Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

ảnh hưởng của kiểu gen halothane đến khả năng sản xuất và hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn piétrain kháng stress

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.64 KB, 77 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM






NGUYỄN THỊ CHÂU GIANG


ẢNH HƯỞNG CỦA KIỂU GEN HALOTHANE
ĐẾN KHẢ NĂNG SẢN XUẤT VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
THỨC ĂN CỦA LỢN PIÉTRAIN KHÁNG STRESS



CHUYÊN NGÀNH: CHĂN NUÔI
MÃ SỐ: 60.62.01.05


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ ĐỨC LỰC




HÀ NỘI - 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực,
khách quan và chưa từng sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015
Tác giả



Nguyễn Thị Châu Giang

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong Bộ môn Di truyền
- Giống gia súc, Khoa Chăn nuôi, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và thực hiện đề tài này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy Đỗ Đức Lực đã tận tình hướng
dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể thầy cô giáo, cán bộ trong Khoa Chăn
nuôi, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành chương
trình học tập, nghiên cứu và luận văn.
Cho phép tôi được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các cô chú, anh chị em, các
bạn sinh viên đang làm việc và thực tập trong Trung tâm Giống lợn chất lượng cao,

Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã giúp đỡ bố trí thí nghiệm, theo dõi các chỉ tiêu
về năng suất sinh sản, sinh trưởng, ghi chép số liệu làm cơ sở cho luận văn này.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn bè đã động
viên giúp đỡ tôi vượt qua mọi khó khăn trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu,
thực hiện đề tài.

Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015
Tác giả



Nguyễn Thị Châu Giang

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

Lời cam đoan
i
Lời cảm ơn
ii
Danh mục viết tắt
vi
Danh mục bảng
vii
Danh mục hình
viii
MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1

1.2. Mục đích của đề tài 1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2
1.1. Cơ sở lý luận 2
1.1.1 Gen halothane 2
1.1.1.1 Khái quát về gen halothane và cách phát hiện 2
1.1.1.2 Ảnh hưởng của gen halothane đến năng suất sinh sản 3
1.1.1.3 Ảnh hưởng của gen halothane đến sinh trưởng và chất lượng thịt 3
1.1.2 Đặc điểm của lợn Piétrain kháng stress 4
1.1.3 Khả năng sinh sản của lợn 5
1.1.3.1 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của lợn 5
1.1.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn 6
1.1.4 Khả năng sinh trưởng của lợn 12
1.1.4.1 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng của lợn 12
1.1.4.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của lợn 13
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 17
1.2.1 Tình hình nghiên cứu trong nước 17
1.2.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước 20
CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG - ĐỊA ĐIỂM - NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU 24
2.1. Đối tương, địa điểm và thời gian nghiên cứu 24
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 24
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 24
2.2. Nội dung nghiên cứu 24
2.2.1. Năng suất sinh sản của lợn Piétrain kháng stress 24
2.2.2. Sinh trưởng và tỷ lệ nạc của lợn Piétrain kháng stress từ 2 đến 7,5
tháng tuổi 24
2.2.3. Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của lợn đực Piétrain kháng stress

trong giai đoạn kiểm tra năng suất 24
2.3. Phương pháp nghiên cứu 24
2.3.1. Năng suất sinh sản của lợn Piétrain kháng stress 24
2.3.2. Sinh trưởng và tỷ lệ nạc của lợn Piétrain kháng stress từ 2 đến 7,5 tháng
tuổi 27
2.3.3. Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của lợn đực Piétrain kháng stress
trong giai đoạn kiểm tra năng suất 29
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 31
3.1. Năng suất sinh sản của lợn Piétrain kháng stress 31
3.1.1. Ảnh hưởng của các yếu tố đến năng suất sinh sản 31
3.1.2. Năng suất sinh sản của lợn Piétrain kháng stress 32
3.1.3. Năng suất sinh sản của lợn Piétrain kháng stress theo kiểu gen
halothane 33
3.1.3.1. Năng suất sinh sản theo kiểu gen halothanecủa lợn nái 33
3.1.3.2. Năng suất sinh sản theo kiểu gen Halothane của đực phối 39
3.1.4. Năng suất sinh sản ở các cặp ghép đôi giao phối theo kiểu gen
halothane của đực và nái 42
3.1.5. Năng suất sinh sản của lợn Piétrain kháng stress qua các lứa đẻ 45
3.2. Sinh trưởng và tỷ lệ nạc của lợn Piétrain kháng stress từ 2 đến 7,5 tháng tuổi 50
3.2.1. Ảnh hưởng của các yếu tố đến khả năng sinh trưởng và tỷ lệ nạc 50
3.2.2. Sinh trưởng và tỷ lệ nạc của lợn Piétrain kháng stress từ 2 đến 7,5
tháng tuổi theo tính biệt 51
3.2.3. Sinh trưởng và tỷ lệ nạc của lợn Piétrain kháng stress từ 2 đến 7,5
tháng tuổi qua các năm 53
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.3. Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của lợn đực Piétrain kháng stress trong
giai đoạn kiểm tra năng suất 54
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 58

1. Kết luận 58
2. Kiến nghị 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC VIẾT TẮT

KL: Khối lượng
KLSS: Khối lượng sơ sinh
KLCS: Khối lượng cai sữa
KLTB: Khối lượng trung bình
SCSS: Số con sơ sinh
SCSSS: Số con sơ sinh sống
SCCS: Số con cai sữa
TĂ: Thức ăn
TN: Thí nghiệm

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

2.1. Giá trị dinh dưỡng và lượng thức ăn cho lợn nái 25

2.2. Quy trình vệ sinh phòng bệnh trên đàn lợn Piétrain kháng stress 26


3.1. Ảnh hưởng của các yếu tố đến năng suất sinh sản của lợn nái Piétrain
kháng stress 31

3.2. Năng suất sinh sản của lợn nái Piétrain kháng stress 33

3.3. Năng suất sinh sản theo kiểu gen halothane của nái Piétrain kháng stress 34

3.4. Năng suất sinh sản theo kiểu gen halothane của đực phối 39

3.5. Năng suất sinh sản ở các cặp ghép đôi giao phối theo kiểu gen halothane
của đực và nái 43

3.6. Năng suất sinh sản của lợn Piétrain kháng stress qua các lứa đẻ 46

3.7. Ảnh hưởng của các yếu tố đến khả năng sinh trưởng và tỷ lệ nạc của lợn
Piétrain kháng stress 50

3.8. Khả năng sinh trưởng và tỷ lệ nạc của lợn Piétrain kháng stress theo tính biệt 51

3.9. Khả năng sinh trưởng và tỷ lệ nạc của lợn Piétrain kháng stress qua các năm 53

3.10. Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của lợn đực Piétrain kháng stress theo
kiểu gen halothane trong giai đoạn kiểm tra năng suất 54


