Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

xác định mật độ, lượng đạm bón phù hợp và khả năng kháng bệnh bạc lá của giống lúa tbr225 tại thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (25.4 MB, 119 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




NGUYỄN THỊ THOA



XÁC ĐỊNH MẬT ĐỘ, LƯỢNG ĐẠM BÓN PHÙ HỢP
VÀ KHẢ NĂNG KHÁNG BỆNH BẠC LÁ
CỦA GIỐNG LÚA TBR225 TẠI THÁI BÌNH




LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC CÂY TRỒNG







HÀ NỘI – 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM







NGUYỄN THỊ THOA



XÁC ĐỊNH MẬT ĐỘ, LƯỢNG ĐẠM BÓN PHÙ HỢP
VÀ KHẢ NĂNG KHÁNG BỆNH BẠC LÁ
CỦA GIỐNG LÚA TBR225 TẠI THÁI BÌNH





CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC CÂY TRỒNG
MÃ NGÀNH: 60.62.01.10


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THANH TUẤN






HÀ NỘI – 2015

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN

- Tác giả xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận
văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tác giả xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Thái Bình, ngày 12 tháng 6 năm 2015
Tác giả



Nguyễn Thị Thoa











Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii


LỜI CÁM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô, bạn bè và người thân.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thanh Tuấn
người đã tận tình hướng dẫn, định hướng và giúp đỡ tôi về chuyên môn trong suốt
thời gian thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Bộ môn Di truyền và Chọn
giống cây trồng - Khoa Nông học - Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tạo điều
kiện hướng dẫn giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu để tôi thực hiện tốt
đề tài này.
Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình người thân, anh
em, bạn bè những người luôn ủng hộ, động viên tạo điều kiện cho tôi trong quá trình
học tập, công tác và thực hiện luận văn.
Luận văn này khó tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được những
ý kiến đóng góp của các thầy cô, đồng nghiệp và bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!

Thái Bình, ngày 12 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thoa

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii

Mục lục iii
Da nh mục chữ viết tắt v
Danh mục bảng vi
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài 2
2.1. Mục đích 2
2.2. Yêu cầu của đề tài 2
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 2
3.1. Ý nghĩa khoa học 2
3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới và Việt Nam 3
1.1.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới 3
1.1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam 5
1.1.3. Điều kiện tự nhiên và tình hình sản xuất lúa gạo ở Thái Bình 7
1.2. Vai trò của phân đạm và những kết quả nghiên cứu về lượng đạm bón cho lúa 9
1.2.1. Vai trò của phân đạm đối với cây lúa 9
1.2.2. Những kết quả nghiên cứu về lượng đạm bón cho lúa 11
1.3. Những kết quả nghiên cứu về mật độ và số dảnh cấy 16
1.3.1. Những kết quả nghiên cứu về mật độ cấy 16
1.3.2. Những kết quả nghiên cứu về số dảnh cấy 19
1.4. Những kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón
cho lúa 20
1.5. Tổng quan về bệnh bạc lá lúa (Xanthomonas oryzae. pv.oryzae) 22
Chương 2. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1. Vật liêu, thời gian, địa điểm nghiên cứu 26
2.1.1. Vật liệu nghiên cứu 26
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 26
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv

2.2. Nội dung nghiên cứu 27
2.3. Phương pháp nghiên cứu 27
2.3.1. Bố trí thí nghiệm 27
2.3.2. Các biện pháp kỹ thuật 29
2.3.3. Các chỉ tiêu theo dõi 30
2.3.4. Phương pháp sử lý số liệu 33
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 34
3.1. Ảnh hưởng của mật độ cấy và lượng đạm bón đến sinh trưởng phát triển
và năng suất của giống lúa TBR225 năm 2014. 34
3.1.1. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến thời gian sinh
trưởng của giống lúa TBR225. 34
3.1.2. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến động thái tăng
trưởng chiều cao cây của giống lúa TBR225
37
3.1.3. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến động thái đẻ nhánh,
hệ số đẻ nhánh và hệ số đẻ nhánh hữu hiệu của giống lúa
TBR225 năm 2014
40
3.1.4. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến chỉ số diện tích lá
của giống lúa TBR225
43
3.1.5. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến khối lượng tích lũy
chất khô và tốc độ tích lũy chất khô của giống lúa TBR225
47
3.1.6. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến khả năng chống
chịu sâu bệnh của giống lúa TBR225
52
3.1.7. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống lúa TBR225

54
3.1.8. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến năng suất sinh vật
học và hệ số kinh tế của giống lúa TBR225
61
3.2. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến hiệu quả kinh tế của giống
lúa TBR225 64
3.3. Khả năng kháng bệnh bạc lá của giống lúa TBR225 bằng lây nhiễm nhân tạo 66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 68
1. Kết luận 68
2. Kiến nghị 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Năng suất kinh tế NSKT
Năng suất sinh vật hoc NSSVH
Hệ số kinh tế HSKT
Năng suất lý thuyết NSLT
Năng suất thực thu NSTT
Thời gian sinh trưởng TGST
Chiều cao cây CCC
Tích lũy chất khô TLCK
Khối lượng chất khô KLCK







Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC BẢNG

1.1. Sản xuất lúa gạo của thế giới từ năm 2006 – 2012 4
1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo của các nước sản xuất chính trên thế giới năm
2012 5
1.3. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam từ năm 2005 - 2012 6
1.4. Tình hình sản xuất lúa ở Thái Bình trong những năm gần đây 9
3.1a. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm đến thời gian sinh trưởng của
giống TBR225 vụ Xuân 2014 (ngày) 35
3.1b. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm đến thời gian sinh trưởng của giống
TBR225 ở vụ Mùa 2014 36
3.2a. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến động thái tăng trưởng
chiều cao cây của giống TBR225 vụ Xuân 2014 38
3.2b. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến động thái tăng trưởng
chiều cao cây của giống TBR225 vụ Mùa 2014 39
3.3a. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến động thái đẻ nhánh của
giống TBR225 ở vụ Xuân năm 2014 41
3.3.b. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm đến động thái đẻ nhánh của giống
TBR225 ở vụ Mùa năm 2014 42
3.4a. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến chỉ số diện tích lá của
giống TBR225 vụ Xuân 2014 45
3.4b. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến chỉ số diện tích lá của
giống TBR225 vụ Mùa 2014 46
3.5a. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến khối lượng tích lũy chất
khô và tốc độ tích lũy chất khô vụ Xuân 2014 48
3.5b.Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến khối lượng tích lũy chất

khô và tốc độ tích lũy chất khô vụ mùa 2014 50
3.6a. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến khả năng chống chịu sâu
bệnh hại vụ Xuân năm 2014 53
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

