Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ: TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.9 KB, 148 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đỗ Thị Vân Oanh

TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG
THƠ THIỀN TUỆ TRUNG

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐOÀN THỊ THU VÂN


2

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của bản thân, chưa từng được công bố
từ trước đến nay. Tất cả số liệu sử dụng đều do người viết tự thông kê, tổng hợp, không
sao chép lại từ thành quả của người đi trước.

Người viết luận văn

Đỗ Thị Vân Oanh



3

MỤC LỤC
trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………..………...5
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………….………6
3. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………..15
4. Đối tượng, mục đích nghiên cứu………………………………………………..…15
5. Đóng góp của đề tài………………………………………………………………..16
6. Kết cầu đề tài……………………………………………………………….……...17
Chương 1 – Những vấn đề chung
1.1.Khái niệm nhân văn và những biểu hiện
của tinh thần nhân văn …………………………………………...….18
1.1.1.Khái niệm nhân văn……………………………………………………......18
1.1.2.Những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học………………...…23
1.2. Thời đại Lý – Trần và thơ thiền Tuệ Trung …………………………………..30
1.2.1. Thời đại Lý Trần và Phật giáo Thiền tông thời Lý Trần………………….30
1.2.2. Tuệ Trung và thơ thiền Tuệ Trung trong văn học Lý Trần……………….36


4

* Tiểu kết………………………………………………………………………..…..…39
CHƯƠNG 2 – NỘI DUNG TINH THẦN NHÂN VĂN
TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG

2.1. Nhân văn trong quan niệm về cuộc đời và con người………………………….42
2.1.1. Thấu suốt lẽ “vô thường”……………………………………….……..……42
2.1.2. Thấu thị tinh thần “vong nhị kiến” ……………………………….………...48
2.1.3. Tự tin, tự lực để “kiến tánh thành Phật”…………………………….. ……..53
2.2. Nhân văn trong cách ứng xử và hành động………………………………….......59
2.2.1. Phá chấp để đạt đến tự do, an lạc cho tâm hồn……………………………..59
2.2.2. Hòa quang đồng trần để đem đạo đến cho đời……………………………...67
2.2.3. Tùy duyên, linh hoạt để sống hợp lẽ và hành động có ích, có hiệu quả……..73
2.2.4. Tận tâm trong sự dẫn dắt, khai ngộ cho mọi người………………………….80
* Tiểu kết……………………………………………………………………………....87
CHƯƠNG 3 – NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TINH THẦN NHÂN VĂN
TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG………………………………………………….89
3.1. Ngôn ngữ
3.1.1. Ngôn ngữ biểu cảm…………………………………………………………..89
3.1.2. Ngôn ngữ tượng trưng, ẩn dụ……………………………………………..…94
3.1.3. Ngôn ngữ phi logic………………………………………………………....100
3.2. Thể thơ………………………………………………………………………..….105
3.2.1. Thể Đường luật……………………………………………………………..105
3.2.2. Thể cổ phong…………………………………………………………….…110
3.3. Giọng điệu……………………………………………………………………….116


5

3.3.1. Giọng thuyết giảng hùng biện, sắc sảo……………………………………..116
3.3.2. Giọng tự tình tự do, phóng khống………………………………………....121
3.3.3. Giọng trào lộng hóm hỉnh, ý nhị……………………………………………125
* Tiểu kết………………………………………………………………...…………...129
KẾT LUẬN…………………………………………………………………...……...131
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………...134

PHỤ LỤC………………………………………………………………………….. 139


6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giới Thiền học Việt Nam, Tuệ Trung Thượng Sĩ không phải là một cái tên
quá xa lạ. Ở các thiền viện, những bài thơ thiền và ngữ lục của Tuệ Trung được giảng
dạy như một giáo lý, một phương pháp thực hành thiền tập đem lại lợi ích thiết thực
cho người học đạo. Với các nhà nghiên cứu văn học, nhất là văn học Phật giáo Việt
Nam, tác phẩm thơ Tuệ Trung mở ra cả một thế giới vừa mênh mơng phóng khống,
vừa thâm sâu vi diệu. Các tác phẩm của Tuệ Trung, bất luận được lý giải ở phương
diện nào, đều có những điểm thú vị và giá trị đặc biệt riêng. Xem Tuệ Trung là một tác
giả văn học trung đại cũng đúng, mà xem Tuệ Trung là một nhà Thiền học cũng không
sai. Do vậy, vấn đề đặt ra là, cần nghiên cứu tác phẩm thơ Thiền Tuệ Trung từ góc nhìn
nào cho thật sự tồn vẹn và đầy đủ?

Nếu chỉ nhìn ở góc độ văn chương thuần túy, vơ

tình chúng ta sẽ làm giảm đi một phần không nhỏ chiều sâu triết lý của tác phẩm – điều
mà chỉ có thể dùng đến quan điểm Phật giáo để giải thích. Ngược lại, nếu chỉ đặt thơ
Thiền Tuệ Trung trong cái nhìn của Thiền tơng thuần túy sẽ làm cho tác phẩm mang
nặng yếu tố triết thuyết, kinh viện – trong khi thơ Thiền Tuệ Trung vốn rất thiết thực,
rất đời.
Xuất phát từ vấn đề trên, luận văn mong muốn đưa ra một cách nhìn nhận mới về
thơ Thiền Tuệ Trung: đánh giá thơ Thiền Tuệ Trung trong sự giao thoa giữa “đạo” và
“đời”, giữa triết lý Thiền học và văn chương. Cách nghiên cứu này có thể cung cấp cho
người đọc một cái nhìn tồn vẹn hơn về Tuệ Trung - một tác giả khá đặc biệt của văn
học trung đại Việt Nam và thiền phong Tuệ Trung – đạo thiền của những con người

“biết sống” đúng nghĩa nhất. Nó sẽ giúp chúng ta lý giải phần nào về con người và thời
đại Lý – Trần, một thời đại hồng kim “có một khơng hai” trong lịch sử Việt Nam.


7

Văn học Việt Nam đã đi qua nhiều chặng đường dài. Mỗi một chặng đường văn
học có một diện mạo riêng. Tuy nhiên, có những chuẩn giá trị tương đối thống nhất, là
yêu cầu chung của mọi thời đại: Tinh thần nhân văn, nhân đạo và khả năng bao quát,
phản ánh hiện thực đời sống. Một tác phẩm văn học chỉ thật sự “sống” được khi nó
chứa đựng được các giá trị ấy – giá trị căn bản và cần thiết nhất của văn chương. Vì
vậy, chúng tơi chọn đề tài: TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ
TRUNG. Nói đến TINH THẦN NHÂN VĂN là nói đến điểm nhìn của văn chương,
của cuộc đời. Cịn nói đến THƠ THIỀN là nói đến quan điểm của giáo lý Thiền tơng.
Theo chúng tôi, giá trị của thơ Thiền Tuệ Trung không chỉ dừng lại trong giới hạn của
văn chương trung đại hay thiền học Phật giáo, mà trước hết và trên tất cả, đó là một
“cách sống đúng chuẩn”, là “cảnh giới tâm linh” mà con người mong muốn đạt tới.
Như vậy, đi vào đề tài này, chúng tôi sẽ đưa ra một cách lý giải dựa trên điểm nhìn
“giao thoa” giữa văn học của đời sống và triết lý của Thiền tơng; để từ đó khẳng định
giá trị của thơ Thiền Tuệ Trung về mặt lý thuyết nghiên cứu văn học Phật giáo và cả
thực tiễn thiền tập để đem lại cho con người một đời sống thật sự bình an và hỷ lạc.
2. Lịch sử vấn đề
Bàn về thơ Thiền Tuệ Trung Thượng Sĩ, từ trước đến nay từng có khơng ít các
bài viết, cơng trình nghiên cứu. Trong đó, các tác giả thường đi vào lý giải về một khía
cạnh, một vấn đề nào đó trong tác phẩm của Tuệ Trung. Có thể thấy thiên hướng rõ rệt
khi tìm hiểu về thơ Thiền Tuệ Trung ở các cơng trình này là đi vào nghiên cứu và lý
giải thơ Thiền Tuệ Trung gắn liền với giáo lý Thiền tông thuần túy. Điều này đã góp
phần khơng nhỏ trong việc khẳng định vị trí của Tuệ Trung trong giới Thiền tông Việt
Nam như một bậc thiền sư đã qua trải nghiệm và thực chứng tâm linh. Tuy nhiên,
nghiên cứu thơ Thiền Tuệ Trung một cách tập trung, độc lập và có hệ thống thì đến nay