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC HÌNH


STT Tên hình Trang


3.1. Số con/ổ theo kiểu gen halothane của nái Piétrain kháng stress 35
3.2. Khối lượng/con theo kiểu gen halothane của nái Piétrain kháng stress 35
3.3. Số con/ổ theo kiểu gen halothane lợn đực phối 41
3.4. Khối lượng/con theo kiểu gen halothane của đực phối 41
3.5. Số con/ổ ở các cặp ghép đôi giao phối theo kiểu gen halothane của đực và nái44
3.6. Khối lượng/con ở các cặp ghép đôi giao phối theo kiểu gen halothane của đực
và nái 44
3.7. Số con/ổ qua các lứa đẻ của lợn Piétrain kháng stress 47
3.8. Khối lượng/con qua các lứa đẻ của lợn Piétrain kháng stress 47
3.9. Tăng khối lượng trung bình trong giai đoạn kiểm tra năng suất 55
3.10. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng trong giai đoạn kiểm tra năng suất 55


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuối năm 2007, đàn lợn Piétrain kháng stress đã được nhập vào nước ta theo
chương trình hợp tác đại học giữa Trường Đại học Liège với Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam) và được nuôi tại Xí nghiệp
Chăn nuôi Đồng Hiệp. Kết quả nghiên cứu về khả năng sản xuất bước đầu cho thấy
dòng lợn Piétrain kháng stress có khả năng thích nghi tốt trong điều kiện khí hậu miền
Bắc Việt Nam (Đỗ Đức Lực và cs., 2008); Do et al. (2013) đã công bố kết quả nghiên
cứu về năng suất sinh sản, sinh trưởng, phẩm chất tinh dịch và ảnh hưởng của một số
yếu tố đến các tính trạng này trong điều kiện chăn nuôi nhiệt đới.

Sau hơn 3 năm nhân giống thuần và phát triển trong sản xuất, năm 2011,
“Lợn đực Piétrain kháng stress nhân thuần tại Việt Nam” đã được Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật. Từ năm 2011, Trung tâm
Giống lợn chất lượng cao thuộc Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cũng đã trở
thành cơ sở thứ hai phát triển nhân giống thuần dòng lợn Piétrain kháng stress. Năm
2013, lợn Pietrain kháng stress được đưa vào danh mục giống vật nuôi quốc gia,
được phép sản xuất và kinh doanh tại Việt Nam. Nhiều kết quả nghiên cứu, theo dõi
đánh giá trong sản xuất đều nhận thấy, dòng lợn Piétrain kháng stress đạt thành tích
tốt trong điều kiện chăn nuôi ở các tỉnh phía Bắc nước ta. Tuy nhiên, các nghiên
cứu trên lợn Piétrain kháng stress chưa chỉ rõ được ảnh hưởng của kiểu gen
halothane đến hiệu quả sử dụng thức ăn và đặc biệt chưa tính được tiêu tốn thức
ăn/kg tăng khối lượng theo kiểu gen halothane trong giai đoạn kiểm tra năng suất
đối với dòng lợn Piétrain kháng stress nuôi tại Việt Nam. Xuất phát từ vấn đề trên,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Ảnh hưởng của kiểu gen halothane đến
khả năng sản xuất và hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn Piétrain kháng stress”.
1.2. Mục đích của đề tài
Đánh giá được năng suất sinh sản, sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn
của lợn Piétrain kháng stress; ảnh hưởng của kiểu gen halothane đến các tính trạng
này.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Gen halothane
1.1.1.1 Khái quát về gen halothane và cách phát hiện
Gen halothane xuất hiện ngẫu nhiên trong quá trình chọn lọc lợn có tỷ lệ
nạc cao và được phát hiện vào năm 1980, phương pháp kiểm tra là gây mê qua

đường hô hấp bằng chất bay hơi halothane trong khoảng 3-5 phút với nồng độ 4-
8%. Những con lợn được gây mê đến khi phản xạ mắt biến mất trong phút đầu tiên
và tình trạng mê duy trì khoảng 2-3 phút. Khi các chi của lợn duỗi thẳng và cứng
đơ thì phản ứng halothane dương tính hoặc mẫn cảm với stress. Ngược lại, khi cơ
vẫn co dãn bình thường thì phản ứng halothane âm tính hoặc kháng stress.
Đây là gen gồm 2 allene (C và T) nằm trên nhiễm sắc thể số 6 gây nên hội
chứng nhạy cảm stress và chi phối đến các tính trạng về tăng trưởng, phẩm chất
thân thịt và phẩm chất thịt. Nhưng phương pháp này chỉ phát hiện đươc những con
mang kiểu gen CC và TT chứ không phát hiện được gia súc có phản ứng halothane
âm tính nhưng mang kiểu gen CT. Lợn mẫn cảm (mang kiểu gen TT) có ưu điểm là
độ dày mỡ lưng thấp, tỷ lệ nạc cao, hệ số chuyển hóa thức ăn tốt nhưng có nhược
điểm là khả năng sinh sản kém, tỷ lệ thịt PSE cao do mẫn cảm (Nguyễn Ngọc Tuân
và Trần Thị Dân, 2003).
Whittemore (1993), gen halothane gồm 2 allene C và T tạo nên 3 kiểu gen
CC, CT và TT. Lợn mang kiểu gen CC và CT không mẫn cảm với halothane, lợn
mang kiểu gen TT thì mẫn cảm với gen halothane.
Gen halothane mặc dù tác động có lợi đến tỷ lệ nạc nhưng cũng ảnh hưởng
xấu đến sự sinh trưởng, tỷ lệ chết cao trong quá trình nuôi dưỡng và vận chuyển đến
cơ sở giết mổ, tỷ lệ thịt PSE cao, số con sơ sinh/ổ thấp (Gahre and Juneja, 1985).
Về mặt cấu trúc, sự khác biệt giữa kiểu gen đồng hợp tử trội CC và kiểu gen
đồng hợp tử lặn TT là sự đột biến C (Cytosine) thành T (Thyamine) tại vị trí base
1843. Sự đột biến này có liên quan đến hội chứng sốt cao ác tính (hội chứng MSH)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

