Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

ảnh hưởng của thức ăn xanh lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (pila polita

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.71 KB, 15 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN



LÊ NGỌC VIỆT



ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN XANH LÊN SINH TRƯỞNG VÀ
TỶ LỆ SỐNG CỦA ỐC BƯƠU ĐỒNG (Pila polita)





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN




2014



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN



LÊ NGỌC VIỆT




ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN XANH LÊN SINH TRƯỞNG
VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA ỐC BƯƠU ĐỒNG (Pila polita)




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGs. Ts. Ngô Thị Thu Thảo




2014

ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN XANH LÊN SINH TRƯỞNG VÀ
TỶ LỆ SỐNG CỦA ỐC BƯƠU ĐỒNG (Pila polita)

ABSTRACT
This study was conducted to evaluate the effects of vegetable on the growth and
survival of snails Pila polita. Experiment 1 consisted of 3 different treatments and triplicates
per each treatment as follow: 1). Vegetable, 2) Vegetable + Commercial pellet, 3)
Commercial pellet. Experiment 2 was arranged with 4 treatments and tripliactes: 1). Green

water from Tilapia culture, 2). Pond water, 3). Green water + Commercial pellet +
Vegetable, 4). Pond water + Commercial pellet + vegetable. Snails with initial weight and
height (0.03 g and 4.06 mm) and were stocked at the density of 150 ind/tank. Results showed
that the highest survival rate was obtained in commercial pellet diet (93.3%), however there
was no singnificant difference (p>0.05) with the mixed diet (90.2%) or only vegetable
(89.9%). When feeding commercial pellet, total weight and snail height (0.83 g and 15.69
mm) of snails were higher (p<0.05) than those from mixed diet (0.69 g and 14,66 mm) or
only vegetable (0.29 g and 11.08 mm). In experiment 2, snails reached the the highest
survival rate in pond water and feeding mixed diet (92.0%) and it significantly higher than
those from green water and feeding mixed diet (89.1%), pond water-no feeding (83.1%) or
green water-no feeding (52.9%). Shell height and weight of snails in pond water together
feeding mixed diet (12.22 mm and 0.39 g) was singnificant difference (p<0.05) from pond
water (6.74 mm and 0.06 g) and green water (6.07 mm and 0.06 g). The results showed that
feeding commercial pellet or mixing with vegetable could improve the growth rate of
juvenile snails. Fish pond water are more suitable for nursing black apple snail than the
green water from Tilapia culture system.
Title: Effects of vegetable on the growth and survival rate of black apple snail Pila
Polita
Keywords: Black apple snail, Pila Polita, food, growth, survival

TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá ảnh hưởng của thức ăn xanh lên
sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita). Thí nghiệm 1 gồm có 3
nghiệm thức và lặp lại 3 lần là: 1). Rau xanh, 2). Thức ăn công nghiệp kết hợp rau
xanh, 3). Thức ăn công nghiệp. Thí nghiệm 2 được bố trí với 4 nghiệm thức và 3 lần
lặp lại: 1). Nước xanh, 2). Nước ao, 3). Nước xanh + Thức ăn công nghiệp + Rau
xanh, 4). Nước ao + Thức ăn công nghiệp + Rau xanh. Ốc bố trí có khối lượng và
chiều cao ban đầu là 0,03 g và 4,06 mm và được ương với mật độ 150 con/bể. Kết
quả thí nghiệm 1 cho thấy tỷ lệ sống của ốc đạt cao nhất khi sử dụng TACN (93,3%)
tuy nhiên không khác biệt (P>0,05) so với cho ăn kết hợp (90,2%) hoặc rau xanh

(89,9%). Khi cho ăn TACN, khối lượng và chiều cao trung bình của ốc (0,83 g và
15,69 mm) cao hơn (P<0,05) so với khi kết hợp 2 loại thức ăn (0,69 g và 14,66 mm)
và rau xanh (0,29 g và 11,08 mm). Đối với thí nghiệm 2, tỷ lệ sống ở nghiệm thức
nước ao + cho ăn kết hợp (92,0%) tương đương với nước xanh + cho ăn kết hợp
1


