Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Bồi dưỡng hứng thú học văn học dân gian cho học sinh lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 85 trang )


Trờng đại học quảng bình
Khoa KHOA HọC Xã HộI





































































Dơng đệ đức










Bồi dỡng hứng thú học văn học
Bồi dỡng hứng thú học văn học Bồi dỡng hứng thú học văn học
Bồi dỡng hứng thú học văn học
dân gian cho học sinh lớp 6
dân gian cho học sinh lớp 6dân gian cho học sinh lớp 6
dân gian cho học sinh lớp 6






Khóa luận tốt nghiệp cao đẳng









Ngành: s phạm ngữ văn
hệ đào tạo: chính quy
khóa học: 2012 - 2015





quảng bình, năm 2015

Lôøi caûm ôn!



Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin được gửi đến Th.S Đỗ Thùy Trang -
người đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện
khóa luận lời cảm ơn chân thành nhất!
Cảm ơn quý thầy cô giáo khoa Khoa học – Xã hội, quý thầy cô giáo của
trường Đại học Quảng Bình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em bồi dưỡng tri

thức trong ba năm qua. Đó không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa
luận mà còn là hành trang quý báu để em có thể vững bước, tự tin hơn trên con
đường đời đầy chông gai của mình.
Cũng nhân đây, em xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo và các em
học sinh trường THCS Đức Ninh (Đồng Hới – Quảng Bình) đã tạo điều kiện thuận
lợi cho em hoàn thành khóa luận.
Cảm ơn gia đình - nơi nuôi dưỡng tâm hồn và khát vọng của em. Cảm ơn bạn
bè đã chia sẻ, động viên và giúp đỡ mình trong suốt thời gian qua.
Chúc thầy cô, các bạn, các em học sinh luôn mạnh khỏe và thành công trong
cuộc sống!

Sinh viên thực hiện


Dương Đệ Đức





LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn của Th.S Đỗ Thùy Trang – Giảng viên Trường Đại học Quảng Bình. Nội dung khóa
luận có tham khảo và sử dụng tài liệu của các tác giả, tôi đã trích đầy đủ trong phần tài
liệu tham khảo. Các số liệu, kết quả trình bày trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung khoa học của công trình này.

Tác giả khóa luận



Dương Đệ Đức


























MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1


1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 5

4. Phương pháp nghiên cứu 6

5. Đóng góp của đề tài 6

6. Cấu trúc khóa luận 6

B. PHẦN NỘI DUNG 7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 7

1.1 Văn học dân gian và văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn THCS 7

1.1.1 Văn học dân gian 7

1.1.2 Văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn THCS 18

1.1.3 Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THCS và hứng thú học tập 21

1.1.4 Ý nghĩa của việc bồi dưỡng hứng thú học văn học dân gian cho học sinh lớp 6 28

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG HỨNG THÚ HỌC VĂN HỌC
DÂN GIAN CHO HỌC SINH LỚP 6 30

2.1 Các biện pháp bồi dưỡng hứng thú học văn học dân gian cho học sinh lớp 6 30


2.1.1 Tạo tâm thế cho học sinh trong giờ dạy - học tác phẩm văn học dân gian 30

2.1.2 Tạo hứng thú cho học sinh thông qua lời dẫn, lời kể sáng tạo 31

2.1.3 Tạo hứng thú cho học sinh thông qua hệ thống câu hỏi - bài tập 32

2.1.4 Tạo hứng thú cho học sinh thông qua việc sử dụng các phương tiện dạy học 35

2.1.5 Tạo hứng thú cho học sinh thông qua các hình thức tổ chức dạy học 37

2.1.6 Bồi dưỡng hứng thú cho học sinh thông qua rèn các kỹ năng liên tưởng, tưởng
tượng 43

2.1.7 Bồi dưỡng hứng thú cho học sinh thông qua rèn kỹ năng đọc, kể diễn cảm 44

2.1.8 Bồi dưỡng hứng thú cho học sinh thông qua kiểm tra, đánh giá 47

2.2 Vai trò của người thầy và việc lựa chọn phương pháp – hình thức dạy học 49

2.2.1 Vị trí, vai trò của người giáo viên dạy văn học dân gian trong nhà trường 50


2.2.2 Năng lực của người thầy và sự lựa chọn các hình thức - phương pháp dạy học 51

CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 54

3.1 Những vấn đề chung của thực nghiệm 54

3.1.1 Mục đích, nhiệm vụ của thực nghiệm 54


3.1.2 Địa bàn, thời gian, đối tượng thực nghiệm 54

3.2 Tiến trình thực nghiệm 54

3.2.1 Chọn nội dung thực nghiệm 54

3.2.2 Thiết kế giáo án 55

C. PHẦN KẾT LUẬN 76

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79




















1

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như bao dân tộc khác trên thế giới, trước khi văn học viết ra đời luôn có một bộ
phận văn học của quần chúng nhân dân ra đời dựa trên những sáng tác tập thể, lưu truyền
bằng miệng (ở Việt Nam còn gọi là văn học dân gian). Văn học dân gian mang trong
mình những tư tưởng tình cảm tiến bộ, lành mạnh phù hợp với lời ăn tiếng nói của nhân
dân. Vì vậy, nó được coi là biểu tượng cho tinh hoa văn hóa và là tiếng nói tâm hồn của
dân tộc ta qua các thế hệ.
Nếu như ở các bộ môn khác mà học sinh được học ở trong chương trình đã cung cấp
cho các em những tri thức về kiến thức khoa học kỹ thuật của nhân loại, về cuộc sống, về
môi trường… thì bộ môn Ngữ văn cũng như văn học dân gian lại trực tiếp giúp các em
hình thành ý thức, đạo đức, nhân cách Thế nhưng, việc dạy và học văn học dân gian
hiện nay nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân dẫn đến điều
đó chính là do phương pháp dạy học chưa thực sự hiệu quả và sự mất hứng thú học tập ở
học sinh. Trong khi đó, các nhà tâm lí học đã nghiên cứu và chỉ ra rằng hứng thú đóng
một vai trò rất quan trọng trong quá trình hoạt động của con người. Nó là động cơ thúc
đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động. Một khi được làm việc phù hợp với hứng
thú thì dù phải khó khăn con người cũng vẫn cảm thấy thoải mái và đạt được hiệu quả
cao. Để khắc phục những hạn chế đó, những năm trở lại đây việc dạy và học theo hướng
đổi mới đã chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh làm cho học sinh yêu thích và hứng thú với các môn học hơn. Điều 24, Luật giáo dục
(do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm
từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh” [31,19]. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo
viên dạy văn học dân gian.

Qua tìm hiểu, phần văn học dân gian trong chương trình ngữ văn lớp 6 giữ một vị trí
quan trọng trong chương trình văn học ở trường THCS. Nó có ưu thế và sức mạnh riêng
trong việc bồi dưỡng tâm hồn cho thế hệ trẻ của đất nước, nhất là trong thời đại hội nhập
2

