Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Thực trạng về phá sản và giải thể doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.27 KB, 48 trang )

LÒI NÓI ĐẦU
Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi và đổi mới cơ chế quản lý nền kinh
tế, vì thế nhiều vấn đề về luật kinh tế cần được nghiên cứu để ngày càng phù
hợp với nền kinh tế thế giới.Chúng ta vẫn chưa có mô hình đích thực của pháp
luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường phát triển
cần có môi trường pháp luật bởi vì pháp luật là điều kiện để các quan hệ kinh tế
phát huy được ưu điểm của mình đồng thời tạo đà cho nền kinh tế phát triển bền
vững. Vì vậy việc biên soạn những tài liệu về luật kinh tế vẫn còn đang là vấn
đề cấp thiết để đáp ứng được nhu cầu của không chỉ của các nhà kinh tế, các
nhà nghiên cứu mà còn là của người dân.
Năm 1986 nhà nước đã có chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường. sau
gần ba mươi năm đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn từ nền
kinh tế thị trường mang lại, điều này chứng tỏ đường lối mà Đảng và Nhà nước
ta vạch ra và đang đi là đúng đắn. Những kết quả này chính là dấu hiệu thể
hiện đúng sức mạnh của nền kinh tế thị trường mang tiềm năng và hiệu quả để
chúng ta có thể thực hiện công cuộc dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn
minh. Vì vậy cơ chế thị trường đã được Hiến pháp 1992 của Việt Nam ghi nhận
thành một nguyên tắc Hiến định cho đến ngày nay, thực tiễn xác định phát triển
nền kinh tế thị trường trên thế giới hàng trăm năm qua đã chứng minh cho
chúng ta thấy những cơ sở để nói rằng pháp luật đã trở thành một bộ phận cấu
thành của nền kinh tế thị trường văn minh. Mặt khác luật kinh tế là tổng hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tổ
chức và hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các đơn vị kinh tế với nhau và giữa
chúng với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế bằng cách sử dụng và phối
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 1
hợp các phương pháp tác động khác nhau nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế
xã hội của đất nước
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, với sự tác động của quy luật kinh tế trong đó
có quy luật cạnh tranh đã làm nảy sinh các mối quan hệ mới mà bản thân kinh
tế kế hoạch hoá không hàm chứa được. Trong vòng đời doanh nghiệp, khi gặp
khó khăn, doanh nghiệp có thể ngừng hoạt động sản xuất, kinh doanh trong một


thời gian nhất định. Đây là một dạng rút lui tạm thời khỏi thị trường. Tuy nhiên,
khi không thể tiếp tục hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải rút lui khỏi thị
trường thông qua hình thức giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp.
Khi một doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản đã làm nảy sinh nhiều
mối quan hệ phức tạp cần được giải quyết. Chẳng những quan hệ nợ nần giữa
các chủ nợ với doanh nghiệp mắc nợ, quan hệ giữa doanh nghiệp mắc nợ với
người lao động do tình trạng mất khả năng thanh toán nợ gây ra. Vì vậy việc
giải quyết kịp thời các vấn đề đó có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thiết lập một
trật tự cần thiết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo quyền lợi
chủ thể của các mối quan hệ hay các bên liên quan.
Trước kia (trước 1993) khi chưa có luật phá sản doanh nghiệp nên các doanh
nghiệp Nhà nước khi không có khả năng thanh toán nợ đến hạn cũng đều được
giải quyết theo thủ tục giải thể(theo quyết định 315 của Hội đồng bộ trưởng
ngày 01.09.1990) kết quả là không ít những trường hợp nhà nước phải khoanh
nợ, xoá nợ gây ảnh hưởng không tốt đến quyền lợi của một số chủ nợ khi luật
phá sản được ban hành và có hiệu lực thì về nguyên tắc, tất cả các doanh nghiệp
khi kinh doanh thua lỗ đến mức mất khả năng thanh toán nợ đến hạn đều được
giải quyết theo luật phá sản doanh nghiệp; Nhìn chung luật phá sản doanh
nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993 đã đáp ứng được
đông đảo quần chúng nhân dân và sự chờ đợi của các nhà doanh nghiệp nhằm
tìm ra một trật tự chung cần thiết để đảm bảo quyền lợi họp pháp của các chủ
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 2
nợ, các doanh nghiệp mắc nợ và của người lao động, bảo đảm trật tự kỷ cương
cho xã hội và quyền lợi cho các bên liên quan.
Tuy nhiên phá sản là một vấn đề từ lý luận đến thực tiễn là một quá trình tìm
hiểu và nghiên cứu bởi khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản nó sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến nền kinh tế và đặc biệt là quyền lợi của người lao động ít
nhiều sẽ bị xáo trộn như tiền lương, các chế độ, việc làm và các vấn đề tiêu cực
phát sinh.
Đối với nước ta việc phá sản vẫn là một vấn đề mới mẻ. Cho nên thực tiễn

