Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

bổ sung chế phẩm kháng thể ig guard swine và focus sw12 trong khẩu phần ăn của lợn con (pidu x ly) từ 7 – 33 ngày tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.49 MB, 85 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




LÊ DANH THÀNH



BỔ SUNG CHẾ PHẨM KHÁNG THỂ IG-GUARD SWINE
VÀ FOCUS SW12 TRONG KHẨU PHẦN ĂN CỦA LỢN
CON (PiDu x LY) TỪ 7 – 33 NGÀY TUỔI


LUẬN VĂN THẠC SĨ






HÀ NỘI - 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





LÊ DANH THÀNH



BỔ SUNG CHẾ PHẨM KHÁNG THỂ IG-GUARD SWINE
VÀ FOCUS SW12 TRONG KHẨU PHẦN ĂN CỦA LỢN
CON (PiDu x LY) TỪ 7 – 33 NGÀY TUỔI



CHUYÊN NGÀNH: CHĂN NUÔI
MÃ SỐ: 60.62.01.05


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG THÚY NHUNG



HÀ NỘI - 2015

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa từng và được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cảm ơn và thông tin trích dẫn và đã được ghi rõ nguồn gốc.


Học viên


Lê Danh Thành


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi luôn nhận
được sự quan tâm sâu sắc, tận tình, tỉ mỉ và chu đáo của cô giáo TS. Đặng Thúy
Nhung bộ môn Dinh dưỡng – Thức ăn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới tập thể các thầy giáo, cô giáo trong Bộ môn
Dinh dưỡng – Thức ăn cùng các thầy cô giáo khoa Chăn nuôi, Học Viện Nông
Nghiệp Việt Nam đã dạy dỗ và giúp đỡ tôi trong toàn khóa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới: Th.S. Nguyễn Thế Tường - Giám đốc
Kỹ thuật chất lượng Công ty Cổ phần tập đoàn DABACO, Th.S. Phạm Văn Học
- Giám đốc và Ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ, công nhân Công ty TNHH lợn
giống DABACO đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập tại công
ty.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bố mẹ, anh chị em và bạn
bè đã động viên, ủng hộ, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn!






Học viên



Lê Danh Thành

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng vii
Danh mục hình, biểu đồ viii
Danh mục chữ viết tắt ix
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục đích – ý nghĩa 2
2.1. Mục đích 2
2.2. Ý nghĩa 2
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Đặc điểm sinh lý lợn con 3
1.1.1. Một số đặc điểm sinh trưởng của lợn con 3
1.1.2. Khả năng điều tiết thân nhiệt của lợn con 3
1.1.3. Đặc điểm tiêu hóa của lợn con 4
1.1.4. Khả năng tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng 7
1.1.5. Đặc điểm về khả năng miễn dịch 7

1.1.6. Tập cho lợn con ăn sớm 8
1.1.7. Ảnh hưởng của cai sữa đến sự thay đổi hình thái học của niêm
mạc ruôt non ở lợn con 9
1.2. Năng suất sinh sản của lợn nái 10
1.2.1. Khả năng sinh sản 10
1.2.2. Khả năng tiết sữa 10
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của lợn nái 10
1.3. Nhu cầu dinh dưỡng của lợn con 12
1.3.1. Lượng thức ăn hàng ngày và số lần cho ăn trong ngày 12

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

1.3.2. Nhu cầu về năng lượng 13
1.3.3. Nhu cầu protein và axit amin 13
1.3.4. Nhu cầu khoáng chất 14
1.3.5. Nhu cầu vitamin 15
1.3.6. Nhu cầu nước của lợn 16
1.4. Hội chứng tiêu chảy ở lợn con 17
1.4.1. Khái niệm chung về hội chứng tiêu chảy 17
1.4.2. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy 17
1.4.3. Tình hình tiêu chảy của lợn con 19
1.4.4. Một số biện pháp phòng và trị bệnh tiêu chảy cho lợn con 19
1.5. Tổng quan về kháng thể IgY 19
1.5.1. Khái niệm đáp ứng miễn dịch 19
1.5.2. Đáp ứng miễn dịch tự nhiên 20
1.5.3. Đáp ứng miễn dịch thu được 20
1.5.4. Liệu pháp miễn dịch thụ động sử dụng kháng thể IgY 21
1.6. Giới thiệu chế phẩm Ig -Guard Swine và Focus SW12 23
1.6.1. Ig-Guard Swine 23

1.6.2. Focus SW12 24
1.7. Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài 25
1.7.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 25
1.7.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài 26
CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 28
2.1. Đối tượng, vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu 28
2.1.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 28
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 28
2.2. Nội dung nghiên cứu 28
2.3. Phương pháp nghiên cứu 29
2.3.1. Phương pháp phân tích thành phần hoá học của thức ăn thí
nghiệm 29

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

2.3.2. Phương pháp xây dựng công thức thức ăn hỗn hợp 29
2.3.3. Bố trí thí nghiệm 29
3.3.4. Các chỉ tiêu theo dõi 31
3.3.5.Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu 31
3.3.6. Phương pháp xử lý số liệu 33
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 34
3.1. Thành phần hóa học của một số loại nguyên liệu thức ăn 34
3.2. Sản xuất thức ăn hỗn hợp cho lợn con giai đoạn 7 – 33 ngày tuổi. 40
3.2.1 Công thức thức ăn hỗn hợp cho lợn con giai đoạn 7 - 33 ngày
tuổi 41
3.2.2. Thành phần hoá học của công thức cho lợn con giai đoạn 7 –
33 ngày tuổi 42
3.3. Ảnh hưởng của thức ăn thí nghiệm đến lợn con từ 7 – 21 ngày tuổi 45

3.3.1. Khối lượng cơ thể lợn con từ 7 -21 ngày tuổi 45
3.3.2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con giai đoạn 7- 21 ngày tuổi 48
3.3.3. Sinh trưởng tương đối của lợn con thí nghiệm từ 7 – 21 ngày
tuổi 51
4.3.4. Lượng thức ăn thu nhận của lợn con từ 7 – 21 ngày tuổi 53
3.3.5. Ảnh hưởng của việc bổ sung chế phẩm Ig-Guard Swine và
Focus SW12 đến tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn con giai đoạn 7
-21 ngày tuổi 55
3.4. Ảnh hưởng của bổ sung chế phẩm Ig – Guard Swine và Focus sw12 vào
khẩu phần ăn đối với lợn con giai đoạn 21 – 33 ngày tuổi 57
3.4.1. Khối lượng cơ thể lợn con thí nghiệm giai đoạn từ 21 - 33
ngày tuổi 57
3.4.2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm từ 21 – 33 ngày
tuổi 58
3.4.3. Lượng thức ăn thu nhận và hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn
con giai đoạn 21 - 33 ngày tuổi 60