quốc tế. Cuộc sống xô bồ nhiều khi làm con người lãng quên đi những giá trị tốt đẹp của
lịch sử thì việc giữ gìn bản sắc của dân tộc của các quốc gia lại càng quan trọng hơn.
Thông qua phân môn này, ta dễ dàng bồi đắp cho các em một tình yêu văn học, tình yêu
quê hương và đặc biệt là lòng tự hào về lịch sử, cội nguồn của dân tộc. “Giúp các em có ý
thức tự tu dưỡng, biết thương yêu, quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh
thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căn ghét cái xấu, cái ác…” [32;138]. Từ đó,
bồi dưỡng hứng thú học tập cho các em, góp phần hình thành và rèn luyện nhân cách cho
các em ngay từ khi đang ngồi trên ghế nhà trường. Đó sẽ là hành trang tinh thần luôn theo
sát các em trên những nẻo đường xây dựng đất nước. Vì vậy, để việc giảng dạy văn học
dân gian trong nhà trường được hiệu quả hơn thì việc nâng cao hứng thú học tập văn học
dân gian cho học sinh lớp 6 là một trong những việc làm rất quan trọng. Hứng thú sẽ làm
tăng hiệu quả của quá trình nhận thức làm nảy sinh hoạt động và hành động một cách say
mê, sáng tạo, làm tăng sức làm việc cho các em… Trong học tập, đây là yếu tố quan trọng
thôi thúc các em nắm bắt tri thức một cách nhanh hơn, sâu sắc hơn. Sự hứng thú sẽ giúp
các em tập trung chú ý vào đối tượng nhận thức, nhờ đó mà quan sát của các em trở nên
nhạy bén và chính xác hơn. Từ đó, chú ý trở nên bền vững, việc ghi nhớ dễ dàng và sâu
hơn, quá trình tư duy sẽ tích cực hơn và tưởng tượng cũng sẽ phong phú hơn. Không
những thế, hứng thú còn giúp các em làm việc một cách tự giác, sáng tạo không biết mệt
mỏi để chiếm lĩnh tri thức. Nhờ đó, kết quả học tập ngày càng được nâng cao, năng lực
của các em sẽ được hình thành và phát triển tích cực hơn. Vì vậy, bồi dưỡng hứng thú học
văn học dân gian đối với học sinh lớp 6 càng trở nên quan trọng. Chỉ khi thực sự có hứng
thú các em mới thấy được vẻ đẹp và giá trị của văn học dân gian trong cuộc sống.
Do vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Bồi dưỡng hứng thú học văn học dân
gian cho học sinh lớp 6” làm khóa luận tốt nghiệp, mong rằng sẽ giúp ích cho phụ huynh,

giáo viên, những em học sinh, sinh viên và bạn đọc quan tâm đến vấn đề này.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong nhiều năm trở lại đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học luôn được bàn
luận một cách sôi nổi, là đề tài hấp dẫn thu hút nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, tính đến
thời điểm hiện nay, những bài viết, công trình nghiên cứu về đề tài “Bồi dưỡng hứng thú
3

học văn học dân gian cho học sinh lớp 6” vẫn còn khá khiêm tốn và chưa được phổ biến
rộng rãi.
Trên thế giới đã có những công trình nghiên cứu về hứng thú xuất hiện tương đối
sớm và ngày được phát triển. Có thể khái quát lịch sử nghiên cứu hứng thú trên thế giới
theo các xu hướng sau: Đầu tiên là “Xu hướng giải thích bản chất tâm lý của hứng thú”.
Đại diện cho xu hướng này có thể kể đến A.F.Bêliep. Năm 1944, ông tiến hành thành
công luận án tiến sĩ “Tâm lý học hứng thú”. Nội dung cơ bản của luận án là những vấn đề
lý luận tổng quát về hứng thú trong tâm lý học. Xu hướng thứ 2 là “Xem xét hứng thú
trong mối quan hệ với sự phát triển nhân cách nói chung và vốn tri thức của cá nhân nói
riêng”. Tiêu biểu cho xu hướng này có thể kể đến L.LBôgiôvích với công trình “Hứng thú
trong quan hệ hình thành nhân cách”. Lukin, Lêvitôp nghiên cứu “Hứng thú trong quan
hệ với năng lực”. L.P.Bơlagôna Dejina, L.X.Xlavi, B.N.Mione lại xem xét “Hứng thú
trong mối quan hệ với hoạt động”. Các tác giả này đã coi hứng thú là động cơ có ý nghĩa
của hoạt động. Trong xu hướng này còn có nhiều nhà nghiên cứu khác như:
L.X.Rubinstêin, A.V.Daparôzét, M.I.Bôliép, L.A.Gôđôn Và xu hướng cuối cùng là “Xu
hướng nghiên cứu sự hình thành và phát triển hứng thú theo các giai đoạn lứa tuổi”. Có
thể kể đến G.ISukina “Nghiên cứu hứng thú trẻ em ở các lứa tuổi”. V.N. Marôsôva
nghiên cứu “Sự hình thành hứng thú trẻ em trong điều kiện bình thường và trong điều
kiện không bình thường”. Hầu hết những công trình nghiên cứu này đã phân tích đặc điểm
hứng thú của từng lứa tuổi, những điều kiện và khả năng giáo dục hứng thú trong các giai
đoạn phát triển lứa tuổi của trẻ.
Ở Việt Nam, tính đến nay cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu hứng thú ở các
mức độ khác nhau. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề như:

Năm 1973, Phạm Tất Dong đã bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ ở Liên Xô với đề tài:
“Một số đặc điểm hứng thú nghề của học sinh lớn và nhiệm vụ hướng nghiệp”. Kết quả
nghiên cứu đã khẳng định sự khác biệt về hứng thú học tập giữa nam và nữ, hứng thú
nghề nghiệp không thống nhất với xu hướng phát triển nghề của xã hội, công tác hướng
nghiệp ở trường phổ thông không được thực hiện nên các em học sinh chịu nhiều thiệt
thòi. Hứng thú học tập các bộ môn của học sinh là cơ sở để đề ra nhiệm vụ hướng nghiệp
một cách khoa học. Năm 1977, Phạm Huy Thụ với luận án “Hiện trạng hứng thú học tập
4

các môn của học sinh cấp 2 một số trường tiên tiến”. Từ đó tác giả đề xuất biện pháp giáo
dục nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh. Năm 1977, tổ nghiên cứu của khoa
tâm lý học giáo dục trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội I đã nghiên cứu đề tài “Hứng thú
học tập của học sinh cấp 2 đối với môn học cụ thể”. Đề tài chứng minh hứng thú học tập
các môn của học sinh cấp 2 là không đồng đều. Năm 1980, Đặng Trường Thanh nghiên
cứu “Hứng thú bộ môn của học sinh cấp 3”. Năm 1981, Nguyễn Thị Tuyết với đề tài luận
văn “Bước đầu tìm hiểu hứng thú học văn học lớp 10 ở một số trường phổ thông trung
học tại thành phố Hồ Chí Minh”. Trong đề tài này, tác giả đã đề xuất được 5 biện pháp
gây hứng thú cho học sinh: Giáo viên phải nâng cao lòng yêu người, yêu nghề và rèn
luyện tay nghề, tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho học sinh, tổ chức các giờ dạy mẫu,
chương trình phải hợp lý và động viên học sinh tích cực tham gia các hoạt động văn hóa
nghệ thuật. Năm 1982, Đinh Thị Chiến “Bước đầu tìm hiểu hứng thú với nghề sư phạm
của giáo sinh CĐSP Nghĩa Bình”. Tác giả đưa ra 3 biện pháp để giáo dục hứng thú đối
với nghề sư phạm cho giáo sinh, trong đó tác giả nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng
của dư luận xã hội. Năm 1984, Trần Thị Thanh Hương đã thực nghiệm “Nâng cao hứng
thú học toán của học sinh qua việc điều khiển hoạt động tự học ở nhà của học sinh”. Năm
1987, Nguyễn Khắc Mai với đề tài luận án “Bước đầu tìm hiểu thực trạng hứng thú đối
với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên tại trường của sinh viên khoa
tâm lý giáo dục”. Tác giả đã đưa ra những nguyên nhân gây hứng thú là do ý nghĩa của
môn học, trình độ của học sinh, phương pháp giảng dạy của giảng viên. Năm 1988, Vũ
Thị Nho với đề tài “Tìm hiểu hứng thú với năng lực học văn của học sinh lớp 6”. Đề tài

đã tiến hành thực nghiệm để nghiên cứu bước đầu về hứng thú về năng lực học văn của
các em học sinh lớp 6. Từ đó đưa ra những giải pháp tạo hứng thú và phát triển năng lực
cho các em học sinh lớp 6. Năm 1994, Hoàng Hồng Liên có đề tài “Bước đầu nghiên cứu
những con đường nâng cao hứng thú cho học sinh phổ thông” tác giả kết luận dạy học
trực quan là biện pháp tốt nhất để tác động đến hứng thú của học sinh. Năm 1996, Đào
Thị Oanh đã nghiên cứu về “Hứng thú học tập và sự thích nghi với cuộc sống nhà truờng
của học sinh tiểu học”. Năm 1998, Phạm Thị Thắng “Nghiên cứu sự quan tâm của cha mẹ
đến việc duy trì hứng thú học tập cho các em thanh thiếu niên”. Năm 1999, Nguyễn Hoài
Thu nghiên cứu “Bước đầu tìm hiểu hứng thú học môn ngoại ngữ của học sinh lớp 10
5

