diện. Nếp sinh hoạt đời thường, phong tục tập quán,
tín ngưỡng lễ hội, và sự biến đổi trong quá trình phát triển giao thoa với
các tộc người khác là những kết quả thu được từ công tác nghiên cứu nêu
trên. Trong bộn bề những đặc điểm được phát hiện, văn hóa Khmer được
nhìn nhận ở hai góc độ: thứ nhất, giới thiệu cho người Việt và các nhà
quản lí xã hội hiểu về đặc trưng văn hóa nhằm xây dựng chính sách quản
lí đúng đắn, phù hợp góp phần nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần
cho tộc người Khmer; thứ hai, đi sâu vào các lĩnh vực cụ thể của đời
sống văn hóa (nhân chủng, tín ngưỡng, phong tục, lễ hội, …) để có cái
nhìn chi tiết hơn về các khía cạnh văn hóa nhằm tạo cơ sở đề xuất các
chủ trương an sinh xã hội, phát huy những nét độc đáo và bảo tồn những
giá trị có nguy cơ mất đi.
3.2.2. Các công trình về Văn học dân gian
Văn học dân gian Khmer Nam Bộ được sưu tầm, nghiên cứu dựa
trên hướng tập trung vào tư liệu bắt đầu muộn hơn so với Văn học dân
gian các dân tộc thiểu số khác. Trước năm 1975, việc nghiên cứu này chủ
yếu có được từ nguồn sách vở của người Pháp viết về người Khmer ở
Đông Dương, không phân biệt giữa người Khmer ở Campuchia và người
Khmer ở Nam Bộ. Phần Văn học dân gian trong các tài liệu đó chiếm tỉ
lệ khiêm tốn và mức độ chỉ đơn giản ở việc giải thích tập quán.
Qua một số công trình như Người Việt gốc Miên, Truyện cổ Khơ
me Nam Bộ, Văn học dân gian Đồng bằng Sông Cửu Long; Văn học dân
gian Sóc Trăng, Văn học dân gian Bạc Liêu, Tích xưa về người Khmer ở
Sóc Trăng, …. có thể thấy vấn đề tìm hiểu truyện dân gian Khmer Nam
Bộ trong thế kỉ XX còn dừng lại ở dạng sưu tầm và biên soạn; có nghiên
cứu bước đầu ở mức độ khái niệm và một vài đặc điểm về thi pháp thể
loại dựa trên văn bản. Tuy nhiên, số lượng các công trình nghiên cứu
4

Văn học dân gian Khmer còn khiêm tốn so với nhiều tộc người khác. Bên
cạnh các tài liệu bằng tiếng Việt, có một số truyện Khmer dạng song ngữ
được biên soạn để dạy cho học sinh Khmer trong một số trường phổ
thông và chỉ dừng lại ở đấy.
Bên cạnh việc sưu tầm thì công tác nghiên cứu Văn học dân gian
người Khmer trong các công trình học thuật chưa thật sự nhiều. Về luận
văn thạc sĩ, có thể kể đến: Khảo sát nguồn truyện dân gian Khmer Nam
Bộ, Giá trị văn hoá thực tiễn trong truyện cười dân gian Khmer Nam Bộ,
Đặc điểm truyện ngụ ngôn Khmer ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Cổ tích
Khơ me ở đồng bằng Sông Cửu Long … Phát hiện cơ bản của những
công trình trên cũng thừa nhận yếu tố văn hóa tộc người, mang đậm màu
sắc Phật giáo đã chi phối mạnh mẽ kết cấu lẫn ý nghĩa của các thể loại
truyện kể. Về luận án tiến sĩ, trong tư liệu chúng tôi khảo sát được, đến
nay, công trình Khảo sát truyện kể dân gian Khơ me Nam Bộ (qua thần
thoại – truyền thuyết – truyện cổ tích) của Phạm Tiết Khánh công bố năm
2007 là luận án duy nhất viết về truyện dân gian Khmer Nam Bộ. Nhìn
chung những công trình vừa nêu đọng lại trong cảm nhận của giới nghiên
cứu những vấn đề sau đây:
- Từ quan điểm xem truyện dân gian như một bộ phận của văn
hóa, dùng để giải thích các phong tục tập quán đến việc xem truyện dân
gian như là một đối tượng nghiên cứu độc lập, nhìn thể loại như là một
lĩnh vực có khả năng mang lại giá trị đã cho thấy hướng nghiên cứu
truyện kể Khmer Nam Bộ đang đi vào chiều sâu, có những phát hiện
mới. Tuy vậy, trên thực tế, việc nghiên cứu ấy vẫn còn hẹp về góc độ tiếp
cận và ít về số lượng các công trình.
- Hướng nghiên cứu folklore trong bối cảnh đã được nhiều nhà
nghiên cứu ở Việt Nam chấp nhận qua các công trình giới thiệu lí thuyết
và ứng dụng bước đầu. Nhưng mục tiêu nghiên cứu trong bối cảnh thực
sự bằng những thao tác cụ thể, tiến đến quy phạm hóa các yếu tố về
5