giải quyết phá sản của nước ta trong thời gian qua còn gặp không ít khó khăn
vướng mắc. Chính vì vậy mà việc nắm bắt, hiểu biết đầy đủ về thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp là sự cần thiết và cấp bách. Vì
những lý do trên nhóm 3 đã chọn đề tài:
"Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam” làm
đề tài khoá luận nhằm nâng cao tầm nhìn sâu - rộng trong lĩnh vực phá sản, giải
thể của doanh nghiệp.
Để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu nhóm sẽ đi sâu nghiên cứu những phần
chính sau đây:
Mục I: Nhận thức chung về phá sản, giải thể doanh nghiệp
Mục II: Thực trạng về phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam.
Mục III: Nhận xét và kết luận về thực trạng phá sản, giải thể doanh nghiệp
ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu để hoàn thiện bản khoá luận này, các
thông tin từ các trang web và các tài liệu về kinh tế, tài chính và pháp luật đã
giúp nhóm có được những kiến thức và tư liệu hữu ích để xây dựng bài tiểu
luận.
I/ NHẬN THỨC CHUNG VỂ PHÁ SẢN, GIẢI THỂ:
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 3
1. Phá sản và các nội dung cơ bản khi thực hiện thủ tục phá sản của doanh
nghiệp:
1.1. Đối tượng áp dụng:
Luật phá sản 2014 áp dụng đối với doanh nghiệp và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
(sau đây gọi chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp
luật.
1.2. Khái niệm về phá sản doanh nghiệp:
Danh từ phá sản được bắt nguồn từ tiếng Latinh "RUIN" có nghĩa là là "sự
khánh tận" khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của
một chủ doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp và rõ nhất của sự mất cân đối giữa
thu và chi là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn phải trả.

Pháp luật của nhà nước trên thế giới có nhiều chế định khác nhau về pháp
luật phá sản đối với các loại hình doanh nghiệp. Thậm chí có nhiều quan điểm
khác nhau về định lượng và định tính trong việc xác định một doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản doanh nghiệp hay mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
như luật phá sản của Malaysia, Hunggari, Trung Quốc Song cho dù có các chế
định khác nhau như vậy nhưng pháp luật các nước đều có khái niệm thống nhất
là một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi doanh nghiệp đó không còn
khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Tại Việt Nam, Luật phá sản doanh nghiệp đã qua một số thay đổi, điều
chỉnh phù hợp với tình hình kinh tế và hoạt động của doanh nghiệp, trước
đây là Luật phá sản DN 1993, sau đó là Luật Phá sản 2004 và đến nay vào
ngày 19/6/2014 Quốc hội đã thông qua Luật Phá sản năm 2014. Luật này có
hiệu lực từ ngày 1/1/2015, thay thế cho Luật Phá sản 2004 quy định:
Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không thực hiện
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 4
nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh
toán. Trong đó:
Chủ nợ là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp thực hiện nghĩa
vụ thanh toán khoản nợ, bao gồm chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm
một phần và chủ nợ có bảo đảm, trong đó:
 Nợ không có bảo đảm là khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh
nghiệp hoặc của người thứ ba.
 Nợ có bảo đảm là khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc
của người thứ ba.
 Nợ có bảo đảm một phần là khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh
nghiệp hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó
1.3. Yêu cầu mở thủ tục phá sản:
Các đối tượng sau đây được phép nộp đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản để
xem xét và giải quyết việc phá sản của một DN hay một HTX lâm vào tình
trạng phá sản:

- Thứ nhất, đó là các chủ nợ của DN hay HTX bất kể đó là chủ nợ không có bảo
đảm hay chỉ có bảo đảm một phần
1
. Các chủ nợ này có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà DN, HTX
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Các chủ nợ có bảo đảm đương nhiên không được
quyền nộp đơn xin mở thủ tục phá sản vì khoản nợ của họ đã được bảo đảm bằng tài
sản của DN, HTX liên quan hay bảo lãnh của bên thứ ba.
- Thứ hai, những người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp
cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản. Các đối tượng này cũng được phép nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
1
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 5
khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ
khác đến hạn đối với người lao động mà DN, HTX không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán.
- Thứ ba, người đại diện theo pháp luật của DN, HTX có nghĩa vụ nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản khi DN, HTX mất khả năng thanh toán.
- Thứ tư, chủ DN tư nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ phần, Chủ
tịch Hội đồng thành viên của công ty TNHH hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty
TNHH một thành viên, thành viên hợp danh của công ty hợp danh có nghĩa vụ nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản khi DN mất khả năng thanh toán.
- Thứ năm, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở
lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu
dưới 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán trong
trường hợp Điều lệ công ty quy định.
- Thứ sáu, thành viên HTX hoặc người đại diện theo pháp luật của HTX thành
viên của liên hiệp HTX có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi HTX, liên