PTTH Hà Nội”. Năm 1999, Lê Thị Thu Hằng với đề tài “Thực trạng hứng thú học tâp các
môn Lý luận của sinh viên trường đại học TDTT I”. Trong đó phương pháp, năng lực
chuyên môn của giảng viên là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hứng thú học tập của sinh
viên. Năm 2000, Trần Công Khanh đã đi sâu nghiên cứu “Tìm hiểu thực trạng hứng thú
học môn Toán của học sinh trung học cơ sở thị xã Tân An”. Kết quả cho thấy đa số học
sinh trong diện điều tra chưa có hứng thú học toán. Năm 2005, Phạm Mạnh Hiền nghiên
cứu “Hứng thú học tập của học viên thuộc trung tâm phát triển kỹ năng con người Tâm
Việt”. Trong đó nổi bật lên phương pháp giảng dạy của giảng viên có ý nghĩa to lớn tác
động tới hứng thú học của học viên. Ngoài ra còn rất nhiều công trình khác cũng nghiên
cứu về vấn đề này… Điểm chung của các công trình nghiên cứu lý luận về hứng thú là đã
đưa ra nhiều quan điểm xung quanh vấn đề hứng thú, đưa ra các khái niệm hứng thú, phân
loại hứng thú và sự hình thành hứng thú. Đây là những vấn đề lý luận cốt lõi đặt cơ sở cho
việc nghiên cứu hứng thú ở mức độ sâu hơn trong các lĩnh vực hoạt động. Từ đó, tìm ra
nguyên nhân ảnh hưởng và đề ra các biện pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập cho các
em.
Bên cạnh đó, để tìm ra những biện pháp “Bồi dưỡng hứng thú học văn học dân gian
cho học sinh lớp 6” tôi còn tham khảo một số công trình khác liên quan đến đề tài của
những nhà nghiên cứu văn học dân gian tiêu biểu như: Chu Xuân Diên, Phan Trọng Luận,
Hoàng Tiến Tựu, Đinh Gia Khánh, Đỗ Bình Trị, Nguyễn Viết Chữ Ngoài ra, tôi còn

tham khảo thêm những bài viết, các sáng kiến kinh nghiệm, các giáo trình, bài giảng,
khóa luận liên quan của các anh chị khóa trước. Đó cũng chính là cơ sở để tôi xác định
một số nội dung trong khóa luận này.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu hứng thú học tập văn học dân gian của học sinh khối 6.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Do không có điều kiện nghiên cứu trên bình diện rộng và điều kiện thực tế không cho
phép, tôi chỉ tập trung nghiên cứu các cơ sở lí luận, sau đó tiến hành điều tra, thử nghiệm
một số biện pháp nhằm nâng cao hứng thú học văn học dân gian cho các lớp khối 6 tại
Trường THCS Đức Ninh – Thành phố Đồng Hới – Tỉnh Quảng Bình.
6

4. Phương pháp nghiên cứu
- Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này, tôi đã vận dụng phối hợp các phương
pháp sau:
4.1 Phương pháp so sánh đối chiếu
- Trong quá trình làm khóa luận, tôi đã sử dụng phương pháp so sánh - đối chiếu để tìm ra
những nét tương đồng và khác biệt của các phương pháp, đồng thời đối chiếu kết quả
trước và sau khi thực nghiệm để thấy được hiệu quả của các biện pháp.
4.2 Phương pháp hệ thống
- Dùng để thống kê kết quả khảo sát và kết quả thực nghiệm về bồi dưỡng hứng thú học
văn học dân gian cho học sinh lớp 6.
4.3 Phương pháp phân tích
- Dùng để phân tích và tổng hợp các vấn đề liên quan đến bồi dưỡng hứng thú học văn
học dân gian cho học sinh lớp 6.
4.4. Phương pháp thực nghiệm
- Tôi đã tiến hành thử nghiệm một số biện pháp để kiểm tra khả năng ứng dụng của các
biện pháp đã được đề xuất trong khóa luận nhằm nâng cao hứng thú học tập văn học dân
gian cho học sinh lớp 6.

5. Đóng góp của đề tài
Từ việc nghiên cứu các cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn cũng như các vấn đề liên quan
đến đề tài, tôi đã phân tích và thực nghiệm các phương pháp dạy - học văn học dân gian.
Từ đó, đề xuất một số biện pháp nhằm bồi dưỡng hứng thú, nâng cao chất lượng dạy học
văn học dân gian trong nhà trường. Đề tài góp phần củng cố và nâng cao kiến thức cho
người nghiên cứu, là tài liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên các trường Đại học, Cao
đẳng khối ngành sư phạm; giáo viên và học sinh lớp 6.
6. Cấu trúc khóa luận
- Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung gồm có 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Một số biện pháp bồi dưỡng hứng thú học văn học dân gian cho học sinh lớp 6
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
7

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Văn học dân gian và văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn THCS
1.1.1 Văn học dân gian
1.1.1.1 Khái niệm
Trong lịch sử đã có một thời gian dài, văn học dân tộc chỉ có một bộ phận duy nhất
là văn học dân gian. Cho đến khi chữ viết xuất hiện mới có văn học viết. Lúc này, văn học
dân tộc lúc này gồm có hai bộ phận chính là văn học dân gian và văn học viết. Trong đó,
văn học dân gian là bộ phận ra đời sớm hơn và giữ vai trò mở đường cho sự hình thành và
phát triển của văn học viết. Tuy nhiên do ảnh hưởng của lịch sử, chữ viết ra đời muộn, đất
nước bị xâm lược và bị âm mưu đồng hóa nên một thời gian dài người Việt Nam đã dùng
chữ Hán để sáng tác… Do vậy, mặc dù đã có chữ viết, văn học viết nhưng phần lớn dân
chúng chỉ biết đến một bộ phận văn học dân tộc là văn học dân gian. Ðiểm chung giữa
văn học dân gian và văn học viết cùng là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Giữa hai loại hình
này có nhiều nét khác biệt, thậm chí những khác biệt đó mang tính bản chất. Từ ngôn ngữ

đến hình thức, sự tác động và cả quá trình sáng tác Có thể khẳng định rằng: văn học dân
gian khác văn học viết, nó không chỉ là bộ phận của văn học dân tộc mà còn là một bộ
phận trong lĩnh vực rộng hơn là văn hóa dân gian. Đó chính là lí do dẫn đến những quan
niệm và cách phô diễn khác nhau về văn học dân gian. Có quan niệm coi “Văn học dân
gian là thành phần ngôn từ ở trong những sáng tác dân gian mang tính nguyên hợp (như
tục ngữ, ca dao, dân ca, thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích…). Thành phần ngôn từ
ở đây vừa là bộ phận của một chỉnh thể lớn hơn là nghệ thuật diễn xướng dân gian (bao
gồm nhiều thành tố như: ngôn ngữ, nhạc, vũ điệu bộ) vừa là một chỉnh thể nhỏ có tính
độc lập tương đối, có quy luật sinh thành, tồn tại, phát triển riêng, có thể và cần phải tách
ra để nghiên cứu như một đối tượng riêng của một ngành khoa học chuyên môn. Và đó là
ngành nghiên cứu chuyên môn về văn học dân gian (bên cạnh các ngành nghiên cứu
chuyên môn khác như: âm nhạc dân gian, vũ đạo dân gian, nghệ thuật sân khấu, nghệ
thuật tạo hình dân gian…)” [28,5]. Cũng có quan niệm coi “Văn học dân gian chỉ là
những sáng tác ngôn từ có giá trị nghệ thuật thực sự của nhân dân, chứ không phải là
không thể bao gồm toàn bộ thành phần ngôn ngữ ở trong những sáng tác dân gian mang
8

