Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
Cà phê là một mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam,hàng
năm xuất khẩu cà phê đem lại doanh thu lớn cho ngành cà phê, tạo nguồn
thu ngoại tệ cho đất nước,tạo công ăn việc làm cho người dân và đóng góp
không nhỏ vào GDP.Với nguồn lực sản xuất cà phê của nước ta hiện
nay,nguồn cung xuất khẩu cà phê dồi dào,thị trường xuất khẩu cà phê luôn
được mở rộng.Trong đó,Hoa Kỳ là một trong những thị trường nhập khẩu cà
phê lớn của Việt Nam.Đặc biệt hơn,tháng 7/2000 ký hiệp định thương mại
Việt Nam –Hoa Kỳ có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 tạo ra nhiều cơ hội,ưu
đãi với Việt Nam nói chung và đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê
nói riêng một thị trường xuất khẩu lớn,nhiều cơ hội,xuất khẩu sang thị
trường Hoa Kỳ không những đem lại rất nhiều lợi ích mà còn tạo điều kiện
thuận lợi cho kinh tế Việt Nam phát triển.Tuy nhiên,qui mô,thị phần xuất
khẩu của các doanh nghiệp vẫn còn nhỏ,chất lượng kém,khả năng cạnh tranh
với các đối thủ yếu,công nghệ chế biến vẫn còn lạc hậu,xuất khẩu chủ yếu là
cà phê nhân,rất ít sản phẩm cà phê chế biến.Do vậy,em đã chọn đề tài “giải
pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ” làm nội
dung nghiên cứu cho đề án của mình.Mục tiêu nghiên cứu đề tài là nghiên
cứu thị trường Hoa Kỳ về mặt hàng cà phê,các chính sách thương mại áp
dụng.Sau đó,đánh giá thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam trên thị trường
Hoa Kỳ và đề ra giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ.Đối tượng nghiên cứu hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt
Nam. Nghiên cứu trong phạm vi cơ chế chính sách thương mại,hoạt động
xuất khẩu cà phê của Việt Nam những năm gần đây.
Dựa trên phương pháp nghiên cứu phân tích thống kê,phương pháp so
sánh.
Bài viết gồm các phần chính :
Chương1: Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu cà phê sang thị trường Hoa
Kỳ.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường
Hoa Kỳ.
Chương 3: Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 1:
Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu cà phê sang thị
trường Hoa Kỳ.
1.1.khái quát về mặt hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam
1.1.1.Vài nét về sản xuất cà phê của Việt Nam
Cây cà phê lần đầu tiên đưa vào Việt Nam từ năm 1897 và được trồng
thử từ năm 1888. Giai đoạn đầu, cà phê chủ yếu trồng ở Ninh Bình, Quảng
Bình… đến đầu thế kỷ 20 mới được trồng ở Nghệ An và một số nơi ở Tây
Nguyên. Từ 1920 trở đi, cây cà phê mới có diện tích đáng kể đặc biệt ở
Buôn Ma Thuật, Đăklăk. Khi mới bắt đầu, qui mô các đồn điền từ 200-
300ha và năng suất chỉ đạt từ 400-600kg/ha. Cho đến nay, diện tích cà phê
trên cả nước khoảng 500.000 ha và sản lượng lên đến hơn 1 triệu tấn.
Cà phê trồng ở nước ta có bao gồm cà phê vối (Robusta) chiếm 90% diện
tích, cà phê chè (Arabica) 10% và cà phê mít (Excelsa) 1%.
Cà phê chè là tên gọi theo tiếng Việt của loài cà phê có danh pháp khoa
học là: Coffea arabica, do loài cà phê này có lá nhỏ, cây thường để thấp
giống cây chè, một loài cây công nghiệp phổ biến ở Việt Nam.
Đây là loài có giá trị kinh tế nhất trong số các loài cây cà phê. Cà phê chè
chiếm 61% các sản phẩm cà phê toàn thế giới.Brasil và Colombia là hai
nước xuất khẩu chính loại cà phê này, chất lượng cà phê của họ cũng được
đánh giá cao nhất. Các nước xuất khẩu khác gồm có Ethiopia, Mexico,
Guatemala, Honduras, Peru, Ấn Độ
Trên thị trường, cà phê chè được đánh giá cao hơn cà phê vối (coffea
canephora hay coffea robusta) vì có hương vị thơm ngon và chứa ít hàm
lượng caffein hơn. Một bao cà phê chè (60 kg) thường có giá cao gấp 2 lần
một bao cà phê vối. Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới
nhưng chủ yếu là cà phê vối.Ở Việt Nam khó phát triển cà phê chè do độ cao
không phù hợp.Nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới là Việt Nam.
Các nước xuất khẩu quan trọng khác gồm Côte d'Ivoire, Uganda, Brasil, Ấn
Độ.Cây cà phê vối có dạng cây gỗ hoặc cây bụi, chiều cao của cây trưởng
thành có thể lên tới 10 m. Quả cà phê có hình tròn, hạt nhỏ hơn hạt cà phê
arabica. Hàm lượng caffein trong hạt cà phê robusta khoảng 2-4%, trong khi
ở cà phê arabica chỉ khoảng 1-2%
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Một trong nhưng lý do diện tích cà phê vối cao hơn rất nhiều do chúng
có sức sinh trưởng tốt và kháng được bệnh. Còn cà phê chè lại rất mẫn cảm
với các bệnh như bệnh gỉ sắt (do nấm Hemileia vastatrix), bệnh khô cành,
khô quả (do nấm Colletotrichum coffeanum và vi khuẩn Pseudomonas
syringea, P. garcae), bệnh nấm hồng (Corticium salmonicolor)…Theo chiến
lược của ngành cà phê Việt Nam sẽ giảm diện tích cà phê vối và tăng diện
tích cà phê chè tuy nhiên vấn đề giống là vấn đề quan trọng nhất. Trước đây
giống cà phê chè ở Việt Nam là giống Typica, Bourbon, Caturra amarello
hoặc một số giống được trồng mang tính thí nghiệm như Mundo Novo,
Catuai. Hiện nay, các vùng mới trồng cà phê chè đều thuộc giống Catimor
nhưng giống này có nhược điểm hương vị thiên về cà phê vối nên cần phải
nghiên cứu thêm. Với nhu cầu cấp bách hiện nay là cần có giống cà phê chè
mới có hương vị thơm ngon và kháng được bệnh thì cần phải ứng dụng các
tiến bộ khoa học trong tuyển chọn và nhân giống cà phê từ các nguồn nhập
ngoại và sẵn có ở Việt Nam.
