Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

tinh thần nhân đạo trong tập thơ “người làm vườn” của r. tagore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.76 KB, 85 trang )

Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
1
z"
z"
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NV
BỘ MÔN NGỮ VĂN



NGUYỄN LÊ NHÃ PHƯƠNG
MSSV: 6106422





TINH THẦN NHÂN ĐẠO TRONG TẬP THƠ
“NGƯỜI LÀM VƯỜN” CỦA R. TAGORE



Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn





Cán bộ hướng dẫn: Ths.GV. TRẦN VŨ THỊ GIANG LAM











Cần Thơ, năm 2013




Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
2
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Giới thuyết về khái niệm tinh thần nhân đạo
1.2. Truyền thống nhân đạo được thể hiện trong thơ ca Ấn Độ

1.3. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả R.Tagore
1.3.1. Đôi nét về cuộc đời tác giả
1.3.2. Đôi nét về sự nghiệp sáng tác của tác giả
1.4. Vài nét về thơ Tagore và tác phẩm “Người làm vườn”
1.4.1. Vài nét về thơ Tagore
1.4.2. Giới thiệu về tác phẩm “Người làm vườn”
CHƯƠNG 2: TINH THẦN NHÂN ĐẠO THỂ HIỆN QUA NỘI
DUNG TRONG TẬP THƠ “NGƯỜI LÀM VƯỜN” CỦA
R.TAGORE
2.1. R.Tagore ca ngợi về tình yêu đôi lứa
2.1.1. Quan niệm của R.Tagore về tình yêu
2.1.2. Những cung bậc cảm xúc trong tình yêu của R.Tagore
2.2. Tinh thần nhân đạo thể hiện qua lòng yêu con người
2.2.1. Lòng yêu thương phụ nữ
2.2.2. Lòng yêu mến trẻ em
2.2.3. Lòng cảm thông với nỗi khổ cự c của những người nghèo khổ
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
3
2.3. Tinh thần nhân đạo thể hiện qua lòng yêu cuộc sống
2.3.1. Lòng yêu thiên nhiên
2.3.2. Lòng yêu quê hương, đất nước
2.3.3. Lòng yêu hòa bình và tinh thần chống chiến tranh
2.3.4. Niềm lạc quan tư tưởng về cuộc sống
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TINH THẦN NHÂN
ĐẠO TRONG TẬP THƠ “NGƯỜI LÀM VƯỜN” CỦA
R.TAGORE
3.1. Nghệ thuật so sánh trong tập thơ “Người làm vườn”
3.2. Nghệ thuật điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu trong tập thơ “Người làm vườn”
3.3. Nghệ thuật ẩn dụ trong tập thơ “Người làm vườn”


PHẦN KẾT LUẬN



















Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
4
1. Lý do chọn đề tài
Ấn Độ là một trong những nền văn hóa lớn của nhân loại, nó ảnh hưởng rất
nhiều đến các nước khu vực Đ ông Nam Á trong đó có Việt Nam, điều này có thể thấy
trong các truyện cổ dân gian, trong các kiến trúc đền chùa phật và các tháp cổ của dân
tộc Chăm ở nước ta. Vì vậy không khó để hiểu tại sao lại đưa văn học Ấn Độ vào
chương trình dạy học ở nước ta, vì điều này thật sự cần thiết và nó góp phần làm cho

văn học Ấn Độ ngày càng phổ biến ở nước ta.
Trong nền văn học đồ sộ của Ấn Độ, không thể bỏ qua hai bộ sử thi nổi tiếng là
“Ramayana” và “Mahabharata” đây là một niềm tự hào của người Ấn Độ. Biruni
một học giả Ấn Độ đã viết trong cuốn “Ấn Độ” của mình xuất bản năm 1030 như sau:
“Người Ấn Độ có cuốn sách mà mình tôn kính đến mứ c khẳng định dứt khoác rằng,
dường như tất cả những gì có trong cuốn sách này thì không có trong cuốn sách khác.
Người ta gọi đó là Mahabharata” [1; tr.65]. Nhưng không chỉ có “Ramayana” và
“Mahabharata” mới là niềm tự hào của đất nước Ấn Độ mà còn có một đóng góp
quan trọng góp phần khẳng định thêm vị thế của nền văn học Ấn Độ chính là
Rabindranath Tagore.
Có thể nói Tagore là một đại thi hào của Ấn Độ, ông không chỉ là một nhà thơ,
nhà văn nổi tiếng mà còn là một nhà viết kịch lớn, một học sĩ có tài, một nhạc sĩ, một
nhà giáo, một nhà hoạt động xã hội, một vị hiền triết hiểu sâu biết rộng. Có thể tóm
gọn lại rằng Tagore thật sự là một thiên tài của Ấn Độ, trong số các tác phẩm đồ sộ
của mình Tagore thành công nhất ở lĩnh vực thơ ca. Những sáng tác của ông thường
thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, mỗi trang thơ là một tấm lòng thương cảm với
những số phận, những kiếp người bần cùng trong xã hội, không chỉ dừng lại ở đó thơ
Tagore còn thể hiện một tâm trạng suy nghĩ, băn khoăn về tình yêu, tất cả những điều
này đều được thể hiện trong tập thơ “Người làm vườn” của Rabindranath Tagore.
Tinh thần nhân đạo được thể hiện rất rõ trong tập thơ này, đó là một tấm lòng
yêu thương con người và cuộc sống, một tấm lòng ưu ái phụ nữ, một tình yêu thương
trẻ em và cuối cùng là một tình yêu nam nữ trong sáng và thuần khiết, mỗi dòng thơ
đều thấm đượm những tình cảm sâu sắc của tác giả. Vì vậy, tìm hiểu về tinh thần nhân
đạo trong tập thơ “Người làm vườn” thật sự là một việc làm rất cần thiết và có ý
nghĩa.
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
5
Dĩ nhiên không chỉ có tập thơ “Người làm vườn” mới thể hiện sâu sắc tinh
thần nhân đạo của nhà thơ Tagore mà một số tập thơ khác như tập thơ “Thơ dâng”,

“Trăng non”, “Mùa hái quả”, “Những con chim bay lạc”… cũng đã thể hiện được
tinh thần nhân đạo của tác giả nhưng ở tập thơ “Người làm vườn” tinh thần nhân đạo
thể hiện khá rõ nét. Tập thơ là tiếng lòng của Tagore về con người và cuộc sống,
những tình cảm lớn lao, những suy nghĩ triết lí của ông đã được thể hiện một cách trọn
vẹn trong tập thơ này. Đ ó cũng chính là lí do người viết chọn đề tài “Tinh thần nhân
đạo trong tập thơ Người làm vườn của Tagore”.

2. Lịch sử vấn đề:
Ở Việt Nam, hầu hết những sáng tác của ông từ tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch
cho đến thơ đều được giới phê bình nghiên cứu và nhiều dịch giả quan tâm, trong đó
nổi bật nhất là thơ. Và tập thơ “Thơ dâng” đã làm tên tuổi ông nổi tiếng hơn trên văn
đàn thế giới với giải Nobel năm 1913, và được xem là “Kì công thứ hai” trong lịch sử
văn học Ấn Độ sau “Kì công thứ nhất” là tác phẩm “Sakuntala” của nhà thơ lớn
Kalidasa, một tổng hợp của thơ ca Ấn Độ từ thời Veda, qua văn học phật giáo đến thời
kỳ phục hưng dân tộc. Tập thơ “Thơ dâng” ra đời khẳng định tài năng ngày càng
mạnh mẽ của Tagore. Nhiều công trình nghiên cứu về thơ Tagore lần lượt ra đời,
chẳng hạn như trong quyển: “Tuyển tập tác phẩm R.Tagore tập 2”, giáo sư Lưu Đức
Trung đã tuyển chọn và giới thiệu nhiều bài thơ tiêu biểu của đại thi hào R.Tagore.
Đặc biệt ở phần phụ lục tác giả cũng đã cung cấp một số bài nghiên cứu hoàn chỉnh
hoặc trích lược về R.Tagore của các tác giả trong và ngoài nước như: “Ảnh hưởng
của Tagore đối với thơ ca hiện đại Ấn Độ” do Mạnh Chương dịch của tác giả
V.K.Gokak (Ấn Độ), bài viết đã khẳng định được tầm ảnh hưởng sâu rộng của đại thi
hào Tagore đối với nền văn học Ấn Độ nói riêng và thế giới nói chung, những sáng tác
của ông không chỉ có giá trị trong một thời điểm nhất định mà nó tồn tại mãi mãi cùng
thời gian và ảnh hưởng sâu sắc tới các sáng tác thơ ca về sau của nền văn học hiện đại
Ấn Độ. Các bài “Rabindranath Tagore” của tác giả W.B.Yeats (Ireland), bài “Về
Tagore” của I.Êrenbua (Nga), hay bài “Tagore với chúng tôi” của Nira Chanhdhuri
(Ấn Độ) đều tập trung chủ yếu ca ngợi cuộc đời, sự nghiệp cũng như ca ngợi tài năng
xuất chúng của R.Tagore trong nhiều lĩnh vực và tất nhiên không thể thiếu thơ ca. Mỗi
bài viết là mỗi cách nhìn khác nhau của từng tác giả về nhà thơ Tagore nhưng các bài

Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
6
viết đều có một điểm chung nhất định là nhìn thấy ở Tagore một con người không chỉ
sống cuộc sống của riêng mình mà ông sống cuộc sống vì mọi người với một tình yêu
thương to lớ n. Bài viết “Tagore nhà thơ tình nổi tiếng” của Lưu Đức Trung thì chú
trọng đến những nét đặc sắc trong thơ tình yêu của Tagore, tác giả cũng đã đi vào phân
tích những hình ảnh tình yêu trong nhiều bài thơ tiêu biểu.
Bên cạnh đó còn có một số bài tiểu luận, bài trên các báo cũng nghiên cứu về
thơ Tagore, chẳng hạn như bài “Thơ R.Tagore – cuộc phối hôn giữa các nền văn
hóa” của tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh. Bài viết nêu lên sự kết hợp một cách đặc sắc và
hài hòa giữa nền văn hóa truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, phương tây và
phương đông trong các tác phẩm thơ trữ tình – triết lí của Tagore. Sự sáng tạo và nét
độc đáo làm nên cái riêng biệt ở thơ Tagore là cách mà ông tiếp thu và chọn lọc những
cái hay cái đẹp từ các nền văn hóa khác nhau làm thành cái riêng của mình và đưa vào
trong thơ ca của ông. Ngoài ra tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh còn có một bài viết về những
hình ảnh thiên nhiên trong thơ Tagore là bài “Thiên nhiên trong Thơ dâng của
Tagore”, bài viết chủ yếu đi vào phân tích ý nghĩa của hình ảnh thiên nhiên và phân
loại nhữ ng hình ảnh đó trong tập “Thơ dâng” ra làm 3 nhóm là những hình ảnh thuộc
về vũ trụ, những hình ảnh chỉ hiện tượng động thực vật trên trái đất và những hình ảnh
chỉ sự vận động dịch chuyển của thời gian. Những hình ảnh thiên nhiên vốn dĩ rất bình
thường chẳng có gì đáng nói nhưng với Tagore đằng sau những hình ảnh thiên nhiên
bình thường đó là cả một thế giới tinh thần huyền diệu, chứa đựng biết bao nhiêu điều
bí ẩn của trời đất. Tiế n sĩ Nguyễn Văn Hạnh khẳng định trong tập “Thơ dâng” những
hình ảnh thiên nhiên bình thường đã được hồi sinh và tái tạo với muôn vàn hình thù và
hương sắc, đồng thời nói hộ những tiếng thì thầm muôn đời của con người với vũ trụ
và thiên nhiên trong một sự thống nhất vĩnh hằng. Bài “Chất trí tuệ - điểm sáng thẩm
mĩ trong thơ Tagore” của Nguyễn Thị Bích Thúy đăng trên tạp chí văn học số 4/1994,
khẳng định chất trí tuệ được kết tinh trong toàn bộ hình tượng thơ cùng với bút pháp
nghệ thuật đặc sắc của Tagore đã thể hiện một tầm tư tưởng và sự sáng tạo nghệ thuật

lớn lao của ông, tác giả cũng nhấn mạnh chất trí tuệ, sự suy tư, tính triết lí đã trở thành
dấu ấn, thành phương tiện để biểu hiện trong thơ Tagore. Trong cuốn “Văn học Ấn
Độ” giáo sư Lưu Đức Trung đã nhận xét một cách rất tinh tế: “Đặc điểm nổi bật trong
nghệ thuật thơ của Tagore mà nhiều nhà nghiên cứu đã nói đến là giàu chất hiện thực.
Tagore không phải là nhà thơ hiện thực thuần túy nhưng nội dung thơ ca của ông đều
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
7
phản ánh cuộc đời và sự sống. Cuộc đời và sự sống đó được Tagore bọc ngoài bằng
một lớp từ ngữ, một số hình ảnh tượng trưng có tính chất tôn giáo, siêu hình thần bí
như Chúa Đ ời, Thượng Đế, Thầy, Người…” [15; tr.139]. Vì Tagore sống cuộc sống
không phải của riêng mình mà là cuộc sống vì mọi người nên thơ ca của ông cũng
phản ánh rõ điều đó. Mặc dù thơ ông được bao bọc bởi một lớp từ ngữ và hình ảnh
tượng trưng có tính chất tôn giáo nhưng nội dung chủ yếu và cốt lõi đều phản ánh cuộc
đời thực, những câu chuyện, hình ảnh ông sáng tạo ra đều là những chuyện thực,
người thực từng xảy ra trên đất nước Ấn Độ nghèo khổ và đau thương của ông. Tagore
sử dụng yếu tố hiện thực như một tấm gương phản chiếu lại cuộc sống mà ông đang
chứng kiến từng ngày, từng giờ, chân thực và đầy cảm xúc. Ở cuối bài viết của mình,
giáo sư Lưu Đức Trung còn nêu lên tác dụng to lớn từ việc sử dụng hình ảnh tượng
trưng: “Chính nhờ vận dụng thủ pháp biểu hiện tượng trưng trên đây mà làm cho thơ
ca của ông dễ đi vào lòng người đọc bằng lí trí và tình cảm. Đó là thủ pháp nghệ thuật
độc đáo trong phong cách thơ lãng mạn của Tagore.” [15; tr.142]. Sự kết hợp hài hòa
và nhuần nhuyễn giữa các biện pháp nghệ thuật đã làm cho thơ Tagore trở nên nổi bật
và in sâu vào trong tâm tưởng người đọc giữa vô vàn các tác phẩm văn học khác.
Khi đi sâu vào phân tích sức mê hoặc, quyến rũ trong nghệ thuật bài thơ số “28”
trong tập thơ “Người làm vườn” của Tagore, tác giả Lê Lưu Oanh đã viết trong cuốn
“Rabinđranath Tagore trong nhà trường” rằng những hình ảnh so sánh và tượng
trưng về tình yêu, về trái tim và tâm hồn của người đang yêu trong thơ của ông được
mĩ lệ hóa và trở nên lung linh với những sắc màu huyền diệu. Cũng cùng trong cuốn
“Rabinđranath Tagore trong nhà trường” Nguyễn Thanh Hưng cũng có bài “Hình

ảnh chúa trong Thơ dâng”, bài viết đã chỉ ra việc Tagore sử dụng nhiều hình ảnh của
Chúa và Thượng đế trong thơ của ông, bên cạnh đó ông cũng sử dụng những câu
chuyện thần thoại, truyền thuyết và cổ tích để nói về cuộc sống nơi trần gian nhưng đó
chỉ là những hình ảnh, những cốt truyện Tagore dùng để thể hiện ý tưởng của mình.
Về tinh thần nhân đạo trong những sáng tác thơ ca của Tagore, trong “Tuyển
tập tác phẩm R.Tagore tập 2”, giáo sư Lưu Đức Trung cũng đã giới thiệu bài “Tinh
thần nhân đạo chủ nghĩa trong thơ Tagore” của Cao Huy Đỉnh với nội dung chủ yếu
là nêu cao được tư tưởng ca ngợi cuộc đời, ca ngợi con người trần thế, phê phán thế
giới thần linh phù phiếm của Tagore, mong mỏi cho con người được sống một cuộc
sống yên lành và hạnh phúc. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn An Thụy trường Đại Học
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
8
Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh với đề tài: “Thế giới trẻ thơ trong trăng non của
R.Tagore” thì đề cập đến tình yêu thương vô bờ của Tagore dành cho trẻ thơ, từng
tính cách, từ ng tâm hồn trẻ em trong thơ của ông nổi bật với vẻ đẹp hoàn mĩ như
những viên ngọc sáng lung linh không ngừng phát ra thứ ánh sáng diệu kì. Mặt khác
trong bài viết “Rabindranath Tagore, tình yêu và lòng nhân ái cao cả dâng hiến
nhân loại” của tác giả Lê Thành Nghị đã đề cập tới tình yêu trong tập thơ “Người làm
vườn” của Tagore như sau: “Có hàng trăm con đường dẫn tới tình yêu. Tagore lựa
chọn con đường mà người lao động vẫn thường chọn. Đó là lòng chân thành. Nó vô
cùng giản dị, nhưng cũng vô cùng thiêng liêng, vô cùng khó khăn với nhữ ng ai kém
bản lĩnh.” [22; tr.3]. Tác giả khẳng định quan niệm về tình yêu của Tagore trong tập
thơ “Người làm vườn” là mộ t tình yêu chân thành, giản dị xuất từ chính trái tim của
mỗi con người, tình yêu đó không được bao bọc bởi những vật chất xa hoa, hào
nhoáng cũng không quá xa vời mà tình yêu đó rất gần gũi, nó tồn tại ngay trong chính
trái tim và cuộc sống của mỗi con người nhưng có thể cảm nhận được tình yêu đó hay
không là một việc không hề dễ dàng. Cũng trong tập thơ “Người làm vườn” tác giả
Phạm Văn Tình đã có bài viết “Chất triết lí trong bài thơ tình số 28 của R.Tagore”,
bài viết đã nêu lên được những phát hiện mới lạ, độc đáo về tình yêu của Tagore. Nếu