tính nguyên hợp và diễn xướng (như tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện kể dân gian… )”
[28,5]. Đối với quan niện này, đối tượng nghiên cứu của môn văn học dân gian bị co lại
rất hẹp, chỉ bao gồm những gì được coi là có giá trị văn học ( nghĩa là có tính hình tượng
rõ rệt). Đây là một biểu hiện của khuynh hướng lấy quan điểm nghiên cứu văn học (mà
chủ yếu là văn học hình tượng, văn học đã được chuyên môn hóa cao) để nhìn nhận, đánh
giá văn học dân gian - một loại sáng tác ngôn từ khác với văn học viết rất nhiều phương
diện (về lịch sử hình thành, phát triển, lực lượng sáng tác, phương thức, chức năng, thi
pháp…). Ngoài ra, còn có quan niệm cho rằng “Văn học dân gian chỉ là một trong những
thành tố của nghệ thuật diễn xướng (hay biểu diễn), một loại nghệ thuật tổng hợp bao
gồm nhiều thành tố (ngôn ngữ, nhạc, vũ, động tác…) kết hợp chặt chẽ với nhau trong một
chỉnh thể thống nhất không thể chia tách được. Và do đó, không có và không thể có
nghiên cứu riêng về văn học dân gian mà chỉ có thể nghiên cứu chung tất cả các thành tố
(văn- vũ- nhạc…) trong nghệ thuật diễn xướng mang tính tổng hợp ấy mà thôi” [28;6]. Ở

quan niệm này, chẳng những việc nghiên cứu riêng về thành phần nghệ thuật ngôn từ (văn
học dân gian) bị phủ nhận mà việc nghiên cứu riêng về tất cả các thành phần nghệ thuật
khác trong loại hình sáng tác dân gian mang tính tổng hợp và diễn xướng (như âm nhạc,
vũ đạo…) đều bị phủ nhận.
Trong những quan niệm trên, quan niệm được nhiều người tán thành hơn cả là quan
niệm thứ nhất. Tuy cách diễn đạt, thể hiện có khác nhau, nhưng nhìn chung hầu hết các
giáo trình, giáo khoa, tài liệu hướng dẫn học tập, giảng dạy về văn học dân gian trong nhà
trường nước ta những năm gần đây đều đã và đang được viết chủ yếu theo quan điểm này.
Khái quát lại, ta có thể coi “Văn học dân gian vừa là một bộ phận của sáng tác của văn
học dân tộc, vừa là một bộ phận nghệ thuật ngôn từ truyền miệng của văn hóa dân gian,
phản ánh sinh hoạt xã hội, công việc làm ăn, đời sống tâm lí, tình cảm, thái độ, nguyện
vọng, kinh nghiệm mọi mặt của nhân dân lao động các thế hệ” [9,8].
Để hiểu rõ hơn về văn học dân gian, bên cạnh việc phân biệt với văn học viết, chúng
ta cần phải phân biệt với các lĩnh vực sáng tác dân gian khác như văn nghệ dân gian, văn
hóa dân gian (folklore). “Trong tiếng Anh, thuật ngữ “folklore” có nghĩa là kho tàng trí
thức của nhân dân hay trí khôn dân gian ( “folk” là nhân dân, người thân thuộc, họ
hàng; “lore” là trí khôn, trí tuệ, kho tàng, vốn hiểu biết)” [28,8]. Người đầu tiên dùng
9

thuật ngữ “folklore” trên báo chí là nhà khảo cổ học người Anh, ông William Thoms dùng
trong bài báo đăng trên tạp chí: “The Athenaeum”, số 982 ngày 23/8/1846, tại Luân Đôn
với ý nghĩa là những di tích của nền văn hóa vật chất và chủ yếu là di tích của nền văn
hoá tinh thần như phong tục, đạo đức, tín ngưỡng, những bài dân ca, những câu chuyện kể
của cộng đồng. Sau khi xuất hiện, thuật ngữ này được hiểu với nhiều nghĩa rộng hẹp khác
nhau tùy theo quan niệm và cách nhìn của các nhà nghiên cứu sử dụng thuật ngữ này. Ở
Việt Nam, thuật ngữ này đã sớm được các nhà nghiên cứu quan tâm. Theo lời phát biểu
của nhà văn Hoài Thanh – chủ tịch đầu tiên của hội văn nghệ dân gian Việt Nam: “Danh
từ folklore mà cả thế giới đều dùng nói một sự thực là ở bất cứ dân tộc nào, các loại hình
văn nghệ dân gian cũng gắn bó với nhau từ nguồn gốc, từ trong thực tiễn tồn tại và phát
triển của nó. Từ thuở sơ sinh nhạc, thơ, múa kịch, đều chung một mầm. Đến khi lớn lên

thì các loại hình tách bạch ra, nhưng vẫn phải nương tựa vào nhau mà sống. Thơ dân
gian tồn tại, phát triển và lưu truyền bằng hát đối đáp. Nếu bỏ nhạc thì múa khó thành.
Mất sự tích văn học, mất làn điệu, mất múa thì chèo cũng mất. Tranh làng Hồ phải đi liền
với hội Tết. Trên hình con gà, con lợn có cả dấu âm dương thuộc tín ngưỡng dân gian, lại
có cả ca dao hay thơ vịnh. Một ngôi đình, ngôi chùa, một pho tượng, một hòn đá thiêng
đều có nhiều truyền thuyết liên quan” [28,9]. Theo đó, ta có thể hiểu thuật ngữ này với
những ý nghĩa sau : Về nghĩa rộng, “folklore là văn hóa dân gian”. Bao gồm những sáng
tạo vật chất và tinh thần mang tính nghệ thuật do dân chúng sáng tạo nên. Như văn học
dân gian, hội họa dân gian, nghi lễ dân gian, tạo hình dân gian, kiến trúc dân gian, y học
dân gian, ẩm thực dân gian đến các tín ngưỡng, tôn giáo dân gian, thậm chí là cả bùa chú,
phong thủy Về nghĩa hẹp, “folklore là văn nghệ dân gian”. Bao gồm những sáng tạo
văn hóa, nghệ thuật tinh thần của nhân dân như: nghệ thuật ngữ văn dân gian (tức văn học
dân gian), nghệ thuật tạo hình dân gian, nghệ thuật diễn xướng dân gian: gồm văn hóa dân
gian, lễ hội dân gian, hội họa dân gian, âm nhạc dân gian… Bên cạnh đó, folklore còn có
“nghĩa chuyên biệt là văn học dân gian”. Tức là folklore là hình thức ngôn từ gắn với
nhạc, vũ, kịch do tập thể dân chúng sáng tác. Theo đó, ta có thể dùng thuật ngữ folklore
văn học để chỉ văn học dân gian đồng thời phân biệt nó với các đối tượng khác cũng
thuộc phạm trù folklore - văn hoá văn dân gian. Đây được coi là thành phần cốt lõi, phát
10

trển mạnh mẽ nhất và có sức sống lâu bền nhất. Bao gồm các loại sáng tác dân gian mang
tính nghệ thuật ngôn từ (như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, tục ngữ, ca dao… ).
1.1.1.2 Chức năng và đặc trưng của văn học dân gian
Văn học dân gian được coi là một kho tàng trí thức vô cùng phong phú về đời sống
của các dân tộc (là kho trí khôn của nhân dân về mọi lĩnh vực của đời sống tự nhiên, xã
hội, con người). Kho tri thức này phần lớn là những kinh nghiệm lâu đời được nhân dân ta
đúc kết từ thực tế. Vào trong các tác phẩm, nó được mã hoá bằng những ngôn từ và hình
tượng nghệ thuật tạo ra sức hấp dẫn người đọc, người nghe, dễ phổ biến, dễ tiếp thu và có
sức sống lâu bền cùng năm tháng. Nó ngợi ca, tôn vinh những giá trị tốt đẹp của con
người và để lại những bài học giáo dục sâu sắc về truyền thống dân tộc (truyền thống yêu

