Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Luận văn: Quan niệm của ARITOTLE về nhà nước trong tác phẩm Chính trị luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.59 KB, 128 trang )

ĐạI HọC QUốC GIA hà nội
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI & NHÂN VĂN

TRịNH QUANG DũNG
QUAN NIệM CủA ARISTOTLE Về
NHà NƯớC TRONG TáC PHẩM "CHíNH TRị LUậN"
Chuyên ng nh: Triết học
Mã số: 60.22.80
LUậN VĂN THạC Sĩ TRIếT HọC
Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyn Quang Hng
Hà Nội - 2014
MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi nghiên cứu vai trò của triết học đối với đời sống con người, Aristotle
- nhà triết học Hy Lạp cổ đại vĩ đại đã nói: “Các khoa học thì cần thiết, nhưng
triết học thì tốt” đối với con người. Triết học ra đời nhằm đáp ứng những nhu
cầu của con người và đặt ra vấn đề giải quyết các lĩnh vực của đời sống thực
tiễn, chính vì lẽ đó các nhà thánh nhân khai sáng ra triết học đã không ngừng
tìm kiếm con đường để dẫn đến “đạo” và thực hành “đạo”, và Aristotle cũng
không phải ngoại lệ.
Trong nhiều lĩnh vực triết học thì vấn đề chính trị - xã hội được xem là
vấn đề quan trọng hàng đầu, đó là những quan điểm, phương pháp để hướng
con người đạt đến xã hội lý tưởng, nhà nước lý tưởng, nó đòi hỏi các nhà triết
gia phải có tầm hiểu biết và sự ảnh hưởng của bản thân để sáng tạo, tìm tòi, và
vận dụng các học thuyết chính trị đó vào trong cộng đồng chính trị cụ thể.
Trong triết học Phương Tây, nếu Socrates được xem là người đặt nền móng
cho việc chuyển nền triết học tự nhiên sang nền triết học nhân bản, triết học về
con người, thì Aristotle lại được xem là ông tổ của chính trị học Phương Tây,


đặt ra nền móng cho việc nghiên cứu lý luận chính trị phương Tây.
Là một nhà bác học, Aristotle đã để lại cho hậu thế một kho tàng tư
tưởng về nhiều phương diện như triết học, khoa học, toán học, thiên văn học
và chính trị học. “Chính trị luận” là một trong những tác phẩm kinh điển của
Aristotle về triết lý và ý thức chính trị của phương Tây và trên nền tảng này
những lý thuyết khác của Cicero, Augustino, Aquines (trung cổ), Hobbs,
Reuseau, John Locke đã được xây dựng và phát triển. Mãi cho tới hiện nay
tác phẩm “Chính trị luận” vẫn còn là một trong những tác phẩm mà những
học giả, người học phải đọc và nghiên cứu trong các khoa học triết học, chính
1
trị nó được giới học giả thế giới công nhận là một trong những quyển sách vĩ
đại của nhân loại.
Năm 2012, tác phẩm ''Chính trị luận" của Aristotle đã được dịch giả
Nông Duy Trường cùng nhà xuất bản thế giới đã dịch sang tiếng Việt, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu và học tập triết học Aristotle nói
chung, và chính trị học của Aristotle nói riêng.
Với những cơ sở lý luận và thực tiễn như vậy, tôi đã nghiên cứu tác
phẩm “Chính trị luận” của Aristotle cùng việc tìm hiểu các tài liệu tham
khảo, tôi đã quyết định chọn “Quan niệm của Aristotle về nhà nước trong
tác phẩm “Chính trị luận” làm đề tài luận văn hoàn thành chương trình thạc
sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến nội dung của đề tài không có nhiều tài liệu nghiên cứu
chuyên sâu nhưng cũng có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:
Một là, là các công trình dịch thuật tác phẩm. “Chính trị luận” đã được
nhiều học giả Anh, Mỹ dịch sang Anh Ngữ, tiêu biểu như Benjamin Jovett,
Peter Simpson, Ernest Barker, W.E.Bolland và H.Rackam. Với tiếng Việt, tác
phẩm được dịch giả Nông Duy Trường dịch một cách thành công và được
xuất bản vào năm 2012. Trong suốt quyển sách này, tác giả đã giới thiệu một
cách chi tiết về Aristotle, khái quát nội dung tác phẩm và dịch toàn bộ tác

phẩm này sang tiếng Việt.
Nhìn chung, có thể thấy tài liệu đề cập đến trực diện vấn đề luận văn
nghiên cứu không có nhiều trong việc nghiên cứu tác phẩm kinh điển và tư
tưởng của Aristotle là một việc khó khăn và nó càng khó khăn khi số ít ỏi
những công trình nêu trên chưa thể cung cấp đầy đủ và sâu sắc những gì có
thể đi vào nội dung của luận văn. Qua quá trình nghiên cứu, và tìm hiểu, lựa
chọn đề tài này, học viên thấy được sự cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này
2
để hiểu sâu sắc hơn triết học của Aristotle nói chung và triết học chính trị - xã
hội của ông nói riêng nhằm phục vụ tốt hơn cho việc nghiên cứu và giảng dạy
lịch sử triết học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Giới thiệu và phân tích về nội dung tư tưởng Nhà nước
được Aristotle viết trong tác phẩm "Chính trị luận" và tìm hiểu sự ảnh hưởng
từ tác phẩm đến lý luận và thực tiễn chính trị phương tây.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ hoàn cảnh viết và nội dung cơ bản trong tác phẩm
- Giới thiệu và phân tích những nội dung viết về Nhà nước trong tác phẩm
- Từ đó đánh giá, giá trị đúng và những giá trị đã hạn chế trong tác
phẩm về Nhà nước và xây dựng Nhà nước.
- Đặc biệt luận văn còn đưa ra nhiệm vụ nghiên cứu và so sánh những
tư tưởng của Aristotle có ảnh hưởng đến như thế nào đối với lý luận và thực
tiễn chính trị ở Phương Tây sau Aristotle.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng: tác phẩm "Chính trị luận" và tư tưởng về Nhà nước trong
tác phẩm
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
Những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của Hy Lạp cổ đại nói chung và
hoàn cảnh, điều kiện Aristotle viết tác phẩm ''Chính trị luận". Luận văn
nghiên cứu toàn bộ tác phẩm để rút ra những nội dung liên quan đến vấn đề

nhà nước trong tác phẩm. Tiếp đến luận văn nghiên cứu vài nét phác thảo
những quan niệm của các triết gia sau Aristotle có chịu sự ảnh hưởng từ tư
tưởng về nhà nước của Aristotle để thấy tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của
Aristotle trong lịch sử tư tưởng và thực tiễn chính trị phương tây sau này.
3
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Aristotle và những tác
phẩm kinh điển của các triết gia Phương tây về Nhà nước.
* Phương pháp nghiên cứu: thống nhất lịch sử với logic, phân tích với
tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh đối chiếu văn bản…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn mong muốn đem lại những tri thức về nhà nước trong tác
phẩm "Chính trị luận" của Aristotle, đặc biệt từ đó đánh giá tư tưởng của ông
và quan trọng hơn sẽ giúp người đọc hiểu được tầm quan trọng của Aristotle
đối với lý luận và thực tiễn chính trị phương Tây.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa lý luận: Luận văn cung cấp một cách hệ thống bao quát nội
dung tư tưởng về Nhà nước của Aristotle trong tác phẩm "Chính trị luận" và
so sánh với những quan niệm sau này của các triết gia phương tây về vấn đề
nhà nước. Đề tài sẽ là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu hệ thống tư tưởng
chính trị và nhà nước ở Phương Tây từ thời cổ đại đến trung và cận đại.
* Ý nghĩa thực tiễn: dùng làm tài liệu tham khảo giảng dạy Lịch sử triết
học nói chung, Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, và giảng dạy các học phần
Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội cổ đại, Lịch sử Nhà nước pháp quyền và
Lịch sử chính trị học… Đặc biệt đề tài sẽ là cơ sở để nghiên cứu các mô hình
nhà nước phù hợp với Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn:
Tác phẩm ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn có 3 chương, 9 tiết. Trong đó:

Chương 1: Aristotle và tác phẩm ''Chính trị luận"
Chương 2: Một số vấn đề về nhà nước
Chương 3: Các biện pháp duy trì nhà nước lý tưởng. Một số nhận xét
đánh giá về “''Chính trị luận" của Aristotle
4
NỘI DUNG
Chương 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN” CỦA ARISTOTLE
C.Mác nói: “Các nhà triết học không phải là những cây nấm mọc trên
đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế
nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã được suy tư trong những khái niệm
triết học” [4,156]. Hơn nữa, ông cũng khẳng định “Trong mọi thời đại lịch sử,
sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội – cơ cấu này tất yếu phải bắt nguồn từ sản
xuất kinh tế mà ra, cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử
tư tưởng của thời đại đó” [10,11]. Chính vì lý do đó, muốn thấu hiểu được tác
phẩm cũng như những quan niệm của các tác giả triết học thì cần phải xem xét
những điều kiện khách quan về lịch sử kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội,
cũng như cần phải tìm hiểu những điều kiện chủ quan liên quan đến tác giả, đời
sống sự nghiệp và những tác phẩm xuất hiện trong quãng đời của triết gia, có
như vậy mới bước vào được thế giới tư tưởng vĩ đại của các triết gia.
Đối với tác giả Aristotle và những nội dung tác phẩm “Chính trị luận”
cũng vậy, phải hiểu được những nền tảng lịch sử, kinh tế chính trị và xã hội
mới có thể hiểu được những quan niệm của ông trong tác phẩm này.
1.1 Điều kiện ra đời tác phẩm
1.1.1 Hoàn cảnh lịch sử kinh tế - xã hội cho sự ra đời tác phẩm
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội của mỗi một thời đại chính là cánh cửa giúp
ta thấu hiểu được lịch sử tư tưởng của thời đại đó, cho nên việc phân tích
những điều kiện kinh tế - xã hội là hết sức cần thiết và quan trọng trong
nghiên cứu khoa học. Mác cũng đã từng khẳng định “Trong mỗi thời đại lịch
sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã

hội do phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị
5
của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ
xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử đó” [10,523]. Thậm chí “toàn bộ
lịch sử đã qua, từ trạng thái nguyên thủy, đều là lịch sử của đấu tranh giai cấp,
rằng những giai cấp xã hội đấu tranh với nhau ấy luôn luôn là những sản
phẩm của những quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi, tóm lại là những sản
phẩm của những quan hệ kinh tế của thời đại, của những giai cấp ấy; do đó cơ
cấu kinh tế xã hội luôn luôn là cái cơ sở hiện thực mà xét đến cùng ta phải
dựa vào mới giải thích được tất cả thượng tầng kiến trúc là chế độ pháp quyền
và chế độ chính trị, cũng như những quan niệm tôn giáo, triết học và các quan
niệm khác của thời kỳ lịch sử nhất định” [9,303].
Do đó, việc nghiên cứu tác phẩm ''Chính trị luận" của Aristotle trước
hết cần phải nghiên cứu lịch sử kinh tế của xã hội Hy Lạp cổ đại, từ đó mới có
thể thấy được nguồn gốc nảy sinh tư tưởng của Aristotle về nhà nước.
Theo sử sách, thế giới Hy Lạp cổ đại là trang sử sách anh hùng của một
trong những nền văn minh sớm nhất của nhân loại đầy mê hoặc lòng người.
Hy Lạp cổ đại đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với những biến cố thăng
trầm, cũng như đầy rẫy những thành tựu sáng tạo tuyệt vời mà nền văn minh
Hy Lạp đạt được.
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia ở giữa khu vực Địa Trung Hải, có lãnh
thổ rộng bao gồm miền lục địa Hy Lạp (Nam bán đảo Ban Căng), miền đất
ven bờ Tiểu Á, và những đảo thuộc biển Egie, và được chia thành 3 miền:
Bắc – Trung – Nam. Miền Bắc Hy Lạp là dãy núi Pido, chia thành miền núi
và miền đồng bằng. Trung Hy Lạp, lại có kết cấu khác hẳn có nhiều rừng núi,
chạy dọc ngang chia vùng này thành nhiều khu vực địa lý nhỏ, hẹp hầu như
cách biệt với nhau. Trung và Nam Hy Lạp nối với nhau bằng một eo nhỏ - eo
Corinh – có nhiều đồi, sông suối, eo. Nam Hy Lạp là một bán đảo nhỏ, hình
bàn tay có 4 ngón duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải. Đây là vùng trù phú nhất
6

Hy Lạp, người Hy Lạp gọi nơi này là Pelopone, ngoài ra ở phía Nam Hy Lạp
còn có đảo Crete trên biển Egie, một trung tâm thương mại của nền văn minh
tối cổ - văn minh Crete – Mixen – trong lịch sử Hy Lạp.
Cũng giống như các quốc gia cổ đại khác, điều kiện tự nhiên đã có
những tác động đáng kể tới khuynh hướng phát triển của nền kinh tế cũng như
thiết chế nhà nước của quốc gia cổ đại Hy Lạp. Hy Lạp ít ruộng đất, không
thuận lợi cho việc phát triển cây lương thực, nhưng lại thích hợp với việc
trồng nho và ôliu. Thiếu đất canh tác nông nghiệp, nhưng thiên nhiên lại ưu
đãi cho người Hy Lạp bởi nhiều khoáng sản quý và những rừng gỗ quý bạt
ngàn ở khắp miền lục địa. Những điều kiện tự nhiên đó, ngay từ đầu đã thúc
đẩy người Hy Lạp sớm phát triển khuynh hướng của một nền kinh tế thiên về
sản xuất thủ công nghiệp hơn là sản xuất nông nghiệp.
Theo sử sách, Hy Lạp cổ đại được chia thành 4 giai đoạn chính, gắn
liền với sự phát triển của nền văn minh Hy Lạp.
Nền văn minh sớm nhất của người Hy Lạp là nền văn minh Crete –
Mixen bắt đầu từ thiên niên kỉ III đến thiên niên kỉ II TCN. Nền văn minh này
chủ yếu được biết đến dựa vào truyền thuyết hoang đường và qua 2 tập sử thi
Iliad và Odysey của Homer. Đây là hai hòn đảo ở phía nam biển Egie, và
vùng đồng bằng Pelopone. Thông qua ngành khảo cổ, người ta cho rằng giai
đoạn này của người Hy Lạp nền kinh tế vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp
và chăn nuôi, chủ yếu là ngựa, lừa. Thủ công nghiệp cũng tương đối phát đạt.
Đây là một nền văn minh của một xã hội đã có giai cấp, nhà nước, tương tự
như các nền văn minh của các quốc gia cổ đại phương Đông. Nền văn minh
này bị tàn tạ vào thiên niên kỉ II TCN, cùng với những cuộc thiên di lớn của
các tộc người Hy Lạp từ Bắc tràn xuống chinh phục và định cư.
Giai đoạn thứ hai của người Hy Lạp là thời kỳ từ thế kỉ XI đến thế kỉ
IX TCN, hay còn gọi là giai đoạn Homer trong lịch sử Hy Lạp. Nguyên do mà
7
người ta gọi thời kỳ này là thời đại Homer vì trạng thái sinh hoạt vật chất và
tinh thần của người Hy Lạp trong giai đoạn này đều được phản ánh rõ nét