hiệp HTX mất khả năng thanh toán.
Như vậy, với sáu nhóm đối tượng kể trên, Luật phá sản năm 2014 đã mở rộng đối
tượng được phép yêu cầu mở thủ tục phá sản, tạo điều kiện để thủ tục phá sản
có thể được mở một cách nhanh gọn và việc xử lý vấn đề phá sản của DN
không gặp khó khăn.
1.4. Thẩm quyền thụ lý và giải quyết việc phá sản:
Luật phá sản năm 2014 có thêm một bước trong quy định thẩm quyền của tòa án
trong giải quyết vụ việc phá sản của DN, HTX khi phân định rõ TAND cấp
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 6
huyện có thẩm quyền giải quyết vụ việc phá sản đối với các DN, HTX có trụ sở
chính tại huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Chỉ một số trường hợp đặc
biệt thì TAND cấp tỉnh mới có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với DN, HTX
đăng ký kinh doanh tại tỉnh đó, bao gồm:
- Các vụ việc phá sản có tài sản ở nước ngoài hoặc người tham gia thủ tục phá sản
ở nước ngoài,
- DN, HTX mất khả năng thanh toán có chi nhánh, văn phòng đại diện ở nhiều
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau,
- DN, HTX mất khả năng thanh toán có bất động sản ở nhiều huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh khác nhau, và
- Vụ việc phá sản thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện mà TAND cấp tỉnh lấy
lên để giải quyết do tính chất phức tạp của vụ việc.
Nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản bao gồm:
- Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết yêu cầu mở
thủ tục phá sản trong trường hợp cần thiết.
- Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản.
- Quyết định chỉ định hoặc thay đổi quản tài viên, DN quản lý, thanh lý tài sản.
- Giám sát hoạt động của quản tài viên, DN quản lý, thanh lý tài sản.
- Quyết định việc thực hiện kiểm toán DN, HTX mất khả năng thanh toán trong
trường hợp cần thiết.
- Quyết định việc bán tài sản của DN, HTX mất khả năng thanh toán sau khi mở

thủ tục phá sản để bảo đảm chi phí phá sản.
- Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật.
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 7
- Áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền dẫn giải
đại diện của DN, HTX mất khả năng thanh toán theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức HNCN.
- Quyết định công nhận nghị quyết của HNCN về phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh.
- Quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản.
- Quyết định tuyên bố phá sản đối với DN, HTX mất khả năng thanh toán.
- Áp dụng biện pháp xử phạt hành chính, đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý về
hình sự theo quy định của pháp luật.
- Tham khảo quyết định giải quyết phá sản trước đó trong vụ việc phá sản tương tự
theo hướng dẫn của TAND tối cao.
- Phải từ chối giải quyết phá sản trong một số trường hợp nhất định (ví dụ: thẩm
phán đồng thời là người tham gia thủ tục phá sản; người đại diện, người thân thích của
người tham gia thủ tục phá sản trong vụ việc phá sản đó).
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.5. Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản :
- Việc nghiên cứu, xem xét các căn cứ để ra quyết định mở thủ tục phá sản là rất
quan trọng. Vì vậy, trong trường hợp cần thiết, trước khi ra quyết định mở thủ tục
phá sản, thẩm phán có thể triệu tập phiên họp với sự tham gia của người nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN, HTX bị yêu
cầu mở thủ tục phá sản, cá nhân, tổ chức có liên quan để xem xét, kiểm tra các
căn cứ chứng minh DN, HTX mất khả năng thanh toán. Nếu có đầy đủ căn cứ để
chứng minh rằng DN, HTX đã mất khả năng thanh toán, thì thẩm phán ra quyết
định mở thủ tục phá sản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 8
thủ tục phá sản.
1.6. Các vấn đề tài chính khi doanh nghiệp phá sản:

6.1.1. Hội nghị chủ nợ:
HNCN được tổ chức theo các nguyên tắc: tôn trọng thoả thuận của các
bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội; các
bên tham gia HNCN đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ; HNCN phải được
tiến hành công khai. Trong tổ chức, hoạt động của HNCN nổi bật vai trò của
quản tài viên, thay thế tòa án (thẩm phán) thực hiện việc quản lý điều hành
HNCN để đảm bảo HNCN hoạt động một cách khách quan.
Những chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ đều được quyền tham gia HNCN. Họ
cũng có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác để đại diện cho mình nếu
bản thân không thể trực tiếp tham gia HNCN. Trong trường hợp DN, HTX
mất khả năng thanh toán và nợ lương người lao động thì những người lao
động này đương nhiên là chủ nợ của DN, HTX. Trường hợp đó, đại diện
người lao động, đại diện công đoàn được người lao động ủy quyền sẽ tham gia
HNCN.
Trong trường hợp DN, HTX được người thứ ba bảo lãnh cho các giao dịch phát
sinh nghĩa vụ tài sản, thì những người bảo lãnh, sau khi đã trở nợ thay cho DN,
HTX mất khả năng thanh toán , sẽ trở thành chủ nợ không có bảo đảm của các
DN, HTX đó.
Nghị quyết của HNCN được thông qua khi có quá nửa tổng số chủ nợ không có
bảo đảm có mặt và đại diện cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở lên
biểu quyết tán thành. Nghị quyết của HNCN có hiệu lực ràng buộc đối với tất
cả các chủ nợ.
1.6.2 Trường hợp doanh nghiệp được thực hiện phương án phục hồi hoạt
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 9
động kinh doanh:
HNCN là chủ thể thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh vì
phương án này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các chủ nợ. Nếu việc
phục hồi hoạt động kinh doanh đem lại kết quả thành công, cả DN, HTX mất
khả năng thanh toán và các chủ nợ của họ đều được hưởng lợi. Ngược lại, nếu
thất bại, cả hai bên sẽ cùng gánh chịu hậu quả.

Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX mất khả năng thanh
toán phải nêu rõ các biện pháp để phục hồi hoạt động kinh doanh; các điều kiện,
thời hạn và kế hoạch thanh toán các khoản nợ. Các biện pháp để phục hồi hoạt
động kinh doanh gồm:
- Huy động vốn;
- Giảm nợ, miễn nợ, hoãn nợ;
- Thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh;
- Đổi mới công nghệ sản xuất;
- Tổ chức lại bộ máy quản lý, sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất;
- Bán cổ phần cho chủ nợ và những người khác;
- Bán hoặc cho thuê tài sản;
- Các biện pháp khác không trái quy định của pháp luật.
Thời hạn để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX
mất khả năng thanh toán được thực hiện theo nghị quyết của HNCN thông qua
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Trường hợp HNCN không xác định
được thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN,
HTX mất khả năng thanh toán thì thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh là không quá 03 năm kể từ ngày HNCN thông qua phương án
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 10
phục hồi hoạt động kinh doanh.
3.6.3. Các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã sau
khi có quyết định mở thủ tục phá sản:
Luật phá sản năm 2004 và Luật phá sản năm 2014 đều quy định DN, HTX sau
khi bị mở thủ tục phá sản có thể tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh
bình thường. Tuy nhiên, vào thời điểm này, các DN, HTX liên quan đều phải
chịu sự quản lý và giám sát của thẩm phán, quản tài viên, DN quản lý, thanh lý
tài sản. Lý do là việc quản lý, giám sát hoạt động của các DN, HTX sau khi có
quyết định mở thủ tục phá sản là việc làm cần thiết, để đảm bảo các DN, HTX
này không tiếp tục mắc sai lầm, tạo cơ sở cho việc xây dựng thành công phương
án sản xuất, kinh doanh sau này, phát huy được tối đa tài lực, vật lực, đồng thời

kiểm soát rủi ro của DN, HTX. Thậm chí trong trường hợp xét thấy người đại
diện theo pháp luật của DN, HTX không có khả năng điều hành, DN, HTX xã
có dấu hiệu vi phạm thì thẩm phán ra quyết định thay đổi người đại diện theo
pháp luật của DN, HTX đó theo đề nghị của HNCN hoặc quản tài viên, DN
quản lý, thanh lý tài sản.
1.6.4. Quản lý và xử lý tài sản trong giải quyết phá sản:
1.6.4.1. Xác định giá trị nghĩa vụ về tài sản:
Nghĩa vụ về tài sản của DN, HTX được xác lập trước khi TAND ra quyết định
mở thủ tục phá sản được xác định vào thời điểm ra quyết định mở thủ tục phá
sản. Và, nghĩa vụ về tài sản của DN, HTX được xác lập sau khi TAND ra quyết
định mở thủ tục phá sản được xác định vào thời điểm ra quyết định tuyên bố
phá sản. Như vậy, DN, HTX bị mở thủ tục phá sản sẽ chốt các khoản nợ của họ
phát sinh trước thời điểm có quyết định mở thủ tục phá sản vào thời điểm có
quyết định mở thủ tục phá sản đó. Đối với các nghĩa vụ về tài sản (nghĩa vụ nợ)
phát sinh sau ngày mở thủ tục phá sản thì sẽ được chốt ở thời điểm ra quyết
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 11
định tuyên bố phá sản.
Theo Điều 64 Luật phá sản năm 2014 thì tài sản của DN, HTX mất khả năng thanh
toán gồm:
- Tài sản và quyền tài sản mà DN, HTX có tại thời điểm TAND quyết định mở thủ
tục phá sản;
- Tài sản và quyền tài sản có được sau ngày TAND ra quyết định mở thủ tục phá
sản;
- Giá trị của tài sản bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm mà DN, HTX phải
thanh toán cho chủ nợ có bảo đảm;
- Giá trị quyền sử dụng đất của DN, HTX được xác định theo quy định của pháp
luật về đất đai;
- Tài sản thu hồi từ hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của DN, HTX;
- Tài sản và quyền tài sản có được do thu hồi từ giao dịch vô hiệu;
- Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.