3.6b. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến khả năng chống chịu sâu
bệnh hại vụ Mùa năm 2014 54
3.7a. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất giống lúa TRB225 trong vụ Xuân 2014 56
3.7b. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất của giống TBR225 vụ Mùa 2014 60
3.8a. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến năng suất sinh vật học và
hệ số kinh tế của giống TBR225 vụ Xuân 2014 62
3.8b. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến năng suất sinh vật học và
hệ số kinh tế của giống TBR225 vụ Mùa2014 63
3.9a. Ảnh hưởng của lượng đạm bón đến hiệu quả kinh tế của giống lúa
TBR225 trong vụ Xuân 2014 64
3.9b. Ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến hiệu quả kinh tế của giống
lúa TBR225 trong vụ Mùa 2014 65
3.10. Phản ứng của giống TBR225 với bệnh bạc lá trong điều kiện nhân tạo vụ
Mùa 2014 67



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây lương thực chính của nước
ta và nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước Châu Á, nó có vai trò rất quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp. Khoảng 40 % dân số thế giới sống bằng lúa gạo,
sử dụng lúa gạo làm nguồn lương thực chính và hiện nay có hơn 110 quốc gia có
sản xuất và tiêu thụ gạo với các mức độ khác nhau (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Với
việc có ảnh hưởng tới ít nhất 65% dân số thế giới tập trung tại các nước châu Á,
châu Phi và châu Mỹ Latinh lúa gạo có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an
ninh lương thực và ổn định xã hội.
Việt Nam là nước có truyền thống canh tác lúa nước từ lâu đời, với diện tích
lúa khá lớn. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như những chính
sách đổi mới trong quản lý nông nghiệp, nghề trồng lúa nước ở nước ta cũng có
nhiều thay đổi tích cực. Từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trong những năm
chiến tranh, đến nay nền nông nghiệp của nước ta đã không chỉ sản xuất ra đủ một
lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều thị
trường lớn trên thế giới đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên
thế giới chỉ sau Thái Lan.
Tuy nhiên, do dân số tăng nhanh, quá trình đô thị hoá phát triển mạnh, thêm
vào đó là sự biến đổi khí hậu, diện tích đất bị sa mạc hóa, đất nhiễm mặn tăng… đã
làm diện tích đất trồng lúa ngày càng thu hẹp nên vấn đề lương thực vẫn là yêu cầu
cấp bách phải quan tâm trong những năm trước mắt và lâu dài. Để đảm bảo nhu cầu
lương thực trong nước và xuất khẩu cần nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật như:
giống, mật độ, phân bón, khả năng chống chịu sâu bệnh hại… nhằm tăng năng suất,
hiệu quả trồng lúa trên đơn vị diện tích.
TBR225 là giống lúa mới triển vọng do Tổng công ty giống cây trồng Thái
Bình lai tạo đã được Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn cho sản xuất thử trên
diện rộng từ vụ Xuân năm 2014. Để phát huy hết tiềm năng năng suất của giống,
việc nghiên cứu thử nghiệm các biện pháp kỹ thuật thâm canh là rất cần thiết. Trong
đó việc xác định mật độ cấy và lượng phân bón cũng như khả năng kháng bệnh bạc
lá là vấn đề hết sức quan trọng. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Xác

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

định mật độ, lượng đạm bón phù hợp và khả năng kháng bệnh bạc lá của giống
lúa TBR225 tại Thái Bình” nhằm đáp ứng nhu cầu tăng năng suất và sản lượng lúa
gạo trên địa bàn tỉnh.
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích
Xác định được mật độ, lượng đạm bón phù hợp và khả năng kháng bệnh bạc lá
nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế cho giống lúa TBR225 tại Thái Bình.
2.2. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến các chỉ tiêu sinh
trưởng phát triển, mức độ nhiễm sâu bệnh hại của giống lúa TBR225 vụ Xuân và
Vụ Mùa 2014 tại Thái Bình.
- Đánh giá ảnh hưởng của mật độ và lượng đạm bón đến các yếu tố cấu thành
năng suất, năng suất, chất lượng và hệ số kinh tế của giống lúa TBR225 vụ Xuân và
vụ Mùa 2014 tại Thái Bình.
- Đánh giá khả năng kháng bệnh bạc lá của giống TBR225 ở vụ Mùa năm
2014 tại Thái Bình.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo góp phần
định hướng cho việc nghiên cứu biện pháp kỹ thuật thâm canh cũng như đề xuất
xây dựng quy trình kỹ thuật thâm canh cho giống lúa TBR225.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần tích cực trong việc chỉ đạo, hướng dẫn
sản xuất nhằm tăng năng suất, hiệu quả kinh tế cũng như mở rộng sản xuất giống
lúa TBR225 vụ Xuân 2014 tại Thái Bình.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới
Cây lúa có nguồn gốc nhiệt đới, dễ trồng và có khả năng thích nghi rộng với
các vùng khí hậu. Cây lúa được trồng ở rất nhiều vùng trên thế nhưng tập trung chủ
yếu ở châu Á (chiếm 90%) với nhiều nước sản xuất lớn như Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia, Bangladesh, Việt Nam, Thái Lan (Nguyễn Hữu Tề, 1997).
Sản xuất lúa gạo trong những thập kỷ gần đây đã có mức tăng đáng kể, nhưng
do dân số tăng nhanh, nhất là các nước đang phát triển (Châu Á, Châu Phi, Châu
Mỹ La Tinh) nên vấn đề lương thực vẫn là vấn đề phải quan tâm trong những năm
trước mắt và lâu dài.
Diện tích trồng lúa trên thế giới đã tăng rõ rệt từ năm 1955 đến 1980. Trong
vòng 25 năm này, diện tích trồng lúa trên thế giới tăng bình quân 1,36 triệu ha/năm.
Từ năm 1980, diện tích lúa tăng chậm và đạt cao nhất vào năm 1999 (156,77 triệu
ha) với tốc độ tăng trưởng bình quân 630.000 ha/năm. Từ năm 2000 trở đi diện tích
trồng lúa thế giới có nhiều biến động và có xu hướng giảm dần, đến năm 2005 còn
ở mức 152,9 triệu ha. Diện tích trồng lúa tập trung ở Châu Á (khoảng 90%).
Năng suất bình quân lúa trên thế giới cũng tăng khoảng 1,3 tấn/ha trong vòng
30 năm từ năm 1955 đến năm 1985, đặc biệt là sau cuộc cách mạng xanh của thế
giới vào những năm 1965 - 1970, với sự ra đời của các giống lúa thấp cây, ngắn
ngày, không quang cảm, mà tiêu biểu là các giống lúa IR5, IR8. Các giống lúa này
có yêu cầu kỹ thuật cao hơn, tạo điều kiện cho các nước tăng nhanh sản lượng lúa
bằng con đường tăng năng suất nhờ có hệ thống thuỷ lợi hoàn chỉnh và đầu tư phân
bón, kỹ thuật cao. Trong những năm 1990, dẫn đầu năng suất lúa trên thế giới là các
nước Triều Tiên, Úc, Mỹ, Nhật Bản, Tây Ban Nha (IRRI, 1990).
Đến năm 2005, theo thống kê của FAO (2006), dẫn đầu năng suất lúa là Mỹ,
rồi đến Hy Lạp, El Salvador, Tây Ban Nha với trên 7 tấn/ha. Mặc dù năng suất lúa
các nước Châu Á còn thấp nhưng do diện tích sản xuất lớn nên Châu Á vẫn là nguồn