các nhà thơ khác khi viết về tình yêu thường đi vào những trạng thái, cung bậc cảm
xúc thì Tagore không dừng lại ở đó mà hướng đến những triết lí nhân sinh và quy luật
của tình yêu muôn đời. Trong luận văn của sinh viên Hồ Tuấn Phong lớp cử nhân Ngữ
Văn khóa 35 - Khoa Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn - trường Đại Học Cần Thơ với
đề tài “Thế giới tình yêu trong tập thơ Người làm vườn của R.Tagore” đã làm rõ
được tình yêu trong tập thơ “Người làm vườn” với những cung bậc cảm xúc vui,
buồn, hạnh phúc đan xen tạo nên một thế giới tình yêu mang đầy màu sắc. Nhìn chung
các công trình nghiên cứu trên chỉ tập trung làm rõ cái hay, cái đẹp về nội dung, nghệ
thuật cũng như tầm ảnh hưởng to lớn của thơ Tagore đối với nền văn học Ấn Độ và thế
giới, còn về vấn đề tinh thần nhân đạo thì chỉ được đề cập đến như một đặc trưng
không thể thiếu trong thơ Tagore chứ chưa được phân tích kĩ. Trong luận văn này
người viết sẽ tìm hiểu tinh thần nhân đạo của Tagore được thể hiện rõ nét qua thơ ca
của ông mà cụ thể ở đây là “Tinh thần nhân đạo trong tập thơ Người làm vườn của
Tagore”. Tập thơ “Người làm vườn” được in trong “R.Tagore thơ” của nhà xuất bản
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
9
văn học là đầy đủ và trọn vẹn nhất, người viết sẽ dựa vào bản dịch thơ này để tìm hiểu
về đề tài của mình.
Tóm lại những công trình nghiên cứu về tinh thần nhân đạo trong thơ Tagore
không nhiều nhưng đó lại là một kiến thức nền tảng để người viết có thể tiếp thu và
chọn lọc để triển khai đề tài của mình. Dựa vào công trình nghiên cứu của những
người đi trước về thơ Tagore nói chung và tập thơ “Người làm vườn” nói riêng, người
viết sẽ đi vào tìm hiểu tinh thần nhân đạo được thể hiện như thế nào trong tập thơ
“Người làm vườn” của Tagore.

3. Mục đích nghiên cứu:
Tagore là một nhà thơ lớn của Ấn Độ, ông không những có những đóng góp to
lớn cho nền văn học Ấn Độ mà còn có những đóng góp nhất định về chính trị, xã hội.
Nhưng riêng ở lĩnh vực thơ ca, Tagore đã tạo nên một sự phong phú cho nền văn học

Ấn Độ nói riêng và thế giới nói chung, và ít nhiều những sáng tác này cũng ảnh hưởng
đến thơ ca Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu “Tinh thần nhân đạo trong tập thơ
Người làm vườn của Tagore” của người viết nhằm:
Thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Tagore dành cho những kiếp người
khổ cực trong xã hội Ấn Độ như trẻ em và phụ nữ. Tôn giáo Bà La Môn tồn tại ở Ấn
Độ với những nghi thức khắc nghiệt và độc ác như chủ nghĩa khổ hạnh, phép hành
xác, chế độ phân biệt giai cấp, nghi thức lễ máu, các giàn hỏa thêu đã làm chết đi biết
bao sinh mệnh con người, trói buộc biết bao nhiêu tình yêu của những đôi trai gái mới
lớn. Tagore với một niềm cảm thương sâu sắc đã gửi vào những dòng thơ của mình
một tấm lòng đồng cảm, thương xót. Mặt khác việc làm rõ tinh thần nhân đạo trong tập
thơ “Người làm vườn” của Tagore sẽ giúp chúng ta hiểu được những suy nghĩ, những
tình cảm của nhà thơ qua cách mà ông thể hiệ n trong tập thơ “Người làm vườn”, từ đó
cảm nhận một cách sâu sắc tấm lòng yêu thương con người, yêu thương thiên nhiên
cuộc sống một cách tha thiết của nhà thơ Tagore.
Bên cạnh đó, việc tìm hiểu “Tinh thần nhân đạo trong tập thơ Người làm vườn
của Tagore” sẽ giúp chúng ta khám phá thêm những thủ pháp nghệ thuật sáng tạo mà
Tagore đã vận dụng trong sáng tác của mình.
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
10
Cuối cùng kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ góp phần thiết thực trong việc
phổ biến văn hóa Ấn Độ ở Việt Nam và phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy
văn học Ấn Độ ở các trường trung học.

4. Phạm vi nghiên cứu:
Với đề tài “Tinh thần nhân đạo trong tập thơ Người làm vườn của Tagore”,
luận văn chỉ khảo sát tập thơ “Người làm vườn” của nhà thơ Tagore do Đỗ Khánh
Hoan dịch và khảo sát thêm một số bài thơ trong tập thơ “Người làm vườn” được in
trong tập “Thơ Tagore” do Đ ào Xuân Quý chọn dịch và giới thiệu của nhà xuất bản
Văn Học Hà Nội năm 1979. Luận văn sẽ khảo sát toàn bộ tập thơ “Người làm vườn”

để thấy được tinh thần nhân đạo của tác giả đã được thể hiện như thế nào trong tác
phẩm.

5. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa vào đối tượng nghiên cứu và để hoàn thành mục đích nghiên cứu người
viết đã sử dụng một số phương pháp cụ thể như sau:
Phương pháp khảo sát văn bản: Tinh thần nhân đạo được tác giả thể hiện trong
tập thơ “Người làm vườn” nằm rải rác ở tất cả các bài trong tập thơ. Do đó với một
tập thơ gồm nhiều bài như vậy người viết cần sử dụng phương pháp này để thấy được
tinh thần nhân đạo thể hiện như thế nào trong tập thơ “Người làm vườn”.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Để làm sáng rõ các luận điểm cần triển khai
trong luận văn, người viết sẽ đi vào phân tích các dẫn chứng bằng một số bài thơ sau
đó tiến hành tổng hợp, khái quát lại và đi đến khẳng định lại vấn đề.
Phương pháp so sánh đối chiếu: Để xác định thành công của Tagore khi thể
hiện được tinh thần nhân đạo trong tập thơ “Người làm vườn”, người viết sẽ đặt tác
phẩm vào trong mối quan hệ với các tập thơ khác của ông hoặc các tác phẩm cùng thời
đã thể hiện tinh thần nhân đạo để so sánh và làm thấy được những phần sáng tạo của
tác giả.




Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
11
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Giới thuyết về khái niệm tinh thần nhân đạo
Trong mỗi một tác phẩm văn học, tinh thần nhân đạo đóng vai trò không nhỏ
và được coi là một yếu tố không thể thiếu vì tình cảm của người viết, sự rung động,

những cảm xúc tinh tế trước mọi sự vật, sự việc là điều cần có đầu tiên và cũng là điều
quan trọng sau cùng trong quá trình hoàn thiện một tác phẩm. Một nhà văn, nhà thơ
đúng nghĩa là một người biết cảm nhận và truyền tải những cảm xúc của mình vào
trong tác phẩm để gửi gắm đến người đọc. Một tác phẩm hay phải là một tác phẩm
chứa đựng trong đó những tình cảm lớn lao, những giá trị yêu thương sâu sắc. Muốn
được như vậy thì tự bản thân mỗi một tác phẩm văn họ c phải chứa đựng trong nó một
tinh thần nhân đạo xuất phát từ lòng yêu thương con người của người viết.
Có khá nhiều nhận định và khái niệm về tinh thần nhân đạo trong văn học của
các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình và nghiên cứu nhưng nhìn chung những nhận định
và khái niệm này đều khẳng định tinh thần nhân đạo là một yếu tố cốt lõi trong mỗi
một tác phẩm văn học. M.Gorki đã từng nói: “Văn học là nhân học” câu nói khẳng
định một điều rằng ý nghĩa thật sự của văn học là nhân đạo hóa con người, là nâng đỡ
tâm hồn con người đến những cái hay, cái đẹp. Cụ thể hơn, trong “Từ điển thuật ngữ
văn học” đã đưa ra khái niệm về tinh thần nhân đạo: “Chủ nghĩa nhân văn còn gọi là
chủ nghĩa nhân đạo. Ở cấp độ thế giới quan chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những tư
tưởng, quan điểm, tình cảm, quí trọng các giá trị người như trí tuệ, tình cảm, phẩm
giá, sức mạnh vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn
thuần mà còn bao hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí, vai
trò, khả năng, bản chất…) trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại.” [4;
tr.74]. Con người dù xét dưới nhiều góc độ vẫn luôn là nhân vật trung tâm trong mỗi
một tác phẩm văn học, khi đó tình yêu thương, sự đồng cảm trước mỗi một số phận
con người là nền tảng để người viết triển khai những ý tưởng, những cảm xúc của
mình vào trong tác phẩm. Tinh thần nhân đạo chỉ được thể hiện khi chỉ khi nhà văn,
nhà thơ là người biết rung cảm và biết yêu thương con người. Bên cạnh đó thế giới tồn
tại trong tác phẩm vă n học luôn chứa đựng bên trong nó những tình cảm lớn lao,
những cảm xúc mãnh liệt được tác giả tạo nên bằng sự cảm nhận và rung cảm của tác
giả trước con người và cuộc sống: “Thế giới đư ợc sáng tạo ra trong văn học nghệ
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
12

