Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Thực trạng cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.96 KB, 26 trang )

Thực trạng cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam
I. Tổng quan về doanh nghiệp nhà nước Việt Nam.
1. Số lượng doanh nghiệp nhà nước
Theo cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ kế hoạch và đầu tư, số doanh nghiệp
đăng kí mới vẫn tiếp tục tăng cao. Trong năm 2008, toàn quốc có 69636 doanh
nghiệp được thành lập và vốn đăng kí đạt 569,533 tỷ đồng, tăng 12,24% về số lượng
và 20,77% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2007. Tuy nhiên từ tháng 6 năm 2008,
số doanh nghiệp đăng kí được kinh doanh có chiều hướng giảm sút so với các tháng
đầu năm. Tổng số doanh nghiệp đã thành lập và đăng kí kinh doanh đến hết tháng
12-2008 là khoảng 376644 doanh nghiệp. Số vốn đăng kí bình quân là 8,7 tỷ đồng/
doanh nghiệp( năm 2007 số vốn đăng kí kinh doanh bình quân là 8,1 tỷ đồng). Tính
trung bình mỗi tháng có khoảng 5443 doanh nghiệp, mỗi ngày có trên 180 doanh
nghiệp mới ra đời( năm 2007 con số này lần lượt là 4850 doanh nghiệp và 161 doanh
nghiệp). Các doanh nghiệp đã đăng kí và đang hoạt động còn huy động thêm 209,6 tỷ
đồng vốn kinh doanh.
Bảng 2.1 Số lượng doanh nghiệp tăng thêm trong các năm từ 2000 đến 2008
N
ăm
D
oanh
nghiệp nhà
nước
D
oanh
nghiệp tư
nhân
C
ông ty
TNHH
C


ông ty
TNHH
1thành viên
C
ông ty cổ
phần
C
ông ty hợp
danh
Tổ
ng số (hàng
năm)
20
00
69
28
33
003
19
082
11
56
3 60
172
20
01
27 71
00
11
121

0 15
50
2 19
800
20
02
12 65
32
12
627
59 23
05
0 21
535
20
03
20 78
13
15
781
98 40
58
1 27
771
20
04
6 10
405
20
190

12
5
64
97
7 37
230
20
05
8 92
95
22
341
29
2
80
10
13 39
959
20
06
7 10
320
25
762
90
2
96
69
3 46
663

20
07
0 10
013
25
756
84
04
14
733
1 53
878
20
08
4 88
95
25
449
14
299
16
670
1 69
636
Nguồn: Trung tâm thông tin, Cục phát triển doanh nghiệp, Bộ kế hoạch và đầu

Sắp xếp và đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước được xem là khâu đột phá
trong chủ trương đột phá trong chủ trương đổi mới nền kinh tế ở nước ta từ đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI. Trong suốt 20 năm qua, việc thực hiện chủ trương sắp xếp
lại doanh nghiệp nhà nước đã diễn ra liên tục thông qua hàng loạt các quyết định,

