Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.35 KB, 101 trang )

Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 1 SVTH: Lê Kim Dung


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT KINH DOANH VÀ THƯƠNG MẠI






LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 36 (2010-2014)



PHÁP LUẬT VỀ THANH TOÁN
KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT QUA NGÂN HÀNG




Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. Nguyễn Minh Tâm Lê Kim Dung
MSSV: 5105945
Lớp: Luật Thương mại 1-K36




Tháng 11/2013
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 2 SVTH: Lê Kim Dung


LỜI CẢM ƠN!




Để đề tài được hoàn thành người viết đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp
đỡ của quý thầy, cô và các bạn. Người viết bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự
động viên, chỉ bảo của quý thầy, cô đã truyền đạt những kiến thức về khoa học pháp lý
cũng như những kỹ năng cần thiết để người viết hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, người viết cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô: ThS. Nguyễn Minh
Tâm đã giúp đỡ, hướng dẫn truyền đạt những kinh nghiệm quý báu giúp người viết
hoàn thành đề tài này.
Tuy nhiên, trong quá trình thu thập thông tin, tài liệu và do thời gian, trình độ,
khả năng nghiên cứu có giới hạn nên luận văn không tránh khỏi những hạn chế. Kính
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy, cô và bạn đọc để luận văn được
hoàn chỉnh hơn về nội dung cũng như hình thức.























Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 3 SVTH: Lê Kim Dung

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN




























Cần Thơ, ngày tháng năm 2013
Giáo viên hướng dẫn



ThS. Nguyễn Minh Tâm













Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 4 SVTH: Lê Kim Dung

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN



























Cần Thơ, ngày tháng năm 2013
Giáo viên hội đồng

















Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 5 SVTH: Lê Kim Dung

MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU Trang
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Phương pháp nghiên cứu 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
5. Kết cấu đề tài 3
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN
MẶT 4
1.1. Khái quát về hình thức chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế dẫn đến tính cần
thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt 4
1.2. Khái niệm về thanh toán không dùng tiền mặt 6
1.2.1. Định nghĩa 6
1.2.2. Đặc điểm thanh toán không dùng tiền mặt 9
1.2.3. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt 11
1.2.3.1. Đối với nền kinh tế 11
1.2.3.2. Đối với các tổ chức tín dụng 12
1.2.3.3. Đối với Ngân hàng Trung ương 13
1.2.3.4. Đối với cơ quan tài chính 14
1.3. Giới thiệu sơ lược về các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt 15
1.3.1. Thanh toán bằng séc 15
1.3.1.1. Định nghĩa 15
1.3.1.2. Đặc điểm của séc 16
1.3.2. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi (lệnh chi) 18
1.3.2.1. Định nghĩa 18
1.3.2.2. Đặc điểm ủy nhiệm chi (lệnh chi) 19
1.3.3. Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu (nhờ thu) 20
1.3.3.1. Định nghĩa 20
1.3.3.2. Đặc điểm ủy nhiệm thu (nhờ thu) 21
1.3.4. Thanh toán bằng thẻ ngân hàng 21

1.3.4.1. Định nghĩa 21
1.3.4.2. Đặc điểm thẻ ngân hàng 24
CHƯƠNG 2 PHÁP LUẬT VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở
VIỆT NAM 25
2.1. Quy định pháp luật về tài khoản để thực hiện hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt 26
2.1.1. Các chủ thể liên quan đến tài khoản thanh toán 26
2.1.1.1. Chủ thể quản lý tài khoản 26
2.1.1.2. Chủ tài khoản 27
2.1.1.3. Người thụ hưởng 29
2.1.2. Chế độ mở tài khoản thanh toán 29
2.1.3. Chế độ sử dụng tài khoản thanh toán 32
2.1.3.1. Quy định pháp luật về sử dụng tài khoản thanh toán 32
2.1.3.2. Quy định pháp luật về sử dụng tài khoản thanh toán trong các trường hợp
đặc biệt 33
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 6 SVTH: Lê Kim Dung