(89,1%) và nước ao đơn thuần (83,1%) nhưng cao hơn (P<0,05) so với nước xanh
đơn thuần (52,9%). Chiều cao trung bình và khối lượng ở nghiệm thức nước ao +
cho ăn kết hợp (12,22 mm và 0,39 g) tương đương với nước xanh + cho ăn kết hợp
(11,11 mm và 0,32 g) nhưng khác biệt (P<0,05) so với khi ương trong nước ao (6,74
mm và 0,06 g) hoặc nước xanh đơn thuần (6,07 mm và 0,06g). Kết quả nghiên cứu
cho thấy việc bổ sung TACN hoặc kết hợp TACN với rau xanh góp phần làm tăng tốc
độ sinh trưởng của ốc bươu đồng giai đoạn giống. Nguồn nước từ ao nuôi cá thích
hợp cho quá trình ương ốc giống hơn nước có tảo Chlorella từ hệ thống nước xanh –
cá rô phi.
Từ khóa: Ốc bươu đồng, sinh trưởng, thức ăn, sinh trưởng, tỷ lệ sống.
1. GIỚI THIỆU
Ốc bươu đồng là loại động vật thân mềm nước ngọt bản địa có từ lâu
nhưng thực trạng hiện nay cho thấy số lượng ốc bươu đồng đang bị giảm
mạnh do xâm nhập của ốc bươu vàng và khai thác phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng, một phần do môi trường bị ô nhiễm làm số lượng ốc giảm xuống rõ rệt.
Hiện nay các nghiên cứu về ốc bươu đồng như: Nguyễn Thị Đạt (2010) nghiên
cứu ảnh hưởng của mật độ và một số loại thức ăn lên tốc độ tăng trưởng và tỷ
lệ sống của ốc bươu đồng trong nuôi thương phẩm; Nguyễn Thị Bình (2011)
nghiên cứu tìm hiểu một số đặc điểm sinh học sinh sản của ốc bươu đồng và
thử nghiệm kỹ thuật sản xuất giống. Việc tích cực nghiên cứu tìm và sử dụng
thức ăn phù hợp với đặc điểm dinh dưỡng và phù hợp với điều kiện thực tiễn
trong các hộ gia đình là một trong những hướng nghiên cứu cần được quan
tâm nhằm phục vụ việc nuôi được phổ biến hơn. Nghiên cứu này được tiến

hành nhằm đánh giá hiệu quả của việc sử dụng các loại thức ăn và nguồn nước
ương khác nhau đến tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc trong quá trình
ương. Kết quả thực hiện góp phần xây dựng qui trình sản xuất giống ốc bươu
đồng đạt được hiệu quả cao hơn.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Bố trí các thí nghiệm
Bọc trứng ốc bươu đồng được thu tự nhiên ở Đồng Tháp và vận chuyển về
Trại Thực nghiệm động vật thân mềm - Bộ môn kỹ thuật nuôi hải sản - Khoa Thủy
sản - Trường Đại học Cần Thơ để ấp nở và thu giống. Ốc giống có khối lượng trung
bình 0,03 g và chiều cao là 4,06 mm. Thí nghiệm được bố trí trong bể nhựa (40×80
cm), thể tích nước trong bể khoảng 30 lít. Nguồn nước sử dụng được lấy từ ao nuôi
cá bố mẹ số 3 - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ, để lắng trong 4-6 ngày,
sau đó lọc qua lưới 50µm và cho vào bể ương. Ngoài ra khi thực hiện thí nghiệm 2,
nguồn nước còn được lấy từ bể ương cá rô phi (nước xanh).
2


Các loại thức ăn được sử dụng để ương ốc bươu đồng ở thí nghiệm 1: 1) Rau
xà lách, 2) Kết hợp thức ăn công nghiệp với rau xanh (tỷ lệ 1:1 về khối lượng), 3)
Thức ăn công nghiệp. Thí nghiệm 2 với 4 nghiệm thức và 3 lần lặp lại: 1). Nước
xanh; 2). Nước ao, 3). Nước xanh + Thức ăn công nghiệp + Rau xanh (tỷ lệ 1:1 về
khối lượng), 4). Nước ao + Thức ăn công nghiệp + Rau xanh (tỷ lệ 1:1 về khối
lượng). Thức ăn công nghiệp (TACN) cho cá có vẩy (18% đạm) được xay nhuyễn và
sàng qua mắt lưới 200µm, rau xà lách được rửa sạch và cắt khúc khoảng 2 cm trước
khi cho ăn. Hàng ngày cho ốc ăn 2 lần với khối lượng thức ăn là 3% khối lượng ốc
trong bể, lượng thức ăn được thay đổi mỗi tuần theo khối lượng ốc. Thời gian cho ăn
là 7 giờ sáng và 17 giờ chiều mỗi ngày.
2.2 Thu thập và phân tích số liệu
Nhiệt độ được đo bằng nhiệt kế vào lúc 7h sáng và 14h chiều hàng ngày, các
chỉ tiêu thủy lý hóa TAN, NO