nước, đức kiên trung, lòng vị tha, lòng nhân đạo, tinh thần đấu tranh chống cái ác, cái
xấu ). Góp phần hình thành những giá trị tốt đẹp cho các thế hệ xưa và nay. Trước hết
có thể kể đến chức năng nhận thức, văn học dân gian là người bạn đồng hành của nhân
dân lao động từ xưa đến nay. Theo sát mọi mặt đời sống của nhân dân, phản ánh chân
thực sâu sắc cuộc sống ấy. Do vậy, văn học dân gian giúp cho người đời sau có những
nhận thức đúng đắn về thế giới quan, nhân sinh quan của thế hệ những người đi trước. Nó
cung cấp cho con người những kiến thức về trạng thái sinh hoạt cả về vật chất và tinh
thần, về lao động và chiến đấu, về quan hệ xã hội, phong tục, tập quán, tình cảm, ước mơ,
về cảnh đẹp của quê hương đất nước, về quá khứ hào hùng của dân tộc Thứ hai là chức
năng giáo dục: Văn học dân gian chứa đựng những kinh nghiệm của nhân dân qua các thế
hệ, là nơi lưu giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy, văn học dân gian có giá
trị giáo dục vô cùng to lớn. Nó dạy cho chúng ta cách ăn nói, ứng xử cho phù hợp với các
mối quan hệ xã hội. Ca ngợi cái tốt, lên án phê phán cái xấu, cái ác. Đem đến cho con
người những bài học quý giá về lẽ sống để họ tự rèn luyện bản thân mình ngày một tốt
đẹp hơn. Cụ thể, nó hình thành trong con người một tư tưởng tiến bộ, giúp họ có thái độ
và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, làm cho
tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Qua đó, góp phần xây
dựng lối sống cao đẹp cho chúng ta: nhân ái, thẳng thắn, biết bênh vực, bảo vệ đấu tranh
cho cái đúng, tiến tới công bằng xã hội. Từ đó làm thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng, tình
cảm của con người theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp, tiến bộ, đồng thời làm cho con
11

người ngày càng hoàn thiện về đạo đức. Nhưng điều đặc biệt là tác dụng giáo dục của văn
học dân gian không phải ngay lập tức mà dần dần thấm sâu nhưng rất lâu bền, nó gợi
những cảm nghĩ sâu xa về con người và cuộc đời, nó gián tiếp đưa ra những bài học,
những đề nghị về cách sống. Như vậy, văn học dân gian không chỉ góp phần hoàn thiện
bản thân con người mà còn hướng họ tới những hành động cụ thể, thiết thực vì một cuộc
đời ngày càng tốt đẹp hơn. Ngoài ra, văn học dân gian còn có chức năng thẩm mĩ. Với
chức năng này, văn học dân gian mang tới cho con người những vẻ đẹp của thiên nhiên,
vẻ đẹp của những cảnh đời cụ thể trong đời sống hàng ngày hoặc vẻ đẹp hào hùng của

chiến trận, đặc biệt văn học đi sâu miêu tả vẻ đẹp của con người từ hình thể bên ngoài đến
những diễn biến sâu xa trong tư tưởng tình cảm và những hành động gây ấn tượng thật
khó quên đối với mọi người. Tạo cho chúng ta những khoái cảm thẩm mĩ về vẻ đẹp hồn
nhiên, chân thật, giản dị của thiên nhiên và con người. Những mẫu mực về xây dựng hình
tượng nghệ thuật bay bổng độc đáo, cách sử dụng ngôn ngữ giàu âm thanh, nhịp điệu,
hình ảnh; biện pháp nghệ thuật tượng trưng, hư cấu kì ảo, sự kết hợp giữa hiện thực và
lãng mạn đều là những giá trị thẩm mĩ làm cho con người thêm mến yêu cuộc sống,
khao khát hướng tới những điều tốt đẹp nhất.
Tóm lại, văn học dân gian là một bộ phận văn học đặc trưng, tiêu biểu, là bông hoa
nghệ thuật sáng chói trên bầu trời văn học Việt Nam. Nó có “Đóng góp to lớn trong việc
gìn giữ, mài giũa và phát triển ngôn ngữ dân tộc sâu sắc và những sáng tạo nghệ thuật
độc đáo, tài hoa của văn học dân gian có tác động mạnh mẽ đối với sự hình thành và phát
triển của văn học viết từ nội dung đến hình thức” [23,6]. Góp phần giữ gìn và phát huy
bản sắc riêng của dân tộc và tô điểm thêm cho bức tranh chung của văn chương các dân
tộc trên thế giới trong lịch sử, hiện tại và cả tương lai.
Để có thể đảm nhận những chức năng quan trọng như vậy, văn học dân gian luôn
mang trong mình những đặc trưng riêng. Đầu tiên, phải kể đến tính truyền miệng. Ở nước
ta, văn học dân gian ra đời từ khi chưa có chữ viết, vì thế truyền miệng là một phương
thức được lưu truyền rộng rãi, phổ biến trong dân gian. Đặc biệt, các tác phẩm văn học
dân gian được sáng tác chủ yếu ngay trong khi lao động, trong sinh hoạt hằng ngày như:
(chăn trâu, cắt cỏ, tát nước đầu đình hay khi chèo thuyền giã gạo… ) nên ngay cả khi chữ
viết xuất hiện, người ta không thể dừng lại để viết ra những tâm tình, những suy nghĩ của
12

mình trong khi đang làm việc. Ở đây, truyền miệng không chỉ là sự lưu truyền bằng
miệng mà nó còn phản ánh cả một quá trình sáng tác, lưu truyền, sử dụng, biểu diễn bằng
miệng của tác phẩm văn học dân gian. Nghĩa là, tính truyền miệng tạo ta sự chọn lọc tự
nhiên của các tác phẩm văn học dân gian. Nếu một tác phẩm trở nên lạc hậu với thị hiếu
thẩm mĩ của thời đại thì nó sẽ sớm bị quên lãng. Ngược lại, nó sẽ được cô đúc, lưu truyền
rộng rãi. Như vậy, tính truyền miệng là một phương thức truyền bá đặc thù, thể hiện được

những vẻ đẹp riêng, độc đáo của văn học dân gian. Bên cạnh tính truyền miệng phải kể
đến tính tập thể. Có thể nói, đây cũng là một thuộc tính quan trọng hàng đầu có tính chất
đặc thù của văn học dân gian. Mặc dù văn học dân gian là sáng tác của nhân dân, nhưng
không phải tất cả nhân dân đều là tác giả. Tính tập thể được thể hiện chủ yếu trong quá
trình sử dụng tác phẩm. Có những tác phẩm là sáng tạo của tập thể theo đúng nghĩa đen
của nó. Người ta sáng tác trong khi cùng nhau làm việc. Người này hát lên một câu, người
khác thêm vào một câu để cuối cùng thành một bài ca hoàn chỉnh. Nếu nó hay thì sẽ được
mọi người trong tập thể nhớ và truyền lại cho những người khác. Cũng vì thế mà không ai
còn nhớ là nó bắt đầu như thế nào và không có ai là tác giả chính thức của sáng tác đó.
Tuy nhiên, vẫn có nhiều sáng tác lúc đầu là của một người nào đó, bắt nguồn từ cảm xúc
cá nhân. Nhưng sau khi xuất hiện, tập thể thấy hay, hấp dẫn, phù hợp với tình cảm chung
liền tiếp nhận nó và lưu truyền từ người này sang người khác. Trong quá trình lưu truyền
đó, tác phẩm được sửa sang chỉnh lí nhào nặn tùy theo yêu cầu của tập thể nên sáng tác đó
trở thành sản phẩm chung của tập thể. Cùng với những đặc trưng nói trên, tính nguyên
hợp và đa chức năng là một trong những thuộc tính chung của sáng tác dân gian, trong đó
có văn học dân gian. Giữa hai thộc tính này có quan hệ mật thiết với nhau. Tính nguyên
hợp trong các tác phẩm văn học dân gian là sự tổng hợp một cách tự nhiên nhiều thành
phần nghệ thuật, chức năng, ý thức trong một chỉnh thể nghệ thuật không thể chia cắt.
Nó biểu hiện ở sự hòa lẫn những hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại.
Văn học dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều
phương tiện nghệ thuật khác nhau, tồn taị dưới ba dạng: ẩn (tồn tại trong trí nhớ của tác
giả dân gian), cố định (tồn tại bằng văn tự) và hiện (tồn tại thông qua diễn xướng). Trước
hết là sự nguyên hợp về mặt chức năng. Bên cạnh các chức năng của loại hình nghệ thuật
ngôn từ, người dân sáng tác văn học dân gian chủ yếu là để phục vụ những sinh hoạt hàng
13