2.1.4. Quy định pháp luật về đóng tài khoản thanh toán 35
2.2. Quy định pháp luật về lệnh thanh toán và chứng từ thanh toán 36
2.2.1. Quy định pháp luật về lệnh thanh toán 36
2.2.2. Quy định pháp luật về chứng từ thanh toán 36
2.3. Quy định pháp luật về một số phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt 38
2.3.1. Quy định pháp luật về phương tiện thanh toán séc 38
2.3.1.1. Thủ tục phát hành séc 38
2.3.1.2. Thủ tục chuyển nhượng séc 40
2.3.1.3. Quy định pháp luật về thanh toán séc 41
2.3.1.4. Quy định pháp luật về truy đòi và khởi kiện liên quan đến séc 43
2.3.2. Quy định pháp luật về phương tiện thanh toán uỷ nhiệm chi 46

2.3.2.1. Thủ tục lập lệnh chi 46
2.3.2.2. Thủ tục thanh toán uỷ nhiệm chi 47
2.3.3. Quy định pháp luật về phương tiện thanh toán uỷ nhiệm thu 52
2.3.3.1. Thủ tục lập uỷ nhiệm thu 52
2.3.3.2. Thủ tục thanh toán uỷ nhiệm thu 53
2.3.4. Quy định pháp luật về phương tiện thanh toán thẻ ngân hàng 55
2.3.4.1. Thủ tục phát hành thẻ ngân hàng 56
2.3.4.2. Thủ tục thanh toán thẻ ngân hàng 59
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở
NƯỚC TA - MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP 63
3.1. Những thành tựu đạt được của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt
qua ngân hàng 63
3.1.1. Đa dạng hóa các dịch vụ, phương tiện thanh toán và việc sử dụng một số
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta 63
3.1.1.1. Đa dạng hóa các dịch vụ, phương tiện thanh toán 63
3.1.1.2. Việc sử dụng một số phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt ở nước
ta 65
3.1.2. Cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt đã được
thiết lập 67
3.1.3. Về hoạt động thanh toán qua ngân hàng trong khu vực công, doanh nghiệp và
dân cư 69
3.1.3.1. Về hoạt động thanh toán qua ngân hàng trong khu vực công 69
3.1.3.2. Về hoạt động thanh toán qua ngân hàng trong doanh nghiệp và dân cư
71
3.1.4. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt đang từng
bước hoàn thiện 73
3.2. Những khó khăn của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân
hàng và một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về thanh toán không dùng tiền
mặt qua ngân hàng 74
3.2.1. Về khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt 74

3.2.2. Về một số phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt 75
3.2.3. Về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt còn nhiều bất cập 79
3.2.4. Cơ sở hạ tầng và công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu về thanh toán không
dùng tiền mặt 84
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 7 SVTH: Lê Kim Dung

KẾT LUẬN 89


























Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 8 SVTH: Lê Kim Dung

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở nước ta, hệ thống tài chính ngân hàng nói chung và hoạt động ngân hàng nói
riêng đều có vị trí quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động của ngân
hàng gồm nhiều hình thức khác nhau như: huy động vốn, cấp tín dụng, cung ứng dịch
vụ thanh toán. Ngoài hai nghiệp vụ chính của ngân hàng là nghiệp vụ huy động vốn và
nghiệp vụ tín dụng thì nghiệp vụ thanh toán ngày càng được các ngân hàng quan tâm
chú ý nhằm thu hút khách hàng. Cũng vì vậy, mà ngân hàng còn được biết đến với vai
trò là trung gian tài chính gắn liền với hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ cho
khách hàng. Hoạt động thanh toán dần dần chiếm tỉ trọng và đóng vai trò quyết định sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Tuy nhiên, việc dùng tiền mặt trong thanh toán chi trả cho hàng hoá, dịch vụ đã “ăn
sâu bén rễ” vào trong thói quen của người dân. Mỗi năm, nhà nước ta phải bỏ ra chi phí
cho việc vận chuyển, bảo quản, kiểm đếm một khối lượng tiền tệ là không nhỏ và chưa
kể thời gian thanh toán rất chậm. Đây là một hạn chế đã mang lại sự lãng phí lớn trong khi
nước ta đang cần nguồn vốn để đầu tư và phát triển kinh tế. Và, với thanh toán không dùng
tiền mặt đã khắc phục được tình trạng đó, không chỉ tiết kiệm cho nền kinh tế mà còn là
công cụ thiết thực tăng vòng quay của vốn để thúc đẩy phát triển sản xuất, lưu thông hàng
hoá. Bên cạnh đó, thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng có thêm nguồn vốn
trong hoạt động ngân hàng.Về phương diện vĩ mô, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia của ngân hàng nhà nước nhằm kiềm chế lạm phát, điều tiết lượng tiền lưu
thông.