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

3.4.4. Ảnh hưởng của việc bổ sung chế phẩm Ig-Guard Swine và
Focus SW12 đến bệnh tiêu chảy ở lợn con giai đoạn 21 -
33 ngày tuổi 63
3.5. Hiệu quả của việc bổ sung chế phẩm Ig - Guard Swine và Focus sw12 cho
lợn con giai đoạn 21 - 33 ngày tuổi 64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 67
1. Kết luận 67
2. Kiến nghị 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
PHỤ LỤC 73



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG


STT Tên bảng Trang

2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm lợn con theo mẹ 30
2.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm lợn con giai đoạn từ 21 - 33 ngày tuổi 31
3.1. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của các nguyên liệu
phối hợp khẩu phần 35
3.2. Công thức thức ăn hỗn hợp cho lợn con giai đoạn 7 – 33 ngày tuổi 41
3.3. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn hỗn hợp 43
3.4. Kết quả thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của thức ăn thí
nghiệm 44
3.5. Khối lượng lợn con thí nghiệm giai đoạn 7 - 21 ngày tuổi 46
3.6. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con từ 7 – 21 ngày tuổi (g/con/ngày) 49
3.7. Sinh trưởng tương đối của lợn con từ 7 – 21 ngày tuổi 52
3.8. Lượng thức ăn thu nhận của lợn con từ 7 - 21 ngày tuổi 54
3.9. Tỷ lệ tiêu chảy của lợn con thí nghiệm giai đoạn 7 -21 ngày tuổi 55
3.10. Khối lượng cơ thể lợn con từ 21 - 33 ngày tuổi 57
3.11. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm giai đoạn từ 21 -
33 ngày tuổi 59
3.12. Lượng thức ăn thu nhận và hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn con
giai đoạn 21 - 33 ngày tuổi (n = 90) 62
3.13. Tỷ lệ tiêu chảy ở lợn con thí nghiệm giai đoạn 21 - 33 ngày tuổi 63
3.14. Hiệu quả của bổ sung chế phẩm Ig-Guard Swine và Focus SW12

đối với lợn con từ 21 - 33 ngày tuổi 65


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ

STT Tên hình Trang

1.1. Cơ chế truyền kháng thể IgY từ gà mẹ sang lòng đỏ trứng 21
1.2. Phương pháp sản xuất kháng thể IgY từ lòng đỏ trứng gà 23

STT Tên biểu đồ Trang

3.1. Khối lượng cơ thể lợn con từ 7 – 21 ngày tuổi 48
3.2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con từ 7 – 21 ngày tuổi 51
3.3. Khối lượng lợn con từ 21 - 33 ngày tuổi 58
3.4. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con từ 21 – 33 ngày tuổi 60
3.5. Hiệu quả khi bổ sung chế phẩm Ig-Guard Swine và Focus SW12
cho lợn con từ 21 - 33 ngày tuổi 66


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ix

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CPTĂ :


Chi phí thức ăn
cs :

Cộng sự
ĐC :

Đối chứng
FCR :

Feed Conversion Ratio (Hệ số chuyển đổi giữa kg thức ăn/kg
tăng trọng) hay tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng
KPCS :

Khẩu phần cơ sở
KL :

Khối lượng
LxY

:

Landrace x Yorkshire
ME :

Metabolizable Energy (Năng lượng trao đổi)
TN :

Thí nghiệm
TB :


Trung bình
VNĐ :

Việt Nam đồng


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Lợn con bú sữa và cai sữa có đặc điểm sinh lý tiêu hóa, hệ thống miễn
dịch chưa hoàn thiện đồng thời phải thích ứng với điều kiện nuôi dưỡng có nhiều
thay đổi nên có thể ảnh hưởng tới sinh trưởng và dễ mắc bệnh. Vì vậy, nâng cao
khả năng miễn dịch của cơ thể nhằm chống các bệnh ở bên trong cơ thể, vi
khuẩn và virus; đặc biệt là khả năng chống lại các vi khuẩn có hại trong đường
ruột (Sărăndan et al., 2010) là một biện pháp quan trọng đảm bảo cho sự phát
triển bình thường của lợn con.
Nghiên cứu sử dụng các probiotic, axit hữu cơ, thảo dược, … trong đó các
kháng thể được coi như một trong các giải pháp hữu hiệu thay thế cho việc sử dụng
kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi (Doyle, 2001; Papatsiros et al., 2014). Theo
O’Farrelly et al., (1992), kháng thể đặc hiệu IgY xuất hiện trong huyết thanh sau 8
ngày, trong trứng sau 10 ngày và đạt hiệu quả cao nhất trong ngày thứ 15 và 20 sau
khi miễn dịch cho gà. Cứ 10g lòng đỏ trứng sau khi tách protein, lipit và sấy khô có
thể thu được 15mg IgY ở độ tinh khiết 93,8%. Sử dụng chế phẩm này điều trị có hiệu
quả bệnh tiêu chảy do E.coli ở lợn con theo mẹ (Yokoyama et al., 1992). Theo Li et
al. (2006), cho lợn con uống kháng thể IgY-Hp giảm nhiễm được H. Pylori., sử dụng
kháng thể lòng đỏ trứng gà ức chế được sinh trưởng của Aeromonas hydrophila trong
thời gian ủ bệnh, giảm 70% tỷ lệ chết và điều trị khỏi 70 - 71% lợn con sau cai sữa

mắc tiêu chảy. Chế phẩm bột kháng thể YP – 99 kháng E.coli cùng với vi khuẩn
E.Rnl, E.Rn2 và E.Ma (mang yếu tố bám dính F5 và F6, vô hoạt bằng formol) có tác
dụng điều trị bệnh tiêu chảy trên lợn con theo mẹ (Đặng Xuân Bình và cs, 2003). Sản
phẩm IgOne-S chứa kháng thể IgY từ lòng đỏ trứng gà của Công ty CTCBIO giúp
lợn con tăng cường sức đề kháng, phòng bệnh tiêu chảy, tăng tỉ lệ sống, khối lượng
lợn con cai sữa và giảm tỉ lệ còi cọc (CTC BIO Việt Nam, 2011).
Gần đây, trên thị trường Việt Nam đã xuất hiện một số chế phẩm là sản phẩm
kháng thể nhập từ nước ngoài và Ig-Guard Swine, Focus SW12 được khuyến cáo có