thuật và bằng văn học nghệ thuật từ xưa đến nay là một thế giới mà trong đó con
người luôn đấu tranh chống lại mọi thế lực thù địch xuất hiện dưới mọi hình thức, để
khẳng định quyền năng và sức mạnh của mình, đồng thời thể hiện khát vọng làm
người mãnh liệt và cao đẹp của mình. Lòng yêu thương, ưu ái đối với con người và
thân phận của nó từ trước đế n nay vẫn là sự quan tâm hàng đầu của các nhà văn, nhà
nghệ sĩ trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật” [4; tr.74]. Nhà văn phải là người đi tìm
những điều tốt đẹp ẩn chứa bên trong tâm hồn của mỗi con người bằng chính lòng yêu
thương, sự cảm thông và những cảm xúc tinh tế của chính bản thân mình. Một nhà thơ,
nhà văn không thể nào thiếu đi những cảm xúc, lòng yêu thương đối với con người và
sự vật khi mà con người luôn là đối tượng trung tâm của người sáng tác. Đứng ở một
góc độ khác, tinh thần nhân đạo lại là phương pháp giải quyết những vấn đề trong các
mối quan hệ của con người với cuộc sống: “Một hệ thống quan điểm triết học – đạo
đức, chính trị - xã hội coi con người và đời sống hiện thực, trần thế của nó, một đời
sống văn minh, hạnh phúc, hữu ái, là mục đích cao nhất. Nó giải thích những nguyên
nhân đã gây ra cho nhân loại cảnh bất hạnh, tội lỗi, đồi trụy… và đề ra phương pháp
giải quyết những hiện tượng đó để cho con người được sống một cuộc sống ngày càng
tốt đẹp hơn”. [5; tr.290]. Người viết khi thể hiện tinh thần nhân đạo trong mỗi một tác
phẩm văn học không chỉ đơn giản là ca ngợi và thể hiện lòng yêu thương con người,
mà người viết còn đảm trách việc đi tìm những phẩm chất tốt đẹp bên trong con người,
những ngọn nguồn của sự khổ đau mà con người phải chịu đựng, từ đó hướng con
người đến những cái hay, cái đẹp. Không chỉ giúp con người có được một cuộc sống
ngày càng tươi đẹp mà còn giúp con người tạo cho mình một cách sống tốt hơn, hoàn
thiện hơn. Nhìn chung các khái niệm về tinh thần nhân đạo đều hướng đến một điểm
chung nhất định là lấy lòng yêu thương, sự quan tâm cảm thông trước số phận con
người làm nền tảng cơ bản trong mỗi sáng tác văn học.
Lịch sử của một dân tộc có thể sang trang nhưng những tác phẩm văn học thì có
thể đi xuyên suốt từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác
và cuối cùng vẫn tồn tại ở nó một tinh thần nhân đạo nhất định. Tất cả những tác phẩm
trong nước nói riêng hay trên thế giới nói chung dù có cách biệt về văn hóa, về ngôn
ngữ hay về khoảng cách địa lý thì vẫn tồn tại một điểm chung duy nhất là tinh thần

nhân đạo. Trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du thể hiện rất rõ tinh thần nhân đạo của
mình, đó là sự kết tinh truyền thống nhân đạo cao đẹp của dân tộc hằng bao thế kỷ, là
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
13
tiếng nói thiết tha bảo vệ quyề n sống của con người. Trong vô số nạn nhân của xã hội
xưa, Nguyễn Du đặc biệt quan tâm và xót thương cho số kiếp mỏng manh của người
phụ nữ có tài. Với Nguyễn Du, họ là hình ảnh kết tinh về số kiếp bi đát của con người
trong cuộc đời bế tắc. Còn trong truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao, tinh
thần nhân đạo của tác giả thể hiện ngay trong suy nghĩ của nhân vật: “Chao ôi! Đối
với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ,thì ta chỉ thấy họ gàn dở,
ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta
thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương ”. [11; tr.44]. Tác giả
luôn trăn trở về một kiếp người khốn khổ, luôn gồ ng mình chịu đựng những khổ cự c
trong cuộc sống và cuối cùng thường dẫn đến cái chết bi thảm của người nông dân
nghèo đáng thương. Hay trong tác phẩm “Đời Thừa” thông qua nhân vật Hộ tác giả
cũng thể hiện rất rõ quan niệm của mình về tinh thần nhân đạo: “Một tác phẩm thật
giá trị phải vượt lên trên bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho tất cả
loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn
khởi, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái sự công bằng… nó làm cho người gần người
hơn.” [13; tr.206] Nam Cao khẳng định một điều rằng một tác phẩm văn học chân
chính phải là một tác phẩm chứa đựng bên trong nó những tình cảm lớn lao, những
cảm xúc mạnh mẽ và tình yêu con người tha thiết, lấy con người làm đối tượng trung
tâm và xóa bỏ những khoảng cách giữa người với người. Nói chung những tác phẩm
của Nam Cao vừa mang những tư tưởng lớn vừa gieo vào lòng người đọc những nỗi
đau khôn nguôi về con người, về những số phận và những cái chết bi thương của họ.
Với những tác phẩm văn học nước ngoài tinh thần nhân đạo cũng được thể hiện rõ nét
như trong tác phẩm “Cô Bé Bán Diêm” của tác giả Christian Andersen, đó là sự thông
cảm cho số phận đáng thương của em bé bán diêm với những nét đẹp hồn nhiên trong
tâm hồn, bên cạnh đó là sự vô cảm của con người trước những cảnh thương tâm mà cụ

thể ở đây là trước cái chết của em bé bán diêm. Andersen đã gửi đến cho người đọc
một thông điệp vô cùng ý nghĩa và giàu tình yêu thương rằng hãy biết yêu quý con
người, yêu quý chính đồng loại của mình. Hay trong tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng”
của O.Hen-ri, bức tranh “Chiếc lá cuối cùng” đã được vẽ bằng một tình yêu thương
bao la và sự hi sinh cao thượng, bức tranh là hiện thân cho sức mạnh của nghệ thuật
chân chính, giúp cho tâm hồn của một con người trở nên mạnh mẽ và lấy lại lòng tin
vào cuộc sống, nhìn chung truyện của O.Hen-ri tuy nhẹ nhàng nhưng lại tràn đầy tinh
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
14
thần nhân đạo cao cả. Thông qua những tác phẩm trên ta thấy tinh thân nhân đạo của
mỗi tác giả thể hiện trong mỗi tác phẩm là khác nhau nhưng đ iề u có một điểm chung
duy nhất đó là thể hiện lòng yêu thương con người, nhữ ng cảm thông sâu sắc đối với
những kiếp người nhỏ bé trong xã hội.
Từ những khái niệm và nhận định trên ta có thể hiểu tinh thần nhân đạo là một
sự cảm thông sâu sắc giữa người với người mà cụ thể ở đây là của người sáng tác đối
với con người và cuộc sống. Tinh thần nhân đạo thể hiện ở người sáng tác một tấm
lòng biết yêu thương, biết quý trọng con ngườ i, đồng cảm sâu sắc với những cả nh
người, những kiếp đời bất hạnh trong xã hội và đem những điều này thể hiện trong các
sáng tác của mình, giúp người đọc có thể hiểu và cảm nhận được điều mà người sáng
tác muốn gửi gắm. Giá trị của một tác phẩm văn học trước hết được quyết định bởi
tấm lòng của tác giả đối với con người và cuộc đời, tấm lòng của tác giả càng tha thiết
bao nhiêu thì tinh thần nhân đạo càng sâu sắc bấy nhiêu. Vì vậy khi tiếp nhận văn học
chúng ta không nên quy tinh thần nhân đạo vào những khái niệm chung trừu tượng mà
phải đi sâu vào tìm hiểu những sắc thái biểu hiện tinh tế, cụ thể trong thái độ và cảm
xúc thẩm mỹ của tác giả đối với con người và cuộc sống.

1.2. Truyền thống nhân đạo được thể hiện trong thơ ca Ấn Độ
Với một nền văn học rực rỡ và đồ sộ, đất nước Ấn Độ đã có những cống hiến
không ít cho nền văn học của toàn nhân loại. Trong đó nội dung chính và xuyên suốt