ở những con lợn mẫn cảm với stress (Fujii et al., 1991). Về mặt di truyền, gen
halothane di truyền theo định luật Mendel.
Phương pháp gây mê qua đường hô hấp bằng hỗn hợp chất bay hơi halothane
và oxy có ưu điểm là rẻ tiền nhưng phát hiện chậm (lợn trên 8 tuần tuổi), cồng kềnh,
tốn công và không thể phát hiện kiểu gen CT. Ngoài ra, lợn có thể chết đột ngột do

sốt kiệt phát lúc xét nghiệm. Do vậy, việc áp dụng biện pháp thay thế hiệu quả là rất
cần thiết.
1.1.1.2 Ảnh hưởng của gen halothane đến năng suất sinh sản
Ảnh hưởng của gen halothane đến năng suất sinh sản là một vấn đề rất được quan
tâm vì đây là yếu tố quyết định cho sự tăng đàn, phát triển về số lượng.
Trên lợn đực giống, stress làm giảm tính dục, nồng độ tinh trùng thấp dẫn đến
số lượng tinh trùng tiến thẳng giảm và làm giảm tỷ lệ thu tinh. Những lợn đực giống
mẫn cảm với stress (có kiểu gen TT) có phẩm chất tinh dịch thấp hơn so với lợn đực
giống mang kiểu gen CC và CT (Pfeiffer et al., 1986).
Trên lợn nái, stress làm cho lợn nái mang thai mệt mỏi, kém ăn, gây ảnh
hưởng xấu đến quá trình sinh sản như giảm số trứng rụng, tăng hiện tượng chết
phôi, ảnh hưởng đến số con đẻ ra/lứa.
Lợn nái kháng stress đẻ nhiều con hơn lợn nái mẫn cảm với stress từ 0,11 -
1,0 con/ổ, thể hiện rất rõ qua tỷ lệ cai sữa/ổ (Schneider et al., 1980). Ảnh hưởng của
gen halothane không có ý nghĩa trên số con đẻ ra/ổ và số con còn sống/ổ nhưng lại
ảnh hưởng có ý nghĩa đến số lứa đẻ/nái. Điều này cho thấy gen halothane đã ảnh
hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái (Willeke et al., 1984).
1.1.1.3 Ảnh hưởng của gen halothane đến sinh trưởng và chất lượng thịt
Đối với sinh trưởng, stress làm lợn còi cọc, giảm cân và tăng trưởng chậm.
Một phần do lợn chán ăn, mặt khác do cơ thể sản xuất ra một lượng hormone
glucocorticoid. Khi có phản ứng stress mạnh, cơ thể sẽ sử dụng nguồn năng lượng
dự trữ để thích nghi. Vì vậy, nếu quá trình này kéo dài sẽ dẫn đến giảm tăng khối
lượng trên lợn con và giảm khối lượng trên lợn thịt và lợn sinh sản.
Lợn mẫn cảm với stress có mức tăng khối lượng thấp nhưng lượng tiêu thu
thức ăn giảm và hệ số chuyển hóa thức ăn tốt hơn so với lợn kháng stress. Bên cạnh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

đó ưu điểm nổi bật của lợn mẫn cảm với stress là diện tích mắt thịt, tỷ lệ nạc và tỷ lệ
thịt xẻ cao, dày mỡ lưng thấp, xương nhỏ. Nhược điểm của lợn mẫn cảm với stress

là tỷ lệ thịt PSE tăng cao, làm giảm chất lượng thịt.
Kết quả nghiên cứu của Webb et al. (1981) và các tác giả khác cho thấy lợn
mang kiểu gen đồng hợp tử lặn TT cho tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ nạc, diện tích mắt thịt cao
và dày mỡ lưng thấp hơn lợn mang kiểu gen đồng hợp tử trội CC và dị hợp tử trội
CT. Tỷ lệ thịt PSE ở lợn mang kiểu gen TT là cao nhất. Tổng hợp những tính trạng
này, các tác giả cho rằng gen CT mang tính trạng trung gian giữa kiểu gen CC và
TT nên mang lại lợi ích kinh tế cao hơn so với kiểu gen CC, TT. Bên cạnh những
tác động tích cực trên thì gen halothane cũng gây nên những tác động tiêu cực đối
với sinh sản, sinh trưởng và chất lượng thịt. Có nhiều ý kiến cho rằng, cần phải loại
thải gen này trong đàn giống để giảm hội chứng mẫn cảm với stress và thịt PSE.
Nhưng ngược lại, cũng có nhiều đề xuất giữ lại gen này ở dạng dị hợp tử CT để tận
dụng tính ưu việt về tỷ lệ nạc và tính kháng stress. Tuy nhiên, tùy vào mục đích
khác nhau mà nhà chọn giống có nhiều lựa chọn để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.1.2 Đặc điểm của lợn Piétrain kháng stress
Năm 1920, giống lợn Piétrain xuất hiện và đến năm 1956 được công nhận là
giống lợn mới ở Bỉ.
Lợn Piétrain có màu da trắng đen xen lẫn từng đám không đều. Lợn có thân
hình ngắn nhưng khả năng cho thịt cao vì phần mông và vai rất phát triển.
Piétrain cổ điển của Bỉ được đặc trưng bởi thân thịt có tỷ lệ móc hàm cao
(80,80%) và tỷ lệ nạc đặc biệt cao (60,90%). Tuy nhiên, do tồn tại của allene lặn nằm ở
locus halothane với tần suất cao làm cho tỷ lệ thịt PSE (Pale - Soft - Exsudative - thịt
có màu nhạt, xốp và rỉ nước) cao và gây cho lợn bị stress.
Để cải thiện tình trạng này, khoa Thú y Trường Đại học Liege đã tạo ra dòng
lợn Piétrain ReHal (Piétrain kháng stress) bằng phương pháp lai ngược (Backcross)
với lợn Large White để chuyển gen C vào bộ gen halothane của lợn Piétrain cổ
điển. Leroy and Verleyen (1999) đã khẳng định lợn Piétrain RéHal thể hiện được tất
cả ưu điểm của Piétrain cổ điển nhưng đặc tính mẫn cảm với stress đã giảm và pH
sau giết thịt được cải thiện.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5