nghị định của chính phủ. Đến nay hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp
và củng cố một bước rất cơ bản và đóng một vị trí quan trọng trong công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của Việt Nam. Doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh đã chuyển
sang hoạt động theo cơ chế thị trường, cơ cấu và qui mô bước đầu đuợc điều chỉnh
theo hướng phù hợp hơn; nhiều doanh nghiệp nhà nước thích ứng được và hoạt
động có hiệu quả trong cơ chế mới; trình độ quản lý và công nghệ có nhiều tiến bộ;
vốn được bảo toàn và tăng thêm, bước đầu đa dạng các nguồn vốn để phát triển;
vốn tự tích lũy, tự bổ sung, từ chỗ không đáng kể lên 27,8% tổng vốn sản xuất, kinh
doanh; sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước được tăng lên.
Cùng với quá trình nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, Đảng và
Nhà nước đã chủ trương sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Do đó, số doanh
nghiệp nhà nước đã giảm tới 68%, từ 12080 doanh nghiệp còn 5789 năm 1998 và
đến năm 2002 còn 5280 doanh nghiệp. Trong đó, khoảng 3300 doanh nghiệp được
sát nhập và khoảng 3500 doanh nghiệp bị giải thể. Số doanh nghiệp nhà nước giải thể
hầu hết là các doanh nghiệp do địa phương trực tiếp quản lý và phần lớn là các
doanh nghiệp cấp huyện, qui mô quá bé, không có khả năng tồn tại trong cơ chế thị
trường. Về cơ bản hiện nay khôgn còn doanh nghiệp nhà nước cấp huyện mà chỉ còn
doanh nghiệp nhà nước cấp tỉnh do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và do cán bộ, ngành ở
trung ương trực tiếp quản lý. Trong tổng số doanh nghiệp nhà nước hiện nay có
51,4% số doanh nghiệp nhà nước do các địa phương trực tiếp quản lý và 48,6% số
doanh nghiệp nhà nước do các bộ, ngành trung ương quản lý. Đồng thời theo báo
cáo của ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước Trung ương, tính đến 1-7-2007 đã có
902 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.
Tính đến tháng 12-2008, bộ kế hoạch đầu tư ra quyết định rà soát doanh
nghiệp trên cơ sở các báo cáo của các Cục thống kê, sở Kế hoạch và đầu tư, Cục thuế
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Kết quả sơ bộ cho thấy, tổng số doanh
nghiệp đang tồn tại tại thời điểm 31-12-2008 là 328278 doanh nghiệp, trong đó số
doanh nghiệp thực tế đang hoạt động chiếm khoảng 71,2%; số doanh nghiệp đã
đăng ký nhưng chưa hoạt động chiếm 6,4% và số doanh nghiệp thuộc đối tượng khác
là 12,6% (chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài nhà nước như chi nhánh, hành chính sự

nghiệp có thu; chuyển xuống hộ kinh doanh cá thể - không thuộc đối tượng hạch
toán độc lập). Như vậy, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại thời điểm 31-12-
2008 là 236843 doanh nghiệp trong đó có 3952 doanh nghiệp nhà nước. Trong năm
2009 do đẩy mạnh cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, cùng với áp
lực về mặt thời gian khi hiệu lực của luật doanh nghiệp nhà nước 2005 sắp hết hạn
vào 1-7-2010, các doanh nghiệp nhà nước đã gấp rút tiến hành chuyển đổi. Hiện nay
số lượng doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại còn khoảng 1507 doanh nghiệp.
2. Cơ cấu ngành
Khu vực doanh nghiệp nhà nước đã có những chuyển biến tích cực, tiếp tục
giữ vai trò chủ đạo trong các ngành công nghiệp , xây dựng, thương mại và sửa
chữa. Điều này thể thượng đúng xu hướng phát triển của doanh nghiệp nhà nước
cần tập trung vào các lĩnh vực, các ngành trọng điểm của nền kinh tế và các lĩnh vực
mà các doanh nghiệp của khu vực ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài không muốn đầu tư vào do hiệu quả không cao.
Bảng 2.2 Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo lĩnh vực hoạt động( tháng 7-
2008)
Lĩnh vực hoạt động Tổng
số
Tỷ
lệ (%)
Trung
ương
Địa
phương
Nông nghiệp-lâm
nghiệp
801 14,
5
141 660
Thủy sản 48 0,9 2 46