đóng góp rất quan trọng cho sản lượng lúa trên thế giới (trên 90%). Các quốc gia dẫn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

đầu về sản lượng lúa theo thứ tự là Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh, Việt
Nam, Thái Lan và Myanmar, tất cả đều nằm ở Châu Á. Như vậy, có thể nói Châu Á
là vựa lúa quan trọng nhất thế giới. Trong 10 quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới,
Trung Quốc, Việt Nam, Indonexia là những nước có năng suất lúa cao đạt 5,1 đến 6,7
tấn/ha (FAOSTAT.FAO - 2013).
Bảng 1.1. Sản xuất lúa gạo của thế giới từ năm 2006 – 2012
Chỉ tiêu

Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2006
155,850 4,12 641,21
2007
155,039 4,24 656,98
2008
159,999 4,30 688,41
2009
158,294 4,33 684,81
2010
161,666 4,34 701,05
2011

163,147 4,43 722,56
2012
163,463 4,39 718,35
Nguồn: FAOSTAT.FAO - 2013
Qua bảng số liệu trên cho thấy, từ năm 2006 đến năm 2012 diện tích, năng
suất và sản lượng lúa thế giới tăng chậm, đặc biệt từ năm 2008 đến nay, năng suất
lúa hầu như ít biến đổi chỉ dao động từ 4,30 tấn/ha năm 2008 đến 4,39 tấn/ha năm
2012. Hiện nay diện tích gieo trồng lúa trên thế giới đạt khoảng hơn 163 triệu ha và
sản lượng đạt hơn 718 triệu tấn.
Các nước sản xuất lúa gạo chính trên thế giới hiện nay phải kể đến là Ấn Độ,
Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan, Banglades, Myanmar, Việt Nam…
Năm 2012 chỉ riêng sản lượng lúa của Ấn Độ và Trung Quốc đã chiếm gần
50 % sản lượng lúa toàn cầu. Mặc dù Ấn Độ là nước có diện tích trồng lúa lớn nhất
trên thế giới nhưng Trung Quốc lại là quốc gia có sản lượng lớn nhất và cũng là
nước có năng suất trung bình lớn nhất trong 10 quốc gia sản xuất chính. Bên cạnh
đó Inđônêxia, Việt Nam cũng là một trong những nước có năng suất trung bình và
sản lượng lúa đạt cao trên thế giới.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

Bảng 1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo của các nước sản xuất chính
trên thế giới năm 2012
Tên nước
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng

(triệu tấn)
Ấn Độ 42,500 3,590 152,600
Trung Quốc 30,297 6,743 204,285
Inđônêxia 13,443 5,136 69,045
Thái Lan 12,600 3,000 37,800
Banglades 11,700 2,923 34,200
Myanmar 8,150 4,049 33,000
Việt Nam 7,753 5,631 43,661
Philippin 4,689 3,845 18,032
Cambodia 3,100 3,000 9,300
Pakistan 2,700 3,482 9,400
Toàn cầu 163,463 4,39 718,456
Nguồn: FAOSTAT.FAO - 2013
Hiện nay Thái Lan, Việt Nam và Ấn Độ cũng là những quốc gia xuất khẩu
gạo lớn nhất thế giới. Đặc biệt, năm 2012 sản lượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ đạt
9,5 triệu tấn, vượt Thái Lan trở thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới (Phúc
Duy, 2013).
Tuy nhiên theo dự báo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD),
Thái Lan sẽ sớm giành lại và duy trì được danh hiệu nước xuất khẩu gạo lớn nhất
thế giới trong vòng ít nhất 10 năm tới.
1.1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam Á với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa,
nóng ẩm. Đã từ lâu, cây lúa đã trở thành cây lương thực chủ yếu, có ý nghĩa quan
trọng trong nền kinh tế và xã hội của nước ta. Với địa bàn trải dài trên 15
0
vĩ độ
Bắc bán cầu, từ Bắc vào Nam đã hình thành những đồng bằng châu thổ trồng lúa
phì nhiêu, màu mỡ không những cung cấp đủ nguồn lương thực cho gần 90 triệu
dân mà còn xuất khẩu đứng thứ hai sau Thái Lan. Vì thế Việt Nam được coi là cái
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6

nôi hình thành lúa nước.
Lúa gạo không chỉ giữ vai trò trong việc cung cấp lương thực nuôi sống mọi
người mà còn là mặt hàng xuất khẩu đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế quốc dân.
Mặt khác, do có điều kiện tự nhiên thuận lợi phù hợp cho cây lúa phát triển nên lúa
được trồng trên khắp mọi miền của đất nước. Trong quá trình sản xuất đã hình
thành hai vùng sản xuất lúa rộng lớn đó là Đồng bằng Châu thổ sông Hồng và vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (Nguyễn Văn Luật, 2001).
Hiện nay, với những tiến bộ kỹ thuật vượt bậc trong nông nghiệp, người dân
đã được tiếp cận với những phương thức sản xuất tiên tiến, biết áp dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, dùng các giống lúa mới, các giống lúa ưu thế lai, các giống
lúa cao sản, các giống lúa thích nghi với điều kiện đặc biệt của từng vùng, các giống
lúa chất lượng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu… kết hợp đầu tư thâm canh cao, hợp lý.
Nhờ vậy, ngành trồng lúa nước ta đã có những bước nhảy vọt về năng suất, sản
lượng và giá trị kinh tế.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam từ năm 2005 - 2012
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2005
7.329,2 4,89 35,83
2006
7.324,8 4,89 35,50
2007
7.207,4 4,99 35,94