phương pháp tiếp cận và quy chuẩn hóa cách thức lí giải đối với truyện
dân gian Khmer là điều mà luận án mong muốn có sự đóng góp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng tập trung là nguồn truyện dân gian của người Khmer ở
Nam Bộ dưới ánh sáng của lí thuyết nghiên cứu bối cảnh. Mặc dù tên đề
tài đặt mục tiêu là “nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ” nhưng
để thực hiện tốt trọng tâm đó thì luận án dành phần lớn dung lượng để
làm rõ lí thuyết “góc nhìn bối cảnh”. Liên quan đến vấn đề này, để có sự
nhất quán trong toàn bộ công trình, luận án có một số quy ước về khái
niệm có tính chất công cụ như: truyện dân gian, người Khmer Nam Bộ,
bối cảnh, hướng tiếp cận, folklore và văn học dân gian, chuyện và
truyện,…. cách viết tiếng nước ngoài, cách sử dụng ngôn ngữ chính trong
luận án.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu Văn học dân gian trong bối cảnh là hướng tiếp cận
mang tính tổng thể, liên ngành, đặt nền tảng trên ngôn ngữ học, nhân học
văn hóa và tâm lí học hành vi. Vì vậy, luận án sử dụng:
- các phương pháp ngôn ngữ học: các khái niệm motif, type
truyện, kết cấu, so sánh các bản kể, diễn ngôn, kết cấu, cấu trúc, văn bản,
bối cảnh, phát ngôn, …được vận dụng trong quá trình kiến giải ý nghĩa
của truyện dân gian.
- các phương pháp nhân học văn hoá: khảo sát điền dã, thuyết
tương đối văn hóa (cultural relativism), quan sát- tham gia (observe –
participant), cái nhìn của người trong cuộc (emic) và của người ngoài
cuộc (etic), nghiên cứu so sánh/ so sánh liên văn hóa, phương pháp xã
hội học theo thuyết cơ cấu, … được dùng để ghi chép việc diễn kể các
câu chuyện.
- các phương pháp tâm lí học: các khái niệm dùng để kiến giải
tâm trạng thái độ của người tham gia (kích thích, phản ứng, …).
6

6. Đóng góp của luận án
6.1. Về mặt lí luận: giới thiệu khuynh hướng nghiên cứu folklore
trong bối cảnh đi từ lịch sử hình thành, các quan niệm lí thuyết để tiến tới
xây dựng mô hình bản ghi chép khi điền dã, thu thập truyện dân gian và
các phương pháp kiến giải truyện dân gian Khmer Nam Bộ trong bối
cảnh.
6.2. Về mặt thực tiễn: là những sản phẩm ghi chép việc kể chuyện
trong bối cảnh với những cách trình bày thấy rõ nhiều yếu tố khác bên
cạnh văn bản. Ngoài ra, việc kiến giải truyện kể với những tiêu chí từ
người kể, người nghe, các yếu tố môi trường, truyền thống, sự tương tác,
… sẽ mang đến cho việc tìm hiểu Văn học dân gian những góc nhìn mới,
nhiều tiềm năng.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần dẫn nhập, kết luận và phụ lục, luận án được triển khai
trong 04 chương:
Chương 1: Tổng quan về lí thuyết và ứng dụng trong nghiên cứu
truyện dân gian dưới góc nhìn bối cảnh (51 trang).
Chương 2: Không gian văn hóa tộc người và những vấn đề về
truyện dân gian Khmer Nam Bộ (44 trang).
Chương 3: Xây dựng các công cụ ghi nhận truyện dân gian Khmer
Nam Bộ trong bối cảnh (37 trang).
Chương 4: Một cách kiến giải truyện dân gian Khmer Nam Bộ
dưới góc nhìn bối cảnh (39 trang).
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ LÍ THUYẾT VÀ ỨNG DỤNG TRONG NGHIÊN
CỨU TRUYỆN DÂN GIAN DƯỚI GÓC NHÌN BỐI CẢNH
7
1.1. Nghiên cứu truyện dân gian theo văn bản - những điều nhìn lại
Suốt thế kỉ XX, nghiên cứu Văn học dân gian theo hướng “thụ

động” qua văn bản được xem là chủ đạo ở Việt Nam (thụ động hiểu theo
nghĩa là nghiên cứu trên đối tượng đã được văn bản hóa). Công việc đó
vẫn có giá trị và ý nghĩa cho đến hôm nay vì nó giúp ta hiểu được cách tổ
chức và cấu trúc sâu của ngôn từ trong tác phẩm. Tuy nhiên, hướng
nghiên cứu đó có một số vấn đề cần được nhìn lại.
1.1.1. Văn bản truyện dân gian nghiên cứu theo hướng ngữ văn
Với tiền đề folklore là những tạo tác văn hoá, các nhà nghiên cứu
đã tập trung đi tìm hiểu mức độ ứng dụng và ảnh hưởng của nó trong đời
sống bằng cách khám phá sự lan truyền của cốt truyện hay các motif; so
sánh mức độ giống và khác nhau của các tác phẩm cùng loại để truy tìm
nguyên bản của một câu chuyện. Với tiền đề truyện dân gian là những
thực thể ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu đặt nhiệm vụ cho mình là phải nỗ
lực đi sưu tầm, cố gắng ghi lại bằng văn bản (chữ viết/ âm thanh) có
nguy cơ mất đi theo thời gian. Từ hai góc độ nêu trên, nghiên cứu truyện
dân gian truyền thống tập trung chủ yếu vào văn bản, sử dụng văn bản
làm đầu mối cho tất cả các công việc sưu tầm, biên tập, lưu trữ và nghiên
cứu. Hướng tiếp cận ngữ văn học (literary approach) đối với folklore là
một trong những phương pháp được quan tâm và áp dụng rộng rãi trong
suốt thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên các nhà folklore Hoa Kì
đã chứng minh rất thuyết phục rằng nếu không có bối cảnh và tình huống
sử dụng thì văn bản ghi một câu tục ngữ sẽ đôi khi hiểu lầm là câu đố và
ngược lại: “Chỉ văn bản không thôi thì vô nghĩa đối ở nền văn hóa khác”.
Do đó, phương pháp ngữ văn học vẫn có những chỗ bất cập.
1.1.2. Văn bản truyện dân gian nghiên cứu theo type và motif
Đầu thế kỉ XX, nghiên cứu truyện kể dân gian có sự chuyển đổi
theo hai phía: góc nhìn lịch đại thì vận dụng tiếp cận lịch sử và tiếp cận
xuyên văn hoá để tìm hiểu chủ đề, công thức cấu tạo nội tại của một tác
8
phẩm; góc nhìn đồng đại thì vận dụng phương pháp so sánh nhiều tác
phẩm để rút ra các điểm giống (motif, type) và khác (dị bản). Từ đó, các