Khai thác 135 2,4 63 72
Công nghiệp khai
thác mỏ
1515 27,
3
599 916
Sản xuất và phân
phối điện, nước, khí đốt
73 1,3 1 72
Xây dựng 946 17,
1
405 541
Thương mại và sửa
chữa
1133 20,
5
421 712
Khách sạn và nhà
hàng
182 3,3 30 152
Vận tải và thông tin
liên lạc
246 4,4 95 151
Tài chính và tín
dụng
75 1,4 21 54
Khác 377 6,9 99 278
Tổng 5531 100 1877 3654
Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2008
Nhìn chung, các doanh nghiệp nhà nước chiếm lĩnh hầu hết các lĩnh vực sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ sản xuất, dịch vụ quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Phần lớn các sản phẩm trọng yếu của nền kinh tế quốc dân là do doanh nghiệp nhà
nước sản xuất, tron đó có những sản phẩm quan trọng như: điện chiếm 99,9% thuốc
trừ sâu 89,6%; xi măng 71,2%; đường kính và đường luyện 75%; bia 70,6%; thuốc lá
99,2%; sản xuất sợi 91,8%; dệt vải 47%; sản xuất giấy 64,7%; sản xuất thép 42,8%...
Về cơ cấu tổng giá trị tài sản của các doanh nghiệp nhà nước theo nghành
nghề: ngành công nghệ chiếm tỷ trọng lớn nhất 31,9%; tiếp đến là tài chính- tín dụng
26%; xây dựng 7,2%; thương mại- dịch vụ 6,7%; nông nghiệp 5,6%...
Trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước, phải kể đến vai trò tích cực của các
doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp. Điều này thể hiện ở tốc độ tăng
trưởng của toàn ngành công nghiệp và công nghiệp quốc doanh trong giai đoạn
1996- 2000 và từ 2000 đến nay. Thời kỳ này giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp
có tốc độ tăng bình quân 9,5%. Tỷ trọng công nghiệp quốc doanh trong giá trị sản
xuất công nghiệp tương đối cao và cao hơn so với tỉ trọng của doanh nghiệp nhà
nước trong nền kinh tế. Năm 2005 trong khu vực công nghiệp, doanh nghiệp nhà
nước chiếm tỉ trọng 40% và tăng 11,7%. Các doanh nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp đạt
tốc độ tăng trưởng 12,2%, chủ yếu là nhờ 13 đơn vị Tổng công ty đạt cao hơn so với
tốc độ tăng trưởng chung của ngành.
Nhiều ngành sản xuất công nghiệp quốc doanh đã tăng sức cạnh tranh trên thị
trường trong nước và quốc tế, mà điểm sáng là ngành than đã hoàn thành kế hoạch
2005 trước 2 năm. Các sản phẩm công nghiệp nhà nước tăng khá nhanh như: sản
phẩm ô tô lắp ráp tăng 80%, quạt điện và dân dụng tăng 37,6%; quần áo dệt kim tăng
51%; động cơ Diezen tăng 31,5%; quần áo may sẵn tăng 25%; đường mật tăng
37,6%... Hiệu quả hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp đã tăng lên so với
nhiều năm trước do đầu tư chiều sâu, hiện đại hóa qui luật sản xuất, giảm chi phí
trung gian.
Trong ngành giao thông vận tải, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà
nước vẫn được duy trì. Năng lực sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước trong
ngành tiếp tục được nâng cao, thể hiện ở một số chỉ tiêu về doanh thu, nộp ngân
sách, số lượng lao động và giá trị tài sản cố định.

- Về doanh thu: năm 2008 tổng số doanh thu của các doanh nghiệp nhà nước
thuộc bộ Giao thông vận tải đạt 27125 tỷ đồng, tăng 14,7% so với mức 23641 tỷ đồng
năm 2007.
- Về chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước: năm 2008 số nộp ngân sách của doanh
nghiệp nhà nước thuộc ngành giao thông vận tải đạt 1635 tỷ đồng, tăng 6% với số
phải nộp.
Trong lĩnh vực thương mại- dịch vụ tiêu dùng, các doanh nghiệp nhà nước vẫn
đóng góp một khối lượng đáng kể trong thu nhập của toàn ngành. Đóng góp của khu
vực nhà nước trong lĩnh vực thương mại dịch vụ tiêu dùng chiếm khoảng 16-18% chủ
yếu trong các lĩnh vực: thương nghiệp, du lịch, khách sạn… Tuy vậy, xu thế đóng góp
trong thu nhập của khu vực nhà nước trong lĩnh vực này có xu hướng giảm cùng với
sự gia tăng của khu vực tư nhân. Điều này phản ánh một xu thế hợp quy luật của kinh
tế thị trường với sự “nhường sân” của khu vực nhà nước cho khu vực tư nhân trong
một số lĩnh vực
Bảng 2.3 Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo ngành kinh tế tính đến ngày 1-
7-2008
Tổn
g số