hầu như vẫn chưa có một cơng trình cụ thể nào.
Để thuận tiện trong việc theo dõi, chúng tôi thống nhất cách sắp xếp các cơng
trình, bài nghiên cứu về thơ Thiền Tuệ Trung hoặc có liên quan đến thơ Thiền Tuệ
Trung theo hai hướng: Hướng thứ nhất là các cơng trình, bài nghiên cứu mang tính


8

khái quát về thơ Thiền Tuệ Trung. Hướng thứ hai là các cơng trình trực tiếp, tập trung
nghiên cứu về một tác phẩm hoặc một vấn đề cụ thể trong thơ Thiền Tuệ Trung.
* Ở định hướng nghiên cứu thứ nhất, có thể kể đến các cơng trình sau:
- THƠ THIỀN VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ TƯ TƯỞNG NGHỆ
THUẬT của tác giả NGUYỄN PHẠM HÙNG (NXBĐHQG HÀ NỘI, 1998). Chuyên
luận chia thành 2 phần: Phần 1 - Thơ ca Phật giáo Việt Nam, những vấn đề lịch sử và
tư tưởng nghệ thuật; Phần 2 – Tuyển tập thơ Thiền Việt Nam. Trong phần 1, chương
V, khi đề cập đến Thơ Thiền đời Trần, tác giả chọn Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung là
một trong các tác giả tiêu biểu của thơ Thiền đời Trần. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phạm
Hùng đã đưa ra những nhận xét khá xác đáng và thú vị về thơ Thiền Tuệ Trung:
+ “Cái độc đáo của nội dung thơ Thiền Trần Tung là ở tư tưởng “phóng
cuồng” hết sức mãnh liệt. Cái độc đáo của hình thức thơ Thiền Trần Tung là sự mở
rộng các biện pháp biểu hiện, từ thơ tới ca. Ca từ bằng chữ Hán của Trần Tung khó có
tác gia Thiền nào sánh kịp” [11; tr152]
+ “Thơ ơng diễn tả tâm trạng phóng túng và say sưa của con người học đạo và
hành đạo đã đạt tới sự giác ngộ, giải thoát, tự do, tự tại, khi con người vượt lên trên sự
sống chết, mất còn, khi đạt tới sự “vô phân biệt” giữa phàm thánh, tăng tục, khi con
người khơng cịn nệ vào trì giới, nhẫn nhục” [11; tr156].
- TUỆ TRUNG – THƯỢNG SĨ, NHÂN SĨ, THI SĨ của Nguyễn Duy Hinh
(NXB KHXH 1998). Cơng trình chia thành 3 chương:
Chương 1: Tuệ Trung - nhân sĩ, nhằm xác định vị trí nhân vật trong lịch
sử đất nước và lịch sử Thiền tông

Chương 2: Tuệ Trung – thượng sĩ, tập trung minh họa, lý giải một số vấn
đề Thiền học mà Tuệ Trung đã đưa ra.
Chương 3: Tuệ Trung – thi sĩ, nghiên cứu về tâm hồn và nghệ thuật thơ
ca Tuệ Trung.


9

Ở đây, chúng tôi chủ yếu quan tâm đến nội dung chương 2 và chương 3. Trong
chương 2, sau khi đưa ra những luận giải, tác giả cho rằng Tuệ Trung đến với đạo
Thiền là vì: “Đời khơng mãn nguyện quay sang Đạo” [8;tr162]. Theo tác giả, cái cơ sở
của Tâm Tuệ Trung là: “Xuất phát từ thất bại không thỏa mãn được lòng ham muốn
vinh hoa phú quý theo như tự đánh giá, Tuệ Trung nhận thấy đời như mộng, phú quý
như phù vân và thoát thế tiêu dao. Đó là tư tưởng Vơ Vi và Tiêu Dao của Lão Tử và
Trang Tử diễn đạt trong Đạo Đức Kinh và Trang Tử (tức Nam Hoa Kinh) (….) Nếu
Phật Tâm là cơ sở thì Tuệ Trung đã xuất gia. Nhưng vì Vơ Vi và Tiêu Dao là cơ tầng
Tâm Tuệ Trung cho nên ông thả chiếc thuyền con trên mặt nước mênh mơng ngắm hoa
nở, nghe chim hót” [10; tr163]
Ở chương 3, khi nghiên cứu về thơ Thiền Tuệ Trung, tác giả chia 49 bài thơ của
Tuệ Trung thành 2 nhóm: Thơ Thiền lý (20 bài) và thơ Thiền ý (29 bài). Theo Nguyễn
Duy Hinh: “Con đường thơ ca của Tuệ Trung xuất phát tự tâm sự bất đắc chí của một
quý tộc tự đánh giá mình cao hơn triều đình đánh giá (…) Tuệ Trung là một nhân sĩ
quý tộc, một thượng sĩ hạng trí giả, một nhà thơ thiền mà chất Lão Trang đậm đà trong
hình tượng thơ ca. Tuệ Trung không phải thi tăng, là nhà thơ thiền duy nhất của nước
Việt Nam. Không một nhà thơ thiền nào kể cả thi tăng có nhiều bài thơ thiền như ơng
(….) Thơ Thiền Tuệ Trung thốt tục mà không xuất thế. Cuồng mà không say” [8; tr
250 – 254]
- Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn của tác giả Trần Lý Trai với đề tài GIÁ TRỊ VĂN HỌC
TRONG TÁC PHẨM CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM: Trong cơng trình này, tác giả
tập trung làm rõ những giá trị về nội dung tư tưởng và hình thức biểu hiện của các tác

phẩm trong thiền phái Trúc Lâm, trong đó có Tuệ Trung Thượng Sĩ.
- Bài viết CẢM HỨNG GIẢI THOÁT TRONG THƠ VƯƠNG DUY VÀ TUỆ
TRUNG
THƯỢNG SĨ của tác giả Lê Thị Thanh Tâm với có đề cập đến cảm hứng giải
thoát của thơ Thiền Tuệ Trung trong khi so sánh thơ Vương Duy và Tuệ Trung.