công trình đi đến mục tiêu thiết lập các quy luật của cấu trúc thi pháp thể
loại và các bảng tra cứu có tính khái quát cao. Hệ quả là, hướng nghiên
cứu văn bản qua type và motif không chỉ dừng lại ở một trường phái, một
khu vực (châu Âu hay Hoa Kì) mà "việc vận dụng lí thuyết này để
nghiên cứu truyện dân gian được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới
suốt nửa cuối thế kỉ XX". Tuy nhiên, sự bất cập của hướng nghiên cứu
nêu trên vẫn tồn tại, mà một trong những điểm yếu của nó tình trạng
không ăn khớp với thực tiễn của đời sống folklore đang diễn ra. Cụ thể
là:
- Mối quan hệ giữa tác phẩm Văn học dân gian trên văn bản và đời
sống thực tế có một sự chênh lệch nhất định. Nhiều tác phẩm qua quá
trình văn bản hoá thành tư liệu, trải qua thời gian, đã không còn có sức
“bám rễ” trong đời sống của một cộng đồng nào đó, trở nên xa lạ với
chính nơi nó được sưu tầm.
- Khách quan mà nói, folklore không chỉ là cái đã qua, cũng không
chỉ là những thứ nằm im trên trang sách trong thư viện mà nó còn là cái
vẫn tồn tại như một dòng chảy trong đời sống hôm nay với những cung
bậc không dễ nhận thấy.
- Các lí thuyết nghiên cứu hiện nay phần lớn chỉ tập trung vào một
“khoảnh khắc” được ghi lại của dòng chảy đó mà chưa chú ý nhiều đến
“quá trình”.
1.2. Nghiên cứu folklore trong bối cảnh – khuynh hướng mới ở
phương Tây
1.2.1. Chuyển hướng trong định nghĩa về folklore
Từ những năm 1960, việc nghiên cứu folklore ở Hoa Kì bắt đầu có
sự chuyển hướng về phương pháp tiếp cận mà khởi đầu là việc định
nghĩa lại bản chất của folklore. Với cách nhìn folklore là diễn ngôn
9
trong đời sống, là một sự kiện giao tiếp, các nhà khoa học đã mở rộng
biên giới của yếu tố ngôn từ trong folklore, kéo theo thay đổi quan niệm

về phân chia thể loại. Từ lí thuyết Nhân học văn hóa, các khái niệm “bối
cảnh tình huống” và “bối cảnh văn hoá” được quan tâm và vận dụng vào
việc xem xét lại định nghĩa về folklore. Bối cảnh theo cách nghĩ của các
tác giả trên vốn được coi là yếu tố tối cần thiết để hiểu một văn bản, là
những tình huống cụ thể mà một văn bản sẽ được sáng tác hay diễn
xướng để thu hút sự chú ý của người xem; và là những hệ thống văn hoá
lớn hơn mà văn bản là một phần trong đó.
Ngoài ra, theo lí thuyết tiếp cận tâm lí học hành vi, các nhà
folklore học cho rằng hành vi được hiểu là phản ứng có điều kiện của con
người trước một sự tác động nào đó từ bên ngoài, là cái hoàn toàn có thể
quan sát và ghi nhận được. Từ hành vi có thể suy ra tâm lí, chiều sâu tâm
thức. Do đó, trong folklore, việc tham dự và quan sát trực tiếp một buổi
kể chuyện và ghi lại những phản ứng của người kể và người nghe sẽ giúp
cho người nghiên cứu hiểu được những biến đổi tâm lí, những ý nghĩa
của những hành động phản ứng từ phía người kể lẫn khán giả. Đằng sau
những hành vi của những người tham gia là những cơ cấu về tâm lí diễn
xướng, tiếp nhận tác phẩm Văn học dân gian. Qua những nền tảng đó, tác
phẩm Văn học dân gian đã được xem xét với những góc nhìn khác và
định hướng khác, cụ thể:
- Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy bản chất của folklore gần với
ngôn ngữ hơn là văn học. Diễn xướng truyện kể không phải là lặp lại
nguyên những gì người kể đã nghe mà anh ta sẽ thể hiện lại truyền thống
bằng cách riêng của cá nhân mình.
- Folklore giờ đây không phải là những tác phẩm đã hoàn thành mà
được xem như một quá trình (process), như là những lời nói nghệ thuật
(verbal art) và lời nói nghệ thuật trong folklore như là sự diễn xướng
10
(verbal art as a performance). Tức là ngôn ngữ folklore là ngôn từ trong
hành chức của nó.
- Trong những tình huống cụ thể, việc kể chuyện và diễn xướng

của các cá nhân và nhóm người trong một bối cảnh nảy sinh những tương
tác về mặt tâm lí và hành động.
1.2.2. Sự đa dạng trong hướng tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu
folklore
Những khai phá bước đầu trong việc nghiêu cứu folklore trong bối
cảnh đã được các nhà folklore học Châu Âu khởi xướng trong nhiều công
trình rải rác của vài cá nhân. Với các thuật ngữ bối cảnh xã hội và văn
hoá, tình huống cụ thể, tình trạng tâm lí của người kể, người lưu giữ
truyền thống chủ động, truyền thống và ứng tác, ảnh hưởng của cá tính
và địa vị xã hội của người kể chuyện vào văn bản truyện kể, hoàn cảnh
vốn là độc đáo duy nhất, sự lặp lại có tính chất song song trong lời kể,
“khoá” (key) và “rập khuôn” (patterning), … và những lí giải kèm theo,
các nhà folklore phương Tây và Hoa Kì đã đặt nền móng cho một hướng
tiếp cận mới, folklore trong bối cảnh. Trong đó có ba đặc điểm nổi bật:
(1) Hướng nghiên cứu Văn học dân gian trong bối cảnh đề cao vai trò
người kể, người trình bày hay thể hiện trong nghiên cứu folklore. (2)
Cách thức và cơ cấu thể hiện là yếu tố chiếm vai trò nền tảng cho việc
lĩnh hội một tiết mục Văn học dân gian được trình diễn. (3) Trong đặc
điểm ngôn ngữ thể hiện, các yếu tố đơn giản hóa, sự lặp lại có tính song
song trong lời kể, các “khóa” để báo hiệu bắt đầu tình trạng trình diễn, …
là các vấn đề mới, có tác động đến định hướng lí giải ý nghĩa của tác
phẩm.
1.2.3. Một cách hiểu về tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu Văn học
dân gian
Khái niệm “context” (bối cảnh) được hiểu là tất cả những gì đi
cùng với văn bản. Từ đó suy ra, trong diễn ngôn kể chuyện dân gian, bối
11
cảnh kể chuyện cũng có vai trò tạo nghĩa cho tác phẩm bên cạnh ngôn từ.
Hướng tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu Văn học dân gian đặt tác
phẩm trong mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài, nhìn tác phẩm từ phía