trong nền văn học Ấn Độ là tinh thần nhân đạo sâu sắc, nó trải dài trong các tác phẩm
từ cổ đại cho đến trung đại và cận hiện đại, nó thể hiện một tư tưởng hòa bình, bác ái
đặc biệt với văn học phật giáo, tinh thần nhân đạo thể hiện rõ nét qua tư tưở ng từ bi,
bác ái, vị tha và mục đích cứu khổ, cứu nạn của đạo phật. Có thể nói văn học Ấn Đ ộ
đã xây dựng cho riêng mình một truyền thống nhân đạo được kế thừa và phát huy từ
thế hệ này sang thế hệ khác và như một làn gió mát, văn học Ấ n Độ lan tỏa tinh thần
nhân đạo của mình trên khắp thế giới.
Mở đầu cho sự phát triển và là nền tảng của nền văn học Ấn Độ là văn học cổ
đại bắt đầu từ một ngàn năm trước CN cho đến thế kỉ thứ VIII. Giai đoạn này văn học
đã phát triển và xây dựng được một kho báu vô cùng đồ sộ và quý giá, nhiều thể loại,
nhiều tác phẩm ưu tú, nhiều tác giả nổi tiếng đều sản sinh từ đây. Bên cạnh đó, văn
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
15
học Ấn Độ cũng khơi nguồn cho chủ nghĩa nhân đạo phát triển trở thành truyền thống
và bản sắc của văn học Ấn Độ.
Trong văn học cổ đại Ấn Độ, thể loại ra đời đầu tiên là thần thoại “Veda” nó
thể hiện quan niệm cổ xưa của Người Ấn Độ cổ rằng khi con người ra đời thì thần
thánh đã ban cho họ sự hiểu biết rồ i. Sự hiểu biết đó cứ thế mà phát triển liên tục, con
người cần phải tìm hiểu sự hiểu biết đó, vì vậy người Ấn độ rất coi trọng sự hiểu biết
này nên tất cả sự hiểu biết có được đều được sưu tập lại trong tậ p “Thần Ca Veda”.
“Thần ca Veda” có bốn tập, trong đó tập “Rig Veda” mang tính chất văn học nhiều
nhất, chứa đựng nhiều truyện thần thoại và ra đời sớm nhất. Trong tập “Rig Veda”
chia ra làm bốn hệ thống thần thoại là hệ thống thần vũ trụ, thiên nhiên, hệ thống thần
sáng tạo và thủy tổ loài người, hệ thống thần tinh thần, tình cảm, và cuối cùng là hệ
thống thần thoại bộ ba thần tượng Trimurti: Brahma – Visnu – Siva. Trong mỗi hệ
thống thần thoại như vậy lại thể hiện những ý nghĩa cao đẹp về sự tín ngưỡng của con
người dành cho trời và đất, những khát vọng tự nhiên mãnh liệt của con người và một
sự đấu tranh cho sự hòa hợp dân tộc. Có thể nói thần thoại Ấn Độ rất phong phú và
chan chứa chất trữ tình và tinh thần nhân đạo sâu sắc, mặt khác các nghệ sĩ ở Ấn độ

luôn luôn lấy thần thoại làm đề tài trong các sáng tác của mình như nhà thơ lớn
Kaliđasa ở thế kỉ V, Kabia (1440 – 1518), Tunxi Đax (1532 – 1624), R.Tagore (1861 –
1941)… Đã vận dụng thần thoại để đề cao cuộc sống, tình yêu đất nước giàu đẹp và
nhân dân lao động nghèo khổ, sáng tạo ra nhiều tác phẩm văn học ưu tú.
Tiếp theo sau thần thoại “Veda” trong nền văn học cổ đại là sử thi với những
giá trị nhân đạo to lớn về con người và đất nước Ấn Độ. Sử thi ra đời trên cơ sở đất
nước Ấn Độ đã phát triển qua chế độ quân chủ phong kiến, nhiều vương quốc đã được
hình thành. Sử thi là bức tranh sinh động phản ánh đời sống tư tưởng của nhân dân Ấn
Độ qua những cuộc xung đột vũ trang của các vương quốc, giữa những chủng tộc sống
trên đất nước Ấn Độ. Sử thi còn là bài ca vĩ đại ca ngợi những chiến công hiển hách,
khí phách hào hùng của các anh hùng lí tưởng mà nhân dân Ấn Độ cổ xưa ngưỡng mộ
và tôn thờ. Trong nó nổi bật nhất là hai bộ sử thi “Mahabrahata” và “Ramayana” với
một tầm cỡ to lớn. Giá trị nhân đạo nổi bật được thể hiện trong “Mahabrahata” là sức
mạnh và tinh thần của nhân dân bên cạnh đó lí tưởng và đạo đức cũng được đề cao
trong “Mahabrahata”. Mặt khác trong “Ramayana” tinh thần nhân đạo được thể hiện
qua các nhân vật đáng yêu, đáng kính luôn luôn là những con người có đầy đủ nhân
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
16
tính, biết đau đớn khi hi sinh, biết nhớ thương khi li biệt, biết căm giận, biết oán hờn,
biết hối hận, biết yêu thương và độ lượng…
Tiếp nối sử thi là sự ra đời của văn học phật giáo với hai tác phẩm nổi bật là
“Tripitaka” và “Jataka”. Sự ra đời của “Tripitaka” và “Jataka” đã có ảnh hưởng rất
lớn trong đời sống tinh thần của nhân dân Ấn Độ và các nước trên thế giới bởi những
giáo lí về tình thương, lòng nhân ái, sự khoan dung, độ lượng trong đạo phật, bên cạnh
đó “Tripitaka” và “Jakata” cũng trở thành nguồn đề tài sáng tác vô tận của các thế hệ
văn nghệ sĩ ở Ấn Độ và nhiều truyện cổ của các nước Đông Nam Á cũng chịu ảnh
hưởng của “Jakata”. Như vậy truyền thống nhân đạo luôn được kế thừa và phát huy
trong mọi thời kỳ văn học ở Ấn Độ. Chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn họ c phật giáo, sự
ra đời của truyện cổ cũng thấm đẫm những tư tưởng về cái thiện và cái ác, niềm ước

mơ về một cuộc sống hòa bình, hạnh phúc. Trong truyện cổ Ấn Độ nhân dân lao động,
những người cùng đinh luôn đóng một vai trò quan trọng, truyện thường tập trung ca
ngợi, đề cao phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Họ tuy nghèo khổ nhưng không
hề chịu khuất phục, không hề luồn cúi, nịnh hót, họ căm phẫn và đấu tranh chống lại
những kẻ chuyên ức hiếp và áp bức họ. Tinh thần nhân đạo luôn luôn được duy trì
trong mỗi tác phẩm như một truyền thống quý báu của văn học Ấn Độ.
Sau thời kì của văn học cổ đại, Ấn Độ bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ của
văn học trung đại. Thời kỳ này là thời kỳ đất nước Ấn Độ có nhiều biến đổi tình hình
không ổn định, nạn ngoại xâm thường xảy ra đặc biệt là sự xâm lược của thực dân
phương Tây đã làm cho đất nước Ấn Độ chia năm xẻ bảy. Chiến tranh xâm lược và
nội chiến triền miên đã đẩy Ấn Độ vào tình cảnh đất nước bị chia cắt, nền chính trị bị
lung lay, kinh tế sa sút, đời sống xã hội đảo lộn, tinh thần dân tộc bị phân hóa và điều
này đã ảnh hưởng không nhỏ đến bộ mặt văn hóa nghệ thuật của Ấn Độ. Truyền thống
về tinh thần nhân đạo vào lúc này trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Với sự ra đời của
một số gương mặt tiêu biểu như: Basavanna, Chanđi Đax, Nanak, Tunxi Đax, mỗi nhà
thơ là mỗi tiếng nói về tình yêu thương to lớn giữa người với người trong thời buổi đất
nước rơi vào cảnh lầm than. Kế thừa được những tinh hoa của tinh thần nhân đạo
truyền thống, trong mỗi sáng tác của các tác giả trên thấm đẫm tinh thần nhân đạo cao
cả. Như trong tập thơ “Vachanas” của Basavanna, nội dung chủ yếu của tập thơ toát
lên tình yêu thương và lòng tin giữa con người cùng với tinh thần bình đẳng tự do, xóa
bỏ đau khổ, hướng về chân lí vĩnh hằng, tình yêu vĩnh cửu mà đấng tối cao đã ban dạy.
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
17
Còn đối với Chanđi Đax thì thơ ca của ông tập trung ca ngợi con người và tình yêu, lí
tưởng hóa tình yêu, coi tình yêu như là vị thần linh tượ ng trưng cho mọi khát vọng của
con người, ông quan niệm tình yêu là quê hương là cuộc sống của ông. Một nhà thơ
lớn nữa đã dùng tài năng của mình để làm cho “Ramayana” sống lại trong nhân dân
với nội dung hiện thực, với tinh thần nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc là Tunxi Đax. Ông đã
đã gắn liền tình yêu và lòng chung thủy của Rama và Sita với sự đấu tranh giữa thiện

và ác, ông nói lên nguyện vọng của nhân dân đương thời, nhờ đó mà nhân vật Rama
và Sita ngày càng trở thành những nhân vật thiêng liêng và phổ biến trong thơ ca, kịch
tuồng, múa hát của dân chúng. Cũng trong thời buổi loạn lạc này, đất nước Ấn Độ đã
sản sinh ra một nhân tài với tinh thần nhân đạo sâu sắc là thi hào vĩ đại Kabia. Những
ca khúc của Kabia toát lên một tinh thần chống đối tôn giáo, bảo vệ quyền bình đẳng,
tinh thần tự do của con người, bên cạnh đó thơ ca của Kabia còn vang lên tiếng gọi
đấu tranh cho tự do, bình đẳng, chống lại chế độ phân biệt đẳng cấp đã tồn tại hàng
ngàn năm.
Như vậy, trải qua hai thời kỳ cổ đại và cận đại, truyền thống về tinh thần nhân
đạo trong nền văn học Ấn Độ vẫn luôn được nhân dân, các nhà văn, nhà thơ tiếp thu
và phát huy trong các sáng tác của mình. Đó không chỉ là một nền tảng mà đó còn là
một kho tàng vô giá mà nền văn học Ấn Độ đã có được. Không dừng lại ở đó, đến thời
kỳ hiện đại, tinh thần nhân đạo vẫn không ngừng tỏa sáng trong các tác phẩm của đại
thi hào Rabinđranat Tagore. Ông nổi tiếng với thơ ca của mình bởi một tinh thần nhân
đạo to lớn trong mỗi tác phẩm của ông, ông đã kế thừa truyền thống nhân đạo của
nhân dân Ấn Độ qua nền văn học cổ điển từ thần thoại Veda, Upanixat, kinh Phật cho
đến thơ của Kaliđasa. Ngoài ra ông còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân đạo và nền
văn hóa phục hưng phương tây, ông đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn truyền thống
nhân đạo của văn học cổ kim Đông Tây rồi biến thành chủ nghĩa nhân đạo của riêng
mình. Chính điều này đã làm nên một Rabinđranath Tagore vĩ đại của đất nước Ấn Độ
nói riêng và nhân loại nói chung.