Vì vậy, mà sự tồn tại và phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt trong
nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan, vì đáp ứng được các nhu cầu thanh toán
thường xuyên và rất lớn của nền kinh tế. Mặt khác, những quy định của pháp luật về
hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt cũng rất quan trọng. Nhưng hiện nay, vẫn
còn nhiều bất cập trong quy định của pháp luật về cơ chế, vai trò quản lý đối với hoạt
động này.
Từ thực trạng trên và trước yêu cầu đổi mới của hệ thống ngân hàng, những quy
định của pháp luật cần chặt chẽ, rõ ràng, cụ thể hơn nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói chung và hoàn thiện, phát triển hệ thống pháp luật
trong thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy, người viết đã
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 9 SVTH: Lê Kim Dung

viết luận văn với đề tài: “Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng”
để làm luận văn tốt nghiệp của mình. Qua luận văn, người viết đưa ra những đánh giá
mang tính khoa học về vai trò của pháp luật trong hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt và tìm ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện và xây dựng pháp luật góp phần vào sự phát
triển ổn định và bền vững của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng ở
nước ta.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu những quy định cụ thể của pháp luật về điều kiện chủ thể liên
quan đến tài khoản thanh toán, điều kiện mở và sử dụng tài khoản thanh toán, lệnh thanh
toán, chứng từ thanh toán và quy định về một số phương tiện thanh toán không dùng tiền
mặt hiện nay để hiểu rõ quy định của pháp luật về hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt. Đồng thời, tìm ra những bất cập phát sinh trong hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt. Từ đó, người viết đưa ra những ý kiến để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt cũng như đề xuất hướng hoàn thiện cơ chế, quy định của pháp
luật về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng chặt chẽ, cụ thể hơn tạo cơ sở
áp dụng vào thực tế hiệu quả hơn.

3. Phương pháp nghiên cứu
Để phần nào làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu của luận văn, người viết đã sử
dụng các phương pháp luận như: phương pháp phân tích luật viết, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh… để viết luận văn của mình. Bên cạnh đó, còn vận dụng phương
pháp thực tế như: thu thập thông tin, các văn bản quy phạm pháp luật, giáo trình của các
trường đại học, tham khảo các trang thông tin điện tử, tạp chí khoa học… tạo cơ sở cho
việc nghiên cứu và viết đề tài này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu pháp luật về hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt ở phạm vi quốc gia (không phân tích về hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt quốc tế) và một số phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt hiện
nay. Song song, người viết đề tài này thiên về hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán được mở tại ngân hàng. Như vậy,
hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong bài viết tìm hiểu về hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt trên cơ sở mở tài khoản thanh toán cho khách hàng, quản lý tài
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 10 SVTH: Lê Kim Dung

khoản của khách hàng, thực hiện những nghiệp vụ liên quan đến tài khoản của khách hàng
thông qua việc cung ứng cho khách hàng các phương tiện thanh toán.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt là một phạm trù
kinh tế rộng và tương đối mới mẽ ở Việt Nam. Với yêu cầu của một luận văn tốt nghiệp
ngành luật, đề tài “Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng”, người viết
tập trung nghiên cứu trong phạm vi là phạm trù mang tính chất pháp lý, không đi sâu phân
tích về kỹ thuật nghiệp vụ mang tính chất kinh tế.
5. Kết cấu đề tài
Kết cấu đề tài gồm có 3 phần chính: Lời mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Trong đó phần nội dung gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thanh toán không dùng tiền mặt.

Chương 2: Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng ở nước ta -
Một số đề xuất và giải pháp.
Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy, cô và các
bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!









Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 11 SVTH: Lê Kim Dung

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng là một phạm trù kinh tế
rất rộng, vì vậy trong chương này người viết trình bày các khái niệm cần thiết và cơ bản về
thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng, các đặc điểm, vai trò của thanh toán không
dùng tiền mặt qua ngân hàng… cũng như tìm hiểu các khái niệm và đặc điểm của các
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Từ đó làm cơ sở để người viết
tìm hiểu những quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt qua ngân hàng được trình bày ở Chương 2.
1.1. Khái quát về hình thức chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế dẫn đến tính
cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt

Quá trình phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình phát triển sản
xuất. Cùng với thời gian, con người đã tìm ra một loại sản phẩm để làm vật trung gian
đo lường giá trị của các sản phẩm khác và đó là tiền tệ. Và quá trình tái sản xuất mở
rộng được tiến hành trên cơ sở những yêu cầu phát triển của cơ chế thị trường thì hình
thức thanh toán không dùng tiền mặt ra đời cùng với sự phát triển của hệ thống ngân
hàng là một tất yếu khách quan của một xã hội phát triển. Bởi, muốn nền kinh tế - xã
hội phát triển toàn diện và lâu dài thì phải có nền móng vững chắc. Trong đó có một
phần là trình độ phát triển của hệ thống thanh toán, là một trong những hạ tầng cơ sở
cho sự phát triển. Nói đến thanh toán trong nền kinh tế tức là nói đến thanh toán không
dùng tiền mặt, đã cho thấy sự hình thành và phát triển các chu chuyển tiền tệ là một yếu tố
khách quan. Song, sự tồn tại và lưu thông của các chu chuyển tiền tệ không những là một
yếu tố khách quan, mà còn là một sự cần thiết để phục vụ cho sự chu chuyển các sản phẩm
của xã hội, để bảo đảm cho quá trình tái sản xuất được diễn ra một cách bình thường.
Tiền tệ đã trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển và ở mỗi giai đoạn nó đều có
những ưu, nhược điểm cần phải khắc phục. Có thể nói, tiền giấy đã thể hiện được
những ưu điểm của nó trong lưu thông, nhất là trong thanh toán. Thanh toán tiền tệ bao
gồm: thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán tiền mặt là
việc chi trả trực tiếp bằng tiền mặt trong các quan hệ thanh toán thu chi giữa các tầng
lớp nhân dân với nhau, giữa các xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cơ quan nhà nước với nhân
dân lao động…. chu chuyển tiền mặt được thực hiện bởi sự lưu thông từ người này
sang người khác. Tuy nhiên, nó cũng chỉ phù hợp với nền kinh tế có quy mô sản xuất
nhỏ, sản xuất chưa phát triển, để phục vụ giao dịch nhỏ, lẻ hoặc không có điều kiện
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 12 SVTH: Lê Kim Dung

thanh toán qua ngân hàng. Còn thanh toán không dùng tiền mặt là cách thanh toán
không có sự xuất hiện của tiền mặt mà được thực hiện bằng cách trích gửi từ tài khoản
của người chi trả để chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng mở tại ngân hàng hoặc
bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng.

Giữa hai hình thức chu chuyển có mối quan hệ mật thiết với nhau, thường xuyên
chuyển hóa lẫn nhau. Mối quan hệ này bắt nguồn như sau: sự chu chuyển của sản phẩm,
hàng hóa đòi hỏi phải sử dụng tiền tệ để giao dịch, để thực hiện các mối quan hệ phát sinh
thường xuyên, đó là một tất yếu - song song đòi hỏi con người và xã hội phải sử dụng
phương thức để thanh toán các khoản tiền như thế nào cho hợp lý và tiện lợi theo yêu cầu
khách quan trong thanh toán. Chẳng hạn, một khoản thanh toán giữa đơn vị A và đơn vị B
trong trường hợp họ đều mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thì tốt nhất là dùng cách
chuyển khoản bởi vì nó tiện lợi nhất, tiết kiệm lao động, an toàn hơn dùng tiền mặt. Tuy
vậy, cũng có trường hợp dùng tiền mặt trong quỹ tiêu dùng của họ để ra thị trường mua
hàng hóa.
Như vậy, do yêu cầu khách quan của các khoản thanh toán trong nền kinh tế nên lựa
chọn một hình thức thanh toán tiền tệ phù hợp. Cùng với nhận thức và vận dụng hợp lý để
đảm bảo cho các hình thức chu chuyển tiền tệ phát huy được tác dụng tích cực của nó.
Khi nền sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao, việc trao đổi hàng hoá
phong phú, đa dạng với khối lượng lớn, diễn ra một cách thường xuyên, liên tục và
trên phạm vi rộng… thì khối lượng chu chuyển tiền tệ cũng tăng lên tương ứng, việc
thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ những hạn chế như: thanh toán và vận chuyển mất
nhiều thời gian, không an toàn, bảo quản phức tạp… Chính vì vậy, các hình thức thanh
toán luôn được đổi mới phù hợp với sự phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hoá.
Và đó là xu hướng phát triển tiền tệ trong một nền kinh tế phát triển, là sự vận dụng
các hình thức chu chuyển tiền tệ một cách hợp lý và hiệu quả nhất. Hình thức thanh toán
này không những đã khắc phục được những hạn chế của thanh toán bằng tiền mặt mà
nó còn có những ưu điểm như: nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và tiết kiệm… Phải
khẳng định rằng, thanh toán không dùng tiền mặt là một phương pháp sử dụng tiền tệ hợp
lý và là sản phẩm dịch vụ quan trọng của ngân hàng để cung cấp cho khách hàng.
Nhưng phải thấy rằng, việc làm đó có làm phát huy được tác dụng tốt hay không cũng phải
trên cơ sở tổ chức lưu thông tiền mặt trong nền kinh tế, nghĩa là nếu không có tiền (tiền
mặt, tiền gửi…) thì không thể nói đến thanh toán nói chung và thanh toán không dùng tiền
mặt qua ngân hàng nói riêng được. Có thể thấy rằng nhận thức được mối quan hệ giữa hai
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 13 SVTH: Lê Kim Dung