2008
7.400,2 5,23 38,73
2009
7.437,2 5,24 38,95
2010
7.489,4 5,34 40,01
2011
7.655,4 5,54 42,40
2012
7.753,2 5,63 43,66
Nguồn: Tổng cục thống kê - 2015

Qua bảng số liệu trên cho thấy từ năm 2005 đến năm 2007 sản lượng lúa của
nước ta ở mức ổn định xấp xỉ 36 triệu tấn. Đến năm 2012 diện tích sản xuất lúa của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

cả nước đạt khoảng 7,75 triệu ha, tăng 110 nghìn ha so với năm 2011; năng suất
cũng đạt trên 5,6 tấn/ha, nâng sản lượng lúa nước ta lên trên 43 triệu tấn/năm. Đặc
biệt, xuất khẩu gạo đạt sản lượng cao nhất từ trước tới nay với hơn 7,7 triệu tấn gạo,
tăng 630 nghìn tấn so với năm 2011. Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT: việc sản
xuất lúa của các địa phương đã tập trung và có bước đột phá mạnh mẽ trong khâu tổ
chức sản xuất, nhất là chú trọng việc xây dựng cánh đồng mẫu lớn.
Năm 2007 Việt Nam đã chính thức hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, nhưng
người nông dân sản xuất lúa gạo đã tham gia vào thị trường toàn cầu từ hai thập
niên trước. Từ năm 1989, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia cung cấp
gạo quan trọng trên thị trường gạo thế giới. Trong giai đoạn từ 1989-1995, Việt
Nam xuất khẩu bình quân hàng năm trên 3 triệu tấn sang 128 quốc gia, đạt mức
đỉnh 5,2 triệu tấn vào năm 2005 và từ 2006 đến nay đạt kỷ lục mới trên 7 triệu tấn
gạo xuất khẩu. Đến tháng 8 năm 2013 Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) cho

biết, đến thời điểm này cả nước đã xuất khẩu được khoảng 4,2 triệu tấn gạo, trị giá
1,9 tỷ USD, bình quân đạt 445 USD/tấn.
Hiện nay, diện tích canh tác lúa của nước ta đang bị giảm dần. Theo báo cáo
năm 2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mỗi năm có bình quân
khoảng 73.000 héc ta đất nông nghiệp bị thu hồi để làm khu công nghiệp, khu đô
thị, sân golf Theo Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong, cán bộ Viện Nghiên cứu phát triển
kinh tế - xã hội Hà Nội, đa số diện tích bị quy hoạch, thu hồi đều là đất tốt, thuộc
đất ven lộ. Hiện nay, diện tích đất trồng lúa trên phạm vi cả nước chỉ còn khoảng
4,2 triệu héc ta. Những năm qua, nhờ năng suất lúa tăng chúng ta đã bù đắp phần
sản lượng lúa bị mất do giảm diện tích. Tuy nhiên, theo nhiều nhà khoa học, việc
tiếp tục tăng năng suất trong những năm tới là rất khó. Do vậy, an ninh lương thực
của chúng ta có thể bị ảnh hưởng do diện tích trồng lúa giảm (Hồ Hùng, 2013).
1.1.3. Điều kiện tự nhiên và tình hình sản xuất lúa gạo ở Thái Bình
Thái Bình là tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Hồng, tiếp giáp với 5 tỉnh,
thành phố: Hải Dương ở phía Bắc, Hưng Yên ở phía Tây Bắc, Hải Phòng ở phía
Đông Bắc, Hà Nam ở phía Tây, Nam Định ở phía Tây và Tây Nam. Phía đông là
biển Đông (vịnh Bắc Bộ).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

Thái Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm: mùa hè nóng ẩm, mưa
nhiều từ tháng 5 đến tháng 9; mùa đông khô lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 3
năm sau; tháng 10 và tháng 4 là mùa thu và mùa xuân tuy không rõ rệt như các
nước nằm phía trên vành đai nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình: 23,5°C. Số giờ nắng
trong năm: 1.600 - 1.800 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 85 - 90%. Tỉnh Thái
Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nên hàng năm đón nhận một lượng mưa
lớn (1.700 - 2.200mm).
Là một tỉnh có tỷ trọng nông nghiệp cao, diện tích đất trồng lúa trên 160
nghìn ha, Thái Bình luôn chú trọng đầu tư, nâng cấp hạ tầng hệ thống sản xuất
giống, hệ thống thủy lợi, đê điều, đẩy mạnh cơ giới hóa trong sản xuất, đặc biệt ứng

dụng mạnh mẽ, có hiệu quả các tiến bộ khoa học, công nghệ ở tất cả các khâu của
quá trình sản xuất lúa gạo. Đặc biệt, có một số giống lúa được chọn lọc, nhân giống
tại Thái Bình như: CNR36, TBR1, BC15, TBR36, TBR45 Thái Xuyên 111 đã được
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là giống Quốc gia.
Cùng với đó, tỉnh đã đẩy mạnh việc ứng dụng nhanh chóng, có hiệu quả các
quy trình quản lý cây trồng tổng hợp (ICM), quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), quy
trình gieo thẳng bằng công cụ xạ hàng cải tiến, quy trình sản xuất lúa sạch, các loại
phân NPK chuyên dùng và phân sinh học,…Nhờ đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ, bước đầu tỉnh đã hình thành những vùng sản xuất tập trung với
quy mô vài chục đến hàng trăm ha có hiệu quả kinh tế cao, giá trị thu hoạch lúa đạt
80 – 90 triệu đồng/ha/năm.
Chính vị vậy, những năm qua dù gặp rất nhiều khó khăn, thách thức do thiên
tai, dịch bệnh và diện tích đất lúa giảm nhưng năng suất lúa của tỉnh luôn đạt từ 125
– 130 tạ/ha/năm, tổng sản lượng lúa đạt ổn định trên một triệu tấn/năm, góp phần
quan trọng bảo đảm an ninh lương thực cho cả vùng và quốc gia. Hằng năm Thái
Bình dư thừa khoảng 400 nghìn tấn lúa phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Tổng
giá trị sản xuất lúa của tỉnh chiếm tỷ trọng khoảng 7% GDP của tỉnh.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