Biểu đồ 1.1 :Sản xuất cà phê Việt Nam
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.2.đặc điểm mặt hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam
Cà phê là mặt hàng xuất khẩu quan trọng thứ hai trong số các nông sản
của Việt Nam, hầu như toàn bộ cà phê dành để xuất khẩu, tiêu thụ trong
nước chỉ chiếm 5%. lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng
trưởng trong những năm qua, đưa nước ta đứng thứ hai thế giới trong số
những nước xuất khẩu cà phê.
Năm 2007,Việt Nam đã xuất khẩu 1,2 triệu tấn cà phê, đạt kim ngạch
trên 1,8 tỷ USD, tăng 22,3% về lượng và tăng 52,3% về kim ngạch so với
năm 2006.Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt khoảng
2,2 tỉ USD với khối lượng xuất khẩu 1 triệu tấn, giảm 18,6% về lượng,
nhưng lại được tăng 7,2% về trị giá. Khối lượng xuất khẩu cà phê năm 2009
lên đến hơn 1 triệu tấn nhưng do giá giảm tới 400-500 USD/tấn so với năm
2008 nên kim ngạch có thể chỉ đạt 1,7 tỷ USD tăng 10,2% về lượng và giảm
19% về kim ngạch.Xuất khẩu cà phê 9 tháng đầu năm 2010 đạt 925 nghìn
tấn xuất khẩu với giá trị kim ngạch 1,32 tỷ USD, tăng 4,2 % về lượng và
0,9% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Biểu đồ 1.2: Sản lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam 2007-2010
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Về chủng loại cà phê xuất khẩu của Việt Nam Việt Nam xuất khẩu chủ
yếu cà phê nhân sống gồm các loại Robusta ( cà phê vối),aribica ( cà phê
chè),Kopi luwka ( cà phê chồn). Sản xuất và xuất khẩu cà phê robusta lớn
nhất thế giới với hơn 95% sản lượng là các loại hạt cà phê giá rẻ và chỉ có
khoảng 2-3% sản lượng là các loại cà phê Arabica.Về mẫu mã cà phê xuất
khẩu của Việt Nam chưa đa dạng phong phú,xuất khẩu cà phê vẫn chủ yếu ở
dạng thô,cà phê nhân sống,sản phẩm cà phê đã qua chế biến thì không
nhiều,cà phê thành phẩm chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong khối lượng xuất khẩu cà
phê Việt Nam.
Điều này phụ thuộc vào vị giác riêng của từng người. Arabica được đánh
giá là có hương vị ngon hơn, ít chát, nhưng lại đắng hơn so với robusta.
Nhiều người thích uống loại cà phê hòa tan robusta, nhưng khi chuyển qua
uống arabica, thì đa số họ lại không muốn dùng robusta nữa.
Robusta có thể xem là loại cà phê có phẩm chất kém hơn, tuy nhiên nó
có ưu thế hơn đó là rất hợp thời tiết. Thông thường, loại cà phê này sẽ cho
thu hoạch sau 2-3 năm, trong khi cà phê arabica phải cần 4-5 năm.
Cây cà phê arabica cũng là một loại cây khó tính và khá nhạy cảm với
khí hậu, nó đòi hỏi nhiệt độ và lượng mưa trung bình hàng năm phải đúng
tiêu chuẩn mới cho thu hoạch cao. Trong khi đó, cây cà phê robusta lại có
thể thích ứng với nhiều loại điều kiện môi trường khác nhau.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Về chất lượng mặt hàng cà phê của Việt Nam,tuy Việt Nam là nước
xuất khẩu cà phê hàng đầu nhưng cà phê Việt Nam lại chưa có thương hiệu
riêng trên thị trường thế giới, chất lượng cà phê chậm cải thiện,chất lượng cà
phê của Việt Nam còn thấp do công nghệ chế biến, các thiết bị sấy khô và
các kỹ thuật sau thu hoạch còn thấp thể hiện ở độ ẩm cao…Chất lượng xuất
khẩu cà phê chưa được đồng đều,số lượng cà phê xuất khẩu bị thải loại
chiếm tỉ lệ cao nhất thế giới.
Mặt khác,cà phê Việt Nam được thừa nhận có hương vị đậm đà, thơm
ngon, có chất lượng cảm quan tốt, nhưng giá bán thấp, thấp nhất so với cà
phê cùng loại của các nước trong khu vực.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến giá cà phê xuất khẩu nước ta thấp, một
trong những nguyên nhân này là chất lượng ngoại quan do chế biến đã làm
giảm đáng kể giá trị vốn có của nó.cà phê xuất khẩu của Việt Nam tiêu
chuẩn về chất lượng chưa được rõ ràng,các doanh nghiệp tự áp dụng tiêu
chuẩn riêng.Gần đây nhất, Việt Nam đã chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế ISO
10470:2004 và soạn thảo thành TCVN 7932: 2007, được Bộ Khoa học và
Công nghệ công bố từ năm 2007. Nhưng tất cả những tiêu chuẩn đó đều
không được thực hiện, thậm chí chưa được giới thiệu rộng rãi.
Trong khi đó, các hợp đồng mua bán cà phê robusta tại thị trường
LIFFE đều xếp hạng cà phê dựa trên các thông số chất lượng đo bằng phần
trăm khối lượng, không phải bằng tỉ lệ phần trăm số lỗi. Như vậy, cách xếp
hạng theo % số lỗi mà ta đang áp dụng không được quốc tế công nhận.
Rất đông doanh nghiệp Việt Nam không muốn áp dụng TCVN 4193:
2005; các doanh nghiệp nước ngoài mua cà phê của Việt Nam cũng không
muốn áp dụng tiêu chuẩn này, vì không muốn phải trả giá cao hơn. Hệ quả là
cà phê xuất khẩu của Việt Nam luôn bị phàn nàn về chất lượng xấu, có lúc bị
thải loại đến 60%, giá bị giảm 100 USD-200 USD/tấn, có lúc lên đến 600
USD/tấn tại London.
Lượng cà phê robusta được cấp chứng nhận chất lượng London ngày
càng ít, khiến có lúc cà phê Việt Nam bị tồn kho tại London lên đến 400.000
tấn vào cuối năm 2007, đầu 2008.
Do việc áp dụng tiêu chuẩn là tự nguyện, nên rốt cuộc cho đến nay rất
nhiều doanh nghiệp vẫn duy trì phân hạng cà phê theo 3 tiêu chí: thủy phần
%, đen vỡ %, tạp chất %. khiến cà phê nhân xuất khẩu của Việt Nam luôn
luôn thăng trầm.