ng lâm
nghiệp

ng nghiệp
Xây dựng,
vận tải,bưu điện
Thươ
ng nghiệp,
khách sạn, nhà
hàng,du lịch
N

gân
hàng
Tổng
số
Trung
ương
Địa
phương
100
100
100
15,
2
6,7
20
29,
9
34,
8
27,
1
23,5
27,4
21,2
23,4
21,8
24,3
8
9
,3

7
,4
Nguồn: Báo cáo của ban chỉ đạo Đổi mới doanh nghiệp nhà nước
3. Loại hình doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước đã tồn tại phổ biến từ lâu trong nền kinh tế ở nước
ta. Tuy vậy mãi đến năm 1995, mới có những nỗ lực đầu tiên đầu tiên để “công ty
hóa” về mặt ý niệm đối với doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể là theo luật doanh nghiệp
nhà nước năm 1995, doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư
vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Cũng theo luật này,
doanh nghiệp nhà nước tồn tại dưới các hình thức: doanh nghiệp độc lập, tổng công
ty, doanh nghiệp thành viên của tổng công ty. Và theo luật Doanh nghiệp nhà nước
năm 2003 thì doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ hoặc có cổ phần, phần góp vốn chi phối được tổ chức dưới hình thức
công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
So sánh khái niệm doanh nghiệp nhà nước theo Luật doanh nghiệp 1995 với
khái niệm luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 thì có một số thay đổi: có nội dung
rộng hơn, bao gồm không chỉ doanh nghiệp 100% sở hữu nhà nước, mà cả doanh
nghiệp nhà nước nắm cổ phần hay có phần góp vốn chi phối; loại hình doanh nghiệp
cũng đa dạng hơn, bao gồm cả công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần;
không xác định mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp nhà nước là thực hiện các mục tiêu
kinh tế xã hội do nhà nước giao; và cuối cùng là không còn khái niệm doanh nghiệp
công ích. Tuy vậy, có thể nói, phần lớn các doanh nghiệp nhà nước cho đến nay vẫn
chưa thực sự là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần với đầy đủ những
thuộc tính của chúng.
Trong giai đoạn trước tháng 7-2006, khái niệm “doanh nghiệp” được định
nghĩa khác nhau trong các văn bản pháp luật khác nhau, và được áp dụng phân biệt
theo thành phần kinh tế. Trong khi doanh nghiệp do tư nhân trong nước sở hữu lấy
mục tiêu sinh lợi làm tiêu chí đặc trưng hàng đầu, doanh nghiệp trong khu vực kinh
tế nước ngoài và khu vực kinh tế nhà nước chủ yếu dựa vào tiêu chí sở hữu. Thậm chí