Bảng 1.4. Tình hình sản xuất lúa ở Thái Bình trong những năm gần đây
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn/ha)
2007 168,3 61,54 1,014,750
2008 167,1 65,67 1,105,231
2009 167,1 66,15 1,105,806
2010 166,4 66,37 1,104,436
2011 165,7 65,86 1,091,326

2012 162,8 65,07 1,059,493
2012/2007 (%) - 1.25 + 3.53 + 4
Nguồn: Sở NN & PTNN tỉnh Thái Bình
Việc phát triển sản phẩm nông nghiệp trong đó có lúa gạo đã nhận được sự
quan tâm sâu sắc của lãnh đạo tỉnh. Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Thái Bình lần
thứ XVIII đã xác định: Giai đoạn 2011 – 2015, đảm bảo năng suất lúa đạt 130
tạ/ha/năm trở lên, giá trị sản xuất chăn nuôi tăng 8,5%/năm, giá trị sản xuất thủy sản
tăng 9%/năm trở lên; đến năm 2015 diện tích lúa chất lượng cao chiếm 40% diện
tích canh tác trở lên, diện tích cây vụ đông chiếm 50% diện tích canh tác trở lên,
chăn nuôi chiếm tỷ trọng 46% giá trị sản xuất nông nghiệp.
Để hoàn thành các nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, tỉnh xác định, tiếp
tục phát triển sản xuất lúa gạo theo hướng sản xuất hàng hóa có giá trị và hiệu quả
cao, bền vững. Trong đó, tập trung “Phát triển vùng sản xuất lúa chất lượng, hiệu
quả cao giai đoạn 2012 - 2015” với mục tiêu tổng quát là xây dựng, phát triển vùng
sản xuất lúa chất lượng mang thương hiệu Thái Bình, phát triển thương hiệu sản
phẩm gạo Nhật sản xuất tại Thái Bình; “Xây dựng cánh đồng mẫu lớn” để hình
thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, hiệu quả cao.
1.2. Vai trò của phân đạm và những kết quả nghiên cứu về lượng đạm bón cho lúa
1.2.1. Vai trò của phân đạm đối với cây lúa
Phân bón có vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng, phát triển của cây
lúa, nó cần suốt trong quá trình phát triển, từ giai đoạn mạ cho đến lúc thu hoạch.
Cùng với các yếu tố năng lượng khác, phân bón cung cấp cho cây là nguồn nguyên
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

liệu để tái tạo ra các chất dinh dưỡng như tinh bột, chất đường, chất béo, protein
Theo Yoshida (1981) và Trần Thúc Sơn (1996), các giống lúa có thời gian
sinh trưởng khác nhau thì yêu cầu phân bón cũng khác nhau. Trong các yếu tố dinh
dưỡng thì đạm là yếu tố quan trọng nhất với cây lúa, đạm có phản ứng rõ hơn lân và
kali. Mỗi năm nước ta sử dụng 1.202.140 tấn đạm, 456.000 tấn lân và 402.000 tấn

kali, trong đó sản xuất lúa chiếm 62% (Nguyễn Văn Bộ, 2003).
Từ kết quả nghiên cứu của mình tác giả Nguyễn Như Hà (2006) khẳng định,
đạm có vai trò quan trọng trong phát triển bộ rễ, thân, lá, chiều cao và đẻ nhánh của
cây lúa. Tuy nhiên theo Sarker (2002), lượng đạm càng cao thì lúa đẻ nhánh càng
nhiều nhưng lụi đi cũng nhiều. Việc cung cấp đạm đủ và đúng lúc làm cho lúa vừa
đẻ nhánh nhanh lại tập trung, tạo được nhiều dảnh hữu hiệu, là yếu tố cấu thành
năng suất có vai trò quan trọng nhất đối với lúa.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan và Đỗ Thị Hường (2009) khi xác
định liều lượng đạm viên nén bón cho lúa tẻ thuần chất lượng cao N46 cũng chỉ ra
rằng khi tăng lượng đạm bón từ 0 - 120 kg N/ha thì chiều cao cây, tổng số nhánh, số
nhánh hữu hiệu/khóm, chỉ số diện tích lá (LAI) giai đoạn đẻ nhánh rộ và trước trỗ
cũng tăng. Bên cạnh đó đạm ảnh hưởng đến quang hợp thông qua hàm lượng diệp
lục có trong lá, nếu bón lượng đạm cao thì cường độ quang hợp ít bị ảnh hưởng mặc
dù điều kiện ánh sáng yếu.
Theo Nguyễn Thị Lẫm (1994), khi tăng lượng đạm cường độ quang hợp,
cường độ hô hấp và hàm lượng diệp lục của cây lúa tăng lên, nhịp độ quang hợp, hô
hấp không khác nhau nhiều nhưng cường độ quang hợp tăng mạnh hơn cường độ hô
hấp gấp 10 lần do vậy làm tăng tích luỹ chất khô của cây.
Kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Cường và cs. (2005), khi nghiên cứu ảnh
hưởng của liều lượng đạm đến năng suất chất khô ở các giai đoạn sinh trưởng và
năng suất hạt của một số giống lúa lai và lúa thuần cho thấy khi tăng lượng đạm bón
từ 0 đến 120 kg N/ha thì chỉ số diện tích lá (LAI), trọng lượng chất khô (DM) và tốc
độ tích luỹ chất khô của lúa lai (Việt lai 20, Bắc Ưu 903) và lúa thuần (CR 203) đều
tăng, song tốc độ tích lũy chất khô của hai giống lúa lai vượt trội so với giống lúa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