trong hai tập sử thi Iliad và Odysey, tương truyền là của nhà thơ Homer ở
vùng Tiểu Á. Trong thời đại này, công cụ sản xuất và vũ khí bằng đồng đã
được sử dụng phổ biến, thủ công nghiệp có vị trí quan trọng và đạt nhiều
thành tựu. Nhìn chung, nền kinh tế của Hy Lạp thời Homer là nền kinh tế tự
nhiên tự cung tự cấp, trong đó chăn nuôi và trồng trọt là hai hoạt động kinh tế
chủ đạo. Xã hội Hy Lạp thời Homer không phải là sự tiếp nối của xã hội trước
đó, mà xã hội thời Homer là xã hội thị tộc, bộ lạc ở giai đoạn mạt kỳ. Theo
Ph.Anghen, đặc trưng cơ bản của nó là có sự tồn tại của chế độ dân chủ quân
sự. Một xã hội được tổ chức theo lối vừa có những thủ lĩnh quân sự đầy
quyền uy, vừa có sự tồn tại của các đại hội nhân dân. Trong thời đại này, đã
có nô lệ chủ yếu là nô lệ chiến tù hoặc được mua từ nước ngoài về, tuy nhiên
chế độ nô lệ ở Hy Lạp thời Homer mới chỉ là bước khởi đầu, sơ khai và mang
nặng tính chất của nô lệ gia trưởng.
Sau thời đại Homer, khoảng thời gian từ thế kỉ VIII đến thế kỉ V TCN,
đây là thời kỳ thứ ba trong lịch sử Hy Lạp cổ đại – thời kỳ xuất hiện xã hội có
giai cấp, nhà nước. Tại thời kỳ này chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng trong
xã hội Hy Lạp cổ. Chế độ thị tộc đã tan rã, 3 tầng lớp xã hội đã được hình
thành khá rõ nét: quý tộc, những người bình dân và những nô lệ. Dĩ nhiên,
kéo theo sự thay đổi đó xuất hiện những mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hòa được. Và đúng như nhận xét của Ph.Anghen, nhà nước ra đời “không
những bảo vệ những của cải của các tư nhân vừa mới có được khỏi bị những
truyền thống của chế độ thị tộc xâm phạm mà con kéo dài quyền của giai cấp
hữu sản bóc lột giai cấp không có của và quyền thống trị của giai cấp hữu sản
đối với giai cấp hữu sản không có của…” [5,424]. Một biến chuyển biến nữa
trong xã hội Hy Lạp thời kỳ này là phong trào tìm đất thực dân của người Hy
8
Lạp diễn ra ồ ạt từ thế kỷ VIII TCN. Chính trong thời gian này, xuất hiện các
Nhà nước thành bang đầu tiên của Hy Lạp. Đó là thành bang Sparta, thành
bang Athens đại diện cho chế độ dân chủ nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại. Đến
những năm 492 – 448, ở Hy Lạp các thành bang đã dành chiến thắng trong

cuộc chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư. Đây là một trong những thắng lợi to lớn
trong lịch sử Hy Lạp nói chung và của Athens nói riêng, đã chứng tỏ rằng
Athens đã bước vào phát triển cực thịnh, đạt tới đỉnh điểm của chế độ chiếm
nô ở khu vực Địa Trung Hải, điểm đỉnh của nền văn minh cổ đại.
Thời kì thứ tư trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ thống trị của
Makedonia hay còn gọi thời kỳ này là thời kỳ Hy Lạp hóa xuất phát từ năm
334 đến 30 TCN. Đây cũng là thời kỳ Aristotle viết tác phẩm “Chính trị
luận”, cho nên chúng ta sẽ nghiên cứu sâu sắc hơn thời kỳ thứ tư này.
Makedonia là một vùng thuộc Nam Âu, tiếp giáp với phía Bắc Hy Lạp.
Một đặc điểm quan trọng của người Makedonia là khi các thành bang Hy Lạp
đã đạt tới thời kỳ phát triển huy hoàng của chế độ chiếm nô thì người
Makedonie vẫn sống ở giai đoạn mạt kì của chế độ thị tộc (tương đương với
thời đại Homer của Hy Lạp), tuy vậy thì sự phát triển nhanh chóng của người
Makedonia lại là một tác nhân quan trọng làm thay đổi lịch sử của người Hy
Lạp. Alecxan I (495 – 450 TCN) được coi là người thiết lập nên nhà nước của
người Makedonia. Ackelut (419 -399 TCN) là người kế tục hoàn thiện và
củng cố nhà nước Makedonie. Nhưng, người đặt nền móng cho sự cường
thịnh của Makedonia để nước này trở thành một những quốc gia có thế lực và
hùng cường ở khu vực Bancang, đó là vị vua Philip II (359 -336 TCN). Chính
vị vua này đã thực hành hàng loạt những cải cách kinh tế, xã hội và quân sự,
tạo nên một quốc gia Makedonia thống nhất, giàu mạnh về kinh tế, hùng
cường về quân sự, và có những chính sách đối ngoại khôn khéo. Vua Philip II
đã chuẩn bị cho việc thực hành chính sách xâm lược, bành trướng. Chiều tà
9
một ngày năm 388 TCN, vua Philip II đã thống lĩnh đại quân, xâm nhập bán
đảo Hy Lạp, tiến đánh vào thành Athens. Tháng 8 năm 338 vua Philip II
quyết định khống chế toàn bộ Hy Lạp, ông định ra một loạt trận pháp mới, gọi
là “thế trận Makedonia”. Nhưng do Athens mâu thuẫn nội bộ xảy ra và chia rẽ
cùng với sự vận động của phe thân Makedonia, Athens đã phải quỳ gối trước
Philip II. Từ đó Athens bị mất tự do và độc lập. Năm sau, vua Philip II triệu