lợi nhuận không được coi là mục tiêu chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước.
Về loại hình doanh nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân trong nước được lựa chọn
cả bốn loại là đặc trưng phổ biến trong kinh tế thị trường; còn khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài chỉ có duy nhất công ty trách nhiệm hữu hạn. Loại hình doanh nghiệp
trong khu vực kinh tế nhà nước nhìn chung không tương thích với các loại hình
doanh nghiệp của nền kinh tế thị trường. Sau năm 2003, doanh nghiệp nhà nước mới
bắt đầu sử dụng loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Bản chất và nội dung của cùng một loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế khác nhau là không giống nhau. Ví dụ, việc các bên hay các thành viên phải
chịu rủi ro tương ứng với tỷ lệ góp vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn của khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài là khá xa lạ với đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu
hạn nói chung và công ty trách nhiệm hữu hạn của khu vực kinh tế tư nhân trong
nước nói riêng. Các loại hình khác của doanh nghiệp nhà nước như tổng công ty nhà
nước, công ty nhà nước độc lập…không được định nghĩa rõ về bản chất và các dấu
hiệu pháp lý đặc trưng.
Nói tóm lại trước tháng 7-2006, khái niệm “doanh nghiệp” được phân biệt
theo thành phần kinh tế; và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
thì không giống nhau về bản chất, về loại hình doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư
nhân trong nước về cơ bản là có bước phát triển vượt trội so với các thành phần kinh
tế khác.
Vào những năm 2005-2006, áp lực và yêu cầu gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới WTO ngày càng gia tăng; và việc gia nhập WTO cũng đã ngày càng trở nên
bức thiết. Một khuôn khổ pháp lý thống nhất về đầu tư và thương mại, bình đẳng,
không phân biệt đối xử và phù hợp với các nguyên tắc thương mại quốc tế là một
trong những điều kiện không thể thiếu để nước ta có thể gia nhập WTO. Vì vậy, hàng
loạt luật có liên quan đã phải được ban hành mới hoặc bổ sung, sửa đổi, trong số đó
có các luật về đầu tư và doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp 2005 ra đời và có hiệu lực
từ ngày 1-7-2006; thay thế luật doanh nghiệp 2000, cùng với luật năm 2003 và các
qui định về doanh nghiệp của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Như vậy tháng 7-2006 lần đầu tiên chúng ta có một luật doanh nghiệp duy

nhất, áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử đối với tất cả các doanh nghiệp,
không phân biệt tính chất sở hữu; người trong nước và người nước ngoài có quyền
tự lựa chọn bất kỳ loại hình nào trong 4 loại hình doanh nghiệp do luật qui định:
Doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ
phần. Cũng từ thời điểm đó không có hiện tượng “đồng sang, dị mộng” khi nói và
viết về doanh nghiệp. Khái niệm doanh nghiệp, bản chất và thuộc tính của các loại
hình doanh nghiệp đã được qui định, được hiểu và áp dụng một cách thống nhất.
4. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước
Qui mô của doanh nghiệp nhà nước đã được nâng lên khi thực hiện các chính
sách đổi mới của Chính phủ trong khu vực này. Số doanh nghiệp nhà nước có vốn
dưới 5 tỷ đồng đã giảm gần 50% trong khi số doanh nghiệp nhà nước có vốn trên 10
tỷ đồng đã tăng tương ứng theo thời gian từ 10% lên gần 20%. Vốn bình quân một
doanh nghiệp nhà nước đã tăng từ 3,3 tỷ đồng lên 18 tỷ đồng và tính tổng giá trị tài
sản của khối doanh nghiệp nhà nước đã trên 572000 tỷ đồng. Tuy nhiên các doanh
nghiệp nhà nước có số vốn dưới 5 tỷ đồng vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong số các doanh
nghiệp nhà nước(75,72%), các doanh nghiệp có vốn trên 5 tỷ đồng vẫn chiếm tỉ trọng
nhỏ. Mặc dù qua một thời gian đổi mới, qui mô của các doanh nghiệp nhà nước đã
tăng lên rõ rệt tuy nhiên số lượng doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn vẫn chiếm
một tỉ trọng rất thấp. Điều này chứng tỏ rằng chính phủ cần phải nỗ lực hơn tro ng
việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
Cùng với việc nâng cao qui mô chung của doanh nghiệp nhà nước, qua sắp xếp
và củng cố đã có một số doanh nghiệp nhà nước qui mô lớn theo mô hình tổng công
ty nhằm tạo khả năng hội nhập với môi trường thương mại quốc tế của các doanh
nghiệp Việt Nam. Các tổng công ty là lực lượng nòng cốt, chủ lực thúc đẩy phát triển
kinh tế, đảm bảo cân đối lớn, cung cấp các sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc
dân như điện, than, xi măng, phân bón, xăng dầu, giấy viết, thép…Các tổng công ty đã
cung cấp cho nền kinh tế quốc dân 98% sản lượng điện, 97% sản lượng than, 54% sản
lượng xi măng, 52% sản lượng thép, 48% sản lượng giấy, 67% sản lượng thuốc lá
điếu, các ngân hàng thương mại nắm giữ 70% thị phần vốn vay… Các tổng công ty
nhà nước là đầu mối xuất khẩu trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu cao như

