Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

dự báo của IMF về kinh tế Việt Nam 2009 và cảnh báo tình hình kinh tế năm 2009.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142 KB, 5 trang )

$ăm 2009: tỉ giá USD/VND sẽ ổn định hơn
Năm 2008, tỉ giá USD/VND biến động mạnh. Sau khi giảm đáng kể trong khoảng 3 tháng
đầu năm, có lúc xuống còn 14.500 đ/USD thì trong quý II và quý III tỉ giá USD/VND đã
tăng rất mạnh và lên cơn sốt. Có lúc, giá bán ra đã chạm ngưỡng 20.000 đ/USD, tăng tới
25% so với thời điểm đầu năm.
Để giữ ổn định thị trường, giúp cân bằng cán cân cung cầu ngoại tệ, khuyến khích xuất
khẩu, giảm nhập siêu, năm 2008 NHNN đã thực hiện một số giải pháp theo hướng điều
chỉnh tăng tỉ giá USD/VND. Tính đến cuối năm 2008, giá bán ra USD của các ngân hàng
thương mại đã tăng lên 17.500 đ/USD, tăng trên 6% so với cuối năm 2007 và là mức tăng
cao nhất trong vòng nhiều năm trở lại đây.
Nguyên nhân khiến tỉ giá USD/VND trong thời gian này chủ yếu là do tình trạng mất cân
đối với cung cầu ngoại tệ gia tăng cùng với tác động tiêu cực của yếu tố tâm lý.
Theo ước tính, năm 2008 thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai và tài khoản vốn của Việt
Nam vào khoảng gần 3 tỉ USD, so với mức thặng dư trên 10 tỉ USD trong năm 2007.
Tuy vậy, trong năm 2009 dự báo thị trường ngoại hối của nước ta sẽ ổn định hơn, tỉ giá
USD/VND sẽ khó tăng mạnh. Nhận định này được dựa trên một số cơ sở sau đây:
Thứ nhất, về cung cầu ngoại tệ: Dự báo năm 2009 cung cầu ngoại tệ của nước ta sẽ bớt
căng thẳng hơn, thậm chí năm 2009 chúng ta có thể có thặng dư cán cân thanh toán vãng
lai và tài khoản vốn (ước đạt khoảng 6 tỉ USD) nhờ nhập siêu giảm mạnh, thực hiện giải
ngân vốn FDI, ODA và dòng kiểu hối sẽ không giảm nhiều.
Theo dự báo, nhập siêu năm 2009 của cả nước sẽ giảm chỉ còn khoảng 11 tỉ USD, giảm 7
tỉ USD so với năm 2008. Thực hiện giải ngân vốn FDI và ODA năm 2009 sẽ đạt khoảng
12 tỉ USD, so với mức 14 tỉ USD trong năm 2008.
Ngoài ra, xu hướng rút vốn khỏi thị trường của khối đầu tư nước ngoài sẽ bị hạn chế nhờ
nền kinh tế nước ta sớm ổn định và phục hồi hơn so với nhiều nền kinh tế trên thế giới.
Bên cạnh đó, việc thị trường chứng khoán giảm sâu, thanh khoản kém cũng là một rào cản
đối với ý định thoái vốn của khối đầu tư nước ngoài.
Tham khảo cán cân thanh toán vãng lai và tài khoản vốn của nước ta (tr USD)

Năm 2007 Ước năm 2008 Dự báo năm 2009
A- Cán cân thanh toán vãng lai -6.992 - 13.279 -7.215


Cân đối thương mại (giá FOB) -10.360 -18.028 -11.000
Chuyên chở, bảo hiểm, dịch vụ -894 -819 -865
Chuyển lợi nhuận FDI về nước -2.168 -2.432 -2.350
Kiều hối 6.430 8.000 7.000
B. Cân đối tài khoản vốn 19.561 10.404 13.850
FDI giải ngân 6.550 11.500 8.500
ODA giải ngân 2.020 2.200 1.850
Vốn vay 2.045 1.000
Trả nợ nước ngoài -4.900 -200
Vốn đầu tư gián tiếp 6.243 -1.200 1.200
Tiền gửi 2.624 2.800 1.500
C. Cân đối tổng thể 12.569 -2.875 6.635