người kể, người nghe và những quy tắc giao tiếp tạo nên hiệu quả nghệ
thuật của cách thể hiện một câu chuyện.
Bối cảnh bao gồm toàn bộ hoàn cảnh văn hóa, lịch sử rộng lớn có
sức tác động đến đời sống vật chất, kinh tế lẫn đời sống tinh thần của một
dân tộc. Tình huống (cụ thể), bối cảnh xã hội đặc biệt là các mức độ khác
của bối cảnh trong nghiên cứu.
Khái niệm diễn xướng (performance) có mối quan hệ với nghiên
cứu theo bối cảnh. Nếu nghiên cứu trên văn bản chú trọng vào thông tin
đã được mã hóa vào ngôn từ hay các dạng tồn tại khác (nghĩa là thông tin
đã ở trong trạng thái hoàn thành) thì trong diễn xướng, người ta chú trọng
vào hành động thông tin trong sự giao tiếp, ở đó hành động thông tin
được đem ra cho người ta quan sát.
1.3. Nghiên cứu truyện dân gian trong bối cảnh – những vấn đề về
phương pháp tiếp cận
1.3.1. Sự thay đổi trong thu thập và ghi chép tư liệu
Vì đối tượng nghiên cứu là một quá trình nên việc tham gia của
người ghi chép vào trong hoàn cảnh thực tiễn được xem như là một
nguyên tắc tối ưu. Tất cả những câu chuyện được kể phải được ghi lại
một cách trực tiếp, giữ đúng ngôn từ của người kể chuyện, không biên
tập, không chỉnh sửa. Do đó, bản ghi chép phải đảm bảo các nguyên tắc
sau:
- Thể hiện bối cảnh của câu chuyện được kể và xác định nguyên
nhân nào gây ra tình trạng người ta muốn kể chuyện.
- Xác định quá trình kể chuyện và sự tương tác giữa các yếu tố
tham gia kể chuyện có tác động đến kết cấu, chi tiết và ý nghĩa của câu
chuyện như thế nào.
12
- Không thể thực hiện nghiên cứu như kiểu tiếp cận hệ thống (tập
hợp số lượng lớn tác phẩm) mà phải thực hiện ở dạng nghiên cứu trường
hợp (case study).

1.3.2. Sự thay đổi trong nghiên cứu thể loại
Theo hướng tiếp cận bối cảnh, các nhà khoa học thống nhất rằng:
không xem thể loại như là cái gì có sẵn, đã hoàn chỉnh mà phải xem nó là
những yếu tố được nảy sinh từ thực tế giao tiếp. Trong quan niệm đó, thể
loại như một hình thức diễn ngôn. Quan điểm mang tính tộc người của
diễn ngôn thể loại có thể được tóm tắt ở một số vấn đề như sau: (1) Hệ
thống thể loại có tính tộc người là cách phân loại không có tính phản
ánh thực tại, có ý nghĩa đối với cộng đồng và có giá trị tự thân trong
giao tiếp của cộng đồng. (2) Trong mỗi hệ thống của tộc người, thể loại
xác lập cho folklore một kiểu ngữ pháp, hay nói đúng hơn là quy tắc giao
tiếp, nhằm đạt hiệu quả tốt nhất trong việc thể hiện một thông điệp phức
tạp đặt trong một bối cảnh văn hoá. (3) Bối cảnh tạo ra hành vi của sự
diễn xướng folklore cũng có khả năng định nghĩa về mặt thể loại. (4)
Qua tên thể loại, người ta thường thấy các giá trị biểu trưng của tộc
người, những đặc điểm mà người ta nhận thức được qua các hình thức lời
nói.
1.3.3. Sự thay đổi trong cách kiến giải
Việc kiến giải (interpretation) được xây dựng trên nền tảng lí
thuyết của nhiều ngành khoa học. Qua những phương pháp chiết xuất từ
các ngành khoa học ấy, có thể định hướng việc kiến giải truyện dân gian
trong bối cảnh theo một số cách thức như sau: Thứ nhất, dưới góc nhìn
tâm lí học, nguyên tắc cơ bản được duy trì để lí giải truyện kể là: việc kể
chuyện phản ảnh một xúc cảm của cá nhân bị đè nén do họ không có khả
năng đương đầu trực tiếp với xã hội. Thứ hai, theo hướng nhân học văn
hóa, truyện kể được xem là sự “phản tư” của xã hội, tức là cái nhìn của
xã hội về chính bản thân nó. Thứ ba, theo hướng ngữ văn, việc kiến giải
13
truyện dân gian quan tâm đến thi pháp dân tộc học. Trong đó, thể loại
được định nghĩa ở địa phương với tư cách một hệ thống tạo bố cục và
truyền đạt ý nghĩa.