Về giá cả cà phê, Do giá cà phê trên thị trường thế giới trong những năm
gần đây giảm nhanh chóng, kim ngạch xuất khẩu đã bắt đầu giảm từ năm
1998, mặc dù khối lượng xuất khẩu tăng đáng kể. Theo đó, giá cà phê thị
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường thế giới từ 1.600USD/tấn năm 1998 xuống chỉ còn 500USD/tấn vào
cuối năm 2000.
Do có điều kiện thời tiết và môi trường thuận lợi, nơi sản xuất lại gần
cảng, giá nhân công thấp nên cà phê Việt Nam có tính cạnh tranh cao trên thị
trường thế giới. Việt Nam là một trong những nước có lượng cà phê cao nhất
thế giới.năm 1999, giá xuất khẩu của cà phê robusta Việt Nam thấp hơn giá
thị trường thế giới khoảng 20%, khoảng 250USD/tấn. Cho đến nay, Việt
Nam gần như là nhà sản xuất và bán ra duy nhất trên thị trường thế giới loại
cà phê robusta, loại này nhìn có giá thấp hơn nhiều so với cà phê arabica.
Hiện nay, sản xuất cà phê của Việt Nam đang trong tình trạng không ổn
định do giá cà phê trên thị trường thế giới có sự thay đổi đột ngột.
niên vụ cà phê 2007-2008 xuất khẩu cà phê đạt trên 2 tỷ USD, giá xuất
bình quân gần 2.000 USD/tấn. Cà phê nhân xuất khẩu sang 75 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Thị trường lớn nhất là Đức (14%) và Mỹ (13%)… là sự phân
bố hợp lý để không quá lệ thuộc vào một thị trường nào. Ngoài ra, ta còn
xuất khẩu cà phê rang xay qua 6 thị trường và các loại cà phê khác qua 16
thị trường,trong 2 năm 2009 và 2010, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh
tế và tài chính thế giới, ngành cà phê Việt Nam lại đi vào thời kỳ khó khăn
cả về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Trong 4 tháng đầu năm 2009, Việt
Nam đã xuất khẩu khoảng 465.000 tấn và đạt kim ngạch 651 triệu USD,
giảm trên 16% về lượng và gần 23 % về giá trị. Giá xuất khẩu bình quân
khoảng 1.390 USD/tấn, giảm trên 100 USD/tấn so với cùng kỳ năm
trước,nguyên nhân của sự giảm sút về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong
năm 2009 và niên vụ 2009 - 2010 là do mưa ảnh hưởng đến chất lượng cà
phê; hệ thống chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu chưa tốt dẫn đến tình trạng bị ép
giá. Hiệp hội cà phê - ca cao Việt Nam cho biết sản lượng niên vụ cà phê
2009 - 2010 giảm từ 20 - 30% nhưng chất lượng cà phê tốt hơn vụ trước.
Tuy nhiên, do giá cà phê thế giới liên tục giảm, giá cà phê trong nước
cũng giảm theo, có lúc xuống còn 22 triệu đồng/tấn, mất 50% so với giá
đỉnh cao của năm 2008. Giá cà phê thế giới biến động liên tục nhưng không
đồng nhất giữa các thị trường trong năm qua. Cùng một loại sản phẩm,
nhưng giá cà-phê xuất khẩu của Việt Nam luôn thấp hơn các nước trong khu
vực từ 50 đến 70 USD/tấn, nhiều khi sự chênh lệch này còn lên đến 100
USD. Nguyên nhân bởi từ trước đến nay, cà-phê xuất khẩu của nước ta được
đánh giá theo tiêu chuẩn cũ của năm 1993 (TCVN: 4193-93).
Theo tiêu chuẩn này, sản phẩm hầu hết được bán ở dạng "thô". Ðây là
tiêu chuẩn phổ biến mà nhiều doanh nghiệp áp dụng để xuất khẩu cà-phê
Robusta (R2), tức là cà-phê có độ ẩm 13%, tạp chất 1%, hạt đen vỡ 5% và
hạt trên sàn 13 đạt 90%. Và như vậy, vô hình trung chúng ta đã xuất khẩu cả
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
một lượng cà-phê xấu đáng lẽ phải được thải loại. Các nhà thu mua cà-phê
R2 đã tìm cách ép giá, trừ hao hụt tạp chất, hạt đen vỡ khi ký hợp đồng nên
kim ngạch xuất khẩu cà-phê của chúng ta không tăng cao cho dù sản lượng
tăng rất cao. Vì vậy, cà-phê Việt Nam phải bán với giá thấp hơn rất nhiều so
với thế giới.Năm 2001,giá bình quân cà phê trên thị trường thế giới 509,5
USD/tấn trong khi giá cà phê của Việt Nam 459,46 USD/tấn.giá cà phê thế
giới qua các năm 2002,2003,2004 lần lượt là 509,5 USD/tấn ,
747,3USD/tấn,706,4 USD/tấn đều cao hơn giá cà phê trên xuất khẩu của
Việt Nam.
Tại Luân Đôn, hoạt động đầu cơ làm lũng đoạn thị trường cùng với sản
lượng cà phê robusta cao là nguyên nhân chính khiến giá giảm 24,5% trong
năm 2009, trong đó phiên giao dịch ngày 26/6 giá đứng ở mức thấp nhất
trong năm, chỉ 1.288 USD/tấn. Do giá giảm sâu ở thị trường này, giá cà phê
xuất khẩu của nước ta cũng giảm trong năm qua, đặc biệt phiên 26/6, giá chỉ
đạt 1.195 USD/tấn, FOB - mức thấp nhất trong vòng 3 năm trở về trước.
Trên thị trường New York, nguồn cung hạn hẹp và các yếu tố kỹ thuật
cùng với sự suy yếu của đồng USD lại khiến giá cà phê arabica tăng 21,3%.
Phiên giao dịch cuối cùng của năm 2009, giá cà phê robusta đứng ở
1.332 USD/tấn còn giá cà phê arabica đạt 135,95 US cent/lb. Cách đó đúng
một năm, giá hai loại cà phê này lần lượt ở 1.765 USD/tấn và 112,05 US
cent/lb.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng 1.3 : Giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam (USD/tấn).