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

tác dụng phòng và chống các bệnh đường tiêu hóa ở lợn con.
Để hiểu rõ tác dụng của các chế phẩm trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Bổ sung chế phẩm kháng thể Ig-Guard Swine và Focus SW 12 trong khẩu
phần ăn cho lợn con (PiDu x LY) từ 7 – 33 ngày tuổi”.
2. Mục đích – ý nghĩa
2.1. Mục đích
- Xác định ảnh hưởng của việc bổ sung các kháng thể Ig-Guard Swine và
Focus SW12 trên lợn con tập ăn 7 - 33 ngày tuổi đối với bệnh tiêu chảy và khả
năng tăng trọng.
- Xác định hiệu quả kinh tế của việc bổ sung các kháng thể Ig-Guard Swine và
Focus SW12.
2.2. Ý nghĩa
- Đánh giá được chất lượng một số loại nguyên liệu thức ăn để phối hợp thức
ăn cho lợn con từ 7- 33 ngày tuổi.
- Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra được khuyến cáo về việc
cần thiết sử dụng chế phẩm Ig-Guard Swine và Focus SW12 trong khẩu phần của
lợn con từ tập ăn đến 33 ngày tuổi.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Đặc điểm sinh lý lợn con
1.1.1. Một số đặc điểm sinh trưởng của lợn con
Lợn sau sinh có tốc độ sinh trưởng rất nhanh, thể hiện thông qua sự tăng về
khối lượng cơ thể. Thông thường khối lượng lợn con lúc 7 - 10 ngày tuổi tăng gấp 2
lần so với lúc sơ sinh, 21 ngày tuổi tăng gấp 4 lần khối lượng sơ sinh và 30 ngày
tuổi tăng gấp 5 lần.
Khối lượng lợn con đạt được ở các thời điểm sơ sinh, cai sữa, xuất chuồng có
mối tương quan thuận với nhau khá chặt chẽ, có nghĩa là khối lượng lúc sơ sinh
càng cao thì có hy vọng về khối lượng lúc cai sữa cao (Vũ Đình Tôn và Trần Thị
Thuận, 2005). Nếu lợn lúc sơ sinh hơn nhau 0,5kg thì tương đương với 1kg hơn
nhau ở thời điểm cai sữa và nếu khối lượng ở thời điểm cai sữa hơn nhau 0,1kg thì
ở thời điểm đạt khối lượng giết thịt sẽ sớm hơn 1 ngày. Lợn con nuôi trong giai
đoạn cai sữa nếu tăng trọng bình quân mỗi ngày thêm 5g thì thời điểm đạt khối
lượng giết thịt sẽ sớm hơn 1 ngày.
1.1.2. Khả năng điều tiết thân nhiệt của lợn con
Khả năng điều tiết thân nhiệt của gia súc non rất kém, do đó lợn con rất
nhạy cảm với sự thay đổi của khí hậu bên ngoài, nhất là nhiệt độ lạnh dễ làm lợn
con bị bệnh. Ở gia súc non từ 15 – 20 ngày tuổi thân nhiệt mới ổn định (Trần Thị
Dân, 2006).
Nước ta tuy là xứ nóng nhưng phải chống lạnh cho lợn con mới sinh đến cai
sữa vì nhiệt độ ban đêm thường dưới 30
0
C. Cơ thể lợn con chống lạnh bằng cách
nâng cao chuyển hóa cơ bản, tăng sinh nhiệt, nhưng không kéo dài được. Nhiệt độ

của lợn con sau khi đẻ giảm xuống phụ thuộc vào khối lượng sơ sinh, lượng và chất
dinh dưỡng thu được và nhiệt độ môi trường.
Khi còn trong cơ thể mẹ, sự cân bằng nhiệt của bào thai được xác định do thân
nhiệt của lợn mẹ. Sau khi sinh, cơ thể lợn con chưa thể bù đắp được lượng nhiệt bị

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

mất đi nên cơ thể dễ bị lạnh và phát sinh bệnh tật, nhất là bệnh phân trắng lợn con.
Trong tuần lễ đầu, thân nhiệt của lợn con hoàn toàn phụ thuộc vào nhiệt độ của môi
trường. Ở hai ngày đầu, nếu nhiệt độ môi trường từ 5 – 6
0
C, lợn con có thể chết do
lạnh và mất nhiệt. Khả năng điều tiết nhiệt ở lợn con trong 3 tuần tuổi đầu còn rất
kém do thân nhiệt chưa ổn định. Nguyên nhân chủ yếu lớp mỡ dưới da còn mỏng,
lượng mỡ và lượng đường glycogen được dự trữ trong cơ thể còn ít nên khả năng
cung cấp năng lượng để chống rét bị hạn chế. Mặt khác, trên cơ thể lợn lông mao
đang còn thưa nên khả năng giữ nhiệt còn kém. Do đó, khi nuôi lợn con trong chuồng
có nhiệt độ thấp, ẩm độ cao, thân nhiệt của lợn con sẽ giảm nhanh làm cho lợn con dễ
bị cảm lạnh, hay bị ỉa chảy và ỉa phân trắng. Sau 3 tuần tuổi thân nhiệt lợn con mới
tương đối ổn định (39 - 39,5
0
C), khả năng điều hòa thân nhiệt tốt dần lên để đáp ứng
với môi trường bên ngoài. Nhiệt độ môi trường thích hợp đối với lợn con lúc sơ sinh
là 34
0
C; hai ngày tuổi là 30
0
C; 14 ngày tuổi là 20
0