Thứ hai: giảm giá VND để khuyến khích xuất khẩu. Nhưng trong bối cảnh hiện nay khi mà
thị trường xuất khẩu đang gặp rất nhiều khó khăn bởi tác động tiêu cực của khủng hoảng
kinh tế thì cho dù có giảm giá VND cũng không giúp kim ngạch xuất khẩu của nước ta gia
tăng thêm nhiều.
Thứ ba, nếu VND tiếp tục mất giá mạnh sẽ có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế
nước ta như:
Ảnh hưởng xấu đến tâm lý của người dân, của doanh nghiệp, làm gia tăng tình trạng đô la
hoá trong nền kinh tế.
Khiến giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam trở nên đắt đỏ hơn, nhất là trong bối cảnh
chúng ta vẫn cần nhập khẩu các mặt hàng là máy móc thiết bị và nguyên, nhiên liệu cơ bản
để phục vụ cho đầu tư và sản xuất ở trong nước. Theo thống kê, trong năm 2008 kim ngạch
nhập khẩu các mặt hàng là máy móc, thiết bị, nguyên nhiên liệu cơ bản đã chiếm tới trên
70% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Làm gia tăng chi phí các khoản vay đến hạn phải trả nợ nước ngoài.
Thứ tư, mặc dù VND tăng giá so với một số ngoại tệ trong thời gian gần đây nhưng VND
vẫn giảm giá khá mạnh so với các ngoại tệ này xét trong trung và dài hạn. Theo thống kê,
nếu so với đầu năm 2007, hiện VND đã giảm giá tới 38% so với đồng yên; giảm 5,6% so

với đồng euro tăng 5,6%, giảm 22% so với đồng NDT, giảm 10% so với đô la Singapore
và đồng baht của Thái Lan.
$Thâm hụt cán cân vãng lai: Những dự báo lành mạnh
Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập và mở cửa với nền kinh tế thế giới, cán
cân thanh toán quốc tế của Việt Nam ngày càng chịu tác động do những biến động của môi
trường kinh tế thế giới.
Có thế thấy rõ kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á xảy ra năm 1997, cán cân
vãng lai của Việt Nam sau gần một thập kỷ thâm hụt đã bắt đầu thu hẹp từ năm 1998 và chuyển
sang thặng dư từ năm 1999. Tuy nhiên, thặng dư cán cân vãng lai của Việt Nam không ổn định
trong giai đoạn 1991- 2001 và kể từ năm 2002, cán cân vãng lai lại chuyển sang thâm hụt, đặc biệt
trong năm 2003 thâm hụt ở mức lớn 1.879 triệu USD (chiếm 4,8% GDP), cao hơn nhiều so với
mức 604 triệu USD (chiếm 1,8% GDP) năm 2002. Không ít các nhà kinh tế lo ngại về mức gia tăng
thâm hụt cán cân vãng lai và cho rằng cần phải có những giải pháp để quản lý cán cân thanh toán.
Tuy nhiên, trên thực tế, xem xét tổng thể cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, có thể thấy
cán cân thanh toán vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Có thể lý giải cho nhận định này trên một số khía
cạnh sau đây:
Thâm hụt tăng mạnh trong năm 2003 nhưng chưa đáng lo ngại
Thâm hụt cán cân vãng lai năm 2003 chủ yếu do thâm hụt cán cân thương mại ở mức lớn,
2.528 triệu USD (chiếm khoảng trên 6% GDP). Thâm hụt cán cân thương mại không phải do
những yếu kém về xuất khẩu, trái lại xuất khẩu trong năm 2003 đạt mức tăng trưởng cao (20,7%)
theo hướng đa dạng hoá mặt hàng và thị trường. Nguyên nhân chủ yếu của thâm hụt là do nhập
khẩu ở mức 25.227 triệu USD (theo giá c.i.f, ước tính khoảng 22.704 triệu USD theo giá f.o.b), cao
hơn nhiều so với kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, nhìn vào cơ cấu nhập khẩu thấy rằng nhập
khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước, góp phần đạt tăng
trưởng kinh tế ở mức cao 7,24% trong năm 2003. Do vậy, có thể nói việc thâm hụt cán cân thương
mại và theo đó là thâm hụt cán cân vãng lai ở mức lớn là điều không đáng lo ngại bởi trong điều
kiện Việt Nam còn thiếu vốn, trình độ khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, việc cho phép nhập siêu là
điều cần thiết để hỗ trợ đầu tư trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này.
Dấu hiệu khả quan những tháng đầu năm 2004
Diễn biến trong 8 tháng đầu năm 2004 cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu có những chuyển