thuần khi tăng mức bón đạm từ 60-180 kg N/ha.
Bên cạnh vai trò làm tăng tích lũy chất khô, đạm có tác dụng làm tăng số hoa
phân hoá, tăng số hạt trên bông, cùng với kali xúc tiến các sản phẩm tích luỹ trong

cây về hạt làm tăng tỷ lệ hạt chắc và hàm lượng protein trong hạt.
Kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Cường và Trần Thị Vân Anh (2006) chỉ ra
rằng khi tăng lượng đạm bón thì năng suất hạt của các giống lúa thuộc cả nhóm lúa
lai, lúa cải tiến và lúa địa phương đều tăng, đặc biệt tăng mạnh ở các giống lúa lai
do tăng chủ yếu số bông/khóm, số hạt/bông và tỷ lệ hạt chắc.
Tuy nhiên theo quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan và cs. (2009) tại Thái
Bình và Hưng Yên trên giống lúa N46, với các yếu tố cấu thành năng suất, khi tăng
lượng đạm bón 0-120 kg N/ha thì số bông/m
2
tăng nhưng tổng số hạt trên bông lại
khác nhau không có ý nghĩa ở các mức đạm, còn tỷ lệ hạt chắc trên bông có chiều
hướng tăng khi tăng lượng đạm bón đến 90 kg N/ha, nhưng nếu bón 120 kg N/ha thì
tỷ lệ hạt chắc bắt đầu giảm thấp hơn thậm trí còn kém cả công thức đối chứng.
Như vậy, đạm ảnh hưởng đến tất cả các đặc tính của cây góp phần tăng năng
suất và chất lượng của các giống lúa. Thiếu đạm, sinh trưởng phát triển của cây bị
ức chế, rễ kém phát triển, lá có màu lục nhạt do quá trình tổng hợp diệp lục bị kìm
hãm. Thiếu đạm lâu ngày diệp lục bị phân huỷ, lá bị úa vàng sau đó cây bị chết. Đủ
đạm cây phát triển tốt, quang hợp mạnh, năng suất cao. Để cung cấp hợp lý nhu cầu
phân bón nói chung cũng như đạm nói riêng cần căn cứ vào vào lượng dinh dưỡng
cũng như điều kiện đất đai nơi trồng trọt
1.2.2. Những kết quả nghiên cứu về lượng đạm bón cho lúa
Đạm là yếu tố quan trọng đối với cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng.
Nhu cầu về đạm của cây lúa đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới đi sâu nghiên
cứu và có nhận xét chung là: nhu cầu đạm của cây lúa có tính chất liên tục từ đầu
thời kỳ sinh trưởng cho đến lúc thu hoạch. Trong suốt quá trình sinh trưởng, phát
triển của cây lúa, có hai thời kỳ mà nhu cầu dinh dưỡng đạm của cây lúa cao nhất là
thời kỳ đẻ nhánh rộ và thời kỳ làm đòng. Ở thời kỳ đẻ nhánh rộ cây hút nhiều đạm
nhất (Phạm Văn Cường, 2005).
Theo Bùi Huy Đáp (1980), lượng đạm cần thiết để tạo ra 1 tấn thóc từ 17-25
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12

kg N trung bình cần 20,5 kg. Thông thường các giống có tiềm năng năng suất cao
bao giờ cũng cần một lượng đạm cao.
Ở các nước nhiệt đới, lượng các chất dinh dưỡng (N,P,K) cần để tạo ra 1 tấn
thóc trung bình là: 20,5 kg N: 5,1 kg P
2
O
5
: 44 kg K
2
O. Trên nền phối hợp 90 P
2
O
5
-
60 K
2
O hiệu suất phân đạm và năng suất lúa tăng nhanh ở các mức phân bón từ 40 -
120 kg N/ha (theo Yoshida,1985).
Kết quả tổng kết của Mai Văn Quyền (2002) trên 60 thí nhiệm thực tiễn ở 40
nước có khí hậu khác nhau cho thấy: Nếu đạt năng suất lúa 3 tấn thóc/ha, thì cây lúa
lấy đi hết 50kg đạm, 260kg lân, 80kg kali, 10kg CaO, 6kg Mg, 5kg S và nếu ruộng
lúa đạt năng suất đến 6 tấn/ha thì lượng dinh dưỡng cây lúa lấy đi là 100kg đạm,
50kg lân, 160kg kali, 19kg CaO, 12kg Mg, 10kg S. Trung bình cứ tạo 1 tấn thóc cây
lúa lấy đi hết 17kg đạm, 8kg lân, 27kg kali, 3kg CaO, 2kg Mg và 1,7kg S (Mai Văn
Quyền, 2002). Nguyễn Văn Bộ và cs (2003) chỉ ra rằng, trung bình 1 tấn thóc kèm
cả rơm rạ cây lấy đi lượng dinh dưỡng từ đất là: 22,2 kg N; 7,1 kg P
2
O

5
; 31,6 kg
K
2
O và nhiều yếu tố trung, vi lượng khác.
Theo Trần Thúc Sơn và Đặng Văn Hiến (1995), trên đất phù sa sông Hồng,
điều kiện tưới tiêu thuận lợi, nếu không bón phân năng suất lúa chỉ có thể đạt 3,5
tấn/ha song. Để đạt được năng suất lúa 5 tấn/ha cần bón 90 - 120 kg N/ha.
Tuy nhiên không phải cứ bón nhiều đạm thì tỷ lệ đạm của cây lúa sử dụng
nhiều. Theo kết quả nghiên cứu sử dụng phân đạm trên đất phù sa sông Hồng của
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam từ năm 1992 đến 1994: Phản ứng của phân
đạm đối với lúa phụ thuộc vào thời vụ, loại đất và giống lúa.
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của đất, mùa vụ và liều lượng phân đạm bón
đến tỷ lệ cây lúa hút của Viện Nông hoá - Thổ nhưỡng chỉ ra rằng: Ở mức phân đạm
80 kg N/ha, tỷ lệ sử dụng đạm là 46,6%, so với mức đạm này có phối hợp với phân
chuồng tỷ lệ hút được là 47,4%. Nếu tiếp tục tăng liều lượng đạm đến 160N và
240N, có bón phân chuồng thì tỷ lệ đạm mà cây lúa sử dụng cũng giảm xuống. Trên
đất bạc màu so với đất phù sa sông Hồng thì hiệu suất sử dụng đạm của cây lúa thấp
hơn. Khi bón liều lượng đạm từ 40N - 120N thì hiệu suất sử dụng đạm giảm xuống,
tuy lượng đạm tuyệt đối do lúa sử dụng có tăng lên.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