2
-
, độ kiềm và pH được xác định hàng tuần bằng bộ test
SERA (Germany).
Hàng tuần khối lượng và chiều cao của ốc trong bể được cân, đo để xác định
tốc độ tăng trưởng tuyệt đối và tương đối về khối lượng và chiều cao. Qua đó để
đánh giá tỷ lệ tăng sinh khối của ốc trong bể thí nghiệm:
Tốc độ tăng trưởng khối lượng tương đối SGR
W


SGR
W
(%/ngày) = × 100

Tốc độ tăng trưởng khối lượng tuyệt đối DWG
W


DWG
W
(g/ngày) =

Tốc độ tăng trưởng chiều cao tương đối SGR
L


SGR
L
(%/ngày) = × 100


Tốc độ tăng trưởng chiều cao tuyệt đối DWG
L


DWG
L
(mm/ngày) =
Trong đó:
W
1
, L
1
: Khối lượng và chiều cao ốc tại thời điểm bố trí thí nghiệm
W
2
, L
2
: Khối lượng và chiều cao ốc tại thời điểm thu mẫu
t: Thời gian ương (ngày)
Tỷ lệ sống (SR) của ốc theo công thức:
SR (%) = (N
2
×100)/N
1

Ln (L
2
) - Ln (L
1

)
t

Ln (W
2
) - Ln (W
1
)
t


W
2
- W
1

t

L
2
- L
1

t

3


Trong đó : SR là tỷ lệ sống (%)
N

1
là số cá thể thả ban đầu thí nghiệm (con)
N
2
là số cá thể tại thời điểm thu mẫu (con)
Tỷ lệ tăng sinh khối = [Sinh khối sau (g)- Sinh khối ban đầu (g)] × 100/ Sinh
khối ban đầu
Sử dụng phần mềm Excel để tính các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và
phân tích ANOVA một nhân tố trong SPSS 16.0 để so sánh thống kê các giá trị trung
bình giữa các nghiệm thức ở mức P<0,05 bằng phép thử Duncan.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống ốc bươu đồng
3.1.1 Biến động các yếu tố môi trường
Nhiệt độ trong thời gian thí nghiệm dao động 23-28
o
C, nhiệt độ buổi sáng và
buổi chiều biến động ở mức thấp và không có khác biệt giữa các nghiệm thức
(P<0,05). Lum Kong et al. (1989) cho rằng ốc bươu đồng sống ở nhiệt độ dao động
từ 20-32
o
C, như vậy nhiệt độ thí nghiệm nằm trong khoảng thích hợp cho sinh
trưởng của ốc.
Bảng 1. Giá trị trung bình các yếu tố môi trường của các nghiệm thức
Chỉ tiêu
Nghiệm thức
Rau
Rau+TACN
TACN
Nhiệt độ sáng (
o

C)
23,85±0,04
a
23,87±0,04
a
23,88±0,04
a
Nhiệt độ chiều(
o
C)
26,99±0,01
a
26,94±0,04
a
26,87±0,04a

pH
7,80±0,08
a
7,62±0,08
a
7,54±0,03
a
TAN (mg/L)
0,25±0,02
a
0,26±0,01
a
0,29±0,01
a

NO
2
(mg/L)