biến theo hướng khá lạc quan. Xuất khẩu ước đạt khoảng 16,8 tỷ USD, tăng 3,3 tỷ USD so với
cùng kỳ năm ngoái và đạt mức tăng trưởng 25,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Sự gia tăng của xuất
khẩu đều nhờ sự tăng trưởng khá của hầu hết các mặt hàng chủ lực như gạo, dầu thô. Nếu như
trong năm 2003, tăng trưởng nhập khẩu cao hơn nhiều so với tăng trưởng xuất khẩu (xuất khẩu
tăng 20,7%; nhập khẩu tăng 27,8%) thì trong 8 tháng đầu năm nay, xuất khẩu đã đạt mức tăng
trưởng cao hơn nhiều so với tăng trưởng nhập khẩu (xuất khẩu tăng 25,7%; nhập khẩu tăng
19,9%), kết quả là thâm hụt thương mại được thu hẹp và theo đó thâm hụt cán cân vãng lai cũng
được thu hẹp.
Mặt khác, nếu nhìn vào nguồn thu ngoại tệ của cán cân vãng lai, có thể thấy rõ thâm hụt
thương mại đã được tài trợ bởi một lượng lớn ngoại tệ từ nguồn chuyển tiền tư nhân (chủ yếu là
chuyển tiền của Việt kiều và chuyển tiền của công nhân lao động làm việc ở nước ngoài), từ năm
2002 đạt mức trên 2 tỷ USD/năm.
Lành mạnh và có điểm tích cực
Mặc dù mức thâm hụt cán cân vãng lai gia tăng nhưng Việt Nam vẫn huy động được một
lượng vốn lớn nước ngoài, chủ yếu vẫn là các luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. ODA và vay
thương mại trung và dài hạn, là những nguồn vốn có tính ổn định cao. Mặc dù vốn nước ngoài
ngắn hạn vào Việt Nam gia tăng, góp phần tài trợ thâm hụt cán cân vãng lai nhưng chủ yếu vẫn là
vay dưới hình thức nhập hàng trả chậm (L/C trả chậm) nên không chứa đựng rủi ro của việc rút
vốn đột ngột. Điểm tích cực là ở chỗ trong năm 2003, nguồn ngoại tệ mà hệ thống ngân hàng
thương mại trước đây đem gửi ở nước ngoài đã được rút về nước để cấp tín dụng ngoại tệ cho
nền kinh tế khi thâm hụt cán cân thương mại gia tăng, phần còn lại bán hoặc gửi tại NHTW góp
phần tăng dự trữ quốc tế, và theo đó tăng cường khả năng ổn định cán cân thanh toán cũng như
thị trường ngoại hối của NHTW. Trong 8 tháng đầu năm 2004, hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài có nhiều chuyển biến tích cực, các dự án của những năm trước tiếp tục giải ngân. Mặt khác,
vốn vay nước ngoài dưới hình thức ODA cũng như các khoản vay thương mại vẫn tiếp tục được
thu hút, góp phần cùng với nguồn vốn đầu tư trực tiếp tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai.
Tóm lại, cán cân vãng lai của Việt Nam vẫn tiếp tục thâm hụt và theo dự báo của một số nhà
kinh tế nước ngoài, thâm hụt vào khoảng 5% GDP trong năm 2004 và 2005, nhưng những phân
tích trên đây cho thấy mức thâm hụt này vẫn trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, để đảm bảo ổn định
kinh tế vĩ mô về trung hạn, trong quản lý cán cân thanh toán cần quân tâm đến một số khía cạnh