ngày, công việc lao động sản xuất hoặc thực hành các nghi thức cầu cúng Hoàng Tiến
Tựu trong cuốn: “Văn học dân gian Việt Nam” đã cho rằng “Nhân dân sáng tác và sử
dụng văn học dân gian không phải như một loại nghệ thuật chuyên môn cách biệt với đời
sống hàng ngày mà là một công cụ vạn năng (đa chức năng) của đời sống, giao cho nó

tất cả những gì mà nó có thể thực hiện được để đáp ứng nhu cầu mọi mặt về đời sống. Vì
thế, văn học dân gian không phải chỉ là văn học - nghệ thuật mà nó còn là triết lí. Lịch
sử, luân lí, tín ngưỡng, khoa học thường thức là kho tàng trí khôn và kinh nghiệm sống
của nhân dân về mọi phương diện (chăn nuôi, trồng trọt, dạy con cái, làm nhà, thiên văn,
khí tượng )” [28,12]. Chẳng hạn truyền thuyết: Sơn Tinh Thủy Tinh không chỉ là nghệ
thuật ngôn từ biểu hiện trí tưởng tưởng thẩm mĩ phong phú, bay bổng, kỳ diệu của người
xưa mà nó còn là khoa học nhận thức, giải thích về hiện tượng lũ lụt xảy ra hàng năm vào
một thời điểm nhất định ở vùng đồng bằng Bắc Bộ hoặc nó ghi lại những nguyên tắc
trong phong tục, tập quán hôn nhân của người Việt cổ, đồng thời nó cũng biểu hiện tín
ngưỡng của họ. Đối với biểu tượng văn học dân gian, tính nguyên hợp thể hiện rõ nét ở
tính đa chức năng của chúng: Chức năng thăm dò hay chính là chức năng nhận thức; chức
năng thay thế hay có thể gọi là chức năng biểu hiện; chức năng trung chuyển, liên kết các
yếu tố của đời sống văn hóa, đặc biệt là mối quan hệ giữa con người với vũ trụ; chức năng
giáo dục, điều chỉnh và hoàn thiện nhân cách con người; chức năng xã hội hóa, tạo ra các
đặc trưng của một thời đại, một nền văn hóa, là cơ sở cho giao lưu thẩm thấu các nền văn
hóa, thiết lập mối liên thông giữa các năng lực đối kháng trong tinh thần, từ đó vượt lên
mở đường cho sự tiến bộ của ý thức; hay chức năng thẩm mĩ - cái đẹp nghệ thuật ngôn từ
của biểu tượng văn học dân gian. Bên cạnh đó, tính nguyên hợp thể hiện ở sự đa thành
phần trong một tác phẩm văn học dân gian. Nó không chỉ là phần lời đã được cố định
trong các văn bản mà nó bao gồm nhiều thành phần khác nhau. Chẳng hạn trong các hình
thức nghệ thuật biểu diễn dân gian, múa rối nước là một loại hình nghệ thuật tổng hợp tự
nhiên rất rõ rệt. Loại hình nghệ thuật này tiếp thu và sử dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều loại
nghệ thuật thẩm mĩ và dân gian khác nhau: đan, dệt, chạm khắc, vẽ màu, sơn thếp, làm
pháo, kiến trúc, thêu thùa, âm nhạc, nhảy múa, thơ ca, truyện kể Tính nguyên hợp của
văn học dân gian chẳng những thể hiện ở sự kết hợp nhiều loại phương tiện và chất liệu
nghệ thuật khác nhau: lời, nhạc, vũ mà còn thể hiện ở sự kết hợp đan xen nhiều loại
14

hình thái ý thức chưa phân hóa rõ rệt, sâu sắc (ngoài hình thái ý thức thẩm mĩ còn có
nhiều thành tố ý thức khác nhau: tín ngưỡng, tôn giáo, triết lí, luận lí ). Chính điều đó đã

tạo ra sự hài hòa và vẻ đẹp hồn nhiên, độc đáo đến mức tuyệt vời của những hình tượng
nghệ thuật trong tác phẩm văn học dân gian. Chẳng hạn truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh cũng
như truyện Cóc kiện trời và truyện Chú Cuội cung trăng đều là những sáng tác dân gian
mang tính nguyên hợp rõ nét (vừa là văn học, vừa là khoa học, đồng thời cũng là tín
ngưỡng sùng bái các lực lượng tự nhiên của người Việt Cổ). Chúng vừa phản ánh, vừa lí
giải thể hiện ước mơ, khát vọng chinh phục, chi phối tự nhiên theo sự hiểu biết còn ít ỏi
nhưng rất táo bạo của người nguyên thủy. Tuy nhiên, tính nguyên hợp trong các tác phẩm
văn học dân gian không những được thể hiện ở sự kết hợp, hòa quyện một cách nhuần
nhuyễn giữa các yếu tố thành phần trong một tác phẩm mà còn được thể hiện trong từng
yếu tố. Chẳng hạn, tính nguyên hợp trong chèo được thể hiện nổi bật không chỉ ở sự hòa
quyện một cách nhuần nhuyễn giữa các yếu tố: tích chèo (truyện), diễn viên, người xem,
nhạc cụ, đạo cụ, trang phục, giai điệu, vũ đạo, mà còn được thể hiện trong từng yếu tố:
khán giả của chiếu chèo vừa là người thưởng thức, đánh giá về vở diễn, vừa có thể là diễn
viên tham gia biểu diễn (thông qua hình thức tiếng “đế”: lời hỏi, lời đỡ giọng, lời họa
theo của người xem trong các vở chèo); hoặc nhân vật trong chèo bộc lộ tâm trạng, tính
cách qua cả lời hát, điệu hát và động tác điệu bộ cử chỉ khi hát; thủ pháp gây cười của
nhân vật anh hề được gợi lên từ tên gọi nhân vật (mẹ Đốp, anh Khèo, cu Sứt ), hóa trang
- trang phục (râu vểnh, mặt nhọ, quần ống cao, ống thấp ), điệu đi, dáng đứng (lảo đảo
như say, đi khèo ), lời nói (nói chệch, nói lái ). Ngoài ra, tính nguyên hợp còn biểu hiện
trên phương diện thể loại. Khi tìm hiểu các tác phẩm văn học dân gian ta thấy hiện tượng
đồng xuất hiện các yếu tố thi pháp của nhiều loại thể trong một tác phẩm. Đặc biệt là giữa
các loại thể: sử thi thần thoại với dân ca nghi lễ; thần thoại với truyền thuyết; truyện cổ
tích loài vật với ngụ ngôn; hoặc mượn lời thơ, lời hát trong ca dao - dân ca để diễn tả tâm
trạng nhân vật, hoặc khắc họa bối cảnh nhân vật xuất hiện Để xếp loại chúng, các nhà
khoa học thường dựa vào những yếu tố thi pháp nổi trội để quyết định nó thuộc thể loại
nào. Nét độc đáo nhất của tính nguyên hợp còn được thể hiện trong quá trình sáng tác và
diễn xướng tác phẩm văn học dân gian. Có thể nói, biểu hiện cụ thể của tính nguyên hợp
chính là tính biểu diễn. Nhiều khi người nghệ sĩ chỉ mượn làn điệu (hoặc công thức truyền
15