10

Tác giả cho rằng thơ Thiền Tuệ Trung mang đậm thiền lực, còn thơ Thiền Vương
Duy mang mang đậm thiền vị. Sau khi phân tích, khảo sát một số bài thơ tiêu biểu
của Vương Duy và Tuệ Trung, tác giả kết luận rằng: “Thế giới thơ ca Vương Duy
phản ánh rõ nét cốt cách và tầm vóc của ơng. Nhìn từ góc độ cảm hứng giải thốt,
chúng tơi nhận thấy: thơ ơng chứa đựng khơng gian thiên nhiên có màu sắc nội
tâm u huyền, cảm thức vũ trụ mang nội dung mỹ cảm thiền tông, yếu tố “nhàn
tĩnh” trong con người nhàn và thơ có giọng than. Đây là những yếu tố rất tương
hợp và thống nhất với cốt cách tài hoa, tài tử của ông, mang rõ những ảnh hưởng
văn hóa mỹ học của thời thịnh Đường mà ơng là một trong những đại diện tiêu
biểu nhất. Thế giới thơ ca Tuệ Trung lại mang âm hưởng “học phong Đông A” –
nền học phong đặc thù của một giai đoạn lịch sử rực rỡ nhất thời trung đại. Đó là
khuynh hướng duy tình trong triết luận, nhưng lại đặt trọng tâm vào sự thể hiện
đạo học, trí tuệ giải thốt vào thơ. Sáng tác của ơng mang nội dung thiền lực cao
sâu, đi kèm với giọng thuyết giáo, làm nên một chân dung đặc sắc của một nhân
cách lớn về đạo lẫn ở đời”[tài liệu trên internet].
- Quyển NHỮNG SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA CÁC THIỀN SƯ THỜI LÝ- TRẦN
(NXB Tổng hợp TPHCM, 2010) của tác giả Thích Giác Toàn trong chương 2 – Những
sáng tác văn học của các thiền sư thời Lý – Trần đã đi vào luận giải , chứng minh tinh
thần nhân bản trong sáng tác của các thiền sư qua bốn mối liên hệ chính: 1. Sự hiện
hữu của con người và sự cảm nhận về thân phận con người trong cuộc sống; 2. Những
bài ca về sự sống và cái chết của con người; 3. Sự cảm nhận của con người trước cảnh

sắc thiên nhiên; 4. Con người quay về với chính mình hay một định hướng sống hiền
đẹp. Trong quá trình phân tích, lý giải các vấn đề đặt ra, tác giả đã sử dụng một số bài
thơ Thiền của Tuệ Trung Thượng Sĩ để làm dẫn chứng minh họa cho luận điểm thứ 2,
đồng thời đưa ra nhận định về Tuệ Trung: “Mỗi hành động của Tuệ Trung Thượng Sĩ
là một phong cách hiển lộ nhằm khai thị cho học nhơn một cái nhìn mới liễu ngộ cảnh
trí Phật pháp. Mỗi bài thơ, bài kệ của Tuệ Trung Thượng Sĩ là những ngơn ngữ thơ ca
mang tính đặc thù của Thiền tông là nhằm chỉ thẳng tâm người, làm cho người bừng


11

tỉnh trước những vọng duyên sở chấp, tự chứng, tự mãn trên đường tu tập” [42; tr120].
Cơng trình này đã khẳng định cho chúng ta thấy phần nào những đóng góp của mảng
văn học Phật giáo, nhất là Phật giáo Thiền tông đối với nền văn học nước nhà và thực
tiễn đời sống của con người. Tuy nhiên, có lẽ, vì là một tu sĩ, nên điểm nhìn trọng tâm
của tác giả trước sau vẫn thiên về giáo lý nhà Phật hơn là văn chương trần thế. Do vậy,
cơng trình khơng chú trọng đi sâu nghiên cứu về hình thức biểu hiện trong các tác
phẩm thơ Thiền. Tức là, tác giả chỉ dừng lại ở khía cạnh nội dung những sáng tác thiền
học của các thiền sư thời Lý – Trần mà chưa quan tâm nhiều đến phương diện nghệ
thuật thể hiện nội dung ấy.
- Quyển VỀ CON NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG VĂN HỌC CỔ VIỆT NAM của các
tác giả Nguyễn Hữu Sơn – Trần Đình Sử - Huyền Giang – Trần Ngọc Vương – Trần
Nho Thìn – Đồn Thị Thu Vân (NXB Giáo dục, 2010), ở chương 3 – Vấn đề con người
trong văn học thời đại Lý Trần có đề cập đến hình tượng con người trong thơ Thiền
Tuệ Trung: “Đó là con người “dĩ bất biến ứng vạn biến”, làm chủ trong mọi biến ảo.
Có thể nói đó là con người tự do nhưng tự do hướng nội, tự do vứt bỏ tất cả để tạo lập
một thế giới riêng” [29; tr 163]
* Ở định hướng nghiên cứu thứ hai, trước tiên phải kể đến bài viết của tác giả
Nguyễn Huệ Chi: TRẦN TUNG – MỘT GƯƠNG MẶT LẠ TRONG LÀNG THƠ
THIỀN THỜI LÝ TRẦN đăng trên Tạp chí Văn học số 4 năm 1977, tr 116. Trong bài

viết này, ngoài việc minh định lại thân thế của Tuệ Trung Thượng Sĩ, tác giả tập trung
phân tích, lý giải những nét “lạ” trong sáng tác thơ ca của Thượng Sĩ: “Vả chăng, Trần
Tung lại là nhà Thiền học vào hàng đặc biệt, người không chịu rời bỏ cuộc sống thế
tục lấy một ngày nào. Vì thế, việc trộn lẫn giữa Thiền và tục và Thiền trong tục trong
thơ ông biết đâu lại chẳng là điều kiện của sự thăng hoa, giúp ông đạt đến những sáng
tạo đặc sắc, đánh dấu một cấp độ thẩm mĩ mới của thơ ca thời đại này”
Bên cạnh đó, có thể kể đến các bài nghiên cứu trong quyển TUỆ TRUNG
THƯỢNG SĨ VỚI THIỀN TÔNG VIỆT NAM do VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI –
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU HÁN NÔM biên soạn (NXB Đà Nẵng xuất bản năm