Cuối năm 2007, lợn Piétrain có tỷ lệ nạc cao nhất hiện nay đã được nhập về
Việt Nam để nhân thuần cũng như tạo ra các đực lai nhằm cải tiến năng suất, chất
lượng thịt. Kết quả bước đầu cho thấy lợn Piétrain RéHal có khả năng thích nghi tốt
trong điều kiện khí hậu miền Bắc Việt Nam (Đỗ Đức Lực và cs., 2008, 2012).
Năm 2013, Xí nghiệp Chăn nuôi Đồng Hiệp đã nhập 150 liều tinh Piétrain
RéHal với mục tiêu làm tươi máu đàn lợn đã nhập về từ cuối năm 2007.
Đến đầu năm 2015, Trung tâm Giống lợn chất lượng cao cũng đã nhập 30
con lợn Pietrian thuần từ Bỉ (12 con đực và 18 con cái) và hiện đang được nuôi
thích nghi tại Trung tâm.
1.1.3 Khả năng sinh sản của lợn
1.1.3.1 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của lợn
Năng suất sinh sản của lợn nái được đánh giá thông qua các chỉ tiêu: số con
đẻ ra còn sống/ổ, số con cai sữa/ổ, số ngày cai sữa, khối lượng toàn ổ lúc sơ sinh,
khối lượng toàn ổ lúc cai sữa, số lứa đẻ/nái/năm, tỷ lệ nuôi sống từ sơ sinh đến cai
sữa. Theo quyết định số 675/QĐ-BNN-CN ngày 4/4/2014 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn về việc phê duyệt định mức kinh tế kỹ thuật đối với lợn ngoại
giống gốc như sau:
- Số con đẻ ra còn sống/ổ: ≥ 10,5 con (Yorkshire, Landrace), ≥ 9,5 con
(Duroc), ≥ 9,0 con (Piétrain), ≥ 11,0 con (các giống tổng hợp), thấp hơn 10% (đối
với lợn cụ các giống tương ứng).
- Số con cai sữa/ổ: ≥ 9,7 con (Yorkshire, Landrace), ≥ 8,7 con (Duroc), ≥ 8,3
con (Piétrain), ≥ 10,1 con (các giống tổng hợp), thấp hơn 10% (đối với lợn cụ các
giống tương ứng).
- Số ngày cai sữa: trong khoảng 21 – 28 ngày
- Khối lượng toàn ổ lúc sơ sinh: ≥ 14,5 kg (Yorkshire, Landrace), ≥ 13 kg
(Duroc), ≥ 12 kg (Piétrain), các giống tổng hợp ≥ 15,5 kg.
- Khối lượng toàn ổ lúc cai sữa: 65 - 80 kg (Yorkshire, Landrace), 55 -80 kg
(Duroc), 50 – 80 kg (Piétrain), 65 – 85 kg (các giống tổng hợp).
- Số con 75 ngày tuổi/lứa: ≥ 9,2 con (Landrace, Yorkshire); ≥ 8,3 con

(Duroc); ≥ 7,9 con (Piétrain); các giống tổng hợp ≥ 9,6 con.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

- Khối lượng lợn ở 75 ngày tuổi: ≥ 25 kg/con
- Tuổi đẻ lứa đầu: 340 – 385 ngày - Số lứa đẻ/nái/năm: 2,2 lứa (Yorkshire,
Landrace, các giống tổng hợp), 2,0 lứa (Duroc), 1,9 lứa (Piétrain).
- Tỷ lệ nuôi sống từ sơ sinh đến cai sữa: ≥ 92%.
- Tỷ lệ nuôi sống từ sơ sinh đến 75 ngày tuổi: ≥ 95%
1.1.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn
Sinh sản là một thuộc tính của sinh vật nói chung và gia súc nói riêng, nhằm
duy trì nòi giống và đảm bảo cho sự tiến hóa của sinh vật. Ở gia súc nói chung và ở
lợn nói riêng, sinh sản là một chức năng quan trọng mang ý nghĩa tái sản xuất ra sản
phẩm phục vụ cho lợi ích của con người. Chính vì vậy, sinh sản của gia súc là một
thuộc tính mà các nhà chăn nuôi quan tâm, nhằm mục đích sinh sản được nhiều nhất
trong thời gian ngắn nhất, thế hệ sau có đặc tính tốt hơn thế hệ trước, năng suất sinh
sản được nâng cao sẽ mang lại hiệu quả cao nhất trong ngành chăn nuôi.
Một yêu cầu quan trọng của chăn nuôi lợn nái là phải tăng khả năng sinh sản
nhằm đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng lợn cho khâu sản xuất lợn thịt.
Có nhiều chỉ tiêu sinh học đánh giá năng suất sinh sản của lợn cái, nhưng các nhà di
truyền chọn giống lợn chỉ quan tâm tới một số tính trạng năng suất nhất định là các
chỉ tiêu có tầm quan trọng kinh tế trong chăn nuôi lợn nái sinh sản.
Gordon (2004), Legault (1980) cho rằng: trong các trại chăn nuôi hiện đại, số
lợn con cai sữa do một nái sản xuất trong một năm là chỉ tiêu đánh giá đúng đắn nhất
năng suất sinh sản của lợn nái. Tác giả cũng cho biết tầm quan trọng của các thành
phần cấu thành ảnh hưởng đến chỉ tiêu số lợn con cai sữa do một nái sản xuất trong
một năm lần lượt là: số con đẻ ra trong ổ, tỷ lệ chết của lợn con từ sơ sinh đến cai sữa,
thời gian bú sữa, tuổi đẻ lứa đầu và thời gian từ cai sữa đến khi thụ thai lứa sau.
Theo Ducos (1994), các thành phần đóng góp vào chỉ tiêu số con còn sống khi
cai sữa gồm số trứng rụng, tỉ lệ lợn con sống lúc sơ sinh và tỉ lệ lợn con sống tới lúc cai

sữa là các thành phần quan trọng nhất đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái. Do vậy
việc nâng cao chỉ tiêu số con đẻ ra sống và số con cai sữa là một vấn đề được quan tâm
hàng đầu trong chăn nuôi lợn nái sinh sản.
Mabry et al. (1997) cho rằng các tính trạng năng suất sinh sản chủ yếu của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

lợn nái bao gồm: số con đẻ ra, số con cai sữa, khối lượng 21 ngày/ổ và số lứa
đẻ/nái/năm. Các tính trạng năng suất sinh sản chủ yếu này có tầm quan trọng về mặt
kinh tế và ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của người sản xuất lợn giống cũng như
người nuôi lợn thương phẩm.
Năng suất sinh sản của lợn nái có mối quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc vào các
yếu tố: gen halothane, di truyền và ngoại cảnh.
a. Yếu tố di truyền
* Kiểu gen halothane
Các kiểu gen halothane có ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái,
phẩm chất tinh dịch của lợn đực. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của các kiểu gen
đến năng suất sinh sản vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược.
Lợn có phản ứng halothane âm tính có số con/ổ cao hơn so với lợn có phản
ứng halothane dương tính (Vandersteen, 1983). Kết quả nghiên cứu của Stalder et
al. (1997), Guimaraes et al. (1999) không tìm thấy bất cứ sai khác nào về độ lớn lứa
đẻ giữa các kiểu gen halothane.
Số con đẻ ra còn sống/ ổ của lợn Landrace Thuy Sĩ có phản ứng halothane
âm tính cao hơn so với lợn có phản ứng halothane dương tính là 0,55 con
(Schineider et al., 1980), ở lợn Landrace Đan Mạch là 1,3 con (Vandersteen, 1986).
Theo Lengerken et al. (1982), lợn có phản ứng halothane âm tính có số con đẻ ra/ổ
cao hơn lợn có phản ứng halothane dương tính là 0,3 con, số con đẻ ra có khả năng
nuôi/ ổ cao hơn là 0,9 con và số lứa đẻ/năm là 0,17 lứa.
Theo Ellis et al. (1996), năng suất sinh sản giữa 2 lợn nái mang kiểu gen CC
và CT không khác nhau. Tuy nhiên, duy trì các dòng lợn nái kháng stress đã làm

hạn chế đời con có phản ứng dương tính, là một yếu tố làm giảm số lợn con chết có
liên quan đến stress.
Nghiên cứu ảnh hưởng của các kiểu gen halothane đến năng suất sinh sản ở
565 lợn nái Landrace Đức và 847 lợn nái Leicoma, Simon et al. (1997) cho biết,
kiểu gen ảnh hưởng không rõ đến số con sơ sinh, số con sinh ra còn sống, số con
sinh ra đã chết và số con lúc cai sữa/ ổ.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