Tiểu kết
1. Nghiên cứu truyện dân gian theo văn bản đã tạo ra những thành
tựu lớn cho folklore thế giới trong thế kỉ XX. Tuy nhiên, thực tế đòi hỏi
một cách tiếp cận khác để lí giải nguyên nhân của sự khác nhau nhằm
làm phong phú hơn di sản folklore và làm cho phương pháp nghiên cứu
sát với thực tiễn cuộc sống hơn.
2. Hướng nghiên cứu Văn học dân gian trong bối cảnh cho thấy
tiềm năng của nó trong việc lí giải tác phẩm theo đúng bản chất; trả nó về
với đời sống thực tiễn.
3. Từ sự thay đổi trong hướng tiếp cận đã dẫn đến sự thay đổi
trong cách ghi chép tư liệu và cách kiến giải.
Chương 2
KHÔNG GIAN VĂN HÓA TỘC NGƯỜI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ
TRUYỆN DÂN GIAN KHMER NAM BỘ
2.1. Không gian văn hoá tộc người Khmer Nam Bộ
2.1.1. Đặc trưng tộc người và đặc điểm cư trú
Đặt trong tương quan với người Việt ở Nam Bộ, người Khmer là
một trong những dân tộc thiệt tình, chịu khó, “chịu chơi” và có cá tính.
Người Khmer ở ĐBSCL cư trú theo rải rác trên nhiều tỉnh thành và tập
trung thành ba cụm chính. So với người Khmer ở Campuchia, điều kiện
sống của người Khmer ở Nam Bộ có những nét dị biệt. Cũng là xã hội
nông nghiệp lúa nước nhưng người Khmer Nam Bộ thường tập hợp nhau
lại thành những tập thể láng giềng nhỏ, bám sát đất trồng trọt và gọi là
phum và cao hơn phum là srok (còn gọi trại ra thành sóc).
Phum và sóc của người Khmer Nam Bộ không chỉ là phạm vi cư
trú mà nó còn liên quan đến những khác biệt về sắc thái văn hóa của từng
14
vùng. Và cũng chính nhờ phum sóc với ngôi chùa làm trung tâm hội tụ
tất cả các hoạt động mang tính tâm linh và tính tập thể của cộng đồng mà
người Khmer Nam Bộ đã lưu giữ được nhiều nét văn hóa riêng và độc

đáo.
2.1.2. Nét riêng trong tín ngưỡng và phong tục
Khi tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến văn hóa dân tộc Khmer,
nhiều người đã thừa nhận Phật giáo Nam tông có tác động sâu sắc đến
nhiều mặt trong đời sống mỗi người Khmer. Phật giáo Nam tông đỡ đầu
mỗi cá nhân của người Khmer từ lúc họ sinh ra đến lúc nhắm mắt lìa
trần. Cuộc sống người Khmer coi trọng hiện tại ở tất cả các chiều kích và
các mối quan hệ. Xét ở góc độ nhân văn, quan niệm sống của người
Khmer là một trong những lối suy nghĩ có giá trị văn hóa của nhân loại.
Một lối sống không lệ thuộc vào vật chất, đậm tâm linh và hướng thiện
vô cùng lành mạnh. Ngoài ra một trong những đặc điểm về văn hoá của
người Khmer đáng lưu ý nữa là khuynh hướng thiên về biểu diễn và nghệ
thuật tạo hình.
2.2. Những vấn đề về phân loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ
trong nghiên cứu truyền thống
2.2.1. Phân loại theo đặc tính hình thức
Đi vào thực tiễn nghiên cứu truyện Khmer Nam Bộ, việc phân loại
trước nay cơ bản vẫn dựa trên văn bản. Cho nên, như một hệ quả, việc lí
giải cội nguồn tạo nên những giá trị đặc trưng của tộc người Khmer biểu
hiện trong từng thể loại truyện dân gian thì chưa được chú ý thực hiện
một cách công phu. Ở một mức độ sâu hơn, một điểm cần được bổ sung
thêm là tìm hiểu những cách diễn hoá của thể loại trong đời sống hằng
ngày của xã hội đương đại để xác định các yếu tố nào tham gia vào việc
hình thành đặc trưng thể loại mà nếu chỉ xét trên văn bản thì khó thấy.
15
2.2.2. Phân loại theo chức năng lí giải lễ hội
Nếp sinh hoạt gắn liền với điều kiện cư trú, các lễ hội, phong tục
tập quán và tín ngưỡng của đồng bào Khmer Nam Bộ đã được các nhà
nghiên cứu chứng minh là có sự gắn bó hữu cơ với các thể loại truyện
dân gian. Điều đó có nguyên nhân từ nhiều yếu tố: (1) Nền văn hoá nông

nghiệp lúa nước của vùng Nam Bộ vốn có nguồn gốc xa xưa, mang
những đặc điểm văn hoá bản địa vùng Đông Nam Á. (2) Người Khmer
vốn có tín ngưỡng dân gian riêng nên các lễ nghi truyền thống gắn liền
với vòng đời của mỗi người Khmer là những bối cảnh thường xuyên diễn
ra các hoạt động diễn xướng tín ngưỡng, trong đó có liên quan đến các
câu truyện kể. (3) Khi đến vùng Nam Bộ, hoà nhập với môi trường mới,
trải qua quá trình cộng cư, một số truyền thuyết của người Khmer có
thêm một số chi tiết gắn liền với đặc điểm của vùng và sự giao thoa văn
hóa.
2.3. Một cách hiểu về thể loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới
góc nhìn bối cảnh
Thể loại Văn học dân gian là một phạm trù có nhiều đặc tính, đa
dạng, được hình thành và phát triển từ nhiều góc độ mà khi nghiên cứu
cần có một tư duy tổng thể, đặt trong nhiều mối quan hệ, nhiều góc nhìn.
Với tư cách hình thức diễn ngôn, đặt dưới góc nhìn văn hoá tộc người,
thể loại văn học dân gian Khmer Nam Bộ bộc lộ nhiều đặc điểm mang
tính thực tế. Vì vậy, khi khảo sát truyện dân gian Khmer Nam Bộ trong
bối cảnh, chịu sự “phê chuẩn” của cộng đồng thì việc phân loại nên được
xem xét từ góc độ nguyên tắc nghệ thuật kết hợp với quan niệm và sự
thừa nhận của quần chúng.
Tiểu kết
1. Người Khmer Nam Bộ được định vị trong một không gian văn
hóa cộng cư với những tộc người khác (Việt, Hoa, Chăm, …), được phân
bố trên các giồng cao ráo của vùng châu thổ Sông Cửu Long. Trong tổ
16
chức truyền thống, người Khmer cơ cấu thành những phum, sóc sống
xung quanh các ngôi chùa. Tín ngưỡng Phật giáo Nam tông cũng có ảnh
hưởng quan trọng đến đời sống tinh thần và sinh hoạt của người Khmer.
Đó cũng là cơ sở về không gian văn hóa cho việc nghiên cứu truyện dân
gian trong môi trường diễn xướng.