12

2000 và tái bản năm 2011). Trong số 33 bài nghiên cứu, có 10 bài trực tiếp đề cập đến
thơ Thiền Tuệ Trung, 01 bài đề cập đến tính nhân văn trong trong thơ Thiền.
- Trong bài “Tính nhân văn nơi các thiền sư tiêu biểu của Phật giáo Trúc Lâm đời
Trần”, tác giả Thích Giác Tồn chỉ ra tính nhân văn nơi các thiền sư biểu hiện chủ yếu
qua cách sống, cách hành xử đối với con người và cuộc đời. Với Tuệ Trung, tính nhân
văn ấy gắn với tư tưởng “hòa quang đồng trần”, tư tưởng “bất nhị” hay “quay về
chính mình”.
- Trong bài viết “Tuệ Trung Thượng Sĩ – con mắt thơng tuệ rừng thiền ba
phía”, tác giả Nguyễn Văn Hồng nhận xét về triết thuyết và con người Tuệ Trung
Thượng Sĩ: “Không xa lánh cuộc sống, nhập thế để xuất thế, sống để hiểu cuộc sống.
Tuệ Trung Thượng Sĩ tham gia vào việc giữ gìn sáng tạo và nhận biết giải thích cuộc
sống. Tồn bộ triết thuyết của ơng xuất phát từ Tâm muốn tìm một con đường để con
người sống tốt hơn đẹp hơn, và như vậy quả thực ông đã như một nhà tư tưởng triết
học mang đậm màu sắc riêng” [23;tr 100]
- Với bài viết Tuệ Trung Thượng Sĩ và Phật giáo thiền tơng, tác giả Lê Văn
Sáu tập trung tìm hiểu về những nét đặc sắc, độc đáo trong tư tưởng Thiền của Tuệ
Trung về mặt bản thể luận. Ông cho rằng: “Quan niệm Thiền của cư sĩ rất độc đáo,

sống hết mình theo quy luật, theo Tâm, khơng cần ai, khơng cầu cạnh ai, đó là Thiền
rồi (…). Tiếp cận với những tác phẩm của Tuệ Trung, chúng ta có thể cho rằng nhà cư
sĩ uyên thâm này đã sớm đi từ những luận điểm của Thiền tông đặt ra và giải đáp
những vấn đề cơ bản của triết học trên cơ sở bản thể luận và nhận thức luận dưới dạng
độc đáo của môn phái Thiền tông”. [23; tr112]
- Với Tuệ Trung Thượng Sĩ – Một khuôn mặt đặc biệt của thiền tơng đời
Trần, ngay từ những dịng đầu tiên, tác giả Huỳnh Công Bá đã đánh giá rất cao vị trí,
vai trị của Tuệ Trung Thượng Sĩ: “Trong giới Thiền học đời Trần, Tuệ Trung Thượng
Sĩ là một khuôn mặt khá đặc biệt. Đạo học của Thượng Sĩ rất uyên thâm và hành trạng
của Thượng Sĩ có nhiều độc đáo. Thượng Sĩ là ngọn đuốc sáng nhất của Thiền học đời


13

Trần.” [23; tr57]. Trong bài nghiên cứu này, tác giả tập trung tìm hiểu về Thượng Sĩ
trên hai bình diện là tư tưởng và hành động với những lí giải khá thú vị và sâu sắc.
- Cùng đi vào tìm hiểu về Thiền phong của Thượng Sĩ, tác giả Tống Hồ Cầm với
Thiền lực của Tuệ Trung Thượng Sĩ là sức sống tâm linh rất mãnh liệt lại chú ý đến
“tinh thần phá chấp triệt để” của Tuệ Trung, xem đây là nét đặc biệt của tư tưởng
Thiền Tuệ Trung. Trong bài viết, tác giả đã phân tích, lí giải những biểu hiện của “tinh
thần phá chấp triệt để” trong thơ Thượng Sĩ, đó là: đập phá thái độ bám víu vào khái
niệm và đập phá về quan niệm lưỡng ngun giữa thiện ác, mê ngộ, sanh tử, có khơng,
thánh phàm… Cuối cùng, tác giả đi đến kết luận: “Tinh thần phá chấp của Tuệ Trung
có thể nói giống như tinh thần phá chấp của Lục Tổ Huệ Năng là chỉ thẳng tâm người,
thấy tánh thành Phật, lột bỏ những kiến chấp, khái niệm mơ hồ qua ngôn ngữ văn tự
(…). Tuệ Trung sống hòa quang đồng trần là để đưa đạo vào đời, nên đối với ơng hình
thức tại gia, xuất gia khơng quan trọng. Vì vậy, tư tưởng Thiền của ơng tốt ra một sức
sống tâm linh có mãnh lực khai mở cửa tự ngộ cho người khác” [23; tr 105-106]
- Trong bài Pháp môn bất nhị - tư tưởng thiền trong Tuệ Trung Thượng Sĩ
Ngữ Lục tác giả Thích Thanh Kiểm đi vào phân tích, luận giải về “pháp môn bất nhị”

của Thiền tông thông qua một số “công án” Thiền trong Kinh Phật, một vài đoạn trong
phần “Tụng cổ” của Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục” và 2 bài thơ của Thượng Sĩ. Từ
đây, tác giả giúp cho chúng ta hiểu thêm một phần quan trọng trong tư tưởng Thiền Tuệ
Trung: quan niệm về sự bình đẳng, vô sai biệt.
- Với Tư tưởng Thiền học của Tuệ Trung Thượng Sĩ tác giả Thích Phước
Sơn đã chỉ ra 5 điểm then chốt trong tư tưởng Thiền học của Tuệ Trung Thượng Sĩ là:
1. Quán triệt lẽ vô thường của môn pháp; 2. Vạn pháp do tâm tạo; 3. Cổ vũ tinh thần tự
lực; 4. Phá bỏ quan niệm lưỡng cực; 5. Tự tại giải thoát. Và, tác giả kết luận rằng: “Tuy
nhiên, con người của ông rất đa dạng, ngồi phong thái siêu quần, hành vi thốt tục,
Tuệ Trung lại có tài văn chương, diễn tả tư tưởng rất độc đáo, sắc sảo, mạnh mẽ và
trực tiếp. Ông không những là một nhà tư tưởng lớn mà cịn là một thi sĩ tài hoa, hình
như đây là một hiện tượng đặc thù và hi hữu trong thiền sử Phật giáo.” [23; tr175]


14

- Khác với phần lớn những bài nghiên cứu về Tuệ Trung Thượng Sĩ, trong Tuệ
Trung Thượng Sĩ – kẻ rong chơi giữa sống và chết tác giả Thích Phước An không đi
vào luận giải về tư tưởng Thiền học của Tuệ Trung mà chỉ điểm qua và bình luận về 11
bài thơ khá tiêu biểu của Thượng Sĩ là: Dưỡng chân, Giang hồ tự thích, Chiếu thân, Thị
học, Ngẫu tác, Thoát thế, Đề tịnh xá, Trụ trượng tử, Thị đồ, Tự đề, An định thời tiết.
Bên cạnh đó, tác giả còn điểm qua hành tung đặc biệt của Thượng Sĩ trong lịch sử, từ
đó cho thấy tâm thế của một bậc xuất trần thượng sĩ, an nhiên rong chơi giữa sống chết,
thành bại, được mất của cuộc đời. Theo Thích Phước An, hành trình rong chơi của
Thượng Sĩ là hành trình đi tìm và thưởng ngoạn cái đẹp của đời, và: “Tuệ Trung
Thượng sĩ khuyên ta nên trở về tìm kiếm cái đẹp ngay bên trong, chứ đừng tìm bên
ngồi. Nếu ngày nào đó ta vẫn cứ tiếp tục lang thang tìm kiếm bên ngồi, thì ngày đó
ta vẫn chỉ gặp tồn thất vọng và đau khổ mà thơi” [23; tr181]
- Trong Chất thiền Đại Việt trong thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ, Nguyễn Thị
Thanh Xuân đưa người đọc vào thế giới thơ Thiền Tuệ Trung với những cảm xúc, suy