Còn theo kết quả nghiên cứu nhiều năm, từ năm 1985-1994 của Viện lúa
đồng bằng sông Cửu Long, trên đất phù sa được bồi hàng năm có bón 60 kg P
2
O
5

30 kg K

2
O làm nền thì khi có bón đạm đã làm tăng năng suất lúa từ 15% - 48,5%
trong vụ Đông xuân và vụ Hè thu tăng từ 8,5% - 35,6%. Hướng chung của hai vụ
đều bón đến mức 90 kg N/ha có hiệu quả cao hơn cả, bón trên mức 90 kg N/ha năng
suất lúa tăng không đáng kể.
Trên đất phù sa sông Hồng, theo Quách Ngọc Ân (1995), bón 180 kg N/ha
trong vụ Xuân và 150 kg N/ha trong vụ Mùa vẫn chưa thấy lúa lai giảm năng suất
trong khi lúa thường chỉ bón 90 - 110 kg N/ha, quá ngưỡng này năng suất có chiều
hướng giảm.
Tuy nhiên theo Nguyễn Như Hà (1999), với trình độ thâm canh như hiện nay
thì lượng phân đạm bón tối thích cho lúa là 120 kg N/ha. Kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Thị Lan và Nguyễn Văn Duy (2009) trên giống lúa Xi23 trong vụ Xuân
năm 2008 tại Thạch Hà - Hà Tĩnh cũng cho thấy lượng đạm 120 Kg N/ha phối hợp
với 80-100 kg K
2
O/ha cho hiệu quả kinh tế của lúa đạt cao nhất.
Đối với lúa cạn, khi nghiên cứu về bón phân đạm, Nguyễn Thị Lẫm (1994)
đã kết luận: Liều lượng đạm bón thích hợp cho các giống có nguồn gốc địa phương
là 60 kg N/ha. Đối với những giống thâm canh cao như (CK136) thì lượng đạm
thích hợp từ 90 - 120kg N/ha.
Đối với giống lúa chịu hạn CH
5,
theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Như Hà
(2006), tại Bắc Quang - Hà Giang
,
lượng phân đạm thích hợp cho lúa CH
5
sinh
trưởng tốt và cho năng suất cao cũng từ 90- 120 kg N/ha, tùy thuộc vào mật độ cấy.
Đối với lúa, nhu cầu đạm có tính chất liên tục từ đầu thời kỳ sinh trưởng cho

đến lúc thu hoạch. Nhưng chủ yếu bón vào 3 thời kỳ: Bón lót trước khi cấy, bón
thúc khi đẻ nhánh và bón khi lúa bước vào thời kỳ phân hóa đòng trong đó cần tập
trung đạm vào thời kỳ đẻ nhánh vì đây là thời kỳ cây lúa cần nhiều đạm nhất và
cũng là thời kỳ khủng hoảng đạm lớn nhất của cây lúa. De Datta (1978) cho rằng,
cung cấp đủ đạm cho lúa khi cấy và làm đòng sẽ làm tăng số nhánh và số bông. Khi
cây lúa hút đạm ở thời kỳ hình thành bông sẽ làm tăng tỷ lệ hạt chắc trên bông.
Theo các tác giả Bùi Huy Đáp (1980), Đào Thế Tuấn (1980) và Nguyễn Hữu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

Tề (1997), thông thường cây lúa hút 70% tổng lượng đạm trong giai đoạn đẻ nhánh.
Khi chuyển từ giai đoạn đẻ nhánh sang giai đoạn sinh trưởng sinh thực nhu cầu đạm
của cây ít đi. Lúc này cây chỉ cần lượng đạm vừa phải chủ yếu nuôi các cơ quan
sinh sản và duy trì diện tích quang hợp.
Cũng theo Đào Thế Tuấn (1980), cây lúa được bón thoả đáng vào thời kỳ đẻ
nhánh rộ thúc đẩy cây lúa đẻ nhánh khoẻ và hạn chế số nhánh bị lụi đi. Ở thời kỳ đẻ
nhánh của cây lúa, đạm có vai trò thúc đẩy tốc độ ra lá, tăng tỷ lệ đạm trong lá, tăng
hàm lượng diệp lục, tích luỹ chất khô và cuối cùng là tăng số nhánh đẻ.
Theo Yoshida (1985), lượng đạm cây hút ở thời kỳ đẻ nhánh quyết định tới
74% năng suất. Bón nhiều đạm làm cho cây lúa đẻ nhánh khoẻ và tập trung, tăng số
bông/m
2
; số hạt/bông, nhưng khối lượng nghìn hạt (P1000) ít thay đổi.
Nếu giai đoạn đẻ nhánh mà thiếu đạm sẽ làm năng suất lúa giảm do đẻ nhánh
ít, dẫn đến số bông ít. Nếu bón không đủ đạm cây lúa sinh trưởng chậm, thấp cây,
đẻ nhánh kém, phiến lá nhỏ, lá sớm chuyển thành màu vàng, đòng nhỏ, từ đó làm
cho năng suất giảm. Nếu bón thừa đạm lại làm cho cây lúa có lá to, dài, phiến lá
mỏng, dễ bị sâu bệnh, dễ lốp đổ, đẻ nhánh vô hiệu nhiều, ngoài ra chiều cao cây
phát triển mạnh, trỗ muộn, năng suất giảm.
Bên cạnh nhu cầu đạm cao ở thời kỳ đẻ nhánh, Bùi Đình Dinh (1993) cho

rằng, cây lúa cũng cần nhiều đạm trong thời kỳ phân hoá đòng và phát triển đòng
thành bông, tạo ra các bộ phận sinh sản. Thời kỳ này quyết định cơ cấu sản lượng
như số hạt/bông, khối lượng nghìn hạt (P1000). Pham Van Cuong (2003) cũng nhấn
mạnh thêm về vấn đề này đó là: Việc cung cấp đạm lúc cây trưởng thành là điều
kiện cần thiết để làm chậm quá trình già hoá của lá, duy trì cường độ quang hợp khi
hình thành hạt chắc và tăng Protein tích luỹ vào hạt.
Về hiệu suất bón đạm:
Hiệu suất bón đạm được tính theo công thức sau:
Ef = Kth * Ku
Trong đó: Ef : Hiệu suất bón đạm
Kth: Tỷ lệ đạm thu hồi. Nó được tính bằng tỷ số giữa lượng đạm cây hút
được và lượng đạm bón vào đất.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