tập hội nghị toàn Hy Lạp ở Corinh, tuyên bố tự mình làm thống soái của quân
đội Hy Lạp, qua đó xác nhận địa vị lãnh đạo của Makedonia đối với các thành
bang ở Hy Lạp. Năm 336 TCN, Philip II khi tham dự lễ cưới của con gái thì
bị ám sát chết, Alecxan lên nối ngôi năm đó mới 20 tuổi. [2,127-128].
Vị vua nổi tiếng nhất lịch sử Hy Lạp cổ đại – vị vua Alexander. Ông là
con trai thân cận nhất của vua Philip II, được bổ nhiệm làm Phó thống soái
quân đội Makedonia khi ông mới 18 tuổi. Cũng chính ông đã giúp cha mình
thắng lợi trong cuộc chiến năm 338 TCN. Khi cha mất, ông lên ngôi năm ông
20 tuổi, tuyên bố mình là Thống soái tối cao của liên quân Hy Lạp –
Makedonia. Từ đó dã tâm xâm lược của Alexander ngày càng lớn. Mùa xuân
năm 334 TCN, Alexander thân chinh chỉ huy 35 000 quân và 160 chiến
thuyền, mở đầu cuộc viễn chinh sang Ba Tư phương Đông. Năm 337 TCN,
quân đội viễn chinh của Alexander đã chinh phục được Ba Tư, tiếp đó xâm
nhập Ấn Độ. Chính vị vua này đã chinh phục được Ba Tư rộng gấp 50 lần so
với đất nước Makedonia, tiêu diệt mấy chục vạn quân Ba Tư. Tiếp đó ông
chinh phục Ai Cập, được tăng lữ Ai Cập tôn xưng là “Con của Thần Mặt
Trời”, rồi lại chiếm được thành Babilon nổi tiếng ở phương Đông, được vinh
phong là “Vua Babilon và vua của bốn phương vũ trụ”… Ngày 13 tháng 06
năm 324 TCN, ông đột ngột chết khi ông 33 tuổi, vương quốc Makedonia trải
dài trên Châu Á Âu, Phi tan rã từ đây [2,131-132]. Những người kế tục
Makedonia thực tế đã chia nhau hùng cứ các vùng. Cuối cùng đến thế kỷ thứ
10
III TCN, đế quốc Makedonia bị liệt thành nhiều quốc gia nhỏ, kết thúc thời kỳ
Makedonia ở Hy Lạp cổ đại.
Toàn bộ quá trình diễn biến lịch sử của thế giới cổ đại đặc biệt là giai
đoạn Makedonia xâm chiếm Hy Lạp đã làm cơ sở về lịch sử và những điều
kiện khách quan cho chúng ta nghiên cứu tác phẩm “Chính trị luận” của
Aristotle. Aristotle viết tác phẩm được viết vào năm 350 TCN, chính là thời
kỳ cực thịnh của người Makedonia ở Hy Lạp, dưới sự cai trị của vị vua Philip
II, đồng thời lại là thầy giáo dạy học cho vua Alexan, cho nên tác phẩm cũng

như cuộc đời của Aristotle có sự ảnh hưởng không nhỏ từ những sự kiện lịch
sử quan trọng này.
Tuy nhiên, tác phẩm ra đời không chỉ là những diễn biến lịch sử thời
kỳ mà Aristotle sống và viết tác phẩm này, nó còn chịu ảnh hưởng của rất
nhiều những điều kiện khác, như những tiền đề chính trị - văn hóa xã hội, cơ
sở lý luận và không thể không kể đến những tài năng của chính bản thân
Aristotle.
1.1.2 Những tiền đề chính trị - xã hội của tác phẩm
Xét về mặt lịch sử, thời điểm Aristotle viết về nền chính trị Hy Lạp đã
xuất hiện nhiều chế độ chính trị, nhiều hình thức chính quyền, nhưng trực tiếp
nhất phải nói đến những nền chính trị, những chế độ mà bản thân Aristotle
chứng kiến và đánh giá những hình thức này, để từ đó ông có những quan
niệm hoàn thiện hơn về chế độ chính trị, những thể chế nhà nước đúng và sai.
Và để trình bày về chính trị một cách khoa học, Aristotle đã mở một cuộc
nghiên cứu rộng rãi về hiến pháp của 158 đô thị Hy Lạp cũng như “man rợ”
[25,265]. Trong số những chế độ chính trị mà Aristotle “tai nghe mắt thấy” có
thể kể đến những hình thức nhà nước như các chế độ dân chủ nổi tiếng ở hai
thành Sparta và Athens ở Hy Lạp. Ngoài ra, Aristotle còn nghiên cứu, khảo
sát chế độ chính trị ở các thành bang khác như Crete, Carthaga
11
Trước hết, là chế độ chính trị ở Sparta. Sparta là một thành bang Hy
Lạp được xây dựng sớm nhất trong lịch sử Hy Lạp (ngay từ thế kỷ IX TCN).
Nằm ngay đồng bằng Laconi, thành bang Sparta có lợi thế phát triển kinh tế
nông nghiệp và chăn nuôi. Thành bang Sparta có 3 tập đoàn người cùng sinh
sống nhưng quyền lợi và nghĩa vụ hoàn toàn khác nhau. Người Sparta –
Đorien chiến thắng là giai cấp cầm quyền. Họ không tham gia sản xuất mà
sống bằng sự nô dịch, bóc lột sức lao động của người Periet và nô lệ Hilot.
Người Sparta chỉ có chức năng cai trị và tham gia vào quân sự để xâm lược
hoặc bảo vệ đất nước. Chính vì vậy Sparta chế độ tư hữu không tồn tại, toàn
bộ tài sản và ruộng đất cũng như nô lệ đều là những sở hữu chung của cư dân

Sparta. Còn hai giai cấp còn lại có nghĩa vụ phải nộp thuế để nuôi người
Sparta, họ không có quyền về chính trị và không được phép kết hôn với người
Đorien. Do vậy, ngay từ đầu mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị và 2 tầng lớp
kia đã xuất hiện và ngày càng sâu sắc.
Đánh giá về chế độ chính trị ở Sparta, trong Quyển II tác phẩm “Chính trị
luận” của Aristotle, ông đã phân tích và đánh giá rất rõ nét về thành bang này.
Trước hết, đánh giá về nông nô Sparta, ông nhận định “Những nông nô
xứ Thessaly vẫn thường nổi dậy chống lại chủ nhân, và những nông nô xứ
Lacedaemon cũng thường nổi dậy chống lại chủ nhân, vì hoàn cảnh khốn khổ
của họ khiến cho họ luôn chờ cơ hội để nổi dậy” [1,122].
Aristotle chỉ ra hạn chế chính trị cũng bắt nguồn từ vai trò của phụ nữ
trong xã hội, chính phụ nữ làm hỏng đi chế độ chính trị. Ông viết: “Ngoài ra,
phụ nữ Sparta lại được sống một cách phóng túng; điều này làm hỏng ý định
của hiến pháp Sparta và đi ngược lại với hạnh phúc của quốc gia. Bởi vì
chồng và vợ, mỗi người là một phần gia đình, cho nên quốc gia được chia
đều làm hai phần: đàn ông và đàn bà. Vì vậy, tại một nhà nước mà phụ nữ
sống buông thả, phóng túng, thì một nửa phải coi như là chẳng có pháp luật
12
gì hết. Và đó chính là điều đã thực sự xảy ra tại Sparta; các nhà lập pháp
muốn cả nước trở nên mạnh mẽ và điều độ nên đã áp dụng các luật lệ đó trên
đàn ông nhưng lại quên không chú ý đến phụ nữ, để mặc họ sống xa hoa và
phóng túng” [1,123]. “Chính sự phóng túng đó của phụ nữ đã hoàn toàn vô
dụng trong việc ngăn giặc và còn tạo nhiều rối rắm hơn là tấn công quân
địch” [1,124].
Đối với chế độ tư hữu, người Sparta có sự bất bình đẳng tài sản.
“Trong lúc một số người có rất ít tài sản, thì những người khác lại có rất
nhiều, như thế điền sản đã chuyển sang tay của một số thiểu số”. Sự kiện này,
theo Aristotle đánh giá “là kết quả trực tiếp của những luật lệ sai lầm, vì mặc
dù nhà lập pháp đã nêu rõ là việc buôn bán tài sản gia truyền là điều xấu xa,
đáng khinh bỉ, nhưng mặt khác lại cho phép người dân được quyền cho tài sản