tư của Tuệ Trung đối với hiện thực cuộc sống trong đó có giáo lý Thiền. Theo tác giả,
“thơ Tuệ Trung bay bổng cùng đất trời và hòa cùng tâm hồn Đại Việt đang phơi phới
vươn lên tự khẳng định mình” [23; tr220]. Cuối cùng, Nguyễn Thị Thanh Xuân kết
luận: “Chất Thiền Đại Việt trong thơ Tuệ Trung là tâm hồn ơng, trí tuệ ơng và hành
động của ơng. Thơ ấy chính là Thiền. Thiền ấy chính là Tuệ Trung, chính là Đại Việt”
[23; tr229]
- Với Thiền ngữ trong thi ca của Tuệ Trung Thượng Sĩ, tác giả Thích Tuệ
Đăng đưa ra kết luận: “Tuệ Trung đã sống với chính thực tại nhiệm màu, sống đời tự
tại vượt ngoài động tĩnh, vượt ngồi đối đãi phân biệt, bóp nát ý thức, phá vỡ danh
tướng… Bởi vậy, ngôn ngữ của Tuệ Trung là một thứ ngơn ngữ giác ngộ, tự nó vốn
viên thành chẳng tìm ngồi mà được, cốt quay về tự tính làm hiển lộ cái “mười phương
thế giới hiện tồn chân”. Đó chính là tinh thần nhân bản của đạo Phật vậy.”[23;
tr246]. Nhận định này đã góp phần gợi mở cho chúng tôi thấy thêm được điểm “giao


15

thoa” giữa tính nhân văn trong văn chương và tinh thần nhân bản của đạo Phật, cụ thể
là Phật giáo Thiền tông.
- Với Tuệ Trung Thượng Sĩ và Thiền phong đời Trần tác giả Đoàn Thị Thu
Vân khẳng định giá trị đặc biệt, thiết thực của Thiền phong Tuệ Trung: “Đối với Tuệ
Trung, Thiền không chỉ là một tôn giáo mà là một cách sống, một đạo sống đẹp giúp
con người đạt đến một hạnh phúc đích thực nơi trần thế với sự tự do tự tại và hài hòa
cùng vạn vật vũ trụ” [23; tr 14-15]
Nhìn chung, ở các cơng trình nghiên cứu trong quyển TUỆ TRUNG THƯỢNG
SĨ VỚI THIỀN TÔNG VIỆT NAM các tác giả đều tập trung lý giải về thiền phong đặc
biệt của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Hầu như các tác giả đều đồng nhất trong quan niệm về
tư tưởng và lối sống Thiền của Tuệ Trung, đó là lối sống “siêu thốt nhưng khơng xa
rời thực tại, tâm hồn bồng bềnh với trăng gió nước mây, nhưng hai chân vẫn trụ chắc
trên mảnh đất quê hương” [23; tr228]

- Trong NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ CHO THƠ
THIỀN VIỆT NAM - luận văn thạc sĩ Ngữ Văn năm 2009 - Trần Thị Thu Hiền đi vào
tìm hiểu và chỉ ra những đóng góp về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của Tuệ Trung
cho thơ Thiền Việt Nam. Ở đây, tác giả luận văn đã nắm bắt được những nội dung tư
tưởng cốt lõi của Tuệ Trung Thượng Sĩ: tư tưởng tùy duyên, tinh thần phá chấp triệt để,
tinh thần tự tin vào bản thân, tinh thần dung hợp Tam giáo.
- Tác giả Thích Đức Thắng trong bài “CON TRÂU ĐẤT – MỘT BIỂU
TƯỢNG ĐỘC ĐÁO CỦA TUỆ TRUNG” đã đi sâu phân tích và chỉ rõ cái hay, cái
độc đáo của biểu tượng “con trâu đất” trong thơ Thiền Tuệ Trung. Theo tác giả, “con
trâu đất” chính là một “cơng án thiền” mà Thượng Sĩ Tuệ Trung muốn đưa ra để khai
ngộ cho người học Phật: “Tóm lại, ai muốn thấy được cái độc đáo trong con trâu đất
của Tuệ Trung thì phải tham thấu lọt qua công án này mới mong thấy được BẢN LAI
DIỆN MỤC của chính mình” [tài liệu trên internet]


16

- Gần đây nhất, trong bài “TƯ TƯỞNG NHẬP THẾ CỦA TUỆ TRUNG QUA
BÀI PHẬT TÂM CA” của tác giả Phước Tâm in trong quyển VĂN HỌC PHẬT GIÁO
VỚI 1000 NĂM THĂNG LONG HÀ NỘI (do HT. Thích Giác Tồn và PGS.TS Trần
Hữu Tá chủ biên, NXB Văn hóa Thơng tin, 2010) một lần nữa khẳng định giá trị đích
thực và tích cực của Thiền phong Tuệ Trung: “Chủ trương của cả bài thơ Phật tâm ca
chính là đem việc tu thiền dung nhập vào đời sống hằng ngày. Ông cho rằng Phật pháp
không thể tách rời thế gian. Sự tu tập pháp môn đốn ngộ mà ông khởi xướng khơng
phải dùng các hình thức tu tập cố định như tọa thiền, tụng kinh, bái Phật… Giác ngộ
với ông, phải là đạt được từ trong cuộc sống hiện thực này. Từ công việc, các thao tác,
hành vi, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười… trong cuộc sống mà đạt được trí tuệ” [40;tr 489]
Qua các bài viết, các cơng trình nghiên cứu về Tuệ Trung và thơ Thiền Tuệ
Trung, có thể thấy thiền học không phải là vấn đề thuần túy tôn giáo mà luôn gắn liền
với thực tế đời sống. Thiền là một cách sống, một phương pháp sống đem lại lợi ích lớn

lao cho người thực hành thiền tập. Do vậy, cần đặt giáo lý thiền vào dòng chảy của đời
sống nói chung, văn chương nói riêng để thấy được giá trị tích cực và đích thực của nó.
Dù chưa đi vào khai thác cụ thể vấn đề TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG
THƠ THIỀN TUỆ TRUNG, các cơng trình nghiên cứu trên đã cung cấp thêm cho
chúng tôi một cái nhìn về giá trị của thơ Thiền nói chung, thơ Thiền Tuệ Trung nói
riêng. Trên cơ sở ban đầu này, chúng tơi sẽ bắt tay tìm hiểu, luận giải thêm về thơ
Thiền Tuệ Trung với mong muốn góp thêm tiếng nói mới trong cách nhìn nhận, đánh
giá về mảng văn học đặc biệt của dân tộc – văn học Phật giáo Thiền tông.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng trong q trình nghiên cứu các
đơn vị tác phẩm riêng rẽ, làm dẫn chứng minh họa cho các luận điểm trong bài nghiên
cứu. Phương pháp này áp dụng tập trung ở chương 2 và 3 và là phương pháp chủ đạo,
xuyên suốt trong luận văn của chúng tôi.