Số thứ tự Năm
Đơn giá cà phê
xuất khẩu bình
quân của Việt
Nam
1 2000 658,36
2 2001 459,46
3 2002 427,81
4 2003 643,56
5 2004 647,5
6 2005 789,20
7 2006 1180,00
8 2007 1529,20
9 2008 2044
10 2009 1466,95
Nguồn: tổng công ty cà phê Việt Nam
Về thị trường xuất khẩu, Việt Nam là nước xuất khẩu thứ nhì trên thế
giới, chỉ sau Braxin với tổng sản lượng xuất khẩu năm 2009 đạt 1.18 triệu
tấn, tương đương 1,73 tỷ USD. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cà phê Robusta,
một dạng cà phê có tiêu chuẩn thấp hơn cà phê Arabica mà các nước châu
Âu thường sử dụng.
Nước ta là nước có nền văn hóa cà phê, tuy nhiên lượng cà phê sử dụng
đầu người chỉ vào khoảng 0.7kg/người /năm, thấp hơn nhiều so với các nước
dẫn đầu là Phần Lan (11kgs/người /năm), và so với nước cao nhất trong khu
vực là Nhật Bản (3.3kgs).
Tiêu thụ thị trường nội địa tại Việt Nam chỉ chiếm khoảng 5% trong tổng
cà phê xuất khấu, tương đương 61,000 tấn/năm. Trong đó cà phê hòa tan
chiếm 9,000 tấn, cà phê rang xay có nhãn hiệu chiếm 35,000 tấn còn lại là cà
phê không tên tuổi và nhãn hiệu. Thị trường cà phê nội địa tăng trưởng hàng
năm khoảng 18% trong đó cà phê hòa tan đang dẫn đầu mức tăng trưởng
(+22%) còn cà phê rang xay tăng trưởng chậm hơn thị trường (+13%).
Theo nghiên cứu của IAM về thói quen sử dụng cà phê, 65% người tiêu
dùng có sử dụng cà phê Việt Nam uống cà phê bảy lần trong tuần, nghiêng
về nam giới (59%). Riêng về cà phê hòa tan thì có 21% người tiêu dùng sử
dụng cà phê hòa tan từ 3 đến 4 lần trong tuần và hơi nghiêng về nhóm người
tiêu dùng là nữ(52%),Tỷ lệ sử dụng cà phê tại nhà (in home) và bên ngoài
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
(Out of home) là ngang nhau 49%/50%. Thời gian uống cà phê phổ biến
nhất là từ 7-8 giờ sáng. Quán cà phê tại Việt Nam có thể tìm thấy tại mọi
ngóc ngách, phổ biến đa dạng, đa kiểu tạo sự thuận tiện nhất cho người uống
cà phê.
Xét về giá trị, kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam từ năm 2001 đến
nay tăng liên tục với mức trung bình gần 31%/năm. Riêng 2 năm sau khi
nước ta gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu cà phê tăng tới 53% và đạt
mức 2,3 tỷ USD trong năm 2008. Như vậy, cà phê là một trong không nhiều
mặt hàng xuất khẩu chủ lực, với kim ngạch từ 2 tỷ USD trở lên. Việt Nam
trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới, với
những đối tác và bạn hàng nhập khẩu ổn định, ở khắp các châu lục, trong đó
có một số thị trường lớn, sức mua cao và ổn định như Tây Ban Nha, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Anh, Hoa Kỳ, Bỉ…
Việt Nam là nước sản xuất cà phê lớn nhưng tiêu thụ cà phê trong nước
không nhiều,phần lớn cà phê của Việt Nam là giành cho xuất khẩu .trong
đó,Đức, Hoa Kỳ, Bỉ, Tây Ban Nha, Italia, Nhât Bản là các thị trường chính
của xuất khẩu cà phê Việt Nam.năm 2007,cà phê là mặt hàng dẫn đầu xuất
khẩu về kim ngạch xuất khẩu trong nhóm hàng nông, lâm sản và là một
trong 10 mặt có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD. Năm 2007 cũng là
năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu cà phê vượt kim ngạch xuất khẩu gạo với
mức 13%,mười nước nhập khẩu hàng đầu cà phê của Việt Nam là Đức, Hoa
Kỳ, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ, Ba Lan, Pháp, Hàn Quốc, Anh, Nhật Bản, chiếm
tới 75% khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam; trong đó Đức tiếp tục
giữ vị trí số 1 về nhập khẩu cà phê của Việt Nam với thị phần khoảng
14%.trong năm 2007,Việt Nam còn mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê
sang một số thị trường khác như vùng Trung Cận Đông, châu Phi, một số
nước ASEAN và vùng Trung Mỹ.
Năm 2008,thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam tương đối ổn định,Đức
vẫn là khách hàng tiêu thụ cà phê số một của Việt Nam,sau đó là Hoa
Kỳ,Tây Ban Nha,Italia…
Bước sang năm 2009,dẫn đầu kim ngạch xuất khẩu là thị trường Đức với
201,77triệu USD, chiếm 11,66% tổng kim ngạch; thứ 2 là thị trường Hoa Kỳ
với 196,67triệu USD,chiếm 11,36%; tiếp đến là thị trường Bỉ 190,5 triệu
USD, chiếm 11%.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong năm 2009, xuất khẩu cà phê sang các thị trường hầu hết bị giảm
kim ngạch so với năm 2008. Dẫn đầu về mức sụt giảm kim ngạch là xuất
khẩu sang Thái Lan năm 2009 đạt 4,45triệu USD, giảm 85,12% so với năm
2008; tiếp theo là xuất khẩu sang Singapore đạt 19,77 triệu USD, giảm
57,58%; tiếp theo là thị trường Nga giảm 44,58%; sang Hàn Quốc giảm
44,03%...
Chỉ có 5 thị trường đạt mức tăng kim ngạch so với năm 2008. Kim ngạch
xuất khẩu sang Indonesia tuy chỉ đứng thứ 18 trong bảng xếp hạng kim
ngạch, đạt 17,19 triệu USD, nhưng đạt mức tăng cao nhất tới 376,57% so
với năm 2008; đứng thứ 2 về mức độ tăng trưởng kim ngạch là kim ngạch
xuất sang Ấn Độ đạt 22,51triệu USD, tăng 112,2%; tiếp đến kim ngạch xuất
sang Hà Lan đạt 46,8 triệu USD, tăng 45,41%; Kim ngạch xuất sang Bỉ năm
2009 tuy đạt kim ngạch lớn trên 190,5 triệu USD, nhưng mức tăng kim
ngạch so với năm 2008 chỉ đạt 13,35%; kim ngạch xuất sang Philippin tăng
12,86%.