1.3. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả R.Tagore
1.3.1. Đôi nét về cuộc đời tác giả
Rabindranath Tagore (hay Rabindranath thakur) sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861,
ông là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, một họa sĩ, một nhạc sĩ, một nhà giáo, một
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
18
nhà hoạt động xã hội, một vị hiền triết hiểu biết sâu rộng. Bao nhiêu đó thôi cũng đủ

để ta thấy rằng Tagore là một thiên tài của đất nước Ấn Độ. Tagore sinh tại thành phố
Cancutta, bang Bengan xinh đẹp, Bengan là nơi văn học phát triển rất sớm và có
truyền thống nhân đạo phát triển từ lâu đời, cũng là mảnh đất kiên cường nổi lên
những cuộc đấu tranh chính trị chống đế quốc và phong kiến. Cha ông Devendranath
Tagore là một nhà triết học hoạt động xã hội nổi tiếng, một lãnh tụ tôn giáo chủ trương
cách tân Ấn Độ giáo. Devendranath là nhà cải cách xã hội nổi tiếng trong hội Brahma
Somaj do Ram Monhan Roi (1774 – 1843) sáng lập, sau này cha của Tagore cũng trở
thành lãnh tụ của phong trào này. Ông chủ trương loại bỏ các phong tục truyền thống
mang tính chất dã man và hủ lậu được cổ xúy trong chủ trương Ấn Độ giáo chính
thống ngày xưa như tập tục Sutte hi sinh người đàn bà khi chồng chết buộc người đàn
bà phải chết theo chồng, tập tục giết chết nữ nhi khi mới sinh ra đời vì thiên kiến trọng
nam khinh nữ.
Tagore xuất thân trong gia đình quý tộc Bà La Môn, ông là con trai thứ 14 trong
gia đình, anh em của Tagore đều là những nhân tài của đất nước Ấn Độ và có nhiều sự
cống hiến cho sự phát triển của nền văn hóa hiện đại Ấn Đ ộ. Mặc dù tôn giáo đã khai
trừ ra ngoài đẳng cấp nhưng gia đình Tagore vẫn được nhân dân yêu mến. Cha Tagore
rất chú trọng việc giáo dục các con, dạy các con biết số ng giản dị, cần cù, biết trau dồi
sức khỏe và văn hóa, biết yêu dân tộc và đất nước. Tagore được cha quan tâm và chăm
sóc nhiều nhất, ông thường theo cha đi du lịch khắp đất nước từ rừng núi Himalaya có
nhiều thắng cảnh đẹp đến tận bờ biển phía nam lộng gió tràn ngập ánh mặt trời. Từ
nhỏ Tagore là một cậu bé thông minh, chăm chỉ, hiếu học. Ba lần gia đình gửi đến ba
trường khác nhau nhưng Tagore không chịu ngồi yên một trường nào cả, vì ông không
chịu nổi cảnh người Anh hành hạ, đánh đập học trò, bắt học trò hát những bài hát tiếng
Anh vô nghĩa. Tagore chỉ thích tự học tiếng Xăngcơrit cổ, đọc các tác phẩm cổ, tự trau
dồi ngôn ngữ, không bao lâu Tagore nổi tiếng là cậu bé giỏi văn khắp vùng Bengan.
Tagore tự học tiếng Anh, năm 11 tuổi đã dịch được kịch “Macbet” của Sêcxpia ra
tiếng Bengan. Đến tuổi thanh niên Tagore đã thông thạo trong việc dịch thuật thơ ca
của Schille, Byron, Browning, Victor Hugo…
Tagore vốn là cậu bé hay xúc động, từng ôm cuốn sách ngồi khóc thầm trong
bóng tối, tính tình hiền hậu thích trầm tư suy nghĩ. Lớn lên gặp cảnh đau buồn, trong

vòng bốn năm người thân cứ lần lượt vĩnh biệt ông. Năm 1902 vợ chết, năm 1904 con
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
19
gái thứ hai chết, 1905 cha với anh chết, 1907 con trai đầu chết. Từ đó Tagore càng
buồn phiền, thường hay ngồi hàng giờ trên bao lơn nhà mình để ngắm nhìn người qua
lại trên đ ườ ng, hoặc ngồi trầm tư hàng buổi trên đi-văng trong phòng. Ông thích vào
rừng ngồi ngắm cảnh đ ẹp của cây cối hoa lá hoặc ngồi trên bờ ngắm dòng sông lững lờ
trôi trong những chiều hoàng hôn.
Tagore bước vào cuộc đời hoạt động xã hội và chính trị khá sớm, năm 1877
cha cho qua Anh để học luật song ông không thích lại trở về, từ đó bắt tay vào hoạt
động xã hội và tích cực sáng tác văn học - nghệ thuật.
Từ năm 1916 trở đi, Tagore bắt đầu đi thăm một số nước trên thế giới như
Anh, Pháp, Mĩ, Trung Quốc, Nhật Bản… nhằm thấy được những cái hay, cái mới để
về xây dựng đất nước và bồi bổ cho dân tộc mình.
Năm 1930, Tagore thực hiện ước mơ lớn lao của mình là thăm Liên Xô cũ, đất
nước mà giai cấp vô sản đang làm chủ vận mệnh của mình, đất nước có cuộc sống rất
gần gũi với ước mơ và nguyện vọng của ông.
Sau khi thăm một số nước về, ông lại lập trường Visua Bharata (thế giới đại
học) vào năm 1922 để thu hút thanh niên quốc tế đến học tập văn hóa Ấn Độ trên tinh
thần hòa hợp dân tộc. Ông đã từng mong mỗi sinh viên điều là một Visuamana (người
rộng rãi) với tư tưởng “Cả thế giới là nhà của tôi, tất cả mọi người là bạn của tôi”.
Tagore rất nhạy cảm với các sự kiện thế giới xảy ra trong thời đại của mình và
biểu hiện niềm đau cũng như nỗi thất vọng đối với chiến tranh, ông luôn khao khát nền
hoà bình cho thế giới. Các chuyến đi vòng quanh thế giới (Tagore từng tới Việt Nam)
của Tagore đã mài dũa sự am hiểu các đặc trưng đa dạng của ông về các nền văn minh
và dân tộc. Ông được xem là thí dụ điển hình cho sự kết hợp tinh tế của phương Đông
và phương Tây trong văn chương.
Ngày 7 tháng 8 năm 1941, Tagore kết thúc cuộc đời như kết thúc mộ t bản hợp
tấu hùng hồn vĩ đại, bản hợp tấu mang ý chí và nghị lực của một thiên tài lớn lao.


1.3.2. Đôi nét về sự nghiệp sáng tác của tác giả
Tagore thành công nhất trong lĩnh vực thơ ca, ông say sưa sáng tác từ lúc 8 tuổi
cho đến lúc qua đời. Bài thơ cuối cùng Tagore sáng tác trên giường bệnh ngày 30
tháng 7 năm 1941 trước khi mất 8 ngày, ông đọ c cho người khác chép và không kịp
xem lại. Thơ ông nổi bật ở tấm lòng yêu thương bao la vô bờ bến dành cho con người
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
20
và cuộc sống của ông. Tagore đã để lại 52 tập thơ vô cùng đặc sắc với hơn 1000 bài
thơ, đó được xem là tài sản vô giá cho toàn nhân loại. Trong đó tập thơ “Thơ dâng”
(Gitanjali) đoạt giải Nobel năm 1913 được xem là “Kì công thứ hai” trong lịch sử văn
học Ấn Độ sau “Kì công thứ nhất” là vở kịch “Sakuntala” của Kalidasa, 42 vở kịch
trong đó vở kịch “Sự trả thù của tự nhiên” (1883), “Lễ máu” (1890) là nổi tiếng hơn
cả, 12 tập tiểu thuyết trong đó “Gora” (1908) và “Nhà và thế giới” (1916) là hai tác
phẩm ưu tú, gần 100 truyện ngắn khác…
Tagore đã tạo ra một thể thơ độc nhất vô nhị mà các nhà nghiên cứu gọi là
Rabindrasangit – một thể thơ bao gồm cả thơ lẫn nhạc và cả thể thơ văn xuôi tự do.
Các tập thơ nổi tiếng của Tagore có thể kể đến:
Thời kì trước “Thơ dâng” (1872-1887): “Những bài ca buổi sáng” (Morning
songs), “Những bức tranh và những bài hát” (Pictures and songs), “Sắc nhọn và
mòn tù” (Sharps and flats), “Masini”, “Con thuyền vàng” (The golden boat).
Thời kì “Thơ dâng” (1888-1913): “Thơ dâng” (The Gitanjali), “Tặng vật”
(Naivedya), “Thơ ca” (Poetry).
Thời kì sau “Thơ dâng” (1914-1941): “Người làm vườn” (The gardener),
“Đàn ngỗng bay” (Balaka), “Tặng phẩm của người yêu” (The lover’s gift), “Những
con chim bay lạc” (The stray birds), “Thiên nga” (The geese), “Hái quả” (Fruit
gathering), “Trăng non” (The crescent moon), “Dấu bưu điện” (Punascha), “Đất
biên cương” (Parishesh), “Ngọn đèn đêm” (Senjuti), “Trên giường bệnh”
(Rogshalyaya), “Hồi phục” (Arogya), “Vào ngày sinh nhật” (Jammadine), “Những