hình thức chu chuyển tiền tệ trong việc tổ chức công tác thanh toán có ý nghĩa rất to lớn.
Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán bằng tiền mặt có mối quan hệ
chuyển hoá lẫn nhau đều có những vị trí quan trọng không thể thiếu được đối với nền kinh
tế.
Cũng xuất phát từ kẽ hở của việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán không còn
phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hiện đại. Và thanh toán không
dùng tiền mặt là kết quả tất yếu của quá trình phát triển ngày càng cao của sản xuất lưu
thông hàng hoá, nó đã nhanh chóng chiếm ưu thế và trở thành một phần không thể
thiếu trong nền kinh tế thị trường cần được các ngân hàng quan tâm và phát triển. Tổ
chức tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng là tiết kiệm được chi phí
lưu thông, tăng nhanh vòng quay vốn, thúc đẩy phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá và
điều hoà lưu thông tiền tệ.
1.2. Khái niệm về thanh toán không dùng tiền mặt
1.2.1. Định nghĩa
Về mặt kinh tế: Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế quốc dân là
thanh toán qua ngân hàng, là tổng hợp các khoản thanh toán được thực hiện bằng cách
trích chuyển từ tài khoản của người này sang tài khoản của người khác hoặc bù trừ giữa
các đơn vị thông qua cơ quan trung gian là ngân hàng, với sự kiểm soát của ngân hàng
mà không dùng tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức dịch chuyển số tiền nhất định từ tài
khoản của đơn vị này sang tài khoản của đơn vị khác bằng các thể thức thanh toán của
ngân hàng như: uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, séc, thẻ ngân hàng… thông qua ngân hàng để
chi trả cho nhau ở cùng địa phương hoặc khác địa phương.
Về mặt pháp lý: Theo Khoản 1 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm
2010 và Khoản 12 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010: “Hoạt động ngân hàng
là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau đây: Nhận
tiền gửi; Cấp tín dụng; Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”. Vậy, thanh toán

không dùng tiền mặt là một trong những phương diện của hoạt động ngân hàng. Có thể
nói, thanh toán không dùng tiền mặt thuộc mảng cung ứng dịch vụ cho khách hàng
trong hoạt động nghiệp vụ chung của ngân hàng. Trong đó, cung ứng dịch vụ cho
khách hàng với hoạt động chính là cung ứng dịch vụ thanh toán (là dịch vụ do trung
gian thanh toán cung cấp) với vai trò là tổ chức trung gian tài chính thực hiện nghiệp
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 14 SVTH: Lê Kim Dung

vụ ghi nợ và ghi có để xác nhận nghĩa vụ thanh toán giữa các chủ thể có mở tài khoản tại
ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán.
Theo đó, cung ứng dịch vụ thanh toán là hoạt động thanh toán qua ngân hàng, nó là
phương thức chi trả thực hiện bằng cách trích một số tiền từ tài khoản người chi trả chuyển
sang tài khoản người thụ hưởng. Các tài khoản này được mở tại ngân hàng.
Theo quy định tại Khoản 15 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 thì
cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán;
thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ
ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài
khoản của khách hàng. Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được cung cấp các công
cụ thanh toán, thực hiện dịch vụ thanh toán hay thực hiện các giao dịch thanh toán cho
khách hàng thông qua tài khoản tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP
ngày 20 tháng 9 năm 2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán thì: “hoạt động thanh toán là việc mở tài khoản, thực hiện dịch vụ
thanh toán, tổ chức và tham gia các hệ thống thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán (trung gian thanh toán) và việc mở tài khoản, sử dụng dịch vụ thanh toán của
người sử dụng dịch vụ thanh toán (khách hàng)”.
Còn theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22
tháng 11 năm 2012 của Chính phủ Về thanh toán không dùng tiền mặt: “Dịch vụ thanh
toán không dùng tiền mặt (sau đây gọi là dịch vụ thanh toán) bao gồm dịch vụ thanh