Bảng 1.4 :Thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam năm 2009
Thị trường
Lượng
(tấn)
Trị giá (USD)
Tăng, giảm
so với năm
2008
Tổng cộng 1.183.523 1.730.602.417 -18,03
XK của doanh
nghiệp vốn FDI
191.799 297.352.602
CH LB Đức 136.248 201.768.433 -26,32
Hoa Kỳ 128.050 196.674.152 -6,69
Bỉ 132.283 190.495.368 +13,35
Italia 96.190 142.365.709 -16,83
Tây Ban Nha 81.617 118.020.895 -20,45
Nhật Bản 57.450 90.312.416 -29,13
Hà Lan 32.608 46.795.583 +45,41
Hàn Quốc 31.684 46.399.869 -44,03
Anh 30.918 44.162.090 -36,30
Thụy Sĩ 28.478 41.017.518 -24,55
Pháp 25.886 37.827.448 -20,30
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Philippin 21.547 29.851.371 +12,86
Malaysia 19.245 28.571.952 -24,50
Trung Quốc 17.396 24.885.623 -21,05
Ấn Độ 16.438 22.505.252 +112,2
Nga 15.561 22.003.706 -44,58
Singapore 13.467 19.768.665 -57,58
Indonêsia 12.431 17.190.384 +376,57
Ôxtrâylia 11.281 16.424.338 -7,32
Ba Lan 10.965 15.535.621 -36,02
CH Nam Phi 8.976 12.843.856 -4,69
Mêhicô 9.266 12.724.469 *
Ai Cập 6.924 9.744.739 *
Bồ Đào Nha 6.190 9.465.311 -29,25
Canađa 3.292 4.595.972 -18,73
Hy Lạp 3.125 4.589.863 -5,82
Thái Lan 3.002 4.445.461 -85,12
Đan Mạch 1.426 2.051.332 -48,69
Nguồn : tổng cục thống kê Việt Nam
8 tháng năm 2010,Thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam là
Đức chiếm tỷ trọng 13,5 %, và Hoa Kỳ với tỷ trọng 12,7%. Các thị trường
có sự tăng trưởng khá là Philippin tăng xấp xỉ 70% và Nga gấp gần 2 lần so
với cùng kỳ năm trước.
Bảng 1.5 : Thống kê thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam 8 tháng
2010
Thứ
tự
Tên nước
Lượng nhập
khẩu 8 tháng
đầu năm 2010
( tấn)
Kim ngạch
nhập khẩu 8
tháng đầu năm
2010
(1000USD)
% 2010/
2009
1 ĐỨC 113877 164886 111.97
2 HOA KỲ 102562 155915 119.85
3 TÂYBAN NHA 59739 83822 103.10
4 Ý 52548 75079 63.92
5 NHẬT BẢN 40113 61836 83.81
6 BỈ 34563 48748 28.37
7 PHILIPPIN 23131 32517 167.95
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
8 ANH 21288 29641 99.07
9 NGA 21178 29048 198.04
10 HÀN QUỐC 18850 27029 83.39
1.1.3. vai trò xuất khẩu cà phê
Xuất khẩu cà phê mỗi năm đem về cho nền kinh tế chúng ta một lượng
ngoại tệ lớn, khoảng 500 triệu USD. Xuất khẩu cà phê góp phần không nhỏ
vào việc thực hiện mục tiêu của chiến lược xuất nhập khẩu nói riêng và mục
tiêu phát triển chiến lược kinh tế xã hội nói chung của đất nước.
xuất khẩu cà phê góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm, giúp giải quyết
vấn đề thất nghiệp cho nền kinh tế.
Mặt khác khi xác định cà phê là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thì sẽ giúp
Nhà nước hoạch định các chính sách như đầu tư, quy hoạch vùng một cách
có trọng điểm, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao trong phát triển kinh tế.
Xuất khẩu cà phê giúp các doanh nghiệp có thêm lợi nhuận, thu được
ngoại tệ để đầu tư mua máy móc thiết bị mở rộng và nâng cao sản xuất từ đó
tăng lợi nhuận và hiệu quả trong hoạt động của mình.
1.2.Đặc điểm thị trường cà phê ở Hoa Kỳ.
Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là một thị trường khổng lồ. Dân số 288 triệu
người.
GDP đầu người/ năm > 36.000 USD,Kinh tế Hoa Kỳ có quy mô lớn nhất
thế giới, tới 13.210 tỉ USD trong năm 2006. Đây là một nền kinh tế hỗn hợp,
nơi mà các công ty, các tập đoàn lớn và các công ty tư nhân là những thành
phần chính của nền kinh tế vi mô, ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của
Hoa Kỳ. Kinh tế Hoa Kỳ cũng duy trì được năng suất lao động cao, GDP
bình quân đầu người cao, khoảng 44.000 USD, mặc dù chưa phải cao nhất
trên thế giới. Kinh tế Hoa Kỳ có mức độ tăng trưởng kinh tế vừa phải, tỉ lệ
thất nghiệp thấp, trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ, khả năng nghiên
cứu, và đầu tư vốn caoNhu cầu của thị trường về các loại mặt hàng lớn.
Nước Mỹ hiện có xấp xỉ 309 triệu người. Thị trường Hoa Kỳ được đánh
giá là thị trường hấp dẫn với bất kỳ một quốc gia nào.Hoa Kỳ luôn là nước
xuất siêu về nông thuỷ sản và thực phẩm, song từ năm 2004 Hoa Kỳ đã trở
thành nước nhập siêu với tốc độ tăng rất cao. Năm 2005, Hoa Kỳ đã nhập
siêu khoảng 4,3 tỷ USD hàng nông sản và thực phẩm, tăng trên 4.000% so
với mức 104 triệu USD năm 2004 .
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực tháng
12/2001, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã phát triển nhẩy
vọt. Năm 2003, Việt Nam đã trở thành bạn hàng lớn thứ 40 của Hoa Kỳ (tính
theo kim ngạch hai chiều). Nếu tính riêng xuất khẩu vào Hoa Kỳ thì Việt
Nam đứng thứ 35.
Nhu cầu tiêu thụ cà phê Hoa Kỳ, vấn đề quan trọng nhất của các doanh
nghiệp khi tham gia vào thị trường Hoa Kỳ là phải nhận diện được nhu cầu
thị trường.Theo số liệu nghiên cứu của các nhà làm cà phê Việt Nam, có
khoảng 1/3 dân số Mỹ biết uống cà phê. Mỗi năm, người Mỹ đã chi khoảng
hơn 20 tỷ USD cho việc tiêu thụ cà phê.