* Yếu tố giống
Giống là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh sản của lợn nái
(Đặng Vũ Bình, 1999; Hamann et al., 2004).
Năng suất sinh sản của lợn nái bao gồm các tính trạng vốn có hệ số di truyền
nhỏ, lại thường không tạo được áp lực chọn lọc cần thiết nên hiệu quả của chọn lọc
rất thấp. Các tính trạng năng suất sinh sản có hệ số biến động khá cao. Tương quan
giữa số con/ổ và khối lượng toàn ổ cũng như giữa khối lượng toàn ổ và khối lượng
trung bình một lợn con là dương và chặt chẽ, nhưng giữa số con và khối lượng
trung bình một lợn con là âm và chặt chẽ (Đặng Vũ Bình, 1995).
Yếu tố di truyền phụ thuộc vào đặc tính con giống, các giống lợn khác nhau
thì có tính năng sản xuất khác nhau. Tính trạng số lượng về khả năng sinh sản của
lợn nái thường có hệ số di truyền thấp, các chỉ tiêu như số con còn sống/ổ, số con
sai sữa/ổ có hệ số di truyền (h
2
) là 0,10; khối lượng sơ sinh/ổ, khối lượng cai sữa/ổ
có h
2
là 0,20. Rydhmer et al. (1995) hệ số di truyền (h
2
) tính trạng tuổi đẻ lứa đầu,
số con đẻ ra sống/ổ và khoảng cách lứa đẻ lần lượt là: 0,27; 0,13 và 0,08. Theo

Tolle et al. (1999) cũng cho biết hệ số di truyền của chỉ tiêu số con đẻ ra sống và số
con cai sữa/ổ là 0,09 - 0,12 và 0,05 - 0,07.
Theo Legault (1985), căn cứ vào khả năng sinh sản và sức sản xuất thịt, các
giống lợn chia làm bốn nhóm chính như sau:
- Các giống đa dụng như Yorkshire, Landrace và một số dòng nguyên chủng
được xếp vào loại có khả năng sản xuất thịt và sinh sản khá.
- Các giống chuyên dụng “dòng bố” như Piétrain, Landrace của Bỉ, Hampshire,
Poland China có khả năng sinh sản trung bình nhưng khả năng sản xuất thịt cao.
- Các giống chuyên dụng “dòng mẹ”, đặc biệt một số giống chuyên sản của
Trung Quốc như Taihu (điển hình là Meishan) có khả năng sinh sản đặc biệt cao
nhưng khả năng cho thịt kém.
- Các giống địa phương có đặc tính chung là khả năng sinh sản và sức sản
xuất thịt kém, song có khả năng thích nghi tốt với môi trường.
Các giống “dòng bố” thường có khả năng sinh sản thấp hơn so với các
giống đa dụng, ngoài ra chúng có chiều hướng hơi kém về khả năng nuôi con, tỷ lệ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

lợn con chết trước khi cai sữa của các giống này cao hơn so với Landrace và
Yorkshire (Blasco et al., 1995).
Sự thành thục về tính của các giống khác nhau cũng khác nhau. Gia súc có
tầm vóc và khối lượng nhỏ thường sớm hơn gia súc có tầm vóc, khối lượng lớn.
Tuổi thành thục của giống lợn nội Trung Quốc khi 3 - 4 tháng tuổi và các giống lợn
châu Âu là 6 - 7 tháng tuổi (Rothschild and Bidanel, 1998).
Sự cận huyết cũng ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái, số con đẻ
ra trong một ổ giảm 0,29 con khi hệ số cận huyết tăng thêm 10% (Johnson, 1990).
Ngoài ra, năng suất sinh sản còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố di truyền
khác như kiểu gen, cá thể, lai giống…
Như vậy năng suất sinh sản của lợn nái chịu ảnh hưởng của giống và cá thể,
mỗi một giống có một đặc tính sản xuất gắn liền với năng suất và hiệu quả kinh tế

của nó, giống khác nhau thì có năng suất khác nhau.
b. Yếu tố ngoại cảnh
Ngoài các yếu tố di truyền, yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng rất rõ ràng và có ý
nghĩa đến năng suất sinh sản của lợn nái.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới khả năng sinh sản của lợn nái như: chế độ
nuôi dưỡng, tuổi, khối lượng phối, phương thức phối, lứa đẻ, mùa vụ, nhiệt độ môi
trường, thời gian chiếu sáng, bệnh tật (Dierckx et al., 1997; Sohst, 1997; Riha et
al., 2000).
* Chế độ nuôi dưỡng
Dinh dưỡng là yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo khả năng sinh sản của
lợn nái. Lợn nái và lợn cái hậu bị có chửa cần được cung cấp đủ về số lượng và chất
lượng các chất dinh dưỡng để có kết quả sinh sản tốt.
Zimmerman et al. (1996) cho biết các mức ăn khác nhau trong giai đoạn từ
cai sữa đến phối giống trở lại có ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ thai. Yamada et al. (1998)
nhận thấy nuôi dưỡng hạn chế đối với lợn cái trong giai đoạn hậu bị sẽ làm tăng tuổi
động dục lần đầu, tăng tỷ lệ loại thải so với nuôi dưỡng đầy đủ.
Nên cho lợn nái nuôi con ăn tự do để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng. Giảm
lượng thức ăn thu nhận khi nuôi con sẽ làm giảm khối lượng cơ thể, hậu quả là thời
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

gian động dục trở lại dài, giảm tỉ lệ thụ tinh và giảm số phôi sống (Brand et al.,
2000). Theo Chung et al. (1998), Lember (1998) tăng lượng thức ăn thu nhận ở lợn
nái tiết sữa sẽ làm tăng sản lượng sữa và tăng khả năng tăng khối lượng của lợn con.
Gordon (2004) cho biết: tăng lượng thức ăn thu nhận cho lợn nái tiết sữa ở giai đoạn
đầu và giữa chu kỳ tiết sữa sẽ có tác dụng giảm thời gian động dục trở lại hơn là tăng
lượng thức ăn thu nhận cho lợn nái tiết sữa ở giai đoạn cuối, tăng lượng thức ăn thu
nhận cho lợn nái tiết sữa ở giai đoạn giữa và cuối chu kỳ tiết sữa sẽ có tác dụng tăng
khối lượng cai sữa hơn là tăng ở giai đoạn đầu.
Mục tiêu của nuôi dưỡng lợn nái là làm sao cho số ngày không sản xuất ít