C với độ ẩm không khí khoảng
60%, riêng nhiệt độ dưới chụp sưởi của lợn con phải đạt 32 – 35
0
C.
Thân nhiệt của lợn con sau khi đẻ khoảng 38
0
C, sau 10 ngày tăng lên 39,5 -
39,7
0
C và giữ ở mức đó. Trong thời gian này thân nhiệt lợn con có thể biến động trên
dưới 1
0
C. Chuồng lạnh là nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp (mẹ đè chết con) làm tỷ
lệ chết của lợn con cao. Lợn chết trong 48 giờ là 12,1% khi nhiệt độ chuồng nuôi là
20 - 25
0
C, trong khi đó tỷ lệ chết là 7,7% khi nhiệt độ chuồng nuôi lớn hơn 25
0
C (Vũ
Duy Giảng, 2001).
Lợn con dưới 3 tuần tuổi, nếu nuôi ở nhiệt độ chuồng nuôi là 18
0
C thì thân
nhiệt của lợn con giảm xuống 2
0
C so với thân nhiệt ban đầu. Khi nhiệt độ chuồng
nuôi giảm xuống 0
0
C thì thân nhiệt lợn con giảm xuống 4
0

C. Khi khối lượng sơ sinh
trung bình của lợn con là 1,13kg được nuôi ở trong chuồng nuôi có nhiệt độ 16 –
21
0
C thì sau 30 phút thân nhiệt lợn con bị giảm xuống 1,6
0
C nhưng lợn con có khối
lượng trung bình 2,4kg nuôi trong điều kiện là – 4
0
C thì thân nhiệt giảm tới 16,6
0
C.
Điều này chứng tỏ khả năng điều tiết thân nhiệt của lợn con ít phụ thuộc vào khối
lượng sơ sinh mà chủ yếu phụ thuộc và nhiệt độ chuồng nuôi và tuổi lợn con.
1.1.3. Đặc điểm tiêu hóa của lợn con
Đặc điểm nổi bật của cơ quan tiêu hóa lợn con đó chính là sự phát triển rất

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

nhanh song chưa hoàn thiện. Sự phát triển nhanh thể hiện ở sự tăng về dung tích và
khối lượng của bộ máy tiêu hóa. Cơ quan tiêu hóa của lợn con chưa hoàn thiện thể
hiện ở số lượng cũng như hoạt lực của một số enzyme trong đường tiêu hóa lợn con
bị hạn chế. Sự phát triển nhanh về dung tích bộ máy tiêu hóa được thể hiện cụ thể là
ở dạ dày lợn sơ sinh chỉ đạt 2,5ml nhưng đã tăng lên 1815ml ở lợn 70 ngày tuổi và
tăng hơn 70 lần. Ruột non lợn lúc sơ sinh với dung tích 100ml thì ở lợn 70 ngày tuổi
là 6000ml và tăng 60 lần. Đối với ruột già, lợn sơ sinh có dung tích chỉ 40ml thì đã
tăng lên hơn 50 lần và ở lợn 70 ngày tuổi đạt 2100ml (Nguyễn Thiện và Võ Trọng
Hốt, 2007).
* Tiêu hóa ở miệng

Tiêu hóa ở miệng gồm 3 giai đoạn là lấy thức ăn, nước uống; nhai, tẩm thức ăn
với nước bọt và nuốt. Tiêu hóa diễn ra với 2 quá trình: Tiêu hóa cơ học do nhai và
tiêu hóa hóa học do các enzyme trong nước bọt.
Enzyme amylase và maltase có ở trong nước bọt từ khi lợn con mới đẻ ra
nhưng dưới 3 tuần tuổi hoạt tính còn thấp; do đó, khả năng tiêu hoá tinh bột của lợn
con còn kém, chỉ tiêu hoá được khoảng 50% lượng tinh bột ăn vào. Sau 3 tuần tuổi,
enzyme amylase và maltase mới có hoạt tính mạnh nên khả năng tiêu hoá tinh bột
của lợn con tốt hơn.
* Tiêu hóa ở dạ dày
Lợn con mới sinh ra sống nhờ sữa mẹ, sau khi cai sữa thì sống tự lập nên phải
trải qua một quá trình thay đổi không ngừng về hình thái cấu tạo và hoạt động sinh
lý của ống tiêu hóa để thích ứng với điều kiện mới. Dung tích dạ dày của lợn con
lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày gấp 8 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp
60 lần (dung tích dạ dày lúc sơ sinh khoảng 0,03 lít) và sau đó tăng chậm đến tuổi
trưởng thành đạt 3,5 – 4 lít.
Cơ quan tiêu hóa của lợn con chưa được hoàn thiện do một số enzyme tiêu hóa
thức ăn chưa có hoạt tính mạnh, nhất là ở 3 tuần đầu. Khoảng 25 ngày đầu sau khi
đẻ ra enzyme pepsin trong dạ dày lợn con chưa có khả năng tiêu hóa protein của
thức ăn. Sau 25 ngày tuổi trong dịch vị lợn con mới có HCl ở dạng tự do và enzyme
pepsinogen không hoạt động mới được HCl hoạt hóa thành pepsin hoạt động và mới

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

có khả năng tiêu hóa. Do thiếu HCl ở dạng tự do nên lợn con dưới 25 ngày tuổi rất
dễ bị vi khuẩn có hại xâm nhập vào đường tiêu hoá. Chúng ta có thể kích thích tế
bào vách dạ dày lợn con tiết ra HCl ở dạng tự do sớm hơn bằng cách bổ sung thức
ăn sớm cho lợn con. Nếu tập cho lợn con ăn sớm từ 5 -10 ngày tuổi thì HCl ở dạng
tự do có thể được tiết ra từ 14 ngày tuổi (Võ Trọng Hốt và cs, 2000).
* Tiêu hóa ở ruột