Thị trường này có nhu cầu nhập khẩu cà phê lớn,là cường quốc nhập
khẩu cà phê, thị trường tiêu thụ cà phê số 1 thế giới với khối lượng nhập
khẩu hằng năm lên tới 20 triệu túi (khoảng 1.200 triệu kg), chiếm gần 1/4
tổng lượng cà phê xuất khẩu của thế giới.
Mỗi năm thị trường Hoa Kỳ nhập khẩu khoảng 2 triệu tấn cà phê cả rang
hoặc chưa qua rang. Theo trung tâm xúc tiến thương mại Việt Nam tại Hoa
Kỳ thì năm 2003 nhu cầu cà phê của Hoa Kỳ là 2,064 triệu tấn. Trong đó
nhu cầu về cà phê nhân khoảng 1,1-1,5 triệu tấn chiếm khoảng hơn 65%.
Cùng tập quán tiêu dùng nhiều và với sự phục hồi phát triển của nền kinh tế
thì nhu cầu tiêu dùng của người dân Mỹ sẽ ngày một tăng lên, trong đó có
nhu cầu về tiêu dùng cà phê. Năm 2001 tiêu thụ cà phê tại thị trường Hoa Kỳ
là 1.228.000 tấn với giá trị là 1677 triệu USD. Năm 2004 là 1240 nghìn tấn.
năm 2005 nhu cầu tiêu thụ cà phê của thị trường này là khoảng 1079 nghìn
tấn.
Năm 2010 thị trường Hoa Kỳ sẽ có nhu cầu tiêu thụ khoảng 1315 tấn cà
phê trong đó nhu cầu về cà phê arbica là 80% còn cà phê robusta là 20%.
Về cung cà phê trên thị trường Hoa Kỳ,Hoa Kỳ có trung tâm giao dịch
cà phê lớn của thế giới, đó là trung tâm giao dịch cà phê NewYork. Vì vậy
có rất nhiều nước xuất khẩu cà phê vào thị trường Hoa Kỳ.Khoảng 70% cà
phê nhập khẩu vào Hoa Kỳ là loại cà phê arabica (chủ yếu từ Côlômbia,
Brazil, Mêhicô...) và 30% còn lại là cà phê robusta (chủ yếu từ Việt Nam và
Inđônêxia).Trong các nước xuất khẩu cà phê vào thị trường Hoa Kỳ thì
Colombia là nước xuất khẩu nhiều nhất vào thị trường này sau đó là Braxin.
Còn các nước xuất khẩu cà phê khác như Việt Nam, Indonesia, và các nước
Trung Mỹ thì xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ chủ yếu là cà phê robusta và
có nhiều nước xuất khẩu cà phê robusta nữa cũng muốn xâm nhập và thâm
nhập mạnh vào thị trường này.Các nước xuất khẩu cà phê lớn và thị trường
này phải kể đến : Brazil.Indonesia,Việt Nam,Ấn Độ,Colombia,Mexico.
Trị giá nhập khẩu cà phê vào Hoa Kỳ các năm 2001, 2002, 2003, 2004,
và 2005 lần lượt là 1,515, 1,524, 1,776, 2,064, và 2,775 tỷ USD. Năm 2005
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhập khẩu cà phê của Hoa kỳ tăng 34,5% so với năm 2004, do giá quốc tế
tăng và sản lượng cà phê từ các nhà cung cấp giảm thấp nhất trong 4 năm
qua. Năm 2008,Mỹ nhập khẩu 1,35 triệu tấn cà phê các loại với kim ngạch
đạt 4,12 tỉ đô la, tăng 17,3% so với năm 2007.
Thị hiếu tiêu dùng cà phê trên thị trường này ,thích đổi mới,quan
tâm nhiều đến chất lượng sản phẩm,mẫu mã.Các yếu tố về an toàn ,đảm bảo
cho sức khỏe luôn được đề cao,người Mỹ chỉ tin dùng những sản phẩm được
chứng nhận,đạt tiêu chuẩn hoặc là những sản phẩm của có thương hiệu ,nhãn
hiệu nổi tiếng ,uy tín và chất lượng và những loại cà phê có danh tiếng,tên
tuổi,đặc trưng của vùng xuất thân.Người Mỹ thích uống cà phê pha đặc,rất
chú ý đến hương vị của cà phê.Theo Hiệp hội cà phê quốc gia của Mỹ, cứ
trong 5 người Mỹ thì có 4 người uống cà phê, có người uống hàng ngày, có
người thì thỉnh thoảng. Một số người uống cà phê là để kích thích cho tỉnh
táo. Lượng tiêu thụ cà phê trung bình hàng ngày ở Mỹ khoảng hơn 400 triệu
cốc.Cà phê Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ được những người Việt sống bên
Mỹ rất ưa chuộng bởi họ thưởng thức cà phê không chỉ như một loại nước
uống,nước giải khát,mà thưởng thức như một sản phẩm mang đậm chất của
quê hương với hương vị đậm đà rất người Việt.Nhu cầu của thị trường Hoa
Kỳ rất đa dạng. Chủng tộc và văn hóa đa dạng dẫn đến nhu cầu và tập quán
tiêu dùng cũng đa dạng. Thu nhập bình quân đầu người cao, song chênh lệch
thu nhập rất lớn. Số dân nhập cư vào Hoa Kỳ hiện nay mỗi năm tới trên 1
triệu người và ngày ngày càng tăng
Yếu tố cạnh tranh xuất khẩu cà phê sang thị trường Hoa Kỳ,Theo
đánh giá thì cà phê vối của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ có chất
lượng không bằng với cà phê vối của Indonesia và một số nước khác,nhưng
Việt Nam có trữ lượng xuất khẩu lớn nhất. Vì vậy đây chính là các sản phẩm
cạnh tranh chính của cà phê xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ.
Ngoài ra cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ còn bị cạnh
tranh bởi cà phê chè vì người dân Mỹ có nhu cầu về cà phê chè khoảng 70%
vì vậy cà phê vối sẽ bị cạnh tranh mạnh và gặp khó khăn trên thị trường Hoa
Kỳ. Bên cạnh đó cà phê xuất khẩu của Việt Nam trên thị Hoa Kỳ còn bị cạnh
tranh bởi các sản phẩm thay thế khác như chè, nước khoáng, hay các đồ
uống khác.