ghi chép cuối cùng” (Sheshlekha)….
Nổi bật nhất vẫn là tập “Thơ dâng” (The Gitanjali), gồm 103 bài, tập thơ đã
đưa tên tuổi của Tagore vượt qua biên giới Ấ n Độ. Đây là tuyển tập thơ do ông tuyển
chọn từ các tập khác và dịch từ tiếng Bengan sang tiếng Anh. Tập “Thơ dâng” như
viên ngọc lấp lánh muôn sắc màu, đây không chỉ là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ
mà còn là niềm tự hào của toàn thể nhân dân Châu Á. Đây cũng là tác phẩm văn học
Châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel. Mãi đến năm 1968, ở Châu Á mới có thêm nhà văn
Kawabata (1899-1972) của Nhật Bản được tặng thưởng giải Nobel cao quý này.
Thơ ca của ông xuất phát từ một tinh thần nhân đạo sâu sắc và sự hiến dâng
mãnh liệt, nội dung trong thơ của ông thường ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Đối
với ông, sự phong phú muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống là nguồn vui bất tận không
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
21
mang yếu tố trần tục mà lại rất thanh thoát. Chủ đề tình yêu cũng là một chủ đề phổ
biến trong các tác phẩm văn chương của ông. Văn xuôi của Tagore đề cập đến các vấn
đề về xã hội, chính trị và giáo dục, bên cạnh đó nó còn thể hiện cách nhìn khái quát
của ông về tình cảm của con người.
Ngoài ra Tagore còn để lại nhiều tập ca khúc, quốc ca của Ấn Độ hiện nay là do
Tagore sáng tác và hàng trăm nghìn tranh họa đang được giữ gìn ở viện bảo tàng.
Ngày nay Tagore vẫn là nguồn cảm hứng cho hơn 200 triệu người Bengan sống
ở Tây Bengan của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới.

1.4. Vài nét về thơ Tagore và tác phẩm “Người làm vườn”
1.4.1. Vài nét về thơ Tagore
Tagore là một nhà thơ lớn của Ấn Độ, với một khối lượng sáng tác đồ sộ ông đã
có công không nhỏ trong việc đóng góp thêm vào cho kho tàng văn học Ấn Độ thêm
phong phú và đa dạng. Đặc biệt với tập thơ “Thơ dâng” đoạt giải Nobel năm 1913 đã
thu hút một số lượng lớn các nhà phê bình và nghiên cứu văn học đối với thơ Tagore.
Họ đọc thơ Tagore, đọc những tác phẩm của ông dưới mọi góc nhìn và đưa ra những

lời nhận xét đối với thơ của ông. Sau đây người viết xin làm rõ một số nhận định của
các nhà văn, nhà nghiên cứu và phê bình về thơ Tagore để hiểu thêm về thơ của ông.
Trong cuốn “Thơ Tagore” do Đào Xuân Quý chọn dịch và giới thiệu có viết:
“Và tôi cũng rất đồng tình với Nirad Chaudhuri khi ông nhận xét về thơ tôn giáo của
Tagore trên tờ phụ chương văn học đã nói ở trên. Chaudhuri nói rằng thơ tôn giáo
của Tagore là thứ thơ sùng kính, say sưa chứ không phải là thơ thần bí, nó cố đưa
chúa lên trái đất như một con người, chứ không hề đem cuộc đời đặt dưới chân của
chúa” [12; tr.11]. Ở đây qua lời nhận xét này ta hiểu rằng tôn giáo, thần thánh trong
thơ Tagore là biểu hiện cho cái tốt, cái đẹp trong con người, đặc biệt trong những lớp
người nghèo khổ, thấp hèn nhưng cần cù và chân thực. Với ông thần thánh, chúa trời
đáng để con người sùng kính với một tình yêu thương mà chúa trời luôn che chở và
bảo vệ cho con người chứ không phải tôn sùng một cách mê muội và lầm lạc. Tagore
thể hiện rất rõ quan điểm của mình về vấn đề tôn giáo, ông đã từng nói: “Do tính khí
đặc biệt của tôi, tôi không thể chấp nhận bất cứ một giáo lí nào chỉ vì cái lí lẽ duy nhất
là những người chung quanh tôi tin rằng nó là đúng. Và tôn giáo của tôi chủ yế u là
tôn giáo của một nhà thơ.” [12; tr.13]. Ông khẳng định một điều rằng ông không tôn
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
22
sùng bất cứ một tôn giáo nào. Với ông, tôn giáo của ông là tôn giáo của một nhà thơ,
là tôn giáo yêu thươ ng, trân trọng và bảo vệ con người bằng chính tình yêu thương của
ông. Lời thơ, giọng thơ có thể phảng phất lời và giọng nói của một số kinh của đạo
phật, đạo hồi… nhưng suy nghĩ và tình cảm, những quan niệm về cuộc đời và lẽ sống
ở đây thì đúng là của một con người trong thế kỷ XX nhiều biến động. Khi cần để
phục vụ cho hạnh phúc của con người thì tác giả không ngần ngại gì mà không vứt bỏ
tất cả những tập tục hủ bại hay những ràng buộc khắt khe của tôn giáo.
Đặc biệt với tập thơ “Thơ dâng” Tagore đã nhận dược nhiều lời nhận xét, nhà thơ
Anh W.B.Yeats đã viết trong bài tựa tập thơ “Thơ Dâng” rằng thơ Tagore không phải
là loại thơ: “Nằm trong quyển sách nhỏ in đẹp đặt trên bàn các bà mệnh phụ cao sang
để họ dở từng trang với đôi bàn tay lơ đãng và thở dài vì một cuộc đời vô vị” [12;

tr.29]. Mà thơ Tagore giúp chúng ta đi sâu vào ý nghĩa của cuộc đời, hòa hợ p với thiên
nhiên, với vũ trụ trong một niềm vui trong sáng, hồn nhiên và tỏa rộng đến vô cùng.
Với một sự tìm tòi và sáng tạo không ngừng, Tagore đã đem đến nhiều hình thức diễn
đạt mới mẻ làm giàu cho nền thơ truyền thống của dân tộc, đưa ông đến đỉnh cao của
nghệ thuật vượt ra ngoài biên giới Ấn Độ. Và Nirad Chaudhuri đã: “Không ngần ngại
khi nói rằng một phần ba hay hơn nửa của thơ Tagore có thể xếp bên cạnh bất cứ một
nền thơ lớn nào của bất cứ một dân tộc nào ở bất cứ thời đại nào” [12; tr.30] . Bởi thơ
của ông được tạo nên từ tình yêu thương, sự cảm thông và những cảm xúc sâu sắc của
ông dành cho những kiếp người khốn khổ nên nó hoàn toàn xứng đáng đứng cạnh bất
cứ một nền thơ to lớn nào. Như vậy ta có thể thấy rằng, thơ Tagore có một sức lôi
cuốn diệu kì đối với người đọc, từng lời từng chữ trong thơ của ông đều mang một tấm
lòng, một tinh thần của một nhà thơ nhân đạo. Thơ ông dạy ta biết cách yêu cuộc sống,
yêu những thứ đơn giản và tầm thường nhất và cái cốt lõi là dạy ta biết yêu thương và
đồng cảm với những số phận bất hạnh của đồng loại trong cuộc sống muôn màu, muôn
vẻ này. Tagore thật sự là một cây đại thụ trong nền văn học Ấn Độ nói riêng và thế
giới nói chung. Nhiều nhà thơ, nhà văn đã không ngần ngại bày tỏ tình cảm của mình
đối với thơ Tagore như nhà thơ Nadim Hitmet đã từng nói: “Tôi rất yêu thơ Tagor và
nhạc Bat (Bach) tôi cóc cần cái vẻ thần bí của họ, tôi biết họ có điểm thần bí, nhưng
trong tác phẩm, họ xuyên qua vẻ thần bí, cái có nhiều nhất là lòng yêu cuộc sống, lòng
tin cuộc đời. Vì vậy mà Bat vẫn rất là lớn trong các nhạc sĩ lớn nhất, Tagore vẫn là rất
lớn trong các thi sĩ lớn nhất” [18; tr.140]. Thái độ và cách nhìn đó đúng là thái độ và
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
23
cách nhìn của một người tri kỷ, biết mình, biết người, biết nhìn nhận một cách chân
thực nhất những gì mà Tagore thể hiện trong tác phẩm, vượt lên trên mọi vẻ thần bí là
một tấm lòng chân thành và tha thiết đối với con người và cuộc sống. Và cũng chỉ với
cách nhìn tinh tế như vậy chúng ta mới có thể hiểu được một cách chính xác bản chất
con người và tác phẩm của Tagore.
Thơ ca Tagore thật sự đã đi vào lòng người bởi những lời văn thấm đẫm lòng