để di chúc cho người khác. Cả hai cách này đều dẫn đến cùng một kết quả là
có đến hai phần năm điền sản của Sparta thuộc quyền sở hữu của phụ nữ. Lý
do là vì phong tục cho phụ nữ được thừa hưởng tài sản và nhận hồi môn kếch
xù. Cho nên, mặc dù Sparta có khả năng duy trì 1500 kỵ binh và 30 ngàn bộ
binh, nhưng tổng số dân của Sparta đã xuống dưới mức 1000 người. Kết quả
này chứng minh là luật pháp của Sparta nhiều lầm lỗi, và chỉ cần thua một
trận thôi thì cũng đủ tiêu vong vì thiếu lính”. [1,126]
Cơ cấu chính trị của Sparta còn một khuyết điểm nữa, theo Aristotle,
đó chính là ở cơ quan Giám sát viện. “Đây là một cơ quan có quyền lực cao
nhất, nhưng Giám sát viên lại do toàn dân bầu ra, cho nên các chức vụ này dễ
rơi vào tay những người nghèo túng và những người nghèo thì lại dễ bị hối lộ.
Giám sát viện có quyền lực quá lớn và độc đoán đến nỗi các vị vua còn phải
tìm cách lấy lòng họ. Kết quả là quyền lực của hai cơ cấu này khiến cho cơ
cấu chính trị bị suy đồi từ chế độ quý tộc biến sang dân chủ.” [1,126]
13
Hội đồng trưởng lão cũng tồn tại hạn chế. Theo Aristotle, “mặc dù
trưởng lão là những người có tài năng và được huấn luyện kỹ kàng về đức tính
nam nhi, về điều này là có lợi cho quốc gia. Nhưng quy luật cho những trưởng
lão này tại chức cho đến mãn đời là một điều cần phải bàn lại, vì trí óc cũng già
theo thể chất. Và khi mà ngay cả nhà lập pháp cũng không thể tin được phương
thức mà những trưởng lão đã được huấn luyện, thì đó là điều nguy hiểm”
[1,128]. Hơn nữa, cách bầu cử trưởng lão cũng ấu trĩ vì theo luật hiện hành là
những ai muốn được bầu cử thì phải ra ứng cử, trong khi những người thực sự
tài đức phải được bổ nhiệm, dù có muốn làm hay không”.
Điều mà Platon phê phán nhà lập pháp trong tác phẩm “Luật pháp”
theo Aristotle cũng là sự phê phán chính đáng. “Toàn bộ cơ cấu chính trị của
Sparta chỉ xiển dương một đức tính duy nhất; đó là đức tính của quân nhân –
đức tính cần thiết để chiến thắng trong chiến tranh. Khi chiến tranh tiếp diễn,
đức tính này giúp duy trì sức mạnh, nhưng khi đã tạo nên được đế quốc rồi,
thì lại thất bại trong hòa bình vì không biết làm gì hết vì cả cuộc đời chỉ được

huấn luyện để đánh nhau. Còn một lầm lỗi nữa cũng không kém; đó là, dù họ
nhận thức đúng đắn là những điều tốt đẹp mà người ta mong muốn, như là
hạnh phúc, danh vọng, hay những điều tương tự, chỉ đạt được những điều
thiện và đức hạnh, nhưng họ lại lầm lẫn rằng những điều tốt đẹp mà họ mong
muốn đó lại là những điều cao cả hơn đức hạnh.
Thêm một điểm nữa: tiền thuế thu được nhà nước đã bị quản trị quá tồi.
Ngân khố không còn tiền bạc vì nhà nước phải lo chiến phí, nhưng người dân
lại không muốn đóng thuế. Tiền thuế đóng cho nhà nước là thuế đánh trên
điền sản, và dù đa số công dân Sparta là chủ điền, họ chẳng buồn quan tâm
xem những người khác đóng thuế như thế nào. Kết quả mà nhà lập pháp định
làm đã bị đảo ngược lại: làm cho nhà nước nghèo đi và người dân thêm tham
lam.” [1,131]
14
Tóm lại, Sparta là một thành bang Hy Lạp lạc hậu về kinh tế, bảo thủ
và phản động về chính trị, một nhà nước quân phiệt. Sparta là dinh lũy của
các thế lực bảo thủ, kìm hãm xu hướng dân chủ của các thành bang Hy Lạp,
là nơi tập kết, điểm cư trú chính trị của các chính khách Athens chủ trương
duy trì nền chính trị bảo thủ, kẻ thù của dân chủ Athens.
Thành bang Athens
Ngược lại với thành bang Sparta, thành bang Athens lại nổi tiếng với
nền dân chủ cổ đại Hy Lạp. Giai cấp thống trị ở Athens có 2 bộ phận: quý tộc
chủ nô ruộng đất và quý tộc chủ nô công thương. Quý tộc chủ nô ruộng đất
chủ trương thiết lập nền chuyên chính theo thể chế cộng hòa quý tộc, ngược
lại quý tộc chủ nô công thương lại chủ trương xây dựng bộ máy nhà nước
theo thiết chế dân chủ, chủ nô. Sự đối lập và xung đột giữa hai chủ trương này
đã diễn ra ngày càng quyết liệt. Nhưng xu hướng dân chủ ngày càng thắng thế
xu hướng bảo thủ của quý tộc chủ nô ruộng đất, nhờ vậy nền dân chủ chủ nô
Athens được củng cố, hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao nhất của nó, thành niềm
tin vĩnh cửu của nhân loại.
Ở Athens, người ta đã tước bỏ quyền lực của Hội đồng trưởng lão –