Dung tích ruột non của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20
ngày tuổi gấp 6 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích ruột non lúc sơ sinh
khoảng 0,111 lít). Dung tích ruột già của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 1,5 lần lúc sơ
sinh, lúc 20 ngày tuổi gấp 2,5 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích ruột già
lúc sơ sinh khoảng 0,04 lít). Hoạt tính của các enzyme thay đổi từ sơ sinh đến
trưởng thành.
+ Amylase và maltase: Hai enzyme này có trong dịch tụy từ khi lợn con mới
đẻ ra nhưng dưới 3 tuần hoạt tính còn thấp, do đó khả năng tiêu hoá tinh bột còn
kém. Sau 3 tuần tuổi enzyme amylase và maltase mới có hoạt tính mạnh nên khả
năng tiêu hoá tinh bột của lợn con tốt hơn.
+ Saccharase: Đối với lợn con dưới 2 tuần tuổi enzyme saccharase hoạt tính
còn thấp; vì vậy, nếu cho lợn con ăn đường saccharose thì rất dễ bị ỉa chảy.
Lợn con dưới 3 tuần tuổi chỉ có một số enzyme tiêu hóa có hoạt tính mạnh như
trypsin, catepsine, lactase, lipase và chymosine.
+ Trypsin: Là enzyme tiêu hóa protein của thức ăn. Ở thai lợn 2 tháng tuổi
trong chất chiết đã có enzyme trypsin, thai càng lớn hoạt tính của enzyme trypsin
càng cao. Khi lợn con mới đẻ ra hoạt tính của enzyme trypsin dịch tuỵ rất cao để bù
đắp lại khả năng tiêu hoá kém của enzyme pepsin dạ dày.
+ Catepsine là enzyme tiêu hoá protein trong sữa. Đối với lợn con ở 3 tuần
tuổi đầu, catepsine có hoạt tính mạnh sau đó giảm dần.
+ Lactase: Có tác dụng tiêu hoá đường lactose trong sữa. Enzyme này có hoạt
tính mạnh ngay từ khi lợn con mới đẻ ra và tăng cao nhất ở tuần tuổi thứ 2, sau đó
hoạt tính của enzyme giảm dần.
+ Lipase và chymosine: Hai enzyme này có hoạt tính mạnh trong 3 tuần đầu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

và sau đó hoạt tính giảm dần (Võ Trọng Hốt và cs, 2000).
Như vậy, từ khi sơ sinh đến 5 tuần tuổi hàm lượng và hoạt tính của enzyme

tiêu hóa ở lợn con khác nhiều với lợn trưởng thành. Vì vậy, khi nuôi lợn con cần
chú ý cho lợn con tập ăn sớm nhằm cai sữa sớm.
1.1.4. Khả năng tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng
Tiêu hóa thức ăn ở lợn là quá trình làm nhỏ các chất hữu cơ trong đường tiêu
hóa như: protein, carbohydrate, lipid để cơ thể có thể hấp thu được. Tiêu hóa có thể
diễn ra theo các quá trình: (1) Quá trình cơ học: nhai nuốt hoặc sự co bóp của cơ
trong đường tiêu hóa dể nghiền nhỏ thức ăn. (2) Quá trình hóa học: là quá trình tiêu
hóa nhờ các men tiết ra từ tuyến trong đường tiêu hóa. (3) Quá trình vi sinh vật:
đây là quá trình tiêu hóa nhờ bacteria và protozoa.
Tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng tiến hành chủ yếu ở dạ dày, ruột non.
Trong một ngày đêm, dạ dày phân giải 45% carbohydrate, 50% protein, 20 - 25%
đường. Cả dạ dày và ruột non phân giải và hấp thu 85% đường và 87% protein, ruột
già chỉ còn không quá 10 - 15% (Trương Lăng, 2003).
Như vậy, lợn con sinh trưởng và phát dục nhanh song những tuần đầu bị hạn
chế do chức năng cơ quan tiêu hóa chưa thành thục.
1.1.5. Đặc điểm về khả năng miễn dịch
Lợn con mới đẻ ra trong máu hầu như chưa có kháng thể. Lượng kháng thể
tăng rất nhanh sau khi lợn con được bú sữa đầu. Vì vậy, khả năng miễn dịch của lợn
con là hoàn toàn thụ động và phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thụ được nhiều
hay ít từ sữa mẹ. Trong sữa đầu của lợn nái hàm lượng protein rất cao. Những ngày
đầu mới đẻ hàm lượng protein sữa chiếm tới 18 - 19%, trong đó lượng γ-globulin
chiếm số lượng khá lớn (34 - 45%). γ-globulin có tác dụng tạo sức đề kháng cho
nên sữa đầu có tác dụng quan trọng đối với khả năng miễn dịch của lợn con.
Lợn con hấp thu γ-globulin bằng con đường ẩm bào. Quá trình hấp thu nguyên
vẹn phân tử γ-globulin giảm đi rất nhanh theo thời gian. Phân tử γ-globulin chỉ có
khả năng thấm qua thành ruột lợn con tốt nhất trong 24 giờ đầu sau khi đẻ ra nhờ
trong sữa đầu có kháng enzyme trypsin (anti-trypsin) làm mất hoạt lực của enzyme
trypsin tuyến tuỵ và nhờ khoảng cách giữa các tế bào vách ruột của lợn con khá

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8

rộng. Vì vậy, 24 giờ sau khi được bú sữa đầu hàm lượng γ-globulin trong máu lợn
con đạt tới 20,3 mg/100ml máu. Sau 24 giờ lượng kháng thể trong sữa giảm dần và
khoảng cách giữa các tế bào vách ruột của lợn con hẹp dần lại nên sự hấp thu γ-
globulin kém hơn, hàm lượng γ-globulin trong máu lợn con tăng lên chậm hơn. Đến
3 tuần tuổi chỉ đạt khoảng 24mg/100ml máu (máu bình thường của lợn có khoảng
65mg γ-globulin/100ml), do đó lợn con cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt.
Nếu lợn con không được bú sữa đầu thì từ 20 - 25 ngày tuổi mới có khả năng tự
tổng hợp kháng thể. Do đó, những lợn con không được bú sữa đầu thì sức đề kháng
rất kém, tỷ lệ chết rất cao (Võ Trọng Hốt và cs, 2000).
1.1.6. Tập cho lợn con ăn sớm
Trong nuôi lợn, đặc biệt là nuôi lợn công nghiệp, lợn con thường được tách mẹ
rất sớm. Thông thường, lợn con ngoài 20 ngày tuổi mới tự biết ăn. Tuy nhiên, theo
cách chăn nuôi hiện nay, người ta thường cai sữa cho lợn con ngay khi lợn được 21
- 23 ngày tuổi. Do đó, việc tập cho lợn ăn sớm có rất nhiều tác dụng: Tăng cường sự
phát triển của bộ máy tiêu hoá do kích thích đường tiêu hoá của lợn con tiết enzyme
"làm quen" với thức ăn từ bên ngoài, giảm hao mòn ở lợn nái do lợn con được bù
đắp thêm dinh dưỡng từ thức ăn, lợn con sẽ ít bị hao hụt sau cai sữa.
Lợn con được 4 - 5 ngày tuổi sau khi bú mẹ no, thời tiết ấm áp chúng đi theo
đàn tò mò quan sát những vật có trong chuồng. Người chăn nuôi nên để ý chọn
những nơi lợn con hay dạo chơi, rải viên cám vào máng tập ăn. Mùi thơm của cám
sẽ kích thích lợn con nếm thử, khi trong đàn có một vài con dùng miệng nhằn viên
cám, cả đàn sẽ theo nhau tới ăn.
Tập cho lợn con ăn sớm là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu chứng minh rằng cho lợn con tập ăn sớm, ăn thêm trong giai
đoạn bú sữa sẽ làm tăng khả năng thu nhận thức ăn, tăng tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh
dưỡng trong giai đoạn cai sữa, đặc biệt khi năng suất sữa của lợn mẹ thấp
(Flower,1985). Tập cho lợn con ăn sớm còn làm giảm tỷ lệ hao hụt của lợn nái, thúc
đẩy bộ máy tiêu hoá của lợn con phát triển nhanh, sớm hoàn thiện và tạo tiền đề cho