yêu thương con người và cuộc sống. Không một trang thơ nào của Tagore làm lãng phí
đi thời gian của người đọc, những điều ông viết, những điều ông nghĩ là những gì ông
đã từng trải nghiệm, lí trí và tình cảm đan xen với nhau. Đó cũng chính là lí do tại sao
thơ của ông lại luôn tồn tại mãi trong lòng người đọc, nhận định về vấn đề này, Lưu
Đức Trung trong cuốn Văn Học Ấn Độ cũng đã trích dẫn một lời nhận xét của một nhà
phê bình như sau: “Chính vì nguyên nhân đó đã làm cho thơ Tago vừa rất dân tộc lại
vừa là của chung toàn thế giới. (Nêru)” [18; tr.142]. Chính những nét tiêu biểu về tinh
thần nhân đạo, tấm lòng yêu thương con người và cuộc sống một cách chân thành và
tha thiết đã khiến cho thơ Tagore trở thành một tài sản vô giá của nhân dân Ấn Độ nói
riêng và toàn nhân loại nói chung.

1.4.2. Giới thiệu về tác phẩm “Người làm vườn”
Tagore là một nhà thơ với tinh thần nhân đạo sâu sắc, mỗi tác phẩm mà ông
sáng tác đều thể hiện rất rõ đều đó, trong đó có tập thơ “Người làm vườn” xuất bản
năm 1941, một năm sau khi tác giả nhận được giải thưởng Nobel về văn chương. Tập
thơ “Người làm vườn” gồm có 85 bài thơ được đánh số, không có nhan đề riêng cho
từng bài. Có thể nói tập thơ “Ngư ời làm vườn” là một tập thơ thể hiện rõ nhất tinh
thần nhân đạo của nhà thơ Tagore, tập thơ đã thể hiện khá đầy đủ nội dung thơ ca của
ông bao gồm:
Tình yêu con người và cuộc sống: Trong tập thơ “Người làm vườn” Tagore đòi
tự do cho tổ quốc, tự do cho nhân dân, cho con người ở đất nước Ấn Độ của ông. Ông
mong con người sẽ được sống trong sự hòa hợp và bình đẳng với nhau. Tagore tin
tưởng rằng “Trên quê hương tự chủ”, “Hạnh phúc ca khải hoàn” sẽ đến với nhân dân
Ấn Độ yêu thương của ông, sẽ không còn tiếng ai oán, rên xiết đau khổ nữa.
Lòng ưu ái phụ nữ: Tập thơ không chỉ thể hiện lòng yêu con người và cuộc
sống mà còn thể hiện một tấm lòng ưu ái phụ nữ. Tagore là người rất quan tâm đến số
Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
24
phận người phụ nữ Ấ n Độ và có lòng ưu ái sâu sắc. Ông đã dành nhiều trang thơ trong

tập thơ “Người làm vườn” để ca ngợi họ. Ông đề cập tới trong tập thơ “Người làm
vườn” một nét đẹp tự nhiên của người phụ nữ Ấn Độ, một sắc đẹp được đất trời tô
thắm và được bàn tay con người tôn tạo thêm. Người phụ nữ trong tập thơ “Người làm
vườn” không chỉ đẹp hình dáng bên ngoài mà còn đẹp cả bên trong tâm hồn.
Tình yêu thương trẻ em: Đối với Tagore, ông rất thông cảm đến cuộc sống khổ
cực của trẻ em, ông thương cảm cho những cuộc sống, những mảnh đời cơ cực mà
đáng lí ra ở cái tuổi ấy các em không phải gánh chịu một cuộc sống như vậy, ở tuổi
các em, đó phải là một cuộc sống có trường lớp, có bạn bè, thầy cô và một gia đình
hạnh phúc. Trong tập thơ “Người làm vườn” Tagore đã từng thương tâm đứng nhìn
một chú bé nghèo khổ, buồn tủi ước mơ một trò chơi nhỏ, đối với Tagore sự đồng cảm
đến từ những cảm xúc chân thật nhất, không cần phải cất công đi đâu xa để tìm kiếm
mà sự đồng cảm đến từ những thứ đơn giản nhất trong cuộc sống hằng ngày.
Tagore với tình yêu nam nữ: Trong thơ Tagore tình yêu nam nữ chiếm một vị
trí quan trọng và tập thơ “Người làm vườn” cũng không ngoại lệ. trong tập thơ
“Người làm vườn” tình yêu của Tagore được thể hiện không giống các nhà thơ tình
lãng mạn khác. Tình yêu tuy có đau khổ nhưng không chịu khóc than rên xiết, không
chịu hủy hoại thân mình một cách vô ích mà vẫn mang một niềm tin tưởng. Tagore
quan niệm rằng tình yêu là một nhân tính thiêng liêng. Con người sinh ra trên cõi đời
này ai cũng được yêu, vì đó là hạnh phúc, là nhu cầu của sự sống như ngọn lửa và ánh
mặt trời cần cho con người vậy. Có thể nói trong các tập thơ đó Tagore đã dồn tất cả
tâm huyết của mình vào tập thơ “Người làm vườn”, đây thật sự là một tập thơ thể hiện
rõ nhất quan niệm tình yêu của nhà thơ Tagore.
Những nội dung được đề cập ở trên là những nét chính trong tập thơ “Người
làm vườn” của Tagore, tập thơ đã thể hiện được tinh thần nhân đạo chủ nghĩa trong
thơ của Tagore, trong đó đề tài về tình yêu chiế m một khối lượng lớn trong tập thơ,
điều này sẽ được làm rõ hơn ở chương 2. Tóm lại, tập thơ “Người làm vườn” xứng
đáng là một đứa con tinh thần xuất sắc của nhà thơ Tagore qua bao thế kỷ.







Luận văn tốt nghiệp Ngành Ngữ Văn
GVHD: Trần Vũ Thị Giang Lam SVTH: Nguyễn Lê Nhã Phương
25
CHƯƠNG 2: TINH THẦN NHÂN ĐẠO THỂ HIỆN QUA NỘI
DUNG TRONG TẬP THƠ “NGƯỜI LÀM VƯỜN” CỦA
R. TAGORE

2.1. R.Tagore ca ngợi về tình yêu đôi lứa
2.1.1. Quan niệm của R.Tagore về tình yêu
Trong tập thơ “Người làm vườn”, nội dung chiếm hầu hết và xuyên suốt trong
tập thơ của Tagore chính là tình yêu đôi lứa. Bằng sự từng trải và những cảm nhận sâu
sắc của mình về tình yêu Tagore đã thể hiện đề tài tình yêu trong tập thơ của mình như
một bản hòa tấu ngọt ngào và bất tận, một bản hòa tấu ngân vang những giai điệu tình
yêu của con người và cuộc sống. Tagore ví mình là một người làm vườn không ngừng
chăm sóc cho khu vườn tình ái của nhân gian nở rộ và tỏa ngát hương thơm, ông đặt
vào khu vườn những tình cảm lớn lao, những yêu thương mãnh liệt của một nhà thơ
với tinh thần nhân đạo sâu sắc. Hơn thế nữa, ông còn muốn làm một triết gia ngồi trầm
tư và chiêm nghiệm về tình yêu của đôi lứa, tình yêu của những trái tim trẻ dại lạc loài
đang tìm lấy riêng cho mình một giai điệu chung:
“Tôi để mắt nhìn liệu những trái tim trẻ dại, lạc loài có gặp nhau chăng, liệu
những đôi mắt hăm hở đang mong cầu giai điệu, giai điệu có đến để đánh tan màn im
lặng rồi thay họ mà nói nên lời.”
(Bài thơ số 2) [12; tr.77-78]
Hầu hết những bài thơ tình vào loại hay nhất của Tagore đều được ra đời khi
ông đã ngoài tuổi 40, cái tuổi mà thi nhân đã nếm trải đủ đầy bao dư vị của cuộc đời,
của tình yêu. Có thể nói, thơ tình của Tagore là thơ tình của một người đứng tuổi. Ông
không viết về tình yêu mà chiêm nghiệm về tình yêu. Cảm xúc và suy tư, trữ tình và

triết lí đã thống nhất hài hòa làm một trong mọi hình tượng thơ mà trước hết là ở cái
tôi trữ tình của nhà thơ. Tagore nhìn thấy ở trái tim của những đôi trai gái một khát
khao mãnh liệt về tình yêu, một tình yêu căng tràn sức sống của tuổi trẻ nhưng dường
như tình yêu ấy vẫn còn bị ràng buộc và không thể đến với nhau một cách trọn vẹn.
Họ mong chờ cho riêng mình một giai điệu, một tiếng nói có thể giúp họ xóa bỏ những
ngăn cách để hai trái tim có thể cùng nhịp đập, cảm nhận và thấu hiểu Tagore đã đem
những điều ấy vào trong thơ của mình với một sự đồng cảm sâu sắc. Và như một bản

×