một tổ chức phản dân chủ, thay vào đó quyền Lập pháp được trao cho Đại hội
nhân dân, quyền hành pháp trao cho Hội đồng 500 người và quyền tư pháp trả
về cho cơ quan tư pháp – tòa án nhân dân. Họ đã đưa trách nhiệm soạn luật
của các nhà lập pháp trước nhà nước về nội dung và những hậu quả của
những dự luật mà họ soạn thảo. Chính những điều này đã ngăn chặn được
những mưu đồ phá hoại nền dân chủ của người Athens. Tiếp đến, họ quyết
định cứ 10 ngày Đại hội nhân dân phải họp một lần. Cuộc họp được báo trước
5 ngày, khi có tình hình khẩn cấp hoặc hội nghị quan trọng thì cử truyền lệnh
viên đi kêu gọi trên đường phố hoặc đốt một cột khói ở chợ làm hiệu. Theo
quy định của thành bang Athens, công dân đủ 20 tuổi, không phân biệt tài sản
15
và thân phận, trong Đại hội công dân đều có quyền bầu cử. Nhưng trên thực
tế, chưa tới 1 phần 10 cư dân ở Athens được hưởng quyền công dân này, vì
người ngoại bang và tất cả phụ nữ đều không được tham dự Đại hội công dân,
nô lệ càng không nói tới chuyện đó. Nô lệ đi theo chủ thì đứng ở ngoài cửa
chờ chủ nhân của mình. Nông dân và thợ thủ công tuy có quyền bầu cử nhưng
họ không thể thường xuyên tham dự đại hội, vì họp một ngày có nghĩa là tước
đoạt thu nhập một ngày của họ, cho nên mỗi lần Đại hội công dân chưa tới 1
phần 10 tham dự. Hội trường không có ghế ngồi, mọi người đều xuống đất,
nhưng nhờ sườn núi dốc nghiêng nên người ngồi đằng sau vẫn có thể nhìn rõ
mọi thứ trên sân khấu. Chủ tịch Đại hội hô to tên người ứng cử, các công dân
giơ tay biểu quyết, thư ký ghi lại. Ai được đa số phiếu thì trúng cử. Tướng
quân và thống soái bộ binh, kỵ binh nắm quân đội có quan hệ tới vận mệnh
nước nhà cho nên nhất thiết cần Đại hội bầu chọn. Tư khố viên là người nắm
chìa khóa kho tàng nhà nước, một ngành quan trọng nên cũng cần Đại hội bầu
chọn. Các quan lại khác, bao gồm 9 chấp chính quan, 500 đại biểu Hội đồng
nhân dân, thẩm phán, 11 quan coi ngục, 10 thị chính quan 10 quan coi chợ,
đều dùng cách bốc thăm để quyết định. Hai tháng sau, các quan chức đương
nhiệm sẽ bàn giao, các quan chức mới sẽ nhận nhiệm vụ và điều hành công
việc. Đó là việc bầu cử Đại hội công dân tổ chức tại Athens [2,92]

Tòa án nhân dân của Athens với 6000 thẩm phán sẽ không có công tố
viên chuyên nghiệp để toàn thể những ai tham dự phiên tòa đều có quyền
công khai hết tội hoặc bào chữa cho bị can.
Ngoài ra, họ còn thực hiện hàng loạt những chính sách tiến bộ khác: trả
lương cho các viên chức, nhà nước thực hiện thường xuyên và rộng rãi các
phúc lợi xã hội đối với những công dân gặp khó khăn… chính những chính
sách đó đã khiến Athens thành một thành bang phát triển nhất về kinh tế, có
một thể chế nhà nước tiến bộ nhất. Nền dân chủ chủ nô đạt tới mức hoàn hảo
16
nhất, đỉnh cao của văn minh cổ đại, cội nguồn của văn minh châu Âu, niềm tự
hào và kinh nghiệm của nhân loại.
Tuy nhiên, nền dân chủ Athens mặc dù là đỉnh cao của nền dân chủ cổ
đại, nhưng đó chỉ là nền dân chủ của giai cấp chủ nô, nền chuyên chính của
giai cấp thống trị: do vậy nhà nước Athens vẫn còn nhiều hạn chế. Trước hết,
nhà nước dân chủ Athens được thiết lập, tồn tại và phát triển trên nền sức lao
động của đông đảo nô lệ và kiều dân Metec. Theo Ph.Anghen thì số lượng nô
lệ và kiều dân ở Athens là 365.000 nô lệ và 45.000 kiều dân trên 90.000 dân
tự do [21,184]. Thứ hai, không phải ai cũng được tham dự Đại hội công dân,
phải đủ 3 tiêu chuẩn (nam giới, 18 tuổi và cha mẹ đều là dân Athen). Thứ ba,
việc bầu cử chỉ diễn ra ở Athens và vùng xung quanh, do vậy nền dân chủ
Athens vốn dĩ đã là nền dân chủ của một thiểu số trong đám cư dân Athens,
lại càng trở nên thiểu số hơn nữa.
Ngoài thành bang Sparta và Athens ra, Aristotle còn khảo sát các chế
độ chính trị khác của Hy Lạp cổ đại khác như Crete, Carthage.
Chế độ chính trị Crete
Đối với chế độ Crete, Aristotle nhận thấy “Cơ cấu chính trị của Crete
cũng gần giống như của Sparta, và ở một vài điểm cũng tốt bằng Sparta,
nhưng phần lớn thì kém hơn về phần hình thức” [1,131]. Có nhiều điểm tương
đồng giữa hiến pháp của Crete và Sparta. Nếu Sparta có những nông nô gọi là
helots, thì Crete có những nông nô Perioeci. Dân cả hai xứ đều có những bữa

ăn chung, cả hai hiến pháp đều có cơ cấu Giám sát viện. Điều khác nhau duy
nhất là có 5 giám sát viên ở Sparta, và 10 người ở Crete. Nguyên lão thương
viện cũng tương tự như nhau, người Crete gọi là hội đồng nguyên lão. Trước
kia Crete cũng có quân chủ, nhưng sau này bị bãi bỏ và cơ cấu Cosmi kiêm
thêm nhiệm vụ lãnh đạo trong chiến tranh. Người dân cũng có quyền tham dự
quốc dân đại hội (gần giống như dân Sparta), nhưng chỉ là để phê chuẩn các
17
quyết định của hội đồng trưởng lão và Giám sát viện Cosmi. Nhưng về khía
cạnh khác, định chế giám sát viện Cosmi của Crete lại tệ hại hơn Giám sát
viện của Sparta, nếu như ở Sparta mọi người dân đều có quyền bầu cử ra
Giám sát viên thì ở Crete chỉ có một số gia đình được bầu ra thành viên của
cơ quan này mà thôi. Hội đồng trưởng lão của cả hai đều giữ chức vụ trọn đời
và không bị chế tài cộng với quyền được tùy nghi xét xử theo ý riêng và
không cần đếm xỉa gì đến văn bản luật lệ là điều nguy hiểm của cả hai chế độ
này. Tuy nhiên, các giám sát viên thường bị những người đồng viện hoặc dân
thường âm mưu trục xuất ra khỏi Giám sát viện và được phép từ chức trước
khi mãn nhiệm. Tệ hại hơn là việc cho phép Giám sát viên bị đình chỉ công
tác, một phương thức mà các nhà quý tộc thường sử dụng khi không chịu tuân
phục theo quyết định của công lý. “Điều này cho thấy chính quyền Crete dù
có những đặc tính của một nhà nước theo hiến pháp, thực ra là một chế độ quả
đầu” [1,135]
Chế độ chính trị Carthage
Carthage là một thị quốc nằm trên bờ biển Bắc Phi, nay thuộc Tunisia.
Carthage theo truyền thuyết La Mã được nữ hoàng Dido thành lập năm 814
TCN. Vì nằm giữa vùng tranh chấp của đế quốc Syracuse( nay thuộc Sicilia)
và La Mã. Carthage nhiều lần bị xâm chiếm và cuối cùng bị người La Mã tiêu
diệt vào năm 146 TCN.
Theo Aristotle, chế độ của người Carthage là “một chế độ chính trị tuyệt
hảo, khác hẳn với các nước khác về nhiều phương diện, dù trên vài phương diện
lại rất giống Spart” [1,136]. Chứng minh cho điều này, ông đã lấy việc người