Riêng đối với DN tư nhân và công ty hợp danh, vốn là những đối tượng chịu
trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của chủ sở hữu hoặc thành viên hợp danh theo
Luật DN, thì luật phá sản có những quy định riêng về xác định tài sản của các
đối tượng này. Cụ thể, Tài sản của DN tư nhân, công ty hợp danh mất khả năng
thanh toán gồm:
- Các tài sản như tài sản của các DN, HTX thông thường (đã liệt kê ở trên);
- Tài sản của chủ DN tư nhân, thành viên hợp danh không trực tiếp dùng vào hoạt
động kinh doanh; trường hợp chủ DN tư nhân, thành viên hợp danh có tài sản thuộc sở
hữu chung thì phần tài sản của chủ DN tư nhân, thành viên hợp danh đó được chia theo
quy định của pháp luật về dân sự và quy định của pháp luật có liên quan.
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 12
Như vậy do tính chất chịu trách nhiệm vô hạn của mình, tài sản của DN tư nhân
và tài sản của thành viên hợp danh không tách rời khỏi khối tài sản hay số vốn
mà họ đưa vào DN tư nhân hay công ty hợp danh bị mất khả năng thanh toán.
Nói cách khác, tài sản riêng của họ, bất kể dùng vào mục đích kinh doanh hay
không, cũng bị coi là tài sản của DN khi phá sản và cũng được dùng để thanh
toán các khoản nợ.
1.1.1. Xác định tiền lãi đối với các khoản nợ
Kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, các khoản nợ được tiếp tục tính lãi
theo thỏa thuận nhưng được tạm dừng việc trả lãi. Trường hợp thẩm phán ra
quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản, đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh theo quy định thì việc tạm dừng trả lãi chấm dứt, các bên tiếp
tục thực hiện việc trả lãi theo thỏa thuận. Đối với khoản nợ mới phát sinh sau
khi mở thủ tục phá sản đến thời điểm tuyên bố DN, HTX phá sản thì tiền lãi của
khoản nợ đó được xác định theo thỏa thuận nhưng không trái với quy định của
pháp luật. Kể từ ngày ra quyết định tuyên bố DN, HTX phá sản thì khoản nợ
không được tiếp tục tính lãi.
1.6.4.3 Xử lý nghĩa vụ vê tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã:
1.6.4.3.1 Xử lý khoản nợ có bảo đảm
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 41 Luật phá sản năm 2014 thì sau khi thụ lý vụ

việc phá sản, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tạm đình chỉ việc xử lý tài sản
bảo đảm của DN, HTX đối với các chủ nợ có bảo đảm. Việc tạm đình chỉ này
là cần thiêt vì vào thời điểm đó, quyết định mở thủ tục phá sản vẫn chưa được
đưa ra. Do có khả năng DN, HTX liên quan có thể bị mở thủ tục phá sản và
được đặt dưới chế độ giám sát đặc biệt mà qua đó tài sản của họ cũng cần
được kiểm soát chặt chẽ nên các vấn đề xử lý tài sản của DN, HTX cần ngưng
lại tạm thời. Sau khi mở thủ tục phá sản, quản tài viên hoặc DN quản lý, thanh
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 13
lý tài sản lại đề nghị thẩm phán về việc xử lý các khoản nợ có bảo đảm đã tạm
đình chỉ theo quy định.
Trường hợp tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh
doanh thì việc xử lý đối với tài sản bảo đảm theo nghị quyết của HNCN.
Trường hợp không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh hoặc tài sản bảo đảm
không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì xử lý theo
thời hạn quy định trong hợp đồng đối với hợp đồng có bảo đảm đã đến hạn. Đối
với hợp đồng có bảo đảm chưa đến hạn thì trước khi tuyên bố DN, HTX phá
sản, TAND đình chỉ hợp đồng và xử lý các khoản nợ có bảo đảm. Việc xử lý
khoản nợ có bảo đảm trong trường hợp này được thực hiện như sau:
- Đối với khoản nợ có bảo đảm được xác lập trước khi TAND thụ lý đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản thì khoản nợ được thanh toán bằng tài sản bảo đảm đó;
- Trường hợp giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại
sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của DN, HTX; nếu giá trị tài sản bảo
đảm lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản của DN, HTX.
Trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá
trị thì quản tài viên, DN quản lý, thanh lý tài sản đề nghị thẩm phán cho xử lý
ngay tài sản bảo đảm đó theo quy định như trên. Việc xử lý ngay tài sản bảo
đảm trong trường hợp này là để lưu giữ tốt nhất giá trị của tài sản, tránh cho tài
sản bị hao hụt hay mất giá trị.
1.6.4.3.2. Nghĩa vụ về tài sản trong trường hợp liên đới hoặc bảo lãnh:
Trường hợp nhiều DN, HTX có nghĩa vụ liên đới về một khoản nợ mà một hoặc