giai đoạn sau cai sữa. Hoạt tính của các enzyme saccharase, maltase, trypsin, amylase
tuyến tụy tăng lên đáng kể ở những lợn con được cho ăn thêm thức ăn trong giai đoạn

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

bú sữa.Việc tập ăn cho lợn con ăn được nhiều thức ăn trong thời gian bú sữa không
những không làm giảm sự teo lông nhung mà còn làm giảm khả năng nhiễm E.coli và
tỉ lệ tiêu chảy của lợn con giai đoạn sau cai sữa (Ruth Miclat and Sonaco, 1996).
Newby et al, (1985) cho rằng nếu tập ăn cho lợn con chậm và số lượng thức
ăn tiêu thụ ít (<100g/con/trước khi cai sữa) có thể làm cho lợn con mẫn cảm hơn với
mầm bệnh trong một vài loại thức ăn.
Tiêu chảy sau cai sữa có thể do rối loạn hấp thu và mất các chất điện giải kết
hợp với giảm tính thèm ăn dẫn đến năng suất lợn sau cai sữa bị giảm. Vì vậy, cho
lợn con tập ăn sớm trong giai đoạn bú sữa và lượng thức ăn thu được có thể sẽ làm
tăng khả năng chống chịu với mầm bệnh.
1.1.7. Ảnh hưởng của cai sữa đến sự thay đổi hình thái học của niêm mạc ruôt
non ở lợn con
Cấu trúc đặc trưng nhất của niêm mạc ruôt non ở động vật có vú nói chung và
của lợn nói riêng là sự tồn tại của các lông nhung (đơn vị hấp thu nhỏ nhất của cơ
quan tiêu hóa). Vùng niêm mạc giữa các lông nhung tồn tại các hốc nhỏ, nơi mà từ
đó dịch ruột và các chất lỏng khác được tiết vào khoang ruột. Ở những lợn con khỏe
mạnh, chiều cao của lông nhung dài gấp 3 - 4 lần so với chiều sâu của các hốc giữa
chúng. Tương quan giữa chiều cao lông nhung và độ sâu của các hốc phản ánh tình
trạng và khả năng hấp thu của niêm mạc ruột non. Nhiều công trình nghiên cứu đã
chứng tỏ giữa chiều cao lông nhung và tốc độ sinh trưởng của lợn con giai đoạn sau
cai sữa có tương quan rất chặt chẽ. Theo Li et al. (1990), hệ số tương quan giữa tốc
độ sinh trưởng và chiều cao của lông nhung là: r = 0,63; P< 0,05. Trong một công
trình nghiên cứu khác của Pluske et al. (1996) cho thấy hệ số tương quan này là: r =
0,78; P<0,05. Do giảm chiều cao của lông nhung dẫn đến giảm diện tích bề mặt hấp

thu, giảm hàm lượng enzyme trong mỗi tế bào niêm mạc ruột. Nhiều công trình
nghiên cứu đã khẳng định cai sữa làm giảm chiều cao của lông nhung và tăng độ
sâu của các hốc niêm mạc ruột ở lợn con trong những ngày đầu cai sữa (Kenworth,
1976; Smith, 1984; Hamspon, 1986; Dunsford et al. 1989; Cera et al., 1990). Chiều
cao của các lông nhung và tăng độ sâu của các hốc nhỏ giữa chúng trong niêm mạc
ruột non, giải thích cho hiện tượng giảm khả năng tiêu thụ thức ăn, giảm khả năng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

hấp thu các chất dinh dưỡng, tăng tỉ lệ mắc bệnh tiêu chảy sau cai sữa và dẫn đến
giảm thậm chí ngừng tốc độ sinh trưởng của lợn con trong giai đoạn sau cai sữa
(hiện tượng ức chế sau cai sữa) (Cracken và Kelly, 1993; Gay et al. (1976); Pluske
et al., 1996),
1.2. Năng suất sinh sản của lợn nái
Năng suất sinh sản của lợn nái chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Nó không
chỉ được quyết định bởi lợn nái mà còn bị tác động rất lớn bởi các yếu tố bên ngoài.
Những yếu tố bên ngoài vừa liên quan trực tiếp đến lợn nái lại vừa liên quan đến
lợn con.
1.2.1. Khả năng sinh sản
Khả năng sinh sản của lợn nái là chỉ tiêu kỹ thuật, kinh tế hết sức quan trọng.
Nó phản ánh phẩm chất giống của con nái và kỹ thuật chăn nuôi. Khả năng sinh sản
của lợn nái được đánh giá theo các chỉ tiêu: số con sơ sinh trên ổ, số lợn con cai sữa
trên lứa, số con cai sữa/nái/năm, chất lượng đàn con,
1.2.2. Khả năng tiết sữa
Khả năng tiết sữa của lợn mẹ là chỉ tiêu nói lên khả năng nuôi con của lợn mẹ,
đặc điểm của giống và kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái của cơ sở chăn nuôi.
Lợn không có bể sữa, do đó không thể đo lượng sữa của lợn mẹ bằng cách vắt
sữa mà chỉ có thể đo lượng sữa thông qua khối lượng của đàn con. Khi so sánh đàn lợn
con nào có khối lượng cao hơn thì khả năng tiết sữa của lợn mẹ tốt hơn.