17

Phương pháp hệ thống: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để tổng hợp, khái
quát vấn đề, đưa ra các luận điểm, định hướng triển khai vấn đề.
Phương pháp so sánh: Nhằm mục đích làm nổi bật giá trị đặc biệt của thơ Thiền
Tuệ Trung, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh, đối chiếu thơ Thiền Tuệ Trung với một số
bài thơ, nhà thơ trung đại khác. Phương pháp này cũng sẽ được sử dụng chủ yếu ở
chương 2 và 3
Phương pháp liên ngành: Với mong muốn đi vào nghiên cứu thơ Thiền Tuệ
Trung ở góc nhìn giao thoa giữa Thiền học và thơ ca, chúng tôi sẽ đặt các bài thơ
Thiền, ngữ lục của Tuệ Trung trong nhiều mối quan hệ khác nhau (văn hóa, xã hội, tơn
giáo) để xem xét, lý giải. Phương pháp này sẽ được áp dụng chủ yếu trong chương 2.
4. Đối tượng, mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tinh thần nhân văn thể hiện trong thơ Thiền Tuệ Trung
Ngữ liệu sử dụng nghiên cứu:

- Các bài thơ của Tuệ Trung - 49 bài
- “Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục”
Mục đích nghiên cứu: Chỉ ra nội dung nhân văn trong thơ Thiền Tuệ Trung và nghệ
thuật thể hiện tinh thần nhân văn của thơ Thiền Tuệ Trung, qua đó khẳng định giá trị
của thơ Thiền Tuệ Trung trong nền văn học trung đại nói chung, văn học Phật giáo nói
riêng.
5. Đóng góp của đề tài
Như trên đã nói, khi lựa chọn đề tài, chúng tôi dựa trên cơ sở kết hợp nghiên cứu
văn học và nghiên cứu giáo lý thiền học trong tác phẩm Tuệ Trung để đưa ra những
đánh giá, luận giải và đi đến khẳng định giá trị đặc trưng của thơ thiền Tuệ Trung. Qua
đó cho thấy tác dụng tích cực, thiết thực của văn học và Thiền học đối với cuộc sống
con người. Đó khơng phải là lý thuyết sách vở thuần túy, mà trước hết và trên tất cả đó


18

là “phương pháp sống”, “phương pháp hành xử” cần có của con người trước cuộc đời một xã hội hiện đại, đầy đủ đến dư thừa những nhu cầu hưởng thụ về vật chất hiện nay.
Nghiên cứu vấn đề dựa trên điểm nhìn giao thoa “đạo – đời” chính là đóng góp
mới mà luận văn hy vọng có thể đem đến cho người đọc. Chúng tôi mong muốn thông
qua những kết quả khảo sát thuộc về “lý thuyết” của văn học và Thiền học có thể cung
cấp cho người đọc một phần nhỏ phương pháp “thực hành” trên con đường trải nghiệm
và kiếm tìm hạnh phúc đích thực và bền vững nhất giữa đời sống còn lắm bộn bề, xáo
động hiện nay.
Chúng tôi cho rằng giữa văn học và Thiền học ln có những “điểm chung”
nhất định. Và, “điểm chung” đầu tiên chính là con người cùng với thực tế đời sống
xung quanh ta. Nó làm nên sự gặp gỡ thú vị giữa tinh thần nhân văn của văn học và
quan niệm về từ bi, bình đẳng, bác ái của Phật giáo Thiền tông. Văn học trao cho con
người sự cảm thông, chia sẻ giữa bộn bề cuộc sống trần gian, còn Thiền học đưa con
người trở về với chân nguyên giá trị của bản thân và đồng loại trong mênh mông vũ trụ
này. Nhờ vậy mà con người chúng ta sống tốt hơn, ý nghĩa hơn và bình an hơn.

6. Kết cấu đề tài
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG. Trong chương này, chúng tôi tập trung
làm rõ những vấn đề mang tính lý luận cơ bản, làm nền tảng để triển khai và giải quyết
những nội dung trọng tâm ở chương 2 và 3.
Chương 2: NỘI DUNG TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ
TRUNG. Trong chương này, chúng tơi đi vào phân tích, lý giải những biểu hiện cụ thể
của tinh thần nhân văn trong thơ Thiền Tuệ Trung trên cơ sở kết hợp hai điểm nhìn:
tinh thần nhân văn trong văn học và quan điểm Phật giáo Thiền tông.
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG
THƠ THIỀN TUỆ TRUNG. Với chương này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu các hình
thức thể hiện nội dung nhân văn của thơ Thiền Tuệ Trung để thấy được nét đặc sắc, đặc
trưng riêng của Tuệ Trung so với các tác giả cùng thời.


19

CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm nhân văn và những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học
1.1.1. Khái niệm nhân văn
Trong nghiên cứu văn học, chúng ta thường bắt gặp khơng ít những cụm từ như
chủ nghĩa nhân văn, tư tưởng nhân văn, chất nhân văn, tinh thần nhân văn…. Nhân
văn là từ được sử dụng khá phổ biến trong chuyên ngành nghiên cứu văn học. Tuy
nhiên, chúng ta lại ít khi quan tâm đến ý nghĩa đầy đủ của khái niệm “nhân văn”.
Trong nhà trường phổ thông, đôi lúc chúng ta dùng “nhân văn” để thay thế cho khái
niệm “nhân đạo” hay “nhân bản”. Xét về tổng thể, ba từ này có những tương đồng
nhất định về nghĩa. Song, xét về ý nghĩa và phạm vi sử dụng, giữa chúng vẫn có sự
khác biệt.
Nhân văn vốn là một từ Hán – Việt. “Nhân” là người. “Văn” tức là vẻ đẹp. Vẻ
đẹp ở đây được hiểu bao hàm cả vẻ đẹp bên trong lẫn bên ngoài. Do vậy, khái niệm
“nhân văn” thường dùng để nói đến sự khẳng định, đề cao cái đẹp hay những giá trị

đẹp đẽ của con người từ hình thể đến tâm hồn, nhân cách, tinh thần, ý chí, khát vọng,
hồi bão,…
Nói tới nhân văn là nói tới con người, khái niệm “nhân văn” xuất hiện khi xã
hội loài người đã phát triển ở trình độ cao, gắn liền với thái độ, tư tưởng, tình cảm của


20

con người đối với cuộc sống. Chính ý thức về giá trị của hạnh phúc, khát vọng hạnh
phúc, mong muốn giải thoát khỏi mọi khổ đau, ước mơ về một xã hội tốt đẹp của con
người là những nhân tố đầu tiên cho sự hình thành tinh thần nhân văn, tư tưởng nhân
văn. Như vậy, khái niệm “nhân văn” được dùng để chỉ chung cho những giá trị tinh
thần của nhân loại, xuất phát từ sự tôn trọng giá trị, nhân phẩm con người, lòng thương
yêu con người, niềm tin vào năng lực và sức sáng tạo không cùng của con người. Từ
đó, thuật ngữ “chủ nghĩa nhân văn” có thể hiểu theo nhiều cấp độ, khía cạnh khác
nhau.
Nhắc đến khái niệm “nhân văn”, không thể bỏ qua thuật ngữ “chủ nghĩa nhân
văn” trong văn học. Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán – Trần Đình Sử chủ biên,
NXBGD Hà Nội) định nghĩa “chủ nghĩa nhân văn” như sau:
“Ở cấp độ thế giới quan, chủ nghĩa nhân văn là tồn bộ những tư tưởng, quan
điểm, tình cảm q trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức
mạnh, vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần mà
cịn bao hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí, vai trị, khả
năng, bản chất,…) trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại.
Ở cấp độ lịch sử, chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hóa – tư tưởng nảy
sinh ở I-ta-li-a và một số nước khác ở Châu Âu thời Phục hưng (thế kỉ XIV – XVI).
Những người khởi xướng trào lưu này chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật nói
riêng và văn hóa nói chung khỏi sự bảo trợ của nhà thờ Cơ Đốc giáo và giải phóng cá
nhân con người. Họ quan niệm khơng phải thần linh mà là con người tự định đoạt lấy
số phận của mình. Con người có khả năng vơ tận để hồn thiện mơi trường của mình.