2. Nổi bật trên phông nền ấy, người Khmer Nam Bộ đã sở hữu một
kho tàng truyện kể dân gian phong phú, tồn tại trên kinh sách viết trên lá
buông được giữ trong các ngôi chùa và trong tâm thức dân chúng.
3.Thái độ chấp nhận của người nghe và cách người kể thể hiện câu
chuyện mới quyết định sự tồn tại của một thể loại Văn học dân gian trong
thực tế. Cho nên thể loại, trong cách nhìn bối cảnh, không xuất phát từ lí
thuyết hay ý muốn chủ quan của người nghiên cứu mà từ thực tiễn của
đời sống quy định.
Như vậy, việc hiểu thể loại Văn học dân gian của người Khmer
dưới góc độ bối cảnh đặt ra một vấn đề lớn về thi pháp thể loại. Đây là
một thách thức đối với hướng tiếp cận này mà phạm vi luận án này chưa
thể thể giải quyết được.
Chương 3
XÂY DỰNG CÁC CÔNG CỤ GHI NHẬN TRUYỆN DÂN GIAN
KHMER NAM BỘ TRONG BỐI CẢNH
3.1. Kết cấu bối cảnh kể chuyện dân gian Khmer Nam Bộ
3.1.1. Các yếu tố tạo bối cảnh kể chuyện
Mối quan hệ giữa những người đang tham gia một giao dịch thẩm
mĩ; sự chi phối của thời gian, địa điểm và cơ hội đối với việc kể chuyện;
những cảm xúc dấy lên từ sự diễn xướng ở cả người kể, người nghe, lẫn
người ghi chép là các yếu tố góp phần tạo nên bối cảnh kể chuyện. Quan
niệm này đặt trọng tâm ở hai phương diện: con người với những nhận
thức, xúc cảm, tâm tư và bối cảnh với những thiết chế và điều kiện bao
quanh việc thể hiện tác phẩm. Để góp phần xác định bối cảnh, các nhà
17
tâm lí học đã áp dụng các khái niệm kích thích (stimulus) và phản ứng
(response) thành lí thuyết S-R khi tiến hành phân tích các tiết mục
folklore.
3.1.2. Một số bối cảnh kể chuyện dân gian Khmer Nam Bộ
- Khi xảy ra một sự kiện làm cho người tham gia tự phản ứng bằng

cách kể câu chuyện nào đó thì trường hợp đó được xem là kể chuyện
trong bối cảnh có sự kích thích ngẫu nhiên.
- Khi xảy ra việc hội tụ nhiều người, để bàn bạc theo một chủ đích
đã định sẵn mà nảy sinh việc kể chuyện thì dạng đó gọi là bối cảnh
thương thảo của các thành viên cộng đồng.
- Khi yếu tố tạo bối cảnh là những sự kiện được lên lịch và có tính
chu kì thì gọi là kể chuyện trong bối cảnh lễ hội.
3.2. Việc tổ chức một cuộc điền dã để ghi nhận truyện kể trong bối
cảnh
3.2.1. Quan niệm ghi chép điền dã theo nghiên cứu truyền thống
Trong nghiên cứu truyền thống, việc điền dã nhằm đảm bảo lưu
giữ các truyện kể bằng lời trong hình thức văn bản viết. Điều đó đồng
nghĩa với tình trạng: nhà sưu tầm và nhà nghiên cứu có hai đối tượng
khác nhau.
Với hướng nghiên cứu Văn học dân gian trong bối cảnh, nhà
nghiên cứu phải thực hiện việc nghiên cứu đồng thời với việc sưu tầm.
Để làm được điều đó, người nghiên cứu cần phải có sự chuẩn bị và cách
thực hiện khi tham gia thực tế diễn xướng.
3.2.2. Chọn bối cảnh và chuẩn bị ghi chép
Đầu tiên, để bắt đầu thiết lập một cuộc điền dã, cần chọn một
nhóm người dân gian, quan sát các yếu tố về không gian sống, tìm hiểu
các đặc điểm về thời gian cư trú của đối tượng. Trước đây, khi người
điền dã phải ghi lại từng chữ một bằng tay, hầu hết tất cả công việc đều
dồn vào việc theo đuổi mạch văn các bản truyện kể hoặc ghi lại giai điệu
18
xung quanh văn bản. Còn bây giờ với các thiết bị máy móc, người điền
dã có thể xem xét phân tích bối cảnh - không chỉ là yếu tố của sự diễn
xướng kể chuyện mà còn là bối cảnh của việc ghi âm - theo một tiến trình
và diễn biến của việc kể.
3.2.3. Cách ghi chép trong nghiên cứu truyện dân gian trong bối cảnh

Qua những kinh nghiệm của các nhà folklore học Việt Nam và một
số quan điểm lí thuyết quốc tế, việc ghi lại một tác phẩm Văn học dân
gian trong bối cảnh cần đảm bảo các nguyên tắc sau: (1) Những yêu cầu
của ngôn ngữ được sử dụng trong thực tiễn, đặt trong bối cảnh văn hoá
xã hội với tư cách diễn ngôn văn hoá. Điều này buộc người điền dã phải
ghi chép các lời kể không được bỏ sót các khía cạnh tương tác mà một
diễn ngôn thường có. (2) Cần phải sử dụng phương pháp ghi chép điền
dã dân tộc học như là một nguyên tắc xuyên suốt. (3) Khi đọc một văn
bản ghi nhận truyện dân gian trong bối cảnh diễn xướng, người ta phải
“đọc” cái thông điệp mà người kể và người nghe thể hiện qua quá trình
kể chuyện.
3.3. Mô hình bản ghi chép dùng trong điền dã thu thập truyện dân
gian Khmer Nam Bộ
Dựa vào tinh thần nêu trên, chúng tôi đã thiết kế bản ghi chép có
các phần như sau:
Phần bối cảnh gồm các yếu tố: (1) tựa đề/ sự kiện kể chuyện (2)
thể loại, (3) người kể và người tham gia, (4) tình huống có sự kích thích.
Kết cấu: gồm các lời dẫn dắt, giải thích câu chuyện, thái độ cảm xúc, tâm
lí của người tham gia và của chính người ghi. Văn bản: nội dung câu
chuyện được kể. Các phần nêu trên được bố trí thành một bảng như sau:
Tựa đề/ sự kiện:
Tên người tham gia:
Địa điểm ghi nhận
Ngày tháng ghi
19
Tựa đề/ sự kiện:
nhận:
Thể loại:
Cụ thể hơn về người tham gia:
Tình huống kích thích:

Kết cấu Văn bản
Tiểu kết
1. Các yếu tố cấu văn hóa tạo nên bối cảnh góp phần định hướng
cách xây dựng bảng ghi chép truyện kể trong bối cảnh.
2. Việc thay đổi trong cách thức ghi nhận và thể hiện câu chuyện
trong bối cảnh đã làm thay đổi cách đọc và cách hiểu đối với một câu
chuyện. Trong quá trình ghi nhận sự kiện đang diễn ra, các kiến thức về
tâm lí học, xã hội học và nhân học được vận dụng tối đa vào một bản ghi
chép.
3. Với bản chất là sự đối thoại, là diễn ngôn kể, câu chuyện giờ
đây không chỉ là lời của một người kể cho một đối tượng giả định mà là
kể cho những đối tượng cụ thể, có sự tiếp xúc trực tiếp. Do đó, lời kể trở
nên gọn và hướng về hành động ngôn từ nhiều hơn.
Chương 4
MỘT CÁCH KIẾN GIẢI TRUYỆN DÂN GIAN KHMER NAM BỘ
DƯỚI GÓC NHÌN BỐI CẢNH
4.1. Cách thức kiến giải truyện dân gian trong bối cảnh
Để kiến giải truyện dân gian trong bối cảnh, phân tích từ diễn ngôn
kể, luận án đề xuất mô hình gồm 03 vấn đề: phân tích các yếu tố bối
cảnh (gồm: truyền thống, đặc điểm cá nhân những người tham gia, cấu
trúc cộng đồng, tình huống tạo kích thích); mô tả diễn ngôn kể chuyện và
20
phân tích ý nghĩa sự kiện kể chuyện. Mỗi vấn đề phân tích có sự tương
quan với bản ghi chép và các khía cạnh mà việc kể chuyện trong bối cảnh
yêu cầu. Luận án tiến hành kiến giải việc kể chuyện trong 03 bối cảnh.
4.2. Kiến giải truyện kể trong bối cảnh có sự kích thích ngẫu nhiên
4.2.1. Phân tích các yếu tố bối cảnh
Người Khmer Nam Bộ có một hệ thống truyện kể địa danh gắn
liền với từng vùng đất, từng khu vực khắp các tỉnh thành, nhiều địa danh
hiện nay Nam Bộ có gốc từ tiếng Khmer. Nơi mà người kể cư ngụ là

cộng đồng người Khmer đô thị, ở thành phố, sống xen kẻ với người Việt,
người Hoa, không tập trung thành phum, sóc như ở nông thôn. Cả hai
người tham gia kể chuyện không cố tình kể lại truyền thuyết địa danh dù
sự kích thích bắng đầu từ tên Chằng Ré. Hai người không hóa thân mình
thành một vị trí khác trong việc kể “Sự tích bến Chằng Ré”.
4.2.2. Mô tả diễn ngôn kể chuyện
Do câu chuyện phục vụ cho việc giải thích địa danh nên cách kể
chủ yếu là các sự kiện để lí giải. Nội dung cố gắng thu gọn trong một số
chi tiết chủ yếu tạo sự tin tưởng, không thêm thắt để tạo sự hấp dẫn. Lối
kể của người cha vợ có giọng quyền uy và tự tin vì dựa vào truyền thống
và vị thế người cha. Lối kể của người con rể thì nhũn nhặn hơn và ít tự
tin hơn.
4.2.3. Ý nghĩa của sự kiện kể chuyện
Sự lựa chọn câu chuyện của chàng rể ở dạng đơn giản và gần gũi
nhất không phải do bản thân câu chuyện ngắn hay dài mà do bối cảnh
thúc ép. Vận dụng ưu thế của người mở lời và vị thế xã hội, người cha vợ
chiếm được thế ưu trội trong việc kết thúc phần kể của mình. Mục đích
của người kể và người nghe đã biến chức năng chính của truyền thuyết từ
việc làm rõ một nhận thức về địa danh bằng một lối giải thích phổ biến
của dân gian chuyển sang việc chứng minh ai đúng. Hai câu chuyện là
cái cớ để người kể trình bày sự hiểu biết của mình về tôn ti trong gia đình
21
mà gốc rễ tâm thức của nó là mối quan hệ hôn nhân với vị thế cá nhân
của cha vợ và con rể. Giá trị của câu chuyện nằm ở việc khẳng định sự
hiểu (người con) và ưu thế thân tộc (người cha vợ).
4.3. Kiến giải truyện kể trong bối cảnh thương thảo của các thành
viên cộng đồng
4.3.1. Phân tích các yếu tố bối cảnh
Lễ cưới người Khmer là một trong những lễ nghi quan trọng của
đời người, nhưng do cuộc sống thay đổi nên lễ tục cũng nhạt phai dần.