toán qua tài khoản thanh toán và một số dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh
toán của khách hàng”.
Và Khoản 1 Điều 14 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2012
của Chính phủ Về thanh toán không dùng tiền mặt: “Dịch vụ thanh toán qua tài khoản
thanh toán của khách hàng, bao gồm: Cung ứng phương tiện thanh toán; Thực hiện
dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng,
thư tín dụng, chuyển tiền, thu hộ, chi hộ; Các dịch vụ thanh toán khác. Với, Khoản 3
Điều 14 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ Về
thanh toán không dùng tiền mặt: “Dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán
của khách hàng, bao gồm: dịch vụ chuyển tiền, thu hộ, chi hộ và một số dịch vụ thanh
toán khác”.
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 15 SVTH: Lê Kim Dung

Có thể thấy, với quy định cũ, Nghị định 64/2001 có quy định cụ thể rằng hoạt động
thanh toán là việc mở tài khoản tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, việc mở tài khoản
là điều kiện ràng buộc đầu tiên trước khi sử dụng dịch vụ thanh toán. Tuy nhiên, Nghị định
101/2012 có phần đa dạng, phong phú hơn, khi mà dịch vụ thanh toán không dùng tiền
mặt bao gồm dịch vụ thanh toán qua tài khoản thanh toán và một số dịch vụ thanh toán
không qua tài khoản thanh toán. Với quy định này, người sử dụng dịch vụ thanh toán
(khách hàng) vẫn có thể sử dụng các tiện ích của dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
như dịch vụ chuyển tiền, thu hộ, chi hộ và một số dịch vụ thanh toán khác khi không
mở tài khoản tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Trên cơ sở áp dụng Nghị định
101/2012 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 26 tháng 3 năm 2013), nhưng chúng ta có
thể thấy rằng: phần lớn hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện đa
dạng hơn thông qua việc thiết lập một tài khoản tại ngân hàng với các công cụ thanh
toán phong phú.
Việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng sẽ theo yêu cầu hoặc mệnh
lệnh của khách hàng. Bên cạnh đó, tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ của các ngân hàng,

tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng và hệ thống thanh toán quốc tế góp
phần đa dạng hóa hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt trong và ngoài nước.
Bản chất của thanh toán không dùng tiền mặt:
Trong thanh toán qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không có sự hiện hữu
của tiền mặt tức tiền giấy hoặc tiền kim loại do Ngân hàng Trung ương phát hành mà chỉ
thông qua nghiệp vụ ghi “nợ” và “có” vào tài khoản của khách hàng mở tại tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán.
Thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện qua trung gian thanh toán là ngân
hàng.
Người sử dụng dịch vụ thanh toán phải có tài khoản tại tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán.
Thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện với sự hỗ trợ của các chứng từ
thanh toán. Chứng từ thanh toán là các văn bản giấy tờ ghi lại nội dung của một sự kiện
giao dịch, một nghiệp vụ phát sinh để làm cơ sở bằng chứng hỗ trợ, xác minh để ngân hàng
kiểm tra thực hiện hoạt động thanh toán.

Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 16 SVTH: Lê Kim Dung

1.2.2. Đặc điểm thanh toán không dùng tiền mặt
Thanh toán không dùng tiền mặt là cách thức thanh toán không có sự xuất hiện
của tiền mặt mà được tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của người chi trả để
chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng mở tại ngân hàng hoặc bằng cách bù trừ lẫn
nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng.
Thứ nhất: Trong thanh toán không dùng tiền mặt, tiền tệ và hàng hoá vận động
ngược chiều với nhau. Việc thanh toán không phải thực hiện bằng cách trao trả trực
tiếp tiền và hàng giữa người mua và người bán mà được thực hiện bằng cách trích
chuyển từ tài khoản tiền gửi của người mua sang tài khoản tiền gửi của người bán sau
khi hàng hoá đã hoặc đang vận chuyển từ người bán tới người mua.