Trong hoạt động văn hóa nghệ thuật, họ chủ trương đi sâu nghiên cứu những thành
tựu rực rỡ giàu sức sống và vẻ đẹp hồn nhiên của văn hóa cổ đại Hy Lạp – La Mã đã
bị quên lãng trong suốt thời Trung cổ, nhằm khôi phục những giá trị nhân văn của
chúng. Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự sáng tạo và ca ngợi cái đẹp trần thế, lành
mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh toàn năng
của con người.”[7; tr 88 - 89]


21

Từ đây, chúng ta có thể thấy khái niệm “nhân văn” được sử dụng ở phạm vi khá
rộng, bao gồm tất cả các lĩnh vực, vấn đề có liên quan đến con người: văn hóa, xã hội,
chính trị, văn học, nghệ thuật, mỹ học… Do vậy, khơng khó để lí giải vì sao khái niệm
này lại được sử dụng phổ biến, thậm chí có khi bị lạm dụng. Theo đó, thuật ngữ “chủ
nghĩa nhân văn” cũng trở nên thông dụng không kém: Chủ nghĩa nhân văn trong văn
học, chủ nghĩa nhân văn trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, xã hội, mỹ thuật, hội họa,
âm nhạc… Bởi lẽ, trong đời sống, khơng có lĩnh vực nào khơng liên quan hoặc trực
tiếp hoặc gián tiếp đến con người. Mà, con người lại là trung tâm hướng đến của tinh
thần nhân văn, chủ nghĩa nhân văn.
Để có cái nhìn đầy đủ hơn, chúng ta cần đi vào làm rõ hai khái niệm thường
được sử dụng song hành, thậm chí có khi dùng để thay thế cho khái niệm “nhân văn”,
đó là khái niệm “nhân đạo” và “nhân bản”.
Cũng giống như “nhân văn”, thuật ngữ “nhân đạo” vốn là từ Hán – Việt.
“Đạo” là đường lối, phương pháp, cách thức; “đạo” còn được hiểu rộng ra là lí lẽ, đạo
đức, đạo lí. Từ đây, chúng ta có thể hiểu khái niệm “nhân đạo” theo 3 nghĩa: 1. Đường
lối, đường đi của con người (con đường của đạo lí, đạo đức); 2. Chỉ lịng yêu thương
giữa loài người với nhau; 3. Đạo đức, đạo làm người giữa cuộc đời. Khái niệm “nhân
đạo” gắn liền với đạo đức, đạo lí của con người, cách hành động, cư xử của con người
đối với nhau, thường được sử dụng trong lĩnh vực văn học đối với những vấn đề có liên
quan đến đạo đức của con người (Chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân đạo, tinh thần

nhân đạo, tình cảm nhân đạo…). Nói đến “nhân đạo” là nói đến lịng thương người,
đến sự đồng cảm trước nỗi khổ đau bất hạnh của con người; mong muốn những điều tốt
lành, niềm hạnh phúc đến với con người. “Tư tưởng nhân đạo” gắn liền với thái độ đạo
đức với con người, xem con người là đối tượng chính của tình u thương. “Chủ nghĩa
nhân đạo” khơng chỉ địi hỏi sự thương yêu hay đồng cảm với con người mà cịn là tích
cực hành động, lên tiếng địi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc cho con người,
đấu tranh, bênh vực cho những con người chịu áp bức, bất hạnh.


22

Về khái niệm “nhân bản”, “bản” có nghĩa là: gốc, nguồn gốc, cội rễ. “Nhân
bản” là cái gốc làm người, là lấy con người làm gốc. “Nhân bản” thường gắn liền với
cái thuộc về bản chất, cái vốn có, sẵn có bên trong của con người. “Chủ nghĩa nhân
bản” nhấn mạnh đến khía cạnh bản thể của con người, xem con người không phải là
thần thánh mà là một thực thể sinh vật, có nhu cầu của cuộc sống, chịu sự chi phối của
quy luật tự nhiên. Chính vì quan niệm trên, “chủ nghĩa nhân bản” nhắc nhở đừng nên
tuyệt đối hóa, lý tưởng hóa, coi con người là siêu phàm, cơng nhận và tơn trọng những
nhu cầu chính đáng, hợp quy luật khách quan của con người về vật chất và tinh thần,
không áp chế con người theo những khn mẫu, định ước có sẵn nào đó mà phải có sự
thấu hiểu, cảm thơng, “thể tất nhân tình” bởi “thịt da ai cũng là người”. “Chủ nghĩa
nhân bản” mang lại một cái nhìn khách quan, đầy tinh thần khoa học hiện đại đối với
con người. So với hai khái niệm “nhân văn” và“nhân đạo”, khái niệm “nhân bản” có
phạm vi sử dụng hẹp hơn. “Nhân bản” thường được sử dụng trong lĩnh vực nghiên cứu
triết học, tâm lý xã hội.
Như vậy, có thể tạm sắp xếp 3 khái niệm trên theo thứ tự giảm dần về phạm
vi sử dụng như sau: NHÂN VĂN – NHÂN ĐẠO – NHÂN BẢN. Từ đây, chúng ta
có thể thấy được điểm khác nhau cơ bản giữa 3 khái niệm:
+ Nhân bản: Thường được sử dụng trong lĩnh vực triết học, nhấn mạnh giá
trị gốc vốn có của con người, đối lập con người với thần thánh, đòi hỏi xã hội phải

đáp ứng những nhu cầu trần thế của con người. Nó xem con người là một thực thể
sinh vật, có nhu cầu cuộc sống, chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên. Khi nói đến
“nhân bản”, “chủ nghĩa nhân bản”, “tính nhân bản”, “tinh thần nhân bản” cũng tức
là chúng ta đang muốn nói đến phần “con” trong một con người. Đã có một thời
chúng ta từng lên án, phê phán, thậm chí cố tâm chối bỏ phần “con” ấy. Tuy nhiên,
nếu khơng có nó, sẽ khơng có một sinh vật cao cấp được gọi là “con người”. Nhìn
nhận lại và chấp nhận những nhu cầu chính đáng trong đời sống con người sẽ giúp
chúng ta có cách hành xử đúng đắn hơn, khoan dung hơn về chính mình và đồng