dầu khí, dệt may, lương thực, cao su, cà phê, than. Tổng kim ngạch xuất khẩu là 4,7 tỷ
đô la Mỹ , bằng 31,9% tổng giá trị xuất khẩu cả nước.
Trong lĩnh vực công nghiệp, doanh thu nhà nước chiếm tỷ trọng 40%. Nhiều
ngành sản xuất công nghiệp quốc doanh đã tăng sức cạnh tranh trên thị trường với
năng suất tăng cao. Các sản phẩm công nghiệp nhà nước tăng khá nhanh. Sản phẩm
ô tô lắp ráp tăng 80%, quạt điện và dân dụng tăng 37,6%; quần áo dệt kim tăng 51%;
động cơ Diezen tăng 31,5%; quần áo may sẵn tăng 25%; đường mật tăng 37,6%...
Hiệu quả hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp đã tăng lên so với nhiều năm
trước do đầu tư chiều sâu, hiện đại hóa qui luật sản xuất, giảm chi phí trung gian.
Trong lĩnh vực thuơng mại- dịch vụ- tiêu dùng, các doanh nghiệp nhà nước vẫn
đóng góp một khối lượng đáng kể trong thu nhập của toàn ngành. Điều đó thể hiện
trong bảng sau:
Bảng 2.4 Tỷ trọng thành phần kinh tế trong tổng mức bán lẻ và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng
Năm Tổng số Nhà nước Tập thể Tư nhân
2004 100 18,6 0,7 80,7
2005 100 17,8 0,8 81,4
2006 100 16,7 1 82,3
2007 100 16,4 1,3 82,3
2008 100 16,2 1,3 82,5
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam và thế giới 2007-2008.
II. Thực trạng quá trình cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam
1. Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
Trước kia ở Việt Nam tồn tại các liên hiệp xí nghiệp, các xí nghiệp liên hợp,
tổng công ty kiểu cũ. Cùng với quá trình chuyển đổi, đổi mới doanh nghiệp nhà nước
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì các liên xí nghiệp, xí nghiệp, xí
nghiệp liên hợp được sắp xếp lại thành các tổng công ty hiện nay.
Về vấn đề tiếp tục quá trình đổi mới tổng công ty nhà nước, Đại hội IX của
Đảng nêu rõ: “Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả các tổng công ty theo mô hình