tất cả các DN, HTX xã đó mất khả năng thanh toán thì chủ nợ có quyền đòi bất
cứ DN, HTX nào trong số các DN, HTX đó thực hiện việc trả nợ cho mình theo
quy định của pháp luật.
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 14
Đối với trường hợp DN, HTX phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản được bảo lãnh,
Luật phá sản năm 2014 quy định: trường hợp người bảo lãnh mất khả năng
thanh toán thì việc bảo lãnh được giải quyết như sau:
- Nếu nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh. Trường hợp bên bảo lãnh không thanh toán đầy đủ trong phạm vi bảo lãnh thì bên
nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thanh toán phần còn thiếu;
- Nếu nghĩa vụ bảo lãnh chưa phát sinh thì bên được bảo lãnh phải thay thế biện
pháp bảo đảm khác, trừ trường hợp người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh có thỏa
thuận khác.
Trường hợp người được bảo lãnh hoặc cả người bảo lãnh và người được bảo lãnh
đều mất khả năng thanh toán thì người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm thay cho
người được bảo lãnh theo quy định của pháp luật.
1.6.4.3.3. Nghĩa vụ trả lại tài sản thuê, mượn khi DN, HTX bị tuyên bố phá
sản
Về nguyên tắc, các tài sản mà DN, HTX bị tuyên bố phá sản thuê hay mượn
không phải là tài sản thuộc sở hữu của các DN, HTX đó, và do vậy, nó phải trả
lại cho các chủ sở hữu trong quá trình giải quyết phá sản. Theo quy định, trong
thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố phá sản,
chủ sở hữu tài sản cho DN, HTX thuê hoặc mượn để dùng vào hoạt động kinh
doanh phải xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, hợp đồng cho thuê
hoặc cho mượn với cơ quan thi hành án dân sự để nhận lại tài sản của mình.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy có một số trường hợp DN, HTX thuê tài sản dài hạn
mà tiền thuê được trả trước là một khoản tiền có giá trị lớn (thường tương
đương với giá thuê tài sản trong 5, 10 năm, thậm chí 20 năm) mà thời hạn thuê
còn lại vẫn khá dài. Trong các trường hợp Luật phá sản quy định người cho thuê
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 15

chỉ được nhận lại tài sản sau khi đã thanh toán số tiền thuê tương ứng với thời
gian thuê còn lại để cơ quan thi hành án dân sự nhập vào khối tài sản của DN,
HTX đó. Nghĩa là, người cho thuê tài sản chỉ được quyền tính tiền thuê tài sản
đến thời điểm DN, HTX bị tuyên bố phá sản, khoảng thời gian thuê còn lại
đương nhiên không còn giá trị gì đối với DN, HTX vì họ không thể sử dụng
được tài sản thuê và do vậy tiền thuê cho giai đoạn đó phải được trả lại để nhập
vào khối tài sản của DN, HTX bị tuyên phá sản nhằm chi trả cho các khoản nợ
của họ.
Trong thực tế cũng có một trường hợp nữa: đó là DN, HTX khi biết có khả năng
bị tuyên phá sản đã chuyển nhượng trái phép các tài sản đi thuê hoặc mượn
cho các bên thứ ba để trục lợi. Trong trường hợp này, DN, HTX bị tuyên bố
phá sản phải có nghĩa vụ đòi lại tài sản đã chuyển nhượng trái phép đó cho bên
cho thuê và nếu không thể đòi được thì người cho thuê hoặc cho mượn có
quyền yêu cầu DN, HTX bồi thường đối với tài sản đó như khoản nợ không có
bảo đảm.
1.6.4.3.4. Trả lại tài sản nhận bảo đảm và nhận lại hàng hóa đã bán:
DN, HTX mất khả năng thanh toán chỉ trả lại tài sản nhận bảo đảm cho cá nhân,
tổ chức đã giao tài sản cho DN, HTX để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình
đối với DN, HTX trước khi TAND mở thủ tục phá sản trong trường hợp cá
nhân, tổ chức đó đã thực hiện nghĩa vụ đối với DN, HTX.
Người bán đã gửi hàng hóa cho người mua là DN, HTX mất khả năng thanh toán
nhưng chưa được thanh toán và người mua cũng chưa nhận được hàng hóa thì
người bán được nhận lại hàng hoá đó. Nếu DN, HTX mất khả năng thanh toán
đã nhận hàng hóa đó và không thể trả lại được thì người bán trở thành chủ nợ
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 16
không có bảo đảm.
1.6.4.3.5. Thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ
Một trong những vấn đề quan trọng cốt lõi và là quan tâm hàng đầu đối với các
chủ nợ là thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ của DN, HTX mất khả năng
thanh toán được pháp luật quy định như thế nào và khoản nợ của họ nằm ở đâu

trong thứ tự ưu tiên đó.
Luật phá sản năm 2014 tách riêng quy định về xử lý các khoản nợ có bảo đảm
thành các chế định riêng và được xử lý trước khi DN, HTX bị tuyên bố phá sản
(trừ trường hợp tài sản bảo đảm không đủ để trả nợ cho các khoản nợ có bảo
đảm). Đối với các khoản nợ không có bảo đảm, việc thanh toán chỉ được thực
hiện như những thủ tục cuối cùng khi thẩm phán ra quyết định tuyên bố DN,
HTX phá sản. Theo quy định tại Điều 54 Luật phá sản năm 2014, trường hợp
thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản của DN, HTX được phân
chia theo thứ tự sau đây:
- Chi phí phá sản;
- Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người
lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thoả ước lao động tập thể đã ký kết;
- Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi hoạt
động kinh doanh của DN, HTX;
- Nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho
chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài
sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ.
Trường hợp giá trị tài sản của DN, HTX sau khi đã thanh toán đủ các khoản quy
định nêu trên mà vẫn còn thì phần còn lại này thuộc về:
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 17
- Thành viên HTX, HTX thành viên;
- Chủ DN tư nhân;
- Chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên;
- Thành viên của công ty TNHH hai thành viên trở lên, cổ đông của công ty cổ
phần;
- Thành viên của công ty hợp danh.
Nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán thì từng đối tượng cùng một thứ tự ưu
tiên được thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ.
2. Giải thể và các nội dung cơ bản của thủ tục giải thể doanh nghiệp:
2.1Khái niệm về giải thể:

Doanh nghiệp bị giải thể trong các trường hợp sau đây:
a) Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định
gia hạn;
b) Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân; của tất cả
thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của Hội đồng thành viên, chủ sở
hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của Đại hội đồng cổ đông đối
với công ty cổ phần;
c) Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật Doanh
nghiệp trong thời hạn sáu tháng liên tục;
d) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 18
tài sản khác.
2.2 Thủ tục giải thể doanh nghiệp:
Việc giải thể doanh nghiệp được thực hiện theo quy định sau đây:
Thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp. Quyết định giải thể doanh
nghiệp phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
- Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;
- Lý do giải thể;
- Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của
doanh nghiệp; thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng không được vượt quá
sáu tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể;
- Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động;
- Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân, Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty,
Hội đồng quản trị trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh nghiệp, trừ trường
hợp Điều lệ công ty quy định thành lập tổ chức thanh lý riêng.
Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết định giải
thể phải được gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh, tất cả các chủ nợ, người có
quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan, người lao động trong doanh nghiệp và phải

được niêm yết công khai tại trụ sở chính và chi nhánh của doanh nghiệp.
Đối với trường hợp mà pháp luật yêu cầu phải đăng báo thì quyết định giải
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 19
thể doanh nghiệp phải được đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử
trong ba số liên tiếp.
Quyết định giải thể phải được gửi cho các chủ nợ kèm theo thông báo về
phương án giải quyết nợ. Thông báo phải có tên, địa chỉ của chủ nợ; số nợ, thời
hạn, địa điểm và phương thức thanh toán số nợ đó; cách thức và thời hạn giải
quyết khiếu nại của chủ nợ.
2.3 Vấn đề tài chính khi giải thể doanh nghiệp:
Các khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự sau đây:
a) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định
của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động
tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;
b) Nợ thuế và các khoản nợ khác.
Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh nghiệp,
phần còn lại thuộc về chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên, cổ đông hoặc
chủ sở hữu công ty.
Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ
của doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải gửi hồ
sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn bảy
ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh
xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh.
Trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, doanh nghiệp phải giải thể trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bị thu
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 20
hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Sau thời hạn sáu tháng quy định tại khoản này mà cơ quan đăng ký kinh
doanh không nhận được hồ sơ giải thể doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó coi
như đã được giải thể và cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp trong

sổ đăng ký kinh doanh. Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp luật,
các thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty đối với
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên Hội đồng quản trị
đối với công ty cổ phần, các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh liên
đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh
toán.
2.4 Các hoạt động bị cấm kể từ khi có quyết định giải thể :
Kể từ khi có quyết định giải thể doanh nghiệp, nghiêm cấm doanh nghiệp,
người quản lý doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sau đây:
- Cất giấu, tẩu tán tài sản;
- Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ;
- Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành các khoản nợ có bảo đảm
bằng tài sản của doanh nghiệp;
- Ký kết hợp đồng mới không phải là hợp đồng nhằm thực hiện giải thể
doanh nghiệp;
- Cầm cố, thế chấp, tặng cho, cho thuê tài sản;
- Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 21
- Huy động vốn dưới mọi hình thức khác.
2.5 Hồ sơ giải thể doanh nghiệp:
Hồ sơ giải thể bao gồm:
- Quyết định giải thể hoặc quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư hoặc quyết định của
Toà án tuyên bố giải thể doanh nghiệp;
- Danh sách chủ nợ và số nợ đã thanh toán, gồm cả thanh toán hết các
khoản nợ về thuế và nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội;
- Danh sách người lao động hiện có và quyền lợi người lao động đã được
giải quyết;
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư;
- Con dấu, Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu, Giấy chứng nhận đăng ký

mã số thuế của doanh nghiệp (hiện tại nộp cho cơ quan công an nơi doanh
nghiệp đăng ký con dấu);
- Số hoá đơn giá trị gia tăng chưa sử dụng (hiện tại nộp cho cơ quan thuế
nơi doanh nghiệp đăng ký thuế);
- Báo cáo tóm tắt về việc thực hiện thủ tục giải thể, trong đó có cam kết đã
thanh toán hết các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, giải quyết các quyền lợi hợp pháp
của người lao động.
2.6 Các quy định khác:
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 22
a) Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên công ty
trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc, thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về tính trung thực,
chính xác của hồ sơ giải thể doanh nghiệp.
b) Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo, thì những người quy
định tại điểm a khoản 2.6 này phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ chưa
thanh toán, số thuế chưa nộp và quyền lợi của người lao động chưa được giải
quyết; và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hệ quả phát sinh trong
thời hạn 03 năm, kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký
kinh doanh có thẩm quyền.
c) Trong thời hạn 7 ngày làm việc, cơ quan nhận hồ sơ giải thể doanh
nghiệp thông báo với cơ quan thuế, cơ quan công an về việc giải thể doanh
nghiệp và xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh, nếu cơ quan thuế
và cơ quan công an có liên quan không có yêu cầu khác.
3. So sánh sự khác biệt giữa phá sản và giải thể doanh nghiệp
Xét về mặt hiện tượng, thì phá sản và giải thể DN có thể đều đưa đến một hậu
quả pháp lý là chấm dứt sự tồn tại của DN và phân chia tài sản còn lại cho các
chủ nợ, giải quyết các nghĩa vụ tài chính với của DN với nhà nước và những
người có liên quan. Tuy nhiên, xét về mặt bản chất, phá sản và giải thể có sự
khác biệt rất rõ rệt.
- Nguyên nhân hay lý do dẫn đến phá sản, giải thể doanh nghiệp:

 Phá sản DN chỉ do mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
 Nhiều nguyên nhân dẫn đến giải thể: Mục tiêu kinh doanh đã đạt được hoặc
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 23
không muốn kéo dài hay không muốn tiếp tục hoạt động kinh doanh; hết thởi hạn
hoạt động đầu tư, kinh doanh theo giấy phép; bị thu hồi giấy phép thành lập và
hoạt động do vi phạm pháp luật
- Cơ quan ra quyết định:
 Phá sản DN: tòa án ra quyế định
 Giải thể DN: Quyết định có thể được đưa ra bởi: Chủ DN;Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền (chẳng hạn: cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập).
- Thủ tục giải quyết:
Thủ tục giải quyết vụ việc phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt. Tức là người
có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản phải đi theo một quy trình, thủ tục luật
định để tòa án xem xét, giải quyết vụ việc phá sản của DN, HTX liên quan. Nó
khác với thủ tục hành chính, khi người có liên quan có thể chấm dứt số phận
của DN, HTX bằng ý chí chủ quan của chính mình và chỉ cần thực hiện thủ tục
hành chính tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứ không phải tại tòa án (ví
dụ: việc giải thể DN có thể thực hiện theo ý chí chủ quan của chủ DN và tại cơ
quan đăng ký kinh doanh).
- Hậu quả pháp lý:
 Phá sản DN: Có nhiều khả năng xảy ra: DN có thể bị tuyên bố phá sản, chấm dứt
hoạt động, xóa tên khỏi sổ đăng ký kinh doanh; hoặc DN có thể tái cơ cấu, thay
đổi chủ sở hữu và vẫn tiếp tục hoạt động.
 Giải thể DN: DN chấm dứt hoạt động và bị xóa tên khỏi sổ đăng ký kinh doanh.
- Thanh lý tài sản:
 Phá sản DN: Việc thanh toán tài sản, phân chia giá trị tài sản còn lại của DN,
HTX được thực hiện thông qua một cơ quan trung gian sau khi có quyết định
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 24
tuyên bố phá sản.
 Giải thể DN: Khi giải thể chủ DN hoặc DN, HTX trực tiếp thanh toán tài sản, giải

quyết nghĩa vụ tài chính với các bên liên quan.
- Thái độ của nhà nước đối với người quản lý và chủ sở hữu DN, HTX:
 Phá sản DN: Những người giữ chức vụ lãnh đạo trong các DN nhà nước không
được đảm đương các chức vụ lãnh đạo tại các DN nhà nước nào kể từ ngày DN
nhà nước mà họ quản lý bị phá sản. Người giữ chức vụ quản lý của DN, HTX bị
tuyên bố phá sản có thể bị cấm thành lập DN, HTX trong thời hạn 03 năm kể từ
ngày DN, HTX bị tuyên bố phá sản.
 Giải thể DN: Chủ DN, HTX chấm dứt do giải thể được toàn quyền thực hiện các
hoạt động đầu tư, kinh doanh trở lại bằng việc thành lập các DN hay các HTX
mới mà không bị hạn chế gì.
II/ THỰC TRẠNG VỂ PHÁ SẢN, GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT
NAM:
1. Tình hình thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993:
Về thực tế thi hành, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 chưa đáp ứng được nhu
cầu giải quyết phá sản trong cộng đồng DN, số lượng đơn yêu cầu tuyên bố
phá sản rất ít, không phản ánh đầy đủ tình hình hoạt động của các DN, HTX
tại Việt Nam trong giai đoạn từ 1993 – 2003. Theo số liệu thống kê của TAND
tối cao ngày 05/09/2003 thì trong vòng 09 năm từ 1993 đến 2002, toàn ngành
tòa án chỉ thụ lý 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản DN (trung bình mỗi năm
có 17 đơn) nhưng chỉ giải quyết được 95 đơn, chiếm 62,9% (trong đó tòa án ra
quyết định tuyên bố phá sản đối với 46 DN, đình chỉ giải quyết 11 vụ, tạm
đình chỉ và hòa giải thành 26 vụ, ra quyết định không mở thủ tục 12 vụ.
Thực trạng về vấn đề phá sản, giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam Page 25

×