1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của lợn nái
* Yếu tố di truyền
Yếu tố di truyền ở đây là thành tích sinh sản của giống mà cụ thể là con nái.
Thành tích sinh sản của con nái thông thường đặc trưng cho giống và cũng mang
tính cá thể.
* Đực giống
Yếu tố đực giống ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của lợn nái thông qua số
lần phối và phương thức phối giống.
Số lần phối giống trong lần động dục ở lợn nái ảnh hưởng tới số con sinh ra/ổ.
Phối đơn trong một chu kì động dục ở lúc động dục cao nhất có thể đạt số con đẻ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

ra/ổ cao nhưng phối hai lần trong một chu kì động dục làm tăng số con đẻ ra/ổ. Khi
phối giống cho lợn nái trực tiếp ba lần, mỗi lần cách nhau 24 giờ sẽ tăng hơn 1,3
con/ổ so với phối 2 lần.
Phối giống kết hợp giữa thụ tinh nhân tạo và nhảy trực tiếp có thể tăng 0,5 lợn
con so với phối giống riêng rẽ.
* Nhân tố môi trường
Ngoài các nhân tố tác động do di truyền, các nhân tố tác động do ngoại cảnh
cũng ảnh hưởng rõ ràng và có ý nhĩa đến năng suất sinh sản của lợn nái như: chế độ
nuôi dưỡng, bệnh tật, phương thức nuôi nhốt, mùa vụ, nhiệt độ, thời gian chiếu sáng
đều ảnh hưởng đến các chỉ tiêu năng suất sinh sản của lợn nái.
* Tuổi và lứa đẻ
Tuổi lợn nái liên quan trực tiếp đến số lứa đẻ. Thông thường số con đẻ ra ở
mỗi lứa tăng dần từ lứa 1 – 3, ổn định cho đến lứa 6 – 7 và sau đó có chiều hướng
giảm đi. Số con bị giảm chủ yếu liên quan đến tỉ lệ chết phôi tăng ở các lứa về sau,
không phải do số trứng rụng bị giảm. Ngoài ra, số con đẻ ra còn sống ở lứa đầu còn
thấp do lợn nái thường sợ hãi khi đẻ và tỷ lệ thụ thai thấp, tỷ lệ chết thai cao.

* Thời gian nuôi con
Thời gian nuôi con kéo dài hay ngắn còn ảnh hưởng đến mức độ hao hụt của
con nái, do đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng lứa đẻ sau. Nếu phải nuôi có trong
thời gian dài thì sau khi cai sữa con nái cần có thời gian dài hơn để phục hồi lại
trạng thái sức khỏe đảm bảo cho các lứa đẻ tiếp theo.
* Số con để lại nuôi
Lợn nái thường có 12 - 16 vú, phổ biến là 14 vú. Nếu số con sinh ra nhiều thì
người ta thường để lại nhiều nhất là số con bằng số vú. Vì khả năng tiết sữa của lợn
mẹ và số con để nuôi có mối tương quan chặt chẽ, khi số con để lại nuôi càng ít thì
khả năng tiết sữa của lợn mẹ càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên không nên nuôi quá
ít lợn con vì hiệu quả kinh tế thấp và không đánh giá hết tiềm năng sinh sản thực
của nái (Phạm Quang Hùng, 2006).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

* Mùa vụ
Mùa vụ có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái thông qua số con đẻ
ra. Trong điều kiện nhiệt độ cao của mùa hè sẽ làm giảm khả năng thu nhận thức ăn
của lợn nái. Tỷ lệ hao hụt sẽ tăng từ đó kéo dài thời gian động dục trở lại sau cai
sữa. Khi nuôi lợn nái trong điều kiện nhiệt độ cao còn giảm tỷ lệ thụ thai, giảm sức
sống của bào thai.
1.3. Nhu cầu dinh dưỡng của lợn con
Lĩnh vực dinh dưỡng cho lợn con còn nhiều thách thức. Một khẩu phần sau cai
sữa chất lượng là cần thiết để giảm bớt "shock" và hậu quả của cai sữa sớm. Giảm giá
thành sản phẩm bằng cách giảm chất lượng sẽ kéo dài dấu hiệu giảm tăng trưởng sau
cai sữa do ảnh hưởng tiêu cực trên chỉ tiêu sinh trưởng và sức khoẻ.
Tuy nhiên, lợn con càng lớn, nhu cầu sữa càng nhiềunhưng lượng tiết sữa của
lợn mẹ lại giảm từ tuần thứ 3 và 4 rõ rệt. Tuần thứ 3, do lượng sữa giảm nên không
cung cấp đủ năng lượng cho lợn con, vì vậy nên tập ăn sớm cho lợn con.

1.3.1. Lượng thức ăn hàng ngày và số lần cho ăn trong ngày
Cho ăn với một lượng nhỏ với khoảng cách đều đặn đã nâng cao được năng
suất của lợn con. Với phương pháp nuôi dưỡng này người chăn nuôi có thể khắc
phục được 2 vấn đề, một là tránh tồn dư thức ăn lâu trong máng, hai là tăng khả
năng hấp thu của lợn con.
Sau khi cai sữa, lợn con thường bị khủng hoảng, tránh tình trạng đó cần giảm
thức ăn hằng ngày. Cách giảm lượng thức ăn cho ăn hàng ngày như sau:
Ngày đầu cai sữa giản 1/2 lượng thức ăn so với ngày trước cai sữa
Ngày tiếp theo cai sữa giản 1/3 lượng thức ăn so với ngày trước cai sữa
Ngày tiếp theo sữa giản 1/4 lượng thức ăn so với ngày trước cai sữa.
Sau đó nếu quan sát thấy lợn không có vấn đề gì về đường tiêu hóa thì cho lợn
ăn bình thường như trước ngày cai sữa rồi tăng dần theo nhu cầu của lợn con
Những lợn con được ăn một bữa trong ngày bị ỉa chảy nhiều hơn so với nhóm
lợn được ăn tự do, trái lại những con cho ăn hạn chế năng suất lại khá nhất. Việc ăn
quá nhiều có thể dẫn đến ứ máu trong dạ dày, ruột. Vì vậy, cho ăn hạn chế trong
thời gian sau cai sữa có hiệu quả rõ rệt đối với việc phòng tránh bệnh ỉa chảy. Số lần