Đây là đặc điểm lớn nhất, nổi bật nhất trong thanh toán không dùng tiền mặt.
Việc giao hàng được tiến hành ở nơi này, trong thời gian này, nhưng việc thanh toán
được thực hiện ở nơi khác, trong một thời gian khác, sự tách rời giữa tiền và hàng là
điều không thể tránh khỏi. Điều đó chỉ cho ta một phương án thanh toán - mà ở
phương án đó phải chấp nhận sự tách rời. Sự tách rời về mặt không gian và thời gian
trong quá trình thanh toán đặt ra yêu cầu cho ngân hàng khi tổ chức hệ thống thanh
toán không dùng tiền mặt là phải rút ngắn khoảng cách giữa tiền và hàng, tránh gây ra
chậm trễ, gian lận trong thanh toán, phải hạn chế đến mức thấp nhất mọi rắc rối có thể
xảy ra trong thanh toán.
Như vậy, sự vận động của tiền tệ độc lập so với sự vận động của vật tư, hàng hoá cả
về thời gian và không gian, thông thường sự vận động của tiền trong thanh toán và sự vận
động của vật tư, hàng hoá không ăn khớp với nhau.
Thứ hai: Thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng tiền ghi sổ hay còn gọi là
tiền bút tệ.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của thanh toán không dùng tiền mặt. Trong thanh
toán không dùng tiền mặt, vật môi giới (tiền mặt) không xuất hiện như trong thanh toán
bằng tiền mặt, mà nó chỉ xuất hiện dưới hình thức tiền kế toán (tiền ghi sổ), nó được ghi
chép trên các chứng từ, sổ sách kế toán (gọi là tiền chuyển khoản).
Với đặc điểm này thì mỗi bên tham gia thanh toán buộc phải mở tài khoản tại
ngân hàng và phải có tiền trên tài khoản đó. Vì đơn giản, nếu không như vậy thì việc
thanh toán sẽ không thể thực hiện được. Ngoài ra do phải mở tài khoản tại ngân hàng,
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 17 SVTH: Lê Kim Dung

nên vấn đề kiểm soát của ngân hàng trong việc tổ chức thanh toán là hình thức cần
thiết, kiểm soát tính chất đúng đắn của nội dung thanh toán, kiểm soát tính hợp pháp
của chứng từ.
Thứ ba: Trong thanh toán không dùng tiền mặt, mỗi khoản thanh toán ít nhất có
3 bên tham gia đó là: người trả tiền, người nhận tiền và các chuyên gia thanh toán. Vai

trò của ngân hàng rất to lớn - vai trò của người tổ chức và thực hiện các khoản thanh toán.
Cả Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng đều có vai trò to lớn trong việc phát triển hệ thống
thanh toán của một quốc gia.
Ngân hàng xem như người thứ ba không thể thiếu được trong thanh toán không
dùng tiền mặt. Bởi chỉ có ngân hàng - người quản lý tài khoản tiền gửi của các đơn vị, cá
nhân mới được phép trích chuyển tiền trên tài khoản của các đơn vị, cá nhân được coi như
một loại nghiệp vụ đặc biệt của ngân hàng. Trong trường hợp đó, có thể nói toàn bộ quá
trình thanh toán được thực hiện thuận lợi hay không được quyết định bởi ngân hàng là
người thực hiện sẽ có ảnh hưởng đến quá trình thanh toán (nhanh chóng, thuận lợi hay
ngược lại), là người kết thúc quá trình thanh toán. Với nghiệp vụ này, ngân hàng trở thành
một phòng thanh toán cho xã hội, thanh toán không dùng tiền mặt được tổ chức và thực
hiện tốt sẽ phát huy được tác dụng tích cực của nó.
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo ra những thuận lợi cho toàn bộ xã hội, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển nhờ những ưu điểm của nó so với thanh toán bằng tiền mặt,
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế thị trường.
Thứ nhất: Thanh toán không dùng tiền mặt góp phần thúc đẩy tốc độ thanh toán,
chu chuyển vốn giúp quá trình tái sản xuất xã hội diễn ra bình thường, góp phần thúc
đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển.
Khi nền sản xuất phát triển, việc trao đổi hàng hoá không bị bó hẹp trong phạm
vi một vùng, một quốc gia mà diễn ra trên phạm vi rộng khắp cả thế giới, đồng thời với
khối lượng hàng hoá ngày càng tăng lên đã dẫn đến việc thanh toán bằng tiền mặt trở
nên bất tiện và không an toàn. Nếu như những người tham gia thanh toán trao đổi giao
cho các ngân hàng hay các trung gian tài chính thanh toán hộ thông qua tài khoản của
mình ở ngân hàng thì nhanh chóng, thuận tiện và đảm bảo an toàn tài sản. Từ đó, góp
phần thúc đẩy quá trình sản xuất hàng hoá và nền kinh tế phát triển nhanh hơn.
Thứ hai: Thanh toán không dùng tiền mặt tạo nguồn vốn cho hệ thống ngân
hàng.
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 18 SVTH: Lê Kim Dung