Ku: Hiệu suất sử dụng đạm. Được tính bằng số kg thóc được tạo ra do 1kg
đạm cây hút được.
Theo Nguyễn Tất Cảnh (2005), đối với đạm bón theo kiểu truyền thống hiệu
quả rất thấp cây chỉ sử dụng được khoảng 30 – 40% lượng phân bón.
Ở vùng nhiệt đới, theo Yoshida (1981), hiệu suất sử dụng đạm đối với sản
lượng hạt vào khoảng 50 kg thóc khô/1kg đạm cây hút được. Ở Nhật khoảng 62 kg,
còn ở các nước ôn đới hiệu suất này cao hơn khoảng 20%. Như vậy ở vùng nhiệt
đới, hiệu suất bón đạm đạt khoảng 15-20 kg thóc khô/1kg đạm bón vào đất.
Theo Trần Thúc Sơn (1996), trên đất phù sa sông Hồng thì hiệu suất 1 kg N
là 10 – 15 kg thóc ở vụ Xuân và 6 – 9 kg thóc vụ Mùa. Nếu bón trên 160 kg N/ha
thì hiệu suất của phân đạm giảm rõ rệt.
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan và cộng sự (2007), khi xác
định lượng đạm bón vãi cho dòng lúa thuần N18 tại Phúc Thọ - Hà Tây vụ mùa năm
2005, nhóm tác giả nhận thấy hiệu suất bón đạm đạt cao nhất là 9,2 kg thóc/1 kg N
khi bón 100 kg N/ha trên nền 5 tấn phân chuồng + 90 kg P

2
O
5
+ 90 kg K
2
O trên đất
2 vụ lúa. Tuy nhiên khi bón đạm viên nén cho lúa tẻ thuần chất lượng cao N46, thì
hiệu suất cao đạt cao nhất ở mức đạm bón 60 kg /ha. Trong đó, Vụ xuân ở Thái
Bình đạt 15,7 kg thóc/1kg N; vụ mùa ở Hưng yên đạt 15,8 kg thóc/1 kg N tại Ân
Thi và 15 kg thóc/1kg N tại Tiên Lữ (Nguyễn Thị Lan và Đỗ Thị Hường, 2009).
Như vậy hiệu suất bón đạm cũng phụ nhiều vào dạng đạm bón, tính chất đất đai và
mùa vụ…
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ trồng đến ưu thế lai về hiệu suất sử
dụng đạm của lúa lai F1, theo Phạm Văn Cường và cs (2007), khi tăng lượng đạm
bón từ 0 -120 kg N/ha thì hiệu suất bón đạm của VL 20 cao nhất ở mức bón 120 kg
N/ha. Trong đó vụ xuân đạt 11,8 kg thóc/1kg N, vụ mùa đạt 3,6 kg thóc/1kg N.
Như vậy để nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế trong trồng lúa, chúng ta
cần bón đầy đủ đạm và cân đối với các chất dinh dưỡng khác, bên cạnh việc bón lót,
bón đạm vào giai đoạn đẻ nhánh và phân hóa đòng sẽ nâng cao năng suất và hiệu
suất sử dụng đạm.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

1.3. Những kết quả nghiên cứu về mật độ và số dảnh cấy
Năng suất lúa do số bông trên đơn vị diện tích, số hạt chắc trên bông, tỷ lệ hạt
chắc và khối lượng 1000 hạt quyết định.
Trong các yếu tố trên, số bông/m
2
là yếu tố hình thành sớm nhất và cũng là
yếu tố quan trọng nhất quyết định năng suất đồng thời cũng tương đối dễ điều chỉnh

hơn so với các yếu tố còn lại.
Tác động kỹ thuật làm tăng số bông tới mức tối đa là vô cùng quan trọng
trong thâm canh lúa. Tuy nhiên nếu cấy quá dày hoặc quá nhiều dảnh trên khóm thì
bông lúa sẽ nhỏ đi đáng kể, hạt có thể nhỏ hơn và cuối cùng là năng suất giảm. Vì
vậy muốn đạt năng suất cao người sản xuất phải điều khiển cho quần thể ruộng lúa
có số bông tối ưu mà vẫn không làm cho bông nhỏ đi, số hạt chắc và độ chắc hạt
trên bông không thay đổi. Các giống lúa khác nhau có khả năng cho số bông tối ưu
trên một đơn vị diện tích khác nhau, việc xác định số bông cần đạt trên một đơn vị
diện tích quyết định mật độ gieo cấy, khảng cách cấy và số dảnh cơ bản khi cấy.
Căn cứ vào tiềm năng cho năng suất của giống, tiềm năng đất đai, khả năng
thâm canh của người sản xuất và vụ gieo cấy trong năm để dịnh ra số bông cần đạt
một cách hợp lý. Những yếu tố quyết định số bông bao gồm: mật độ cấy và số dảnh
cấy/khóm.
1.3.1. Những kết quả nghiên cứu về mật độ cấy
Mật độ cấy là số cây, số khóm được trồng cấy trên một đơn vị diện tích. Với
lúa cấy mật độ được tính bằng số khóm/m
2
, còn với lúa gieo thẳng thì mật độ được
tính bằng số hạt mọc/m
2
(Nguyễn Văn Hoan, 2003). Quan hệ giữa mật độ và năng
suất cây lấy hạt là quan hệ parabol, tức là mật độ lúc đầu tăng thì năng suất tăng
nhưng nếu tiếp tục tăng thì năng suất lại giảm.
Điều chỉnh mật độ có thể làm tăng năng suất do khi điều chỉnh mật độ có thể
làm tăng khả năng tiếp nhận ánh sáng, tạo số lá và chỉ số diện tích lá thích hợp cho
cá thể và quần thể ruộng lúa, tăng khả năng quang hợp của cá thể và quần thể ruộng
lúa, cũng như tăng khả năng chống chịu sâu bệnh…Bên cạnh đó, mật độ cấy liên
quan chặt chẽ đến quá trình đẻ nhánh, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành
số bông – yếu tố quan trọng cấu thành năng suất lúa (Nguyễn Ích Tân và cs.,

×