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

cho ăn ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa của lợn con. Khi cho ăn được ăn 3
lần/ngày thì sẽ tiêu hóa được 13,5% nhưng khi cho ăn 5 lần/ngày thì sẽ tiêu hóa
được 19,7%.
1.3.2. Nhu cầu về năng lượng
Khi nghiên cứu chế biến và phối trộn thức ăn cho lơn cũng cần chú ý đến mức
năng lượng trong 1kg thức ăn. Nhu cầu năng lượng của lơn tăng lên theo tuần tuổi
nhưng nhu cầu năng lượng tính cho 1kg thể trọng thì giảm theo tuổi.
Nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho vật nuôi là các loại hạt ngũ cốc như:
ngô, thóc, gạo, cám gạo, cao lương, lúa mì,… Với lợn, ngô vàng được coi là thức ăn
cung cấp năng lượng tốt nhất, chứa nhiều axít béo thiết yếu và nhiều sắc tố vàng

carotene (tiền vitamin A).
Từ khi đẻ ra đến 21 ngày tuổi, nguồn dinh dưỡng chủ yếu của lợn con là do
sữa lợn mẹ cung cấp. Vì thế, số lượng và chất lượng của sữa lợn mẹ ở giai đoạn này
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của lợn con.
1.3.3. Nhu cầu protein và axit amin
Lợn con bú sữa có tốc độ phát triển mạnh về hệ cơ và khả năng tích lũy
protein lớn do đó đòi hỏi về số lượng và chất lượng protein cao. Trong 2 tuần đầu
lượng sữa của lợn nái đạt đến mức cực thịnh, lợn con hầu như đã nhận được đầy đủ
lượng protein cần thiết cho sự phát triển của cơ thể. Từ tuần tuổi thứ 3 cần bổ sung
thêm protein để không ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của lợn con. Trong khẩu
phần ăn của lợn con cần có từ 18 – 20% protein thô, tỷ lệ protein và năng lượng
đảm bảo từ 120 – 130g protein tiêu hóa/2500 kcal ME.
Khi định mức protein cho các loại lợn cần chú ý đến chất lượng protein. Tuy
nhiên, giá trị sinh vật học của protein phụ thuộc vào thành phần các axit amin của
nó. Nếu khẩu phần ăn thiếu một axit amin nào đó nhu cầu về protein tăng lên rất
nhiều. Khẩu phần ăn của gia súc càng hoàn chỉnh, có đủ thành phần các axit amin sẽ
làm giảm mức tiêu tốn thức ăn. Đối với lợn con bú sữa quan trọng nhất là lysine và
methionine, đôi khi còn thêm tryptophan. Trong protein thô của khẩu phần ăn cho
lợn con bú sữa cần có 5 – 5,6% lysine; 3 – 3,2% methionine và 1,4 – 1,5%
tryptophan. Để bổ sung các axit amin quan trọng tốt nhất là dùng axit amin tổng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

hợp vì các loại axit amin tổng hợp thường được tiêu hóa 100% (Võ Trọng Hốt và
cs, 2000).
Như vậy, nhu cầu protein của lợn con chính là nhu cầu về các axit amin.
Nếu bổ sung không đầy đủ các axit amin thiết yếu cho lợn con, cả về mặt số
lượng và tỷ lệ các axit amin sẽ dẫn đến sinh trưởng của lợn con bị ảnh hưởng,
lợn chậm lớn, còi cọc, ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của các giai đoạn

tiếp theo.
1.3.4. Nhu cầu khoáng chất
Khoáng ngoài chức năng cấu tạo mô cơ thể, khoáng còn tham gia vào nhiều
quá trình chuyển hoá của mô cơ thể. Trong thành phần cấu tạo của nhiều enzyme có
mặt các nguyên tố khác nhau. Vì thế, thiếu khoáng con vật sẽ bị rối loạn trao đổi
chất, sinh trưởng, sinh sản bị ngừng trệ, sức sản xuất giảm.
Sữa của lợn mẹ có đầy đủ các chất dinh dưỡng nhưng hàm lượng các chất
khoáng trong sữa mẹ thấp, trong đó các chất khoáng như: canxi (Ca); photpho (P);
magie (Mg); iốt (I); sắt (Fe); đồng (Cu); kẽm (Zn).
Ca và P: Hai nguyên tố này có vai trò rất quan trọng trong hình thành xương.
Nếu cung cấp thiếu Ca sẽ có nguy cơ dẫn đến hiện tượng còi xương. Mức cung cấp
trong khẩu phần đối với Ca là 0,8% so với vật chất khô khẩu phần, đối với P là 0,6%
so với vật chất khô khẩu phần. Nguồn Ca và P được thường được bổ sung trong khẩu
phần ăn cho lợn con là bột xương, vôi bột,bột đá,
Fe và Cu: Hai yếu tố này chủ yếu tham gia vào quá trình tạo máu cho lợn
con và là hai yếu tố bị hạn chế trong quá trình tạo sữa; vì vậy cần phải cung cấp
trong khẩu phần đầy đủ cho lợn con. Lượng sắt bổ sung vào khẩu phần ở mức
80ppm và bổ sung ở dạng FeSO
2
(FeSO
4
. 7H
2
0). Tuy nhiên, hiện tượng thiếu
máu do thiếu sắt thường xảy ra rất sớm trên lợn con, bởi vậy để khắc phục hiện
tượng cần phải thực hiện bổ sung sắt bằng cách sử dụng dextran sắt tiêm cho lợn
con (Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt, 2007). Thông thường 1ml dextran sắt chứa
từ 100 đến 150mg sắt. Người chăn nuôi cần tiến hành tiêm lần thứ nhất vào ngày
thứ 3 sau khi đẻ và có thể tiêm lần thứ 2 vào ngày thứ 13. Phương pháp này rất đơn
giản và mang lại hiệu quả cao.

×