thống) để sáng tác lời cho phù hợp với văn cảnh giao tiếp. Ở đây, mối quan hệ giữa các
thành phần nghệ thuật trong quá trình sáng tác và diễn xướng là mối quan hệ hữu cơ, tự
nhiên. Sự tham gia của các thành phần nghệ thuật trong quá trình sáng tác và diễn xướng
thường được thực hiện một cách đồng thời. Là sự hòa quyện không thể tách rời giữa các
yếu tố xuất phát từ sự tổng hợp một cách tự nhiên, tự phát, vốn có ngay từ khi tác phẩm
mới hình thành của những người sáng tác và trình diễn văn học dân gian. Đó chính là lẽ
tồn tại của tính nguyên hợp. Tóm lại, tính nguyên hợp là một trong những thuộc tính nổi
trội, cơ bản, quan trọng vào bậc nhất của văn học dân gian. Thuộc tính này có mặt ở hầu
hết các phương diện: nội dung, tư tưởng, chức năng, hình thái ý thức nghệ thuật, sáng tác,
biểu diễn, lưu truyền của văn học dân gian và ảnh hưởng sâu sắc đến các thuộc tính
khác của văn học dân gian. Đây là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt các tác phẩm văn học
dân gian với các tác phẩm văn học hiện đại như: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, thơ mới
Ngoài đặc trưng truyền miệng, tập thể, văn học dân gian còn đặc trưng bởi tính dị
bản. Đây chính là hệ quả từ những đặc trưng nói trên của văn học dân gian. Văn học dân
gian là những sáng tác tập thể, nhân dân cùng tham gia vào công việc sáng tạo, biểu diễn,
thưởng thức. Vì thế, khi chưa có chữ viết các tác phẩm được sáng tác và lưu truyền bằng
miệng. Thông qua hình thức này, lâu ngày tác phẩm văn học dân gian có phần biến đổi về
hình thức, kết cấu ngôn từ… cho phù hợp với từng vùng miền địa phương, song về nội
dung thì không thay đổi, tạo nên các dị bản. Như vậy, dị bản là những văn bản tương
đồng, tương tự nhau về nội dung ý nghĩa và có sự thay đổi về cách dùng từ ngữ cho phù
hợp với mục đích sử dụng theo từng vùng miền, từng hoàn cảnh… Tính dị bản làm cho
tác phẩm văn học dân gian không đứng yên mà luôn được biến hóa tùy hoàn cảnh, nhu
cầu, thị hiếu và thời kì lịch sử khác nhau. Thực tế cho thấy, trong văn học dân gian ít có
một truyện kể, một câu ca dao nào chỉ có một bản duy nhất mà thường có nhiều dị bản.
Đây được coi là một đặc điểm vốn có, tự nhiên của văn học dân gian Việt Nam. Nó làm
cho người sử dụng tác phẩm văn học dân gian trở nên rộng hơn, số lượng tác phẩm phong
phú, đa dạng hơn cả về ý nghĩa cũng như nội dung thể loại.
Có thể nói văn học dân gian Việt Nam mang trong mình những chức năng và đặc
trưng riêng biệt. Xét trong mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn hóa, có thể thấy văn
học dân gian là một bộ phận của văn hóa Việt Nam. Nó luôn tồn tại và phát triển gắn với

16

sinh hoạt văn hóa cộng đồng của quần chúng lao động qua các thế hệ. Đây là mối quan hệ
biện chứng, phản ánh quy luật của quan hệ riêng chung có tầm cấp triết học: “Cái riêng
chỉ tồn tại trong mức độ nó liên hệ với cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng,
thông qua cái riêng” [34]. Do vậy, không thể tách rời văn học dân gian với những mối
liên hệ nhiều chiều, nhất là không thể không đặt nó trong mối quan hệ với văn hóa (cái
chung) như Bakhtin đã xác nhận: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn
hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa của một thời đại
trong đó nó tồn tại” [33,362]. Như vậy, cùng với nhiều loại hình nghệ thuật khác, văn học
dân gian đã góp một phần lớn vào cấu trúc của văn hóa. Nếu văn hóa thể hiện quan niệm
và cách ứng xử của con người trước thế giới thì văn học dân gian là nơi lưu giữ những
thành quả, những kinh nghiệm, những phong tục, tập quán… một cách sinh động nhất. Để
có được những thành quả đó, văn hóa của một dân tộc đã phải trải qua nhiều chặng đường
tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Ta có
thể xem văn học dân gian là một biểu hiện của văn hóa và là tấm gương phản chiếu văn
hoá. Trong những tác phẩm văn học dân gian, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá qua lăng
kính của tác giả dân gian. Đó là kinh nghiệm sản xuất, là cách ứng xử, là lệ làng phép
nước, là phong tục tập quán, lễ hội, là sinh hoạt của cộng đồng qua các thế hệ… trong
những câu ca dao, tục ngữ, những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết… Ngược lại, văn hóa
trong tính thống nhất và đa dạng của nó không thể không ảnh hưởng đến văn hoc dân gian
– một trong những bộ phận nhạy cảm của văn hóa. Nhất là ở những nước có nền văn hóa
đóng vai trò đặc biệt quan trọng như nước ta. Nếu văn hoá chi phối hoạt động và sự phát
triển của văn học dân gian, thì ngược lại, văn học dân gian cũng tác động đến văn hóa,
hoặc trên toàn thể cấu trúc, hoặc thông qua những bộ phận hợp thành khác của nó. Văn
học dân gian làm nền tảng cho văn hóa Việt Nam. Trong quá trình lao động và sáng tạo,
tác giả dân gian luôn đấu tranh, phê phán những biểu hiện phản văn hoá, đồng thời khẳng
định những giá trị, những tinh hoa văn hoá của dân tộc. Ta có thể tìm thấy điều đó trong
những tác phẩm văn học dân gian mà rõ nét nhất là những tác phẩm đã được đưa vào
trong nhà trường.

Trước mối quan hệ mật thiết như vậy, việc dạy và học văn học dân gian trong nhà
trường dưới góc nhìn văn hoá là một hướng đi cần thiết và đầy triển vọng. Hay nói cách
17

khác, cần phải dạy học văn học dân gian như là một biểu hiện của giáo dục văn hóa.
“Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, thi pháp học…, cách
tiếp cận văn học bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ
thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó” [34]. Khi nhận thức hay lý
giải các hiện tượng văn hóa dân gian trong tác phẩm cần phải gắn liền với môi trường
sinh hoạt văn hóa của nó, tức là các sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Ở đây, những yếu
tố văn hoá liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có
thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm.
Ta cũng biết rằng, văn học dân gian được đưa vào trong nhà trường là phần tinh hoa được
chắt lọc, gồm những giá trị đã được thời gian thử thách, phù hợp với thiên chức của giáo
dục. Đó là vốn liếng căn bản để con người làm hành trang tiếp tục khám phá, cảm nhận,
chinh phục kiến thức và vẻ đẹp của văn học dân gian ở trong và ngoài nhà trường. Do
vậy, việc dạy và học văn học dân gian như là một biểu hiện của giáo dục văn hóa là một
hoạt động bổ ích, gần gũi với đời sống nên nó mang tính thực tế cao. Nhất là trong thời
đại ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt của xã hội thì việc giữ gìn và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (trong đó có văn học dân gian) là điều rất cần
thiết. Gắn hoạt giáo dục với văn hóa hay lồng ghép các hoạt động văn hóa vào giáo dục sẽ
giúp cho người học dễ dàng tiếp nhận các giá trị của văn hóa cũng như những giá trị tinh
thần của văn học dân gian. Cũng qua hoạt động này, người dạy có thể giúp người học lý
giải những kiến thức sâu rộng hơn, đa chiều hơn, bao gồm cả thị hiếu độc giả, bối cảnh xã
hội và con đường phát triển nói chung của văn học dân gian. Có thể nói, giáo dục văn hóa
thông qua văn học dân gian là hoạt động nền tảng của văn hoá, đáp ứng nhu cầu cung cấp
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và nâng cao dân trí, hướng đến mục tiêu đào tạo
những con người có nhân cách và năng lực nghề nghiệp. Một nền giáo dục toàn diện bao
gồm giáo dục tri thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ. Do vậy,
văn học dân gian có vai trò quan trọng trong giáo dục đạo đức và giáo dục thẩm mỹ, là