nhất, khối lượng cơ thể tăng phù hợp trong thời kỳ có chửa và có được khối lượng
cơ thể thích hợp trong thời kỳ nuôi con. Vì vậy cần phải đưa ra khẩu phần ăn khoa
học để tăng sữa.
* Mùa vụ
Mùa vụ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái.
Gaustad-Aas et al. (2004) cho biết: mùa vụ có ảnh hưởng đến số con đẻ ra/ổ. Mùa
có nhiệt độ cao là nguyên nhân làm kết quả sinh sản ở lợn nái nuôi chăn thả thấp, tỷ
lệ chết ở lợn con cao (Akos et al., 2004).
Nhiệt độ cao làm khả năng thu nhận thức ăn của lợn nái thấp, tỷ lệ hao hụt
lợn nái tăng và tỷ lệ động dục trở lại sau cai sữa giảm. Tỷ lệ thụ thai bị ảnh hưởng
bởi nhiệt độ và mùa vụ. Lợn nái phối giống vào các tháng nóng có tỷ lệ thụ thai
thấp, giảm khả năng sinh sản từ 5 - 20%.
Nhiệt độ cao không những làm tăng tỷ lệ nái không động dục mà còn làm
giảm tỷ lệ thụ thai, giảm khả năng sống của thai (Pistoni, 1997).
Nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ ảnh hưởng của stress nhiệt đến khả năng sinh sản
của lợn nái. Thời gian từ tháng 7 đến tháng 11 lợn nái thường ít động dục. Số con
đẻ ra/ổ khi phối giống vào mùa hè có thể ít hơn một con so với khi phối giống vào
mùa thu, mùa đông (Peltoniemi et al., 2000, Koketsu et al., 1998). Tỷ lệ thụ thai
thấp và số con đẻ ra ít vào mùa hè đã được Dominguez et al. (1998) xác nhận.
Các tác giả nhận thấy về mùa hè, nhiệt độ cao làm giảm tính nhạy cảm bình
thường của chu kỳ động dục. Claus and Weiler (1985) cho biết từ tháng thứ 5 đến
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

tháng thứ 8 khoảng cách từ khi cai sữa đến động dục trở lại ở lợn nái tăng so với các
tháng khác (trích dẫn từ Gordon, 1997).
Stress nhiệt có thể làm giảm tỷ lệ thụ thai tới 20%, giảm số phôi sống 20% và
do đó làm giảm thành tích sinh sản của lợn nái (Peltoniemi et al., 2000).
* Tuổi và lứa đẻ
Tuổi và lứa đẻ đều là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến số con đẻ ra/ổ (Clark

and Leman, 1986). Lợn nái kiểm định có tỷ lệ đẻ thấp hơn so với lợn nái sinh sản
(Koketsu et al., 1998). Số lượng trứng rụng thấp nhất ở chu kỳ động dục thứ nhất,
tăng đến 3 tế bào trứng ở chu kỳ động dục thứ hai và đạt tương đối cao ở chu kỳ
động dục thứ ba (Deckert et al., 1998). Số con đẻ ra tương quan thuận với số lượng
trứng rụng (Warrick et al., 1989, trích dẫn từ Gordon, 1997).
Lứa đẻ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái vì
có sự khác nhau về chức năng theo tuổi của lợn nái. Khả năng sinh sản của lợn nái
thường thấp nhất ở lứa đẻ thứ nhất, đạt cao nhất ở lứa đẻ thứ 3, 4, 5 và sau đó gần
như là ổn định và có xu hướng giảm khi lứa đẻ tăng lên. Gordon (1997) cho biết số
con đẻ ra/ổ tăng từ lứa đẻ một đến lứa đẻ thứ 4, ở lứa đẻ thứ 8 trở đi, số lợn con mới
đẻ bị chết tăng lên. Số con đẻ ra/ổ có quan hệ chặt chẽ đến tuổi của lợn nái và giảm
nhanh sau 4, 5 tuổi. Lợn đẻ lứa đầu tiên thường có số con đẻ ra, khối lượng sơ sinh
nhỏ hơn so với những lứa đẻ sau (Colin et al., 1998). Lợn mới đẻ lứa đầu thường
hay sợ hãi do đó tỷ lệ thụ thai thấp và tỷ lệ chết cao (Grandinson et al., 2005).
* Số lần phối và phương thức phối giống
Gordon (1997) cho biết: số lần phối giống trong một lần động dục ở lợn nái
ảnh hưởng tới số con đẻ ra/ổ. Phối đơn trong một chu kỳ động dục ở lúc động dục cao
nhất có thể đạt được số con đẻ ra/ổ cao, nhưng phối hai lần trong một chu kỳ động
dục làm tăng số con đẻ ra/ổ. Khi phối giống cho lợn nái trực tiếp ba lần, mỗi lần cách
nhau 24 giờ tăng hơn 1,3 con/ổ so với phối hai lần.
Phương thức phối giống cũng ảnh hưởng khá rõ rệt. Trong phối trực tiếp, ảnh
hưởng của con đực rất rõ. Thụ tinh nhân tạo có thể làm giảm tỷ lệ thụ thai do kỹ thuật
phối giống. Theo Anon (1993), phối giống kết hợp giữa thụ tinh nhân tạo và nhảy
trực tiếp có thể làm tăng 0,5 lợn con so với phối riêng rẽ (trích dẫn từ Gordon, 1997).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

Phối giống bằng thụ tinh nhân tạo làm tỷ lệ thụ thai và số con đẻ ra/ổ đều thấp hơn từ
0 - 10% so với phối giống trực tiếp (Colin et al., 1998), nhưng kết quả nghiên cứu của
Alexopoulos et al. (1997) thì ngược lại.