như: Thứ nhất, cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam ngày càng biến động theo những diễn
biến của môi trường kinh tế đối ngoại, có thể thấy rõ kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
châu á, tăng trưởng xuất, nhập khẩu của Việt Nam có nhiều biến động, khó dự báo. Ngoài ra, dự
kiến vào tháng 11 tới, Trung Quốc tham gia vào khối mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và trước
mắt giảm thuế tới 7.000 mặt hàng. Đây là cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với hoạt
động xuất nhập khẩu của Việt Nam, đòi hỏi phải đặc biệt chú trọng đến công tác dự báo. Thứ hai,
lượng chuyển tiền tư nhân đạt mức trên 2 tỷ USD/năm là nguồn ngoại tệ rất lớn , góp phần làm
giảm thâm hụt cán cân vãng lai nhưng làm thế nào để sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ này để
đáp ứng nhu cầu chi ngoại tệ của nền kinh tế là việc cần được Chính phủ và các Bộ, ngành đặc
biệt quan tâm.
Hà Anh
Ngày 15/09/2004
$
3 dự báo của IMF về kinh tế Việt Nam 2009 và cảnh báo tình hình
kinh tế năm 2009
Posted on February 14, 2009 by Nguyễn Thanh Hải

Tăng trưởng sẽ giảm xuống 5%, lạm phát sẽ xuống mức một con số, thâm hụt cán cân vãng
lai đối ngoại sẽ giảm…Những dự báo trên về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2009 được đại
diện thường trú của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam công bố chiều 18/12.Đó cũng là
những dự báo cơ bản sau chương trình làm việc của một phái đoàn thuộc tổ chức này tại Hà Nội
(từ ngày 3/12 đến 18/12) nhằm thảo luận về Tư vấn Điều khoản 4 năm 2008 (trong khuôn khổ Tư
vấn Điều Khoản 4, các chuyên gia của IMF tiến hành theo dõi hàng năm các diễn biến và chính
sách kinh tế của các nước thành viên để Ban giám đốc IMF thảo luận).
Đối mặt thử tháchVề tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay, IMF nhận định: “Sau một vài năm phát
triển mạnh mẽ, nền kinh tế Việt Nam hiện đang đối mặt với một số thử thách. Sau khi phát triển
nhanh năm 2007, đà tăng trưởng đã giảm xuống trong năm 2008 vì Chính phủ phải ổn định nền
kinh tế đang quá nóng.Trong khi Chính phủ đã đạt được những tiến bộ rất đáng ca ngợi trong việc
ổn định kinh tế vĩ mô, thì Việt Nam gần đây bắt đầu gặp phải ảnh hưởng xấu từ sự suy giảm của
nền kinh tế toàn cầu.Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đang giảm, phản ánh sự đi xuống của các nền