Các chính sách nhập khẩu,chính sách thương mại điều tiết nhập
khẩu của Hoa Kỳ.Tất cả các loại thực phẩm sản xuất trong nước và nhập
khẩu đều phải chịu sự điều tiết của các Luật Liên bang về Thực phẩm, Dược
phẩm và Hoa Kỳ (Federal Food, Drug, and Cosmetic Act -FDCA), Luật về
Bao bì và Nhãn hàng (Fair Packaging and Labeling Act - FPLA), và một số
phần của Luật về Dịch vụ Y tế (PHSA).
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) chịu trách nhiệm
quản lý nhà nước về nhập khẩu thực phẩm vào Hoa Kỳ. Các quy định của
FDA về nhập khẩu thực phẩm rất nhiều và chặt chẽ. Ngoài các qui định của
FDA, có thể có các quy định riêng của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA)
và/hoặc Cục Nghề cá Hoa Kỳ (NMFS) đối với một số mặt hàng nông thủy
sản cụ thể.
Bên cạnh đó, FDA cũng thực thi rất nhiều quy định khác liên quan đến
lưu thông hàng hóa giữa các bang, việc thử nghiệm hàng trước khi đưa vào
lưu thông thương mại v.v.
Theo luật, thực phẩm nhập khẩu thuộc quyền quản lý của FDA sẽ phải
được FDA kiểm tra tại cảng đến trước khi được phép nhập khẩu vào thị
trường. Nếu hàng đến bị phát hiện không phù hợp với những quy định hiện
hành, thì có thể bị giữ lại tại cửa khẩu. FDA có thể cho phép tái chế lô hàng
cho phù hợp trước khi có quyết định cuối cùng cho phép nhập lô hàng. Tuy
nhiên, mọi công việc tuyển lựa lại, tái chế, hoặc làm lại nhãn hàng phải được
tiến hành dưới sự giám sát của nhân viên FDA. Mọi chi phí liên quan do
người nhập khẩu chịu. Nếu hàng đã được tái chế hoặc làm lại nhãn mà vẫn
không đạt yêu cầu thì FDA sẽ yêu cầu tái xuất hoặc tiêu hủy.
Việc cho phép tái chế hàng là ưu đãi mà FDA có thể giành cho người
nhập khẩu chứ không phải quyền đương nhiên các nhà nhập khẩu được
hưởng. Vì vậy, nếu người nhập khẩu tiếp tục có các chuyến hàng tương tự
không phù hợp, thì sẽ có nguy cơ bị FDA coi là lạm dụng ưu đãi và sẽ không
tiếp tục cho phép người nhập khẩu tái chế hàng. Thay vào đó, FDA sẽ yêu
cầu người nhập khẩu hủy hoặc tái xuất khẩu lô hàng.
Các nhà xuất khẩu nước ngoài nếu nhiều lần vi phạm xuất hàng không
đủ tiêu chuẩn vào Hoa Kỳ cũng dễ bị FDA đưa vào diện Cảnh báo Nhập
khẩu và hàng của họ sẽ bị FDA tự động giữ lại hoặc kiểm tra chặt chẽ hơn.
Hơn nữa, nếu các nhà xuất khẩu nước ngoài giao hàng không đủ tiêu chuẩn
và/hoặc đúng với các qui định của FDA, và hàng bị từ chối nhập khẩu vào
thị trường sẽ gây tổn hại kinh tế và phiền toái cho người nhập khẩu. Trong
trường hợp này, người xuất khẩu không những phải bồi thường tổn hại cho
người nhập khẩu mà còn có nguy cơ mất khách hàng.
Giống như EU áp dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP ở một số
nước đang phát triển (Ưu đãi đối tác không cần có đi có lại).
Dư lượng thuốc trừ sâu trong các nông sản thô: "Nông sản thô" là bất kỳ
thực phẩm nào ở dạng thô và tự nhiên, bao gồm hoa quả, rau, hạt, củ,... chưa
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
qua chế biến. Các thực phẩm đã được rửa, nhuộm phẩm màu, phủ sáp, hoặc
đã được xử lý như thế nào đó ở dạng tự nhiên, chưa bóc vỏ, cũng được coi là
chưa qua chế biến. Giới hạn cho phép (tolerance) các dư lượng thuốc trừ sâu
đối với các sản phẩm cụ thể do Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) quy định,
huỷ bỏ hoặc thay đổi tuỳ theo khả năng có thể xác định các giới hạn này.
Phần 408 của luật FDCA liệt kê các giới hạn đang hiện hành. Nông sản thô
có dư lượng thuốc trừ sâu bị coi là vi phạm luật FDCA, trừ khi: (1) các hóa
chất trừ sâu đã được loại trừ ra khỏi danh mục kiểm tra dư lượng; hoặc (2)
dư lượng không vượt quá giới hạn cho phép đối với thực phẩm đó.
Thực phẩm chế biến có chứa bất kỳ dư lượng thuốc trừ sâu nào không
được loại trừ hoặc chưa có giới hạn nào được quy định đều bị coi là hàng
kém phẩm chất. Nếu đã có một giới hạn, dư lượng thuốc trừ sâu không bị coi
là làm ảnh hưởng đến phẩm chất của sản phẩm ăn liền, nếu dư lượng này
không vượt quá giới hạn cho phép đối với nông sản thô đó. Trong trường
hợp nhập khẩu thực phẩm có thể còn dư lượng thuốc trừ sâu, người nhập
khẩu cần liên hệ với Division of Regulatory Guidance của FDA về các giới
hạn thuốc trừ sâu cho phép. rên danh nghĩa, mục đích của tất cả các luật điều
tiết thương mại của Hoa Kỳ là nhằm chống lại sự cạnh tranh không công
bằng của hàng nhập khẩu với hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, trên thực
tế, tất cả những luật này - được soạn thảo và thông qua dưới sức ép của các
doanh nghiệp trong nước vì lợi ích của họ - đều nhằm hạn chế cạnh tranh
của nước ngoài tại thị trường Hoa Kỳ để bảo vệ các doanh nghiệp trong
nước.
Bồi thường thương mại đã trở thành công cụ để các công ty Hoa Kỳ sử
dụng thường xuyên phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của mình. ở nhiều
nước khác, các công ty thường ít chú ý tới các thủ tục pháp lý. Trái lại, ở
Hoa Kỳ, các công ty thường coi các thủ tục pháp lý là một công cụ cạnh
tranh.