0,27±0,01
a
0,33±0,02
a
0,42±0,04
b
Kiềm (mgCaCO
3
/L)
87,02±1,71
a
78,13±4,55
b
74,12±2,95
b
Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
pH giữa các nghiệm thức dao động từ 7,54 – 7,80. pH của nghiệm thức cho
ăn rau xanh (7,80) cao hơn so với cho ăn rau+TACN (7,62) và TACN (7,54) tuy
nhiên không khác biệt nhau (P>0,05). Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Diệu Linh
(2011) thì có thể nuôi ốc bươu đồng khi pH nằm trong khoảng 7,1-8,4. Kết quả cho
thấy pH trong nghiên cứu này phù hợp cho sinh trưởng ốc bươu đồng.
Hàm lượng TAN ở 3 nghiệm thức không có sự chênh lệch cao và không có
sự khác biệt giữa các nghiệm thức (P>0,05). Tuy nhiên, hàm lượng NO
2
-
ở 3 nghiệm

thức có sự khác biệt nhau (P<0,05), khi cho ăn TACN thì NO
2
-
(0,42 mg/L) cao hơn
cho ăn thức ăn kết hợp (0,33 mg/L) hay chỉ cho ăn rau đơn thuần (0,27 mg/L). Theo
Boyd (1998) và Trương Quốc Phú (2006) thì hàm lượng NH
4
+
thích hợp cho nuôi
động vật thủy sản từ 0,2-2,0 mg/L. Kết quả nghiên cứu trên ốc bươu đồng của
Nguyễn Thị Đạt (2010) thì hàm lượng NO
2
-
trung bình trong khoảng 0,3-1,0 mg/L.
Kết quả cho thấy hàm lượng TAN nằm trong khoảng phù hợp cho phát triển của ốc
bươu đồng.
4


Độ kiềm đạt cao nhất trong nghiệm thức cho ăn rau xanh (87,02 mg/L) và có
khác biệt ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với cho ăn rau + TACN (78,13 mg/L) hoặc
chỉ cho ăn TACN (74,12 mg/L). Các nghiệm thức cho ăn TACN có độ kiềm thấp có
thể do ốc sinh trưởng vượt trội hơn và hấp thu canxi nhiều hơn để hình thành vỏ phục
vụ quá trình tăng trưởng. Theo Boyd (1998) độ kiềm thích hợp cho các loài thủy sản
từ 50-150 mg/L. Theo Trương Quốc Phú và ctv. (2006) thì độ kiềm thích hợp cho các
đối tượng thủy sản từ 50-200 mgCaCO
3
/L.
3.1.2 Tăng trưởng của ốc bươu đồng
Tăng trưởng về chiều cao

Tăng trưởng chiều cao tuyệt đối của ốc đạt 0,20 mm/ngày khi cho ăn rau và
0,33 mm/ngày khi cho ăn TACN. Kết quả nghiên cứu ương ốc bươu đồng của
Nguyễn Thị Bình (2011) thì tốc độ tăng trưởng chiều cao tuyệt đối đạt 0,22-0,32
mm/ngày khi ương trong bể và 0,24-0,44 mm/ngày khi ương trong giai. Theo nghiên
cứu của Nguyễn Thị Đạt (2010) khi nuôi ốc bươu đồng trong giai, sau 1 tháng nuôi
ốc có tốc độ tăng trưởng chiều cao tuyệt đối là 9 mm/ngày và tương đối là 6,86
%/ngày. Trung bình tốc độ tăng trưởng chiều cao trong các nghiệm thức sử dụng
TACN (3,88%/ngày) và khi cho ăn kết hợp (3,72%/ngày) có khác biệt ý nghĩa
(P<0,05) so với khi cho ăn rau xanh (2,77%/ngày).
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng chiều cao tuyệt đối và tương đối về chiều cao của ốc
theo thời gian

Ngày
Tăng trưởng tuyệt đối (mg/ngày)
Tăng trưởng tương đối (%/ngày)
Rau
Rau+TACN
TACN
Rau
Rau+TACN
TACN
7
0,11±0,04
0,25±0,03
0,24± 0,05
2,43±0,80
5,15±0,51
4,97±1,07
14
0,15±0,01