kinh tế của những đối tác thương mại chính. Kiều hối và đầu tư trực tiếp nước ngoài, hai nguồn
chính của hoạt động kinh tế năm 2007, cũng đang giảm xuống từ mức cao do sự suy giảm của
các điều kiện kinh tế toàn cầu.Những thách thức bên ngoài này kết hợp với những thách thức bên
trong bắt nguồn từ thâm hụt lớn của cán cân vãng lai cũng như những điểm yếu trong lĩnh vực
ngân hàng và doanh nghiệp làm tình hình khó khăn hơn”.Trong bối cảnh đó, phái đoàn IMF có
những đánh giá sơ bộ về triển vọng kinh tế Việt Nam với 3 dự báo chính:Thứ nhất, do môi trường
kinh tế toàn cầu đang xấu đi, IMF dự báo tăng trưởng kinh tế giảm từ 8,5% trong năm 2007 xuống
6,25% trong năm 2008 và sẽ giảm hơn nữa xuống còn 5% trong năm 2009.Thứ hai, với giá các
mặt hàng sơ chế đang giảm, lạm phát chung được dự báo là sẽ giảm xuống mức một con số vào
cuối năm 2009, mặc dù lạm phát cơ bản (không bao gồm thực phẩm thô và năng lượng) có thể
giảm chậm hơn.Thứ ba, thâm hụt cán cân vãng lai đối ngoại dự kiến sẽ giảm với việc nhập khẩu
giảm nhiều hơn so với giảm xuất khẩu và kiều hối, nhưng vẫn giữ ở mức cao (9% của GDP) trong
năm 2009 và vẫn còn là nguyên nhân của tính dễ bị tổn thương vì dự trữ quốc tế của Việt Nam
tương đối thấp (3 tháng nhập khẩu).Thông báo của IMF cũng nhận định rằng, với triển vọng về
tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ suy giảm hơn nữa trong những tuần tới. Một sự suy giảm
của kinh tế toàn cầu kéo dài và sâu sắc hơn có thể có ảnh hưởng đến xuất khẩu và kiều hối và từ
đó tác động đến hoạt động kinh tế và cán cân thanh toán.“Những áp lực này có thể sẽ trầm trọng
hơn nếu những điều kiện tài chính toàn cầu đang xấu đi làm giảm nữa đầu tư trực tiếp và các
luồng vốn bên ngoài khác. Và cuối cùng, những hoạt động kinh tế chậm lại làm tăng thêm tính dễ
bị tổn thương của các doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng”, phái đoàn của IMF cảnh báo.
Rủi ro chuyển từ lạm phát sang tăng trưởngVề kết quả của chương trình làm việc của phái
đoàn IMF, thông báo cho biết những cuộc thảo luận về chính sách tập trung vào việc làm thế nào
để chèo lái tốt nhất nền kinh tế Việt Nam vượt qua sự suy giảm kinh tế toàn cầu một cách an
toàn.Có một nhất trí chung qua chương trình làm việc nói trên là cán cân rủi ro hiện đã chuyển từ
lạm phát sang tăng trưởng và điều này đưa đến việc Chính phủ đã đối phó bằng cách nới lỏng
chính sách tiền tệ và tài khóa.Tuy nhiên, phái đoàn nhấn mạnh rằng vị thế đối ngoại của Việt Nam
không được mạnh như các nước khác trong khu vực và điều đó làm hạn chế khả năng của Chính
phủ trong việc theo đuổi các chính sách nới lỏng. Dù cho một biện pháp kích cầu nào đó có thể có
lý nếu triển vọng kinh tế vẫn tiếp tục suy giảm, thì gói kích cầu này sẽ cần được tính toán kỹ và
đưa ra những ưu tiên để bảo vệ những nhóm dễ bị tổn thương.Cũng theo nhận định của phái

đoàn IMF, những căng thẳng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tăng lên trong năm 2008 và
có thể sẽ tăng hơn nữa trong năm 2009, do hoạt động kinh tế chậm lại. Trong khi vốn và trích lập
dự phòng được tăng trong hai năm qua đã tạo ra một chỗ đệm đáng kể, đặc biệt là với những
ngân hàng cổ phần lớn, thì vị thế tài chính của các ngân hàng rất có thể sẽ yếu đi trong năm
2009.“Rất mong các nhà chức trách phải chuẩn bị đối phó với những điểm dễ bị tổn thương đang
gia tăng. Về vấn đề này, phái đoàn khích lệ những bước đi mà Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện
để tăng cường giám sát hệ thống ngân hàng”, phái đoàn của IMF khuyến nghị.Về trung hạn, quan
điểm được đưa ra trong thông báo này là triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2009 vẫn có thuận lợi,
miễn là Chính phủ vẫn duy trì các chính sách lành mạnh và tiếp tục cải cách để tăng tính cạnh
tranh của Việt Nam.Và việc giữ vững đà cải cách trong giai đoạn khó khăn này được IMF xem là
“rất quan trọng” để củng cố niềm tin của nhà đầu tư và giúp Việt Nam có vị thế tốt khi kinh tế thế
giới thoát khỏi suy yếu.

×