Ưu đãi tối huệ quốc MFN.Chính sách thương mại NLS dựa trên đạo luật
“Điều chỉnh Nông Nghiệp” cho phép
Mỹ áp dụng hạn ngạch nhập khẩu NLS nếu gây tổn hại tới chương trình
trong nước và dùng nó để khống chế 12 mặt hàng Nông sản chủ yếu nhập
vào Hoa Kỳ.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 2:
Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ.
2.1.Tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường Hoa kỳ
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cà phê, chủ yếu là cà phê vối (robusta) vào
Mỹ từ năm 1994 và ngay năm đầu đã đạt 32 triệu USD. Năm sau đó (1995)
xuất khẩu tăng vọt lên 145,2 triệu USD và hiện nay Mỹ đang là thị trường
xuất khẩu cà phê lớn của Việt Nam. Mỹ đang là nước tiêu thụ và cũng là
nước nhập khẩu cà phê lớn nhất trên thế giới với khoảng 1,2 triệu tấn cà phê
nhập khẩu, trị giá 3 tỷ USD mỗi năm.
Hoa kỳ là một nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới,đồng thời cũng
là một nước nhập khẩu cà phê của Việt Nam lớn thứ hai.
Năm 2009, theo số liệu cập nhật từ Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ
(USDA), tiêu thụ cà phê Việt Nam đã tăng 18,2%/năm tương đương 1,06
triệu bao, cao hơn so với dự báo trước đó của BMI là 921.300 bao. Mặc dù
con số trên khá ấn tượng nhưng tốc độ tăng trưởng tiêu thụ cà phê năm 2008
và 2009 đã chậm lại do nền kinh tế tăng trưởng chậm và lạm phát cao.
Hiện Mỹ đứng thứ hai thế giới (chỉ sau Đức) về nhập khẩu cà phê
của Việt Nam. Trong 8 niên vụ cà phê gần đây, trung bình mỗi niên vụ Mỹ
nhập khẩu của Việt Nam 112.000 tấn (chiếm khoảng 12% tổng lượng cà phê
xuất khẩu của Việt Nam đi các nước). Riêng niên vụ 2008-2009, Việt Nam
xuất khẩu vào Mỹ 138.000 tấn, đạt kim ngạch khoảng 218 triệu USD. 4
tháng đầu năm 2010, Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ khoảng 1.346.400 bao cà
phê nhân (tương đương 80.784 tấn, tăng 31,4% so với cùng kỳ 2009); 6.300
bao cà phê rang xay (tương đương 378 tấn, tăng 85,2% so với cùng kỳ
2009); 17.000 bao cà phê hòa tan (tương đương 1.020 tấn, tăng 17,2% so với
cùng kỳ 2009).Trong 8 niên vụ cà phê gần đây, trung bình mỗi niên vụ Mỹ
nhập khẩu của Việt Nam 112.000 tấn (chiếm khoảng 12% tổng lượng cà phê
xuất khẩu của Việt Nam đi các nước).
Riêng niên vụ 2008-2009, Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ 138.000 tấn, đạt
kim ngạch khoảng 218 triệu USD. 4 tháng đầu năm 2010, Việt Nam xuất
khẩu vào Mỹ khoảng 1.346.400 bao cà phê nhân (tương đương 80.784 tấn,
tăng 31,4% so với cùng kỳ 2009); 6.300 bao cà phê rang xay (tương đương
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
378 tấn, tăng 85,2% so với cùng kỳ 2009); 17.000 bao cà phê hòa tan (tương
đương 1.020 tấn, tăng 17,2% so với cùng kỳ 2009).
Việt Nam hiện đứng thứ bảy về giá trị xuất khẩu và thứ năm về số lượng
trong số các nước xuất khẩu cà phê sang Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng
này của Việt Nam sang Mỹ là 142,5 triệu USD trong năm 1999 (do giá cà
phê thế giới sụt mạnh trong hai năm qua). Thị trường Mỹ chủ yếu tiêu thụ cà
phê arabica (70%). Cà phê hạt các loại là mặt hàng được hưởng mức thuế
suất bằng 0 cho dù nước xuất khẩu được hay không được hưởng quy chế Tối
huệ quốc
Chất lượng và tính ổn định của nguồn cung là hai yếu tố quan trọng đảm
bảo cho cà phê Việt Nam có chỗ đứng vững và mở rộng thị phần ở thị
trường Mỹ thì đây vẫn là hai khâu còn nhiều bất cập. Mặc dù cà phê Robusta
của Việt Nam được đánh giá cao, song khâu thu mua nguyên liệu, bảo quản,
sơ chế… chưa được quan tâm đúng mức nên chất lượng chậm được cải thiện
đã khiến giá cà phê nhân xuất khẩu của Việt Nam luôn thấp hơn các sản
phẩm cùng loại của các nước khác. Nguyên nhân thì rất nhiều, nhưng có một
nguyên nhân không thể không kể đến là chính sách khuyến khích áp dụng
quy trình sản xuất cà phê bền vững và thân thiện môi trường triển khai chưa
hiệu quả.
Trên thị trường Hoa Kỳ,cà phê Việt Nam chưa có được thương hiệu nổi
tiếng,mới chỉ có một vài thương hiệu Trung Nguyên ,Biên Hòa có mặt trên
thị trường Mỹ mà chủ yếu phục vụ bà con Việt Kiều.Việt Nam xuất khẩu
chủ yếu ở dạng thô nhưng thương hiệu thì không có,khả năng cạnh trạnh với
các mặt hàng cà phê thô của các nước khác kém.Trong khi đó,cà phê của
Việt Nam luôn bị phàn nàn,đánh giá thấp về chất lượng.
Khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ các doanh nghiệp chưa đảm bảo
đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng.
Các doanh nghiệp xuất khẩu chủ yếu theo hình thức xuất khẩu gián
tiếp,thông qua trung gian xuất khẩu,các doanh nghiệp xuất khẩu nước
ngoài.Doanh nghiệp khó nắm bắt được thị trường,kênh phân phối không
hiệu quả,chịu sự phụ thuộc của các trung gian xuất khẩu.
Năm 2002, lượng cà phê xuất khẩu sang thị trường Mỹ là 60 nghìn tấn,
chỉ đạt 40 triệu USD kim ngạch xuất khẩu, giảm gần 34% so với năm 2001
và chỉ chiếm 12,5% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cà phê. Việt Nam
hiện là nước đứng đầu thế giới về sản xuất cà phê Robusta và là một trong
những nước xuất khẩu cà phê lớn nhất trên thế giới (cùng với Brazil,
Indonesia …). Đồng thời, cà phê cũng là một mặt hàng có khả năng cạnh
19