0,29±0,03
0,31±0,06
2,97±0,23
4,96±0,46
5,27±0,88
21
0,19±0,02
0,30±0,01
0,33±0,00
3,19±0,29
4,53±0,09
4,77±0,20
28
0,20±0,01
0,30±0,01
0,33±0,01
2,98±0,09
4,07±0,04
4,28±0,21
35
0,20±0,02
0,30±0,02
0,33±0,01
2,77±4,99
3,72±0,08
3,88±0,15
Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Tăng trưởng về khối lượng
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng của ốc đạt cao nhất là (22,93

mg/ngày) khi sử dụng TACN, khác biệt có ý nghĩa (P<0,05) so với khi kết hợp thức
ăn (19,05 mg/ngày) hoặc chỉ cho ăn rau xanh (7,57 mg/ngày). Bên cạnh đó thì tốc độ
tăng trưởng tương đối về khối lượng của ốc ăn TACN (9,86%) tương đương với cho
ăn thức ăn kết hợp (9,32%) có khác biệt (P<0,05) so với chỉ cho ăn rau (6,68%).
Nguyễn Thị Bình (2011) ương ốc bươu đồng sau 28 ngày thì khối lượng ốc đạt 0,47
g/con (ương trong giai) và 0,38 g/con (ương trong bể). Kết quả thí nghiệm cho thấy
tốc độ tăng trưởng về khối lượng cao hơn so với kết quả của nghiên cứu trước đây.




5


Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng khối lượng tuyệt đối và tương đối của ốc bươu đồng

Ngày
Tăng trưởng tuyệt đối (mg/ngày)
Tăng trưởng tương đối (%/ngày)
Rau
Rau+TACN
TACN
Rau
Rau+TACN
TACN
7
1,81± 0,34
4,29± 0,91
4,60± 0,15
5,27±0,68

10,80±2,24
11,47±0,74
14
3,51± 0,38
8,87± 2,37
9,32± 1,45
7,19±0,37
12,31±1,76
12,74±1,29
21
4,97 ±1,27
10,89± 1,15
14,43± 1,24
7,31±1,11
7,31±1,11
12,05±0,58
28
6,69± 0,06
14,10± 0,45
17,63± 0,82
7,26±0,14
9,88±0,53
10,67±0,25
35
7,57± 1,02
19,05± 0,78
22,93± 2,16
6,68±0,31
9,32±0,28
9,86±0,31

Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Kết quả sau 35 ngày ương cho thấy chiều cao và khối lượng của ốc được cho
ăn rau (11,08 mm và 0,29 g) thấp hơn (P<0,05) so với cho ăn kết hợp (14,66 mm và
0,69 g) hoặc TACN (15,69 mm và 0,83 g). Các kết quả về chiều cao và khối lượng
ốc trong Bảng 4 đều cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Thị Bình (2011) khi cho
ăn cám mịn và có bổ sung thêm lá sắn từ ngày 15-28. Nguyễn Thị Đạt (2010) và
Nguyễn Thị Diệu Linh (2011) cho rằng ốc bươu đồng sử dụng thực vật thủy sinh
như: cây bèo, rau muống, các loại rong. Qua thí nghiệm cho thấy khi sử dụng TACN
thì tăng trưởng về chiều cao và khối lượng của ốc vượt trội hơn với các loại thức ăn
khác.
Bảng 4: Trung bình về chiều cao và khối lượng ốc bươu đồng trong các nghiệm thức

Nghiệm thức
Rau
Rau+TACN
TACN
Chiều cao ban đầu (mm)
4,19±0,12
a
3,99±0,10
a
4,03±0,23
a
Chiều cao sau 35 ngày (mm)
11,08 ±0,70
a
14,66 ±0,70
b
15,69 ±0,08
c

Khối lượng ban đầu (g)
0,03±0,00
a
0,03±0,00
a

0,03±0,00
a

Khối lượng sau 35 ngày (g)
0,29 ±0,04
a
0,69 ±0,03
b
0,83 ±0,08
c
Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05)


Hình 1: Trung bình về khối lượng và chiều cao ốc bươu đồng theo thời gian

Tỷ lệ sống, tỷ lệ tăng sinh khối và hiệu quả sử dụng thức ăn của ốc bươu đồng
Sau 35 ngày ương tỷ lệ sống của ốc bươu đồng đạt cao nhất khi sử dụng
TACN (93,3%) cao hơn khi cho ăn kết hợp (90,2%) hoặc hoàn toàn rau xanh
(89,9%), tuy nhiên không có sự khác biệt (P>0,05). Theo kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Thị Bình (2011) sau 28 ngày ương thì tỷ lệ sống của ốc đạt 88,1% (ương
trong giai) và 90,9% (ương trong bể). Kết quả thí nghiệm cho thấy việc cho ăn
6


×