con đường đưa con người vươn đến điều thiện và cái đẹp; đồng thời góp phần vào hai lĩnh
vực giáo dục kia, giúp con người nhận ra sự thật và vững vàng về mặt tâm lý.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể, văn hóa học nó bao quát toàn bộ hiện tượng và
những biểu hiện đa dạng của văn hóa (trong đó có văn học dân gian). Vì thế, văn học dân
18

gian luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác nhau của văn hoá truyền thống.
Mỗi tác phẩm văn học dân gian là một sản phẩm của văn hoá và người đọc là một người
thụ hưởng văn hoá. Vì vậy, để quá trình dạy và học tác phẩm dân gian trong và ngoài nhà
trường một cách hiệu quả thì nhất thiết phải dạy học văn học dân gian như là một biểu
hiện của giáo dục văn hóa. Thông qua đó, đem đến cho người học một cách nhìn đa chiều
về cuộc sống; giúp các em khắc sâu hơn kiến thức; đồng thời làm phong phú thêm bản sắc
văn hóa của dân tộc. Góp phần giữ gìn và phát huy những tinh hoa văn hóa của dân tộc ta
trong cả hiện tại và cả tương lai.
1.1.2 Văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn THCS
1.1.2.1 Khảo sát chương trình
Bộ sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở được biên soạn theo chương trình
THCS ban hành theo quyết định số 03/2002/QĐ-BGD&ĐT, ngày 24 tháng 1 năm 2002
của bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo. Bên cạnh những hướng cải tiến chung của Bộ như
giảm tải, tăng thực hành, gắn đời sống, nét cải tiến chung của Chương trình và sách giáo
khoa môn Ngữ văn là hướng tích hợp. Biểu hiện rõ nét nhất của hướng đó là việc sáp
nhập ba phần lâu nay vẫn thường được gọi là ba phân môn (Văn, Tiếng Việt, Tập làm
văn) vào một chỉnh thể là Ngữ văn và do đó, từ chỗ có ba bộ sách Văn học, Tiếng Việt,
Tập làm văn, nay chỉ còn một bộ sách duy nhất là Ngữ văn. Việc thay đổi cấu tạo và tên
gọi môn học ảnh hưởng không nhỏ đến cấu trúc sách giáo khoa, tố chức bài học cũng như
nhiều nội dung và phương pháp học tập, giảng dạy. Mỗi bài học, đơn vị của sách giáo
khoa, nói chung đều gồm đủ ba phần : Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Các văn bản được
bố trí và sắp xếp theo hệ thống thể loại và phần nào theo tiến trình văn học sử. Trong phần
chú thích, các yếu tố Hán Việt khi được giải thích riêng đều in nghiêng; phần lớn những
yếu tố này sẽ được tập hợp lại một cách hệ thống cuối sách giáo khoa tập hai của mỗi lớp.

Ngoài số lớn văn bản được hướng dẫn tìm hiểu tại lớp, còn một số văn bản “tự học có
hướng dẫn” mang tính chất bắt buộc nhằm hình thành, phát triển thói quen và khả năng tự
học, tìm tòi nghiên cứu: số lượng loại văn bản này sẽ được nâng dần lên ở những lớp trên.
“Ở từng phân môn, còn một số văn bản phụ và văn bản đọc thêm có tính chất tư liệu
nhằm giúp học sinh hiểu rõ hơn một vài phương diện của văn bản chính, nắm vững vấn
đề lí thuyết hay có thêm chất liệu để làm tốt hơn các bài tập” [18,3]. Tất cả được sắp xếp
19

theo một trình tự hợp lí, khoa học, đảm bảo sự tích hợp giữa ba phân môn: Văn - Tiếng
Việt - Tập làm văn theo thứ tự tăng dần về thời lượng cũng như số lượng kiến thức. Lớp
6, (140 tiết); lớp 7 (140 tiết), lớp 8 (140 tiết) đến lớp 9 tăng lên (175 tiết). Ở mỗi lớp, phần
Văn học chiếm phần lớn nội dung kiến thức và thời lượng, tiếp đến là phần Tập làm văn
và Tiếng Việt. Như vậy, chương trình Ngữ văn THCS đã cung cấp cho các em một hệ
thống bao gồm cả văn học dân gian lẫn văn học viết với một số lượng các tác phẩm khá
phong phú và đa dạng từ lớp 6 đến lớp 9.
Riêng phần văn học dân gian trong toàn bộ chương trình THCS được học tập trung
vào lớp 6, 7 trong 22 tiết. Cụ thể như sau:
Lớp

Thể Loại Đặc trưng Tác phẩm cụ thể
Truyền
thuyết
(5 tác
phẩm)
- Kể lại các sự kiện và nhân
vật lịch sử hoặc có liên quan
đến lịch sử theo quan điểm
nhìn nhận lịch sử của nhân
dân.
- Con Rồng cháu Tiên

- Bánh chưng bánh giày
- Thánh Gióng
- Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
- Sự tích Hồ Gươm
Truyện
cổ tích
(5 tác
phẩm)
- Kể về số phận của những
con người bính thường trong
xã hội(người mồ côi, người
em, người dũng sĩ, chàng
ngốc,… có yếu tố hoang
đường, thể hiện quan niệm và
mơ ước của nhân dân về hạnh
phúc và công bằng xã hội.
- Sọ Dừa
- Thạch Sanh
- Em bé thông minh
- Cây bút thần
- Ông lão đánh cá và con cá
vàng



6



Truyện

dân gian

Truyện
ngụ
ngôn
(4 tác
phẩm)
- Kể lại các câu chuyện trong
đó nhân vật chủ yếu là động
vật và đồ vật để nói bóng gió
kín đáo chuyện con người
nhằm nêu lên những kinh
nghiệm sống, bài học luân lí,
triết lí nhân sinh.
- Ếch ngồi đáy giếng
- Thầy bói xem voi
- Đeo nhạc cho Mèo
- Chân, Tay, Tai, Mắt,
Miệng
20

Truyện
cười
(2 tác
phẩm)
- Kể lại các sự việc, hiện
tượng gây cười nhằm mục
đích giải trí và phê phán
những thói hư tật xấu trong
xã hội.

- Treo biển
- Lợn cưới, áo mới


Ca dao dân ca

- Chỉ các thể loại trữ tình dân
gian, kết hợp lời và nhạc,
diễn tả đời sống nội tâm của
con người.
- Những câu hát về tình cảm
gia đình
- Những câu hát về tình yêu
quê hương đất nước
- Những câu hát than thân
- Những câu hát châm biếm

Tục ngữ
- Là những câu nói dân gian
ngắn gọn, ổn định, có nhịp
điệu, hình ảnh, thể hiện
những kinh nghiệm của nhân
dân về mọi mặt (tự nhiên, lao
động, xã hội…) được nhân
dân vận dụng vào đời sống,
suy nghĩ và lời ăn tiếng nói
hằng ngày.
- Tục ngữ về thiên nhiên và
lao động sản xuất
- Tục ngữ về con người và

xã hội







7

Sân khấu
(Chèo)
- Là loại kịch hát, múa dân
gian; kể chuyện diễn tích
bằng hình thức sân khấu (diễn
ở sân đình gọi là chèo sân
đình). Phổ biến ở vịnh Bắc
Bộ.
- Quan Âm Thị Kính
Qua bảng thống kê, ta thấy: phần văn học dân gian ở lớp 6 chủ yếu là các truyện dân
gian tiêu biểu của Việt Nam và thế giới (Cây bút thần – truyện cổ tích Trung Quốc và
Ông lão đáng cá và con cá vàng – truyện cổ tích Nga); gồm tất cả 16 bài với 4 thể loại
khác nhau. Trong đó có 5 truyền thuyết, 5 truyện cổ tích, 4 truyện ngụ ngôn và 2 truyện

×