Carthage luôn trung thành với hiến pháp và người Carthage chưa bao giờ có
cuộc nổi loạn đáng kể nào, và chưa hề bị cai trị bởi một bạo chúa nào.
Khác với chế độ Sparta, Giám sát viên của người Carthage được lựa
chọn theo tài năng. Người Carthage cũng có vua và hội đồng trưởng lão
18
nhưng vua của Carthage không giống vua của Sparta theo hình thức cha
truyền con nối mà vua của người Carthage có thể được bầu ra từ bất kỳ một
gia đình nào nổi trội trong giai đoạn đó và theo tài năng chứ không cần theo
tuổi tác, đây là điều hơn hẳn so với chế độ Sparta.
Tuy nhiên, chế độ này cũng có những hạn chế. Mặc dù hiến pháp được
xây dựng theo hình thức quý tộc, nhưng khi thì chính quyền đi lệch sang chế
độ dân chủ, khi khác lại đi sang chế độ quả đầu. Hơn nữa, hiến pháp Carthage
còn một khuyết điểm nữa đó là việc để cho một người giữ nhiều chức vụ
trong cùng một lúc.
Như vậy, để đánh giá và phân tích những hình thức chính trị nhằm đưa
ra những quan niệm về chế độ chính trị đúng đắn và thích hợp nhất, Aristotle
đã phải dựa vào những chế độ có thực tế đã xuất hiện ở các thành bang Hy
Lạp. Điều này làm cho những nhận định của Aristotle thêm phần khách quan,
chính xác và khoa học hơn. Trên nền tảng những chế độ chính trị đã có, ông
đã xây dựng cho mình về mô hình nhà nước lý tưởng, đó là cơ sở chính trị -
xã hội để Aristotle viết tác phẩm này
1.1.3 Điều kiện văn hóa – xã hội của tác phẩm
Tác phẩm của Aristotle không thể không nói đến những ảnh hưởng của
nền văn hóa cổ đại Hy Lạp vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Aristotle đã kế thừa
những thành tựu nổi bật của người Hy Lạp cổ đại, đặc biệt trong các lĩnh vực
văn học nghệ thuật, lịch sử, hội họa, các khoa học tự nhiên và cả triết học nữa.
Tất cả các lĩnh vực này Aristotle đều có sự kế thừa và được ông trình bày, vận
dụng sáng tạo trong tác phẩm, làm cơ sở cho những nhận định của mình.
Văn học của Hy Lạp đã đạt đến đỉnh cao, Aristotle đã nghiên cứu và
thể hiện sự hiểu biết về văn học cổ Hy Lạp của mình thông qua việc vận dụng

hàng loạt các hình thức văn học như thần thoại, thơ ca, ca kịch, đặc biệt là
trường ca Homer.
19
Thứ nhất, là thần thoại cổ Hy Lạp. Thần thoại là một trong những hình
thức văn học xuất hiện sớm nhất ở Hy Lạp. Đây là tập hợp những truyện kể
dân gian truyền miệng với những nội dung hoang đường, huyễn hoặc kỳ ảo,
gồm những truyện về sự sáng tạo thế giới, các đấng thần linh và các anh hùng
dũng sỹ Hy Lạp… Thần thoại thường phản ánh nguyện vọng của nhân dân
trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, giải thích các hiện tượng tự nhiên, phản
ánh cuộc sống lao động và những hoạt động đời thường của người Hy Lạp.
Chính vì vậy, sau này Chủ nghĩa Mác – Lenin đã nhận định “Thần thoại là
miếng đất màu mỡ nuôi dưỡng nghệ thuật Hy Lạp… tiền đề … vật liệu của
nghệ thuật Hy Lạp” [5,630]. Chính trong tác phẩm Aristotle cũng đã trích dẫn
những câu truyện thần thoại Hy Lạp cổ này. Chẳng hạn, khi nói về sự giầu có
và nghệ thuật tích lũy tài sản, ông đã trích dẫn câu truyện thần thoại về vị vua
Midas muốn biến tất cả những thứ ngài cầm thành vàng [1,68] vị vua này đã
cầu xin các vị thần giúp cho những ước muốn đó thành hiện thực, thế nhưng
khi đụng đến đồ ăn chúng cũng biến thành vàng khối, ông vua Midas lại phải
xin giải trừ cho quyền năng này, và ông đã được chỉ bảo là phải xuống rửa tay
ở dòng sông Pactolus. Quyền năng này được chuyển từ tay vị vua Midas
xuống dòng sông thành cát vàng… Thực ra câu truyện thần thoại này con
người muốn dùng nó để giải thích hiện tượng thiên nhiên khi người ta đãi cát
tìm vàng trên dòng sông Pactolus, và Aristotle muốn dùng câu truyện này để
ám chỉ đến quan niệm về sự giàu có và tích lũy tài sản.
Khi phân tích hiến pháp của người Crete, Aristotle đã dùng thần thoại
về vị vua Minos, người là con của Zeus (chúa tể của các thần linh) và nữ thần
Europa. Sau khi chết, vị vua Minos đã trở thành phán quan của Địa ngục.
Aristotle muốn đưa ra thần thoại này để làm dẫn chứng cho việc cư dân Crete
từ trước cho đến khi bị đô hộ vẫn dùng đến những luật lệ nguyên thủy do Vua
Minos ban hành [1,132]. Còn một đoạn trong tác phẩm “Chính trị luận” mà