* Thời gian cai sữa
Kết quả phân tích 14.925 lứa đẻ của 39 đàn lợn nái ở Mỹ (Xue et al., 1993
trích dẫn từ Gordon, 1997) cho thấy: thời gian bú sữa của lợn con dài, khoảng cách
từ khi đẻ đến phối giống trở lại dài, khoảng cách lứa đẻ dài. Điều đó ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái sinh sản do làm giảm số lứa
đẻ/nái/năm.
Nghiên cứu của Gaustad - Aas et al. (2004), Mabry et al. (1997), cho biết:
phối giống sớm sau khi đẻ, tỷ lệ đẻ và số con đẻ ra/ổ thấp hơn so với phối giống
muộn. Theo Gordon (2004), giảm thời gian cai sữa từ 20 xuống 15 ngày sẽ làm
giảm 0,2 con trong ổ, giảm thời gian cai sữa từ 15 xuống còn 10 ngày sẽ làm giảm
trên 0,2 con trong ổ.
Lợn nái cai sữa ở 28 - 35 ngày, thời gian động dục trở lại 4 - 5 ngày có thể
phối giống và có thành tích sinh sản tốt (Colin et al., 1998). Không nên phối giống
cho lợn nái sớm hơn 3 tuần sau khi đẻ, phối giống sớm sẽ làm giảm khả năng sinh
sản của lợn nái (Cole et al., 1975 trích dẫn từ Gordon, 1997).
Lợn nái phối giống sau khi cai sữa sớm có số lượng trứng rụng thấp (15,9 so
với 24,6) và số phôi ở ngày chửa thứ 11 ít. Lợn nái cai sữa sớm có tỷ lệ thụ thai
thấp, số phôi sống ít và thời gian động dục trở lại dài (Deckert et al., 1998).
1.1.4 Khả năng sinh trưởng của lợn
1.1.4.1 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng của lợn
Sinh trưởng là sự tăng lên về kích thước hoặc khối lượng của vật nuôi do có
sự tăng lên về số lượng và thể tích tế bào. Mối liên hệ giữa khối lượng và tuổi của
vật nuôi được thể hiện bằng đồ thị hình chữ S. Giai đoạn trước thành thục sinh dục
có tốc độ sinh trưởng nhanh, sau đó tốc độ sinh trưởng chậm lại và giảm dần cho
đến khi đạt ổn định về khối lượng, lúc này vật nuôi thành thục về thể vóc. Khả năng
sinh trưởng được mô tả bằng sinh trưởng tuyệt đối và sinh trưởng tương đối.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

Sinh trưởng tuyệt đối được xác định bằng tỷ lệ giữa khối lượng cơ thể vật

nuôi tăng lên với khoảng thời gian để tăng được khối lượng đó. Chỉ tiêu này được
sử dụng để đánh giá khả năng tăng khối lượng trung bình hàng tháng (kg/tháng)
hoặc hàng ngày (g/ngày).
Sinh trưởng tương đối: là tỷ lệ % tăng lên về khối lượng kích thước và thể
tích cơ thể lúc khảo sát so với lúc ban đầu khảo sát.
1.1.4.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của lợn
Các tính trạng về khả năng sinh trưởng và phát dục ở lợn hầu hết là tính trạng
số lượng và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố gen halothane, di truyền và ngoại cảnh.
a. Yếu tố di truyền
* Yếu tố gen halothane
Gen halothane được biết đến sớm nhất và có ảnh hưởng rõ rệt đến khả năng
kháng stress, sinh trưởng và chất lượng thịt (Sarther et al., 1991).
Kiểu gen halothane ảnh hưởng đến các chỉ tiêu thân thịt như tỷ lệ thịt xẻ, tỷ
lệ nạc, độ dày mỡ lưng, diện tích cơ thăn và đặc biệt là các chỉ tiêu chất lượng thịt
như pH, độ mất nước và màu sắc thịt.
Các kết quả nghiên cứu đã cho biết, lợn có phản ứng halothane dương tính có khả
năng cho thịt có tỷ lệ nạc cao, nhưng thịt lại nhiều nước, nhợt nhạt và mềm (thịt PSE).
Lợn Landrace và lợn Large White có phản ứng halothane dương tính thì có tỷ lệ thịt PSE
chiếm 90,9% và 91,7%; ngược lại lợn có phản ứng âm tính là 36,4% và 33,3%.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của các kiểu gen halothane đến các tính trạng
nuôi vỗ béo ở 5 giống lợn khác nhau, các tác giả cho thấy, lợn mang kiểu gen TT
đạt khối lượng 30, 60 và 100 kg muộn hơn, có tăng khối lượng ngày ở giai đoạn 30
- 60 kg thấp hơn và độ dày mỡ lưng khi cơ thể đạt 100 kg thấp hơn so với lợn mang
kiểu gen CC và CT.
* Yếu tố giống
Các giống lợn khác nhau có quá trình sinh trưởng khác nhau, tiềm năng di
truyền của quá trình sinh trưởng của các gia súc được thể hiện thông qua hệ số di
truyền. Hệ số di truyền đối với tính trạng khối lượng sơ sinh và sinh trưởng trong
thời gian bú sữa dao động từ 0,05 - 0,21 và nó thấp hơn trong thời kỳ vỗ béo (từ 25
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14

- 95 kg). Khả năng tăng trưởng của lợn sau cai sữa là cao nhất so với giai đoạn bú
sữa và giai đoạn trưởng thành. Giai đoạn trưởng thành, các chỉ tiêu tỷ lệ móc hàm,
chiều dài thân thịt, tỷ lệ nạc, độ dày mỡ lưng, diện tích cơ thăn có hệ số di truyền
cao. Do đó trong chọn lọc và nhân giống người ta thường xác định các chỉ tiêu này
ở giai đoạn trưởng thành để loại thải những con vật không đạt yêu cầu chất lượng
giống. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu phục vụ cho sản xuất, người ta thường chọn
những giống phù hợp với mong muốn trong chăn nuôi.
Hiện nay, để tăng khả năng sinh trưởng và tăng khối lượng cơ thể, người ta
chủ yếu tạo ra ưu thế lai. Con lai thường tạo ra ưu thế lai cao hơn con bố mẹ về tăng
trọng (Sellier, 1998). Con lai cho ưu thế lai cao hơn bố mẹ về tăng khối lượng
(10%) và thu nhận hàng ngày (Sellier, 1998). Theo Liu et al. (2000), con lai 3 giống
có ưu thế lai về tăng khối lượng tới 16,44 %, ưu thế lai về tiêu tốn thức ăn là -
8,18%, trong khi đó con lai trở ngược có ưu thế lai về tăng khối lượng chỉ đạt 7,03
%, tiêu tốn thức ăn là - 2,7%.
Ngoài con giống, khả năng sinh trưởng về khối lượng, các tính trạng nuôi vỗ béo,
thân thịt và chất lượng thịt còn chịu sự chi phối của các gen như gen halothane, IGF2α,
gen Rendement Napoli….Theo Simon et al. (1997), tăng trọng của lợn mang kiểu gen
halothane đồng hợp CC cao hơn so với lợn mang kiểu gen halothane dị hợp tử CT.
b. Các yếu tố ngoại cảnh
Chăn nuôi lợn con giữ vai trò quan trọng bởi vì năng suất của lợn nái cuối cùng
được đánh giá bằng số lượng lợn con và khối lượng toàn ổ giai đoạn 50 - 60 ngày tuổi
tính cho mỗi lợn nái một năm. Do vậy, nếu nuôi dưỡng tốt lợn ở giai đoạn này không
những làm tăng được năng suất sinh sản của lợn nái mà còn tạo điều kiện tiền đề tốt
cho việc nuôi dưỡng lợn sinh trưởng ở những giai đoạn tiếp sau. Lợn con ở giai đoạn
này rất mẫn cảm với các yếu tố môi trường xung quanh do có những thay đổi lớn khi từ
trong bụng mẹ ra môi trường chăn nuôi. Ngoài ra yếu tố dinh dưỡng cũng giữ một vai
trò cực kỳ quan trọng. Nguồn dinh dưỡng của lợn con không chỉ do lợn mẹ cung cấp
mà rất cần nguồn dinh dưỡng bổ sung từ bên ngoài để cho lợn con phát triển tốt nhất.