23

loại. Đây là một thái độ khoa học đối với con người, là sự nhận thức về cái CHÂN
của con người. CHÂN ở đây được hiểu là cái chân thực, vốn có, tự nhiên, như
nhiên. CHÂN cũng có nghĩa là chân tính, bản tính gốc của mỗi con người, cái
khơng thể thay đổi.
+ Nhân đạo: Thường sử dụng trong lĩnh vực đạo đức, luân lý, nhấn mạnh
lòng yêu thương con người, thái độ bênh vực, bảo vệ con người. Nói cách khác,
khái niệm nhân đạo thiên về sự thông cảm, thấu hiểu, chia sẻ với con người về mặt
tinh thần. Khái niệm “nhân đạo”, “chủ nghĩa nhân đạo”, “tinh thần nhân đạo”
thường liên quan trực tiếp đến phần “người” trong con người. Đương nhiên, phần
“người” này chủ yếu được nhìn nhận ở góc độ tích cực, ở mặt tốt, mặt thiện hay
cịn gọi là “thiên tính” của con người. Đó là sự nhận thức về cái THIỆN của con
người. Cái THIỆN thường gắn với cái tốt, cái cao cả. Cái THIỆN sẽ giúp nâng cao
giá trị của con người trong cuộc sống.
+ Nhân văn: Được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như văn hóa, xã hội, chính
trị, văn học, nghệ thuật, mỹ học…, nhấn mạnh thái độ thương yêu, trân trọng, đề
cao, bảo vệ những giá trị đẹp đẽ của con người ở mọi mối quan hệ xã hội. Khái
niệm “nhân văn”, “chủ nghĩa nhân văn”, “tinh thần nhân văn”, “tư tưởng nhân
văn”.... quan tâm đến cả hai mặt vật chất và tinh thần của con người. Nó mang lại

cho chúng ta cách nhìn nhận, đánh giá và hành xử đúng mực hơn đối với bản thân
và đồng loại. Bởi lẽ, con người chúng ta sống trong đời không chỉ hướng đến cái
CHÂN, cái THIỆN mà còn cả cái ĐẸP được. Ban đầu, con người ta cần sống chân
thật, cần nhìn nhận, tìm hiểu về bản thân mình nên yêu cầu phải có cái CHÂN. Về
sau, khi đã được “tồn tại” như một thực thể đúng nghĩa, con người ta muốn
“sống”, muốn hướng thiện, muốn có cái THIỆN. Song, khát vọng sống của con
người là vô tận. Con người không chỉ muốn muốn sống hướng thiện, sống đúng
với thực thể của chính mình mà cịn muốn sống đẹp. Đó chính là cái MĨ. Suốt hàng
ngàn thậm chí hàng vạn vạn năm tồn tại trên cõi đời, con người không ngừng tìm


24

kiếm, không ngừng hướng đến CHÂN – THIỆN – MỸ. Đó cũng chính là hướng
đến của tinh thần “nhân văn”. Do vậy, có thể nói, nhận thức chủ đạo và định
hướng hành động chủ đạo của tinh thần nhân văn, tư tưởng nhân văn hay chủ
nghĩa nhân văn xét cho cùng chính là sự nhận thức về cả ba mặt CHÂN- THIỆN –
MỸ nơi con người.
Tuy nhiên, nhìn trên tổng thể, 3 khái niệm “nhân bản”, “nhân đạo”, “nhân
văn” vẫn có những nét tương đồng nhất định. Các khái niệm này đều có liên quan
đến thái độ ứng xử, quan niệm triết học, văn hóa của con người. Nó tập trung xây
dựng, khẳng định giá trị, vai trò, ý nghĩa của con người trong đời sống cộng đồng.
Do vậy, trong một chừng mực nào đó, sự phân biệt và giới hạn về phạm vi sử dụng
của 3 khái niệm trên chỉ mang tính tương đối, tùy theo dụng ý, mục đích nghiên
cứu, đánh giá vấn đề.
1.1.2. Những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học:
Nói đến nhân văn là nói đến con người, đến tất cả những gì liên quan đến con
người. Hơn bất cứ lĩnh vực nào trong đời sống, văn chương nghệ thuật luôn dành sự ưu
ái đặc biệt cho con người, lấy con người làm trung tâm để hướng đến. Tùy vào từng
điều kiện, đặc điểm địa lý, văn hóa, thể chế xã hội khác nhau mà tinh thần nhân văn có

những biểu hiện khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi thời đại, mỗi giai đoạn văn học. Song,
nhìn chung, tất cả các tác phẩm văn học chứa đựng tinh thần nhân văn đều có chung
một số nội dung như: bộc lộ thái độ yêu thương con người; thể hiện khả năng cảm
thông, chia sẻ với những đau khổ, mất mát của con người; ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con
người, khẳng định những giá trị của con người; đề cao cuộc sống trần thế, chủ trương
sống trọn vẹn với thực tại; lên án, tố cáo các thế lực chà đạp con người….“Một tác
phẩm văn học có tính nhân văn là tác phẩm văn học thể hiện con người với những nét
đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, phẩm
cách… Tác phẩm đó hướng đến khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người” [51; tr5]


25

Nhìn lại một cách tổng thể về những giai đoạn, những chặng đường đã qua của
văn học Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận ra một điều: dù thời đại có đổi thay; xã hội
có thịnh suy, biến cải; tư duy, quan niệm của con người trước - sau, cổ - kim có khác
biệt nhưng điểm nhìn nhân văn trong văn chương là bất biến. Chỉ có biểu hiện cụ thể
của tinh thần nhân văn là thay đổi tùy theo thời đại, lịch sử, xã hội, giai đoạn văn học.
Ở giai đoạn sơ khai của văn học, khi chữ viết chưa có mặt, văn học dân gian
mang đến cho người đọc vẻ đẹp hồn nhiên, dung dị của tinh thần nhân văn. Đó là tiếng
nói chân thật, như nhiên, khơng rào đón, chẳng che đậy của tình u thương lẫn nỗi oán
hờn, hận tủi trong ca dao – dân ca một thời đã qua. Đó là kiểu tư duy “rất người”, rất
trần gian của các vị thần và cả con người trong thần thoại, truyền thuyết, cổ tích xưa.
Đó là ước mơ vá trời lấp biển, kiến công lập nghiệp, bảo vệ cộng đồng của những anh
hùng sử thi từ thuở hồng hoang của dân tộc…. Như vậy, với văn học dân gian, tinh
thần nhân văn chính là nơi chứa đựng những khát vọng, ước mơ, tâm tư tình cảm của
con người.
Về sau, khi xã hội phát triển hơn, những thể chế xã hội bắt đầu được thiết lập,
các vương triều phong kiến hình thành, hưng thịnh rồi suy tàn, tinh thần nhân văn trong
tác phẩm văn học lại có thêm những diện mạo mới. Trong buổi đầu dựng nước và giữ

nước, tinh thần nhân văn là tiếng nói ngợi ca, trân trọng đối với con người và thời đại
mới. Khi đất nước bị ngoại xâm, tinh thần nhân văn của văn chương trở thành khúc hát
lẫm liệt, hào hùng, đầy tự tin vào ngày chiến thắng của những trái tim yêu nước. Lúc
các vương triều sắp suy tàn, nhà nước phong kiến rơi vào khủng hoảng, hơn lúc nào
hết, tinh thần nhân văn trong văn học trở thành điểm tựa cho tâm hồn, tình cảm của con
người và thời đại. Lúc này, nhân văn khơng cịn giản đơn là ngợi ca, yêu thương mà
còn đòi hỏi cả sự cảm thơng, chia sẻ trước nỗi đau con người, thậm chí, đó cịn là lời tố
cáo, lên án, phê phán những gì chà đạp lên quyền sống, nhân phẩm của con người.
Khi thể chế xã hội thay đổi, nhà nước phong kiến kết thúc nhiệm vụ lịch sử, dân
tộc Việt Nam bước vào giai đoạn hiện đại, tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa phương
Tây, tinh thần nhân văn lại bổ sung thêm những yếu tố mới. Không dừng lại ở tiếng nói


×