20
Aristotle dùng thần thoại, đó là đoạn trong Chương XIII, quyển III, khi xác
định vấn đề trong một nhà nước, ai là người lãnh đạo. Aristotle phân tích
quan điểm có nên để cho người tài giỏi làm người lãnh đạo hay không? Ông
đã dùng câu truyện thần thoại về thần Heracles. Heracles là vị thần nửa người
nửa thần, vị thần này đã thực hiện 12 thành tích lừng lẫy. Thế nhưng những
anh hùng Argonaut đã bỏ Heracles lại không cho đi chuyến tàu Argo, vì e sợ
sức mạnh và tài năng siêu phàm của chàng sẽ khống chế toàn thể thủy thủ
đoàn [1,188]. Hay như câu truyện về thuật trị nước của bạo chúa Thasybulus,
khi vị vua này sai sứ giả đến vấn kế Pariander, Pariander không nói gì hết dẫn
viên sứ giả ra một ruộng bắp, rồi ngắt bỏ hết những thân bắp cao nhất để cho
bằng ngọn những thân bắp khác. Viên sứ giả không hiểu hành động này đã trở
về và thuật lại cho Thasybulus, ông đã hiểu rằng phải triệt hạ những người tài
ba ttrong nước. Đây chính là những chính sách không những chỉ được các bạo
chúa thi hành, mà theo Aristotle còn được áp dụng cả trong chế độ quả đầu và
dân chủ nữa [1,188].
Ngoài thần thoại Hy Lạp ra, Aristotle còn am hiểu cả thơ ca và ca kịch
nữa. Trong tác phẩm, Aristotle đã trích dẫn những nhà thơ nổi tiếng của Hy
Lạp cổ đại. Hy Lạp cổ đại với ba đại thi hào như Euripides, Aeschylus và
Sophocles. Khi nói về đức tính cần có của người tốt và của công dân trong
một đất nước, Aristotle đã trích dẫn câu thơ của thi hào Euripides, nói về
giáo dục cho hoàng tử: “Đừng dạy những điều cao siêu, nhưng là những gì
đất nước cần hơn cả” [1,157]. Câu này muốn nhấn mạnh đến việc nhà cai trị
cần được huấn luyện đặc biệt. Đại thi hào này còn là một nhân vật nổi tiếng
của kịch nghệ Hy Lạp cổ đại, ông có tầm ảnh hưởng đến cả kịch nghệ ngày
nay, khi nói về vai trò của âm nhạc đối với con người, Euripides đã nhấn
mạnh âm nhạc làm cho ta thoải mái và cùng lúc “quên đi rắc rối cuộc đời”
21
đã được Aristotle trích dẫn trong khi nói về nguyên lý giáo dục liên quan đến
âm nhạc [1,421]

Đại thi hào Sophocles, một nhà viết bi kịch và sử ca của Hy Lạp cổ
(496 – 406 TCN), nổi tiếng với hai vở kịch Vua Oedipus và Antigone còn lưu
truyền đến ngày nay. Nhà thơ này đã nói rằng “Im lặng là sự vinh quang của
phụ nữ” đã được Aristotle trích dẫn khi nói về những đức hạnh cần có của
phụ nữ, ông đã dùng quan điểm của nhà thơ này làm cơ sở cho luận điểm của
mình trong Chương 13, quyển I [1,81]
Nhà thơ Hesiod nổi tiếng của Hy Lạp trong khoảng năm thứ 700 TCN,
ông đã đưa nói đến nguyên tắc “thợ gét thợ” mà được Aristotle dùng để nhấn
mạnh đến việc các chế độ thường đối lập nhau, chẳng hạn như chế độ độc tài
đối nghịch với chế độ dân chủ, được ông nói đến trong Chương 10, quyển V,
trang 306 của tác phẩm, cũng là một dẫn chứng cho thấy sự ảnh hưởng của
nền văn học Hy Lạp đến sáng tác của Aristotle.
Khi Aristotle nói đến sự thay đổi của chế độ nhà nước sẽ làm cho các
bộ phận của nhà nước ấy thay đổi đi, Aristotle đã liên hệ điều ấy với ca kịch
cổ Hy Lạp. Thể loại ca kịch có hai thể loại: bi kịch và hài kịch. Aristotle cho
rằng, “khi hình thức chính quyền thay đổi và trở nên khác đi so với hình thức
cũ nữa; cũng giống như ban đồng ca của hài kịch khác với ban đồng ca của bi
kịch, dù cả hai ban đều có cùng các ca công”. [1,154]
Nhưng đặc biệt nhất là sự ảnh hưởng của Trường ca Odysey và Iliats
của Homer. Cuộc chiến tranh của liên quân Hy Lạp đánh chiếm thành Tơroa
xảy ra vào thế kỷ XII TCN. Những tình tiết mang tính chất truyền kỳ đã làm
rung động sâu sắc trái tim của người dân Hy Lạp, cứ được lưu truyền rộng rãi
rồi dần dần được thêm thắt vào không ít những truyện thần thoại và truyền
thuyết. Rồi lại trải qua sự gia công của bao thế hệ nghệ nhân dân gian, câu
chuyện về cuộc chiến tranh thành Tơroa đã trở thành hai thiên trường ca đặc
22
sắc. Tục truyền rằng, đến thế kỷ VIII TCN, nhà thơ mù nổi tiếng Hy Lạp là
Home đã ra sức chỉnh lý nâng cao thêm một bước hai thiên trường ca này,
cuối cùng đã hình thành hai tác phẩm lớn: “Iliad” và “Odysey”. Iliad là phiên
âm từ Ilion, tên thành Tơroa, bản trường ca này có hơn 15000 câu miêu tả lại

10 năm chiến tranh ở Tơroa. “Odysey” là tên gọi một anh hùng Hy Lạp, bản
trường ca này gồm hơn 12000 câu thơ, miêu tả chặng đường hơn 10 năm tìm
về đất nước của Odysey. Hai bản trường ca này chính là tác phẩm nghệ thuật
quý giá của cổ Hy Lạp nổi tiếng toàn cầu, thường được gọi chung là Trường
ca Home” [2,82]
Chính trong tác phẩm “Chính trị luận” của Aristotle cũng được ông
nhiều lần sử dụng những luận điểm trong hai bản thiên trường ca này. Khi
Aristotle bàn về việc có nên có ông vua cai trị hay không, cũng giống như
trong gia đình cần có người chủ gia đình hay không, Aristotle đã trích câu thơ
trong trường ca Odysey, Homer nói: “Mỗi người nam là người cai trị của vợ
và con” [1,46]. Rồi khi Aristotle nói về vai trò của nô lệ và dụng cụ lao động
trong việc sáng tạo ra của cải vật chất, ông đã lấy câu truyện của Homer kể
lại: “ Chúng tự tiến vào nơi họp của Thần linh” [1,52] để nói đến việc nếu
không cần đến nô lệ thì những dụ cụ lao động cũng không cần đến chủ lao
động của mình, khẳng định sự tất yếu cần có của nô lệ và dụng cụ lao động.
Cũng nói đến mối quan hệ giữa cha – con, vua – tôi, Aristotle đã nhận
định rằng “Homer đã rất có lý khi gọi Zeus là “cha của thần thánh và của con
người”, vì Zeus là vua của tất cả. Một vị vua đương nhiên phải cao hơn thần
dân của mình, nhưng nhà vua phải cùng một giống với thần dân, đó cũng là
quan hệ giữa người già và người trẻ” [1,77]
Hoặc khi nói về việc toàn thể nhân dân trở thành nhà lãnh đạo có tốt
hay không, Aristotle đã sử dụng quan điểm của Homer, Homer nói rằng “Có
lắm chủ nhân là một điều không tốt” [1,221], để nhấn mạnh đến chế độ dân
23

×