Yếu tố ngoại cảnh là quan trọng chi phối khả năng sinh trưởng và cho thịt
của gia súc nói chung.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

* Dinh dưỡng
Dinh dưỡng là yếu tố quan trọng nhất trong số các yếu tố ngoại cảnh chi phối
sinh trưởng và khả năng cho thịt của gia súc. Mối quan hệ giữa năng lượng và protein
giúp cho việc điều khiển tốc độ tăng khối lượng, tỉ lệ nạc mỡ và tiêu tốn thức ăn của
lợn thịt. Phương thức cho ăn và giá trị dinh dưỡng trong khẩu phần ăn là chìa khóa
ảnh hưởng lên tăng khối lượng (Nguyễn Thị Nghi và Lê Thanh Hải, 1995).
Theo Wood et al. (2004), nuôi lợn thịt bằng khẩu phần protein thấp, lợn sẽ sinh
trưởng chậm, khối lượng giết thịt thấp. Mức năng lượng và protein thấp trong khẩu
phần làm tăng khả năng tích luỹ mỡ, tăng tỷ lệ mỡ trong cơ (Chang et al., 2003).
Tốc độ tăng khối lượng, chất lượng thịt cũng thay đổi tuỳ thuộc vào mối
quan hệ giữa các vitamin với nhau và giữa vitamin với protein và khoáng. Bên cạnh
đó hàng loạt nghiên cứu đã xác nhận tác dụng của việc bổ sung các axit amin giới
hạn vào khẩu phần lợn thịt: tăng khối lượng tăng, tiết kiệm được thức ăn và protein.
Nuôi lợn hướng nạc, hàm lượng Lysin trong khẩu phần giai đoạn cuối cần từ 0,5 -
0,8%. Chất khoáng cũng đặc biệt quan trọng với lợn thịt. Jondreville et al. (2003)
cho biết bổ sung Cu, Zn một cách hợp lý vào khẩu phần có tác dụng làm tăng khả
năng sinh trưởng và giảm ô nhiễm môi trường. Hiệu quả sử dụng protein bị ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố. Lợn hướng nạc có hiệu quả sử dụng protein cao hơn so với
lợn hướng mỡ, lợn còn non cao hơn lợn trưởng thành, lợn đực cao hơn lợn cái và
lợn đực thiến. Khẩu phần có đủ axit amin tốt hơn khẩu phần không đủ.
* Thời gian nuôi
Dựa vào quy luật sinh trưởng tích lũy chất dinh dưỡng trong cơ thể lợn,
người ta đề ra 3 phương thức nuôi: nuôi lấy nạc đòi hỏi tăng khối lượng nhanh,
thường kết thúc khi lợn có khối lượng 80 - 90 kg, nuôi theo hướng kiêm dụng nạc -
mỡ, thời gian nuôi dài hơn, còn phương thức nuôi lấy mỡ cần thời gian nuôi dài,

khối lượng giết thịt lớn hơn 2 phương thức kia.
Đinh Văn Chỉnh và cs. (1995) nghiên cứu trên lợn kiểm tra cá thể cho biết:
độ lớn của hệ số tương quan giữa độ dày mỡ lưng so với tỷ lệ mỡ giảm dần theo
tuổi, sự tích luỹ mỡ tăng dần theo sự tăng về khối lượng. Cứ tăng 10kg khối lượng
thì độ dày mỡ lưng tăng khoảng 1mm ở tất cả các điểm.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

Thời gian nuôi càng dài, tỷ lệ mỡ trong thân thịt càng tăng và tỷ lệ nạc
càng giảm.
* Các yếu tố chăm sóc nuôi dưỡng
Biện pháp kỹ thuật trong chăn nuôi lợn con là rất quan trọng để góp phần
nâng cao năng suất sinh sản của lợn nái. Nếu kỹ thuật chăn nuôi lợn con tốt thì
không chỉ đạt được tỷ lệ nuôi sống lợn con cao, rút ngắn thời gian cai sữa mà còn
tăng được khối lượng lợn con.
Nhiệt độ chuồng nuôi thấp hoặc cao hơn nhiệt độ giới hạn thích ứng cho
phép đều là các yếu tố bất lợi đối với sinh trưởng của lợn thịt.
Các yếu tố stress ảnh hưởng không tốt đến trao đổi chất và sức sản xuất của
lợn bao gồm: sự thay đổi nhiệt độ chuồng nuôi, tiểu khí hậu không thích hợp, cho
ăn không theo khẩu phần, chăm sóc nuôi dưỡng không tốt, cân gia súc, vận chuyển,
bắt lợn để lấy máu, thiến hoạn, phân đàn, chuyển chuồng tiêm chủng và điều trị,
thay đổi kích thước và hình dáng chuồng nuôi, thay đổi khẩu phần, đột ngột bỏ đói,
cho uống nước thiếu (Marraz, 1971 trích dẫn từ Trần Quang Hân, 1996).
Ngoài ra phương thức nuôi dưỡng cũng ảnh hưởng đến khả năng sản xuất
của con vật. Khi cho lợn ăn khẩu phần ăn tự do, khả năng tăng khối lượng nhanh
hơn (Ramaekers et al., 1996), tiêu tốn thức ăn thấp hơn nhưng dày mỡ lưng lại cao
hơn khi lợn đực ăn khẩu phần ăn hạn chế. Lợn cho ăn khẩu phần thức ăn hạn chế có
tỷ lệ nạc cao hơn lơn cho ăn khẩu phần thức ăn tự do (Thomke et al., 1995).
* Mùa vụ
Huang et al. (2004) cho biết mùa vụ có ảnh hưởng rõ rệt tới độ dày mỡ lưng

và hiệu quả sử dụng thức ăn. Lợn nuôi trong mùa hè và mùa đông có độ dày mỡ
lưng thấp hơn mùa thu và mùa xuân (Choi et al., 1997). Stress nhiệt có liên quan
mức sinh trưởng chậm vì khả năng thu nhận thức ăn thấp.
Nguyễn Văn Đức và cs. (2001), cho biết tăng khối lượng chịu ảnh hưởng lớn
của yếu tố mùa vụ. Sự khác biệt giữa năm và mùa ảnh hưởng đến tăng khối lượng
và dày mỡ lưng rõ rệt (Pathiraja et al., 1990).

×