Sự cọ xát giữa những cách hiểu khác nhau sẽ làm nảy sinh những tương
tác về mặt giao tiếp lẫn văn hóa, dẫn đến thay đổi về cách kể chuyện và
cách tiếp nhận, kiến giải những câu chuyện liên quan trong đám cưới.
Nguồn cơn để có buổi thương thảo là từ nhu cầu của ông một gia đình, sự
hiểu biết của các vị à cha, ban lễ nhạc cùng với một số người ngoài khu
vực cư trú ấy.
4.3.2. Mô tả diễn ngôn kể chuyện
Qua một buổi thương thảo, trò chuyện có ít nhất hai câu chuyện
dân gian đã được nêu ra để giải thích cho hai tục lệ: lễ cắt bông cau và lễ
cắt chỉ đã cột tay. Chính những người tham gia đã tạo ra sự tương tác về
diễn trình và cấu trúc của câu chuyện trong đời sống thực tế. Trật tự lễ
cưới được các vị kể thống nhất gồm: múa cổng rào, đào ao, quét chiếu,
buộc tay, ăn trầu, trình lễ vật, cắt tóc, giã thuốc, chà răng, cắt bông cau,
lạy mặt trời. Tuy nhiên trong quá trình thương thảo, trật tự đó được kể rất
lẫn lộn, nhiều người tham dự phát hiện và có điều chỉnh lại. Trong quá
trình bàn bạc có những câu chuyện sau đây đã được kể để minh chứng
cho các nghi thức: truyện thơ Riêm Kê, chuyện hoàng tử Pras Thông và
công chúa rắn Neang Nec, sự tích lễ cắt bông cau, chuyện hai người bạn
và lễ cắt chỉ cột tay.
22
4.3.3. Ý nghĩa của sự kiện kể chuyện
Theo những người trong cuộc, chuyện kể liên quan đến lễ cắt bông
cau có ý nghĩa nói về tấm lòng cha mẹ khi đưa tiễn con gái lấy chồng, là
trao tình thương con của mẹ ruột cho mẹ chồng. Tuy nhiên, khi so sánh
với một câu chuyện Bốn anh tài kể ở một môi trường khác, thì người
tham gia và những người bên ngoài lại thấy ý nghĩa lại không giống như
vậy. Và cơ bản, nghĩa hiện tại của truyền thuyết hay thần thoại Khmer
trong bối cảnh đã bị thế tục hóa như kiểu truyện cố tích, ý nghĩa thiêng
liêng trong đời sống tinh thần ngày càng thưa dần và thay vào đó là
những giá trị có tính phục vụ sinh hoạt đời thường.

4. 4. Kiến giải truyện kể trong bối cảnh lễ hội
4.4.1. Phân tích các yếu tố bối cảnh
Lễ cúng trăng (ooc-om-booc) là một lễ nghi nông nghiệp, mang
tính chất tạ ơn trời đất đã ban cho mùa màng được tươi tốt, kết quả gặt
hái được đủ đầy sung túc. Trong lễ đó, người ta kể chuyện cho con cháu
nghe. Ông Thạch Phum là một người nông dân Khmer cao niên, đã từng
đi tu thời còn trai trẻ, biết giới luật và được nhiều người coi trọng. Còn
những người nghe (con cháu) thì đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của đời sống
hiện đại. Thực tế trong lễ cúng trăng hiện nay ít người còn tái hiện việc
kể này.
4.4.2. Mô tả diễn ngôn kể chuyện
Sau khi thực hiện xong nghi thức đút cốm dẹp và hỏi mấy đứa trẻ
về ước mơ sau này, những người trong gia đình mời chia nhau các vật
phẩm cúng trăng và cùng ngồi ăn với đám trẻ con. Ông Thạch Phum bắt
đầu kể chuyện. Câu chuyện mà ông Thạch Phum kể có chỗ thiếu chính
xác so với những tài liệu hiện thời. Và điều đó đã bị một đứa bé hàng
xóm phát hiện, phản ứng với thái độ thẳng thắng. Ông Thạch Phum nổi
giận và lấy là uy quyền trong “vị thế người lớn” của mình để đuổi đứa bé
về nhà và tiếp tục kể câu chuyện. Câu chuyện kết thúc bằng việc ông
23
Thạch Phum lấy ánh trăng có thật để minh chứng cho con cháu về hình
tượng con thỏ. Sự trực quan của đám trẻ hướng về mặt trăng có tác dụng
tạo ấn tượng gấp nhiều lần so với trí tưởng tượng khi đọc văn bản. Tuy
nhiên đến lúc này câu chuyện chỉ còn chức năng xã hội mà mờ dần chức
năng thẩm mĩ.
4.4.3. Ý nghĩa của sự kiện kể chuyện
Ở góc nhìn bối cảnh, mục tiêu giáo dục truyền thống là quan trọng
nhất của ông Thạch Phum khi kể chuyện. Niềm tin còn mãnh liệt và có
sức mạnh hơn khi ông sử dụng uy thế trong mối quan hệ thân tộc của
mình để gạt bỏ mọi sự tác động, buộc những đứa cháu có một niềm tin

tuyệt đối ở người ông của mình. Các chi tiết, motif kể có thể không còn
chính xác nhưng không ai quan tâm cả. Việc phản ứng của đứa bé khiến
nội dung và sức thuyết phục của câu chuyện giảm đi. Tuy vậy, giá trị
thẩm mĩ và chức năng giáo huấn của câu chuyện vẫn là điểm sáng trong
bối cảnh này.
Tiểu kết
1. Giá trị của từng câu chuyện không còn ở lời kể, trong từng đơn
vị truyện mà đã đi vào lời giao tiếp hằng ngày, đi vào trong nhận thức
của người tham gia các sinh hoạt văn hóa.
2. Truyện kể dân gian vốn tồn tại một cách vững chắc và lặng lẽ
như một vốn chung của cộng đồng. Nó chỉ thật sự được kể ra, được diễn
xướng lên, được phơi bày khi có một yếu tố kích thích từ bên ngoài, để
đáp lại một yêu cầu trực tiếp nào đó.
3. Trong nhiều bối cảnh diễn xướng, phần đông dân chúng không
hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu chuyện, giống như ông bà họ thuở xưa.
Điều quan tâm nhất của họ là mục tiêu quan trọng của hiện tại, trong lúc
ấy.
4. Mô hình kiến giải chuyện kể dân gian Khmer trong bối cảnh
giúp cho người nghiên cứu “đọc” truyện dân gian từ phía người kể và từ

×