công ty mẹ- con, kinh doanh đa ngành tổng hợp trên cơ sở ngành chuyên môn hóa,
góp vốn thuộc nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh, làm nòng cốt để
hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh ở một số ngành và lĩnh vực trọng yếu của
nền kinh tế quốc dân như viễn thông, hàng không, dầu khí…”
Theo quyết định 58/2002/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép 33 đơn
vị xây dựng đề án thí điểm chuyển công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình
công ty mẹ- con và 11 đơn vị được quyết định cho phép chuyển đổi chính thức. Tiếp
tục tiến thêm một bước nữa trong việc áp dụng các mô hình sản xuất hiện đại theo
Chỉ thị số 01/2003/CT-TTg, các tổng công ty như Bưu chính viễn thông, Điện lực, Dầu
khí, Xây dựng đang chỉnh đề án thành lập tập đoàn kinh tế.
Để thể chế hóa chủ trương “Chuyển các doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100%
vốn sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước...” của
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa IX và chủ trương “Khẩn trương chuyển các
doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn sang hoạt động theo chế độ công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên” của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 Khóa IX và
hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp nhà nước và Luật Doanh nghiệp, Chính phủ
và các bộ, ngành đã ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội
thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Để triển khai thực hiện chuyển đổi, phần lớn các bộ ngành, ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tổng công ty nhà nước đã tổ chức quán triệt,
tập huấn về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do Nhà nước là chủ sở hữu cho các cơ quan và doanh nghiệp có liên quan
để nghiên cứu tổ chức thực hiện.
Đến tháng 10/2009, cả nước có 321 công ty nhà nước độc lập và đơn vị thành
viên của tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước (bao gồm công ty thành viên hạch
toán độc lập và doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà
nước) chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Trong đó, những
bộ, ngành, địa phương, tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước có số lượng doanh
nghiệp tương đối lớn chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

là: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (20 doanh nghiệp), Bộ Công thương (29
doanh nghiệp), Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (15 doanh
nghiệp), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (9 doanh nghiệp), thành phố Hồ Chí Minh (25
doanh nghiệp), tỉnh Điện Biên (19 doanh nghiệp), Quảng Ninh (13 doanh nghiệp),
Nam Định (11 doanh nghiệp). Phần lớn doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi là doanh
nghiệp hạch toán độc lập (202/ 321 doanh nghiệp, chiếm gần 63%). Tuy nhiên, đa số
các doanh nghiệp được thực hiện chuyển đổi trong giai đoạn 2001-2005 theo Nghị
định 63/2001/NĐ-CP. Đồng thời với quá trình chuyển đổi, một số bộ, ngành, địa
phương, tổng công ty, tập đoàn kinh tế đã tiến hành thành lập mới một số công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Bảng 2.5 Số lượng công ty TNHH một thành viên được chuyển đổi
S
TT
Đơn vị
Chuyể
n đổi
Trong đó, đơn vị
hạch toán độc lập
1
Trung ương
Trong đó:
111 57
- Bộ, ngành 60 23
- Tổng công ty, tập đoàn
kinh tế
51 34
2 Địa phương 210 145
Tổng 321 202
Nguồn: Báo cáo sơ kết chuyển đổi DNNN thành công ty TNHH- Bộ kế hoạch và
đầu tư.

Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp chuyển đổi như sau:
- Công ty nhà nước độc lập thuộc bộ, ngành, địa phương: chiếm 77,78%.
- Công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty: chiếm 15,74%.
- Doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc: chiếm 6,48%.
- Tổng công ty, công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ-công ty con hoặc tập đoàn kinh
tế: chiếm 0%.
Tuy nhiên, do có sự thay đổi về tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp do
Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ nên đến hết tháng 10 năm 2009, đã có trên 13%
số doanh nghiệp đã chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
lại được chuyển thành công ty cổ phần. Đồng thời, trong thời gian tới sẽ có nhiều
doanh nghiệp đã chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
nhưng không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn sẽ tiếp tục chuyển thành công ty cổ
phần.
Về mô hình tổ chức quản lý, phần lớn công ty được báo cáo áp dụng mô hình
Chủ tịch công ty (chiếm 68,84%); trong đó, tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng mô hình Chủ
tịch công ty kiêm Tổng giám đốc (Giám đốc) chiếm tới 54,29%. Tỷ trọng của doanh
nghiệp địa phương áp dụng mô hình Chủ tịch công ty kiêm Tổng giám đốc (Giám đốc)
cao hơn rất nhiều (72,5%) so với doanh nghiệp thuộc các bộ, ngành (10%) và doanh
nghiệp thuộc tổng công ty, tập đoàn kinh tế (17,5%). Đồng thời có một điểm đáng lưu
ý là, có tỷ lệ khá cao (tới gần 45,5%) số doanh nghiệp chuyển đổi thành công ty trách

×