Khi các khách hàng đến mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng sẽ tạo ra một
lượng tiền nhàn rỗi mà ngân hàng có thể sử dụng để kinh doanh tạo lợi nhuận khi
những khách hàng này chưa sử dụng đến. Hơn nữa, thông qua nghiệp vụ này các ngân
hàng đã thực hiện chức năng tạo tiền của mình.
Thứ ba: Thanh toán không dùng tiền mặt làm tiết kiệm chi phí lưu thông.
Góp phần giảm khối lượng tiền mặt cần thiết trong lưu thông, do đó tiết kiệm
chi phí lưu thông tiền tệ, chi phí in ấn, bảo quản, kiểm đếm, bốc rỡ tiền mặt, chi phí
giao nhận tiền mặt, tổ chức điều hoà lưu thông tiền mặt… đặc biệt với những món
thanh toán giá trị lớn, khoảng cách xa.
Thứ tư: Thanh toán không dùng tiền mặt là công cụ cạnh tranh hiệu quả giữa
các ngân hàng tạo môi trường ứng dụng công nghệ ngân hàng.
Ngày nay, các ngân hàng không cạnh tranh với nhau chỉ bằng các nghiệp vụ
truyền thống đơn thuần như huy động vốn, cấp tín dụng. Các dịch vụ thanh toán được
xem như là công cụ cạnh tranh có hiệu quả bởi tổ chức tốt công tác thanh toán không
dùng tiền mặt sẽ tạo được sự hấp dẫn đối với khách hàng, thu hút khách hàng đến mở
tài khoản thanh toán và giao dịch thanh toán qua ngân hàng, từ đó dễ dàng tiếp cận và
sử dụng các sản phẩm khác của ngân hàng, làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân
hàng.
1.2.3. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt
1.2.3.1. Đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, thanh toán không dùng tiền mặt đã giữ một vai trò rất
quan trọng đối với từng đơn vị kinh tế, từng cá nhân và đối với toàn bộ nền kinh tế, bất kỳ
một nhà sản xuất nào cũng đều mong muốn đồng vốn của mình tham gia vào nhiều chu kỳ
sản xuất và sinh lời tối đa cho mình, do đó họ muốn sản phẩm của họ làm ra phải được tiêu
thụ ngay trên thị trường và thu được tiền để tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới. Vì vậy vấn
đề thanh toán tiền hàng là vô cùng quan trọng, trong quá trình trao đổi mua bán nếu đơn vị
dùng tiền mặt thì gặp nhiều khó khăn về phương
tiện vận chuyển bảo quản tiền, khả năng
rủi ro cao. Thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện qua

ngân hàng đã phần nào
đáp ứng được nhu cầu nhanh chóng, chính xác cho các khách hàng đảm bảo an toàn vốn và
tài sản của họ. Nếu tổ chức tốt công tác thanh toán qua ngân hàng là góp phần thúc đẩy
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 19 SVTH: Lê Kim Dung

quá trình vận động của vật tư hàng hóa trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình sản
xuất và lưu thông hàng hóa được diễn ra liên tục.
Thanh toán
không dùng tiền mặt
góp phần giảm tỉ trọng tiền mặt trong lưu thông,
từ đó có
thể tiết kiệm được chi phí lưu thông cho xã hội như: in ấn, phát hành, bảo
quản, vận
chuyển, kiểm đếm. Mặt khác, thanh toán
không dùng tiền mặt
còn tạo ra sự
chuyển hoá thông suốt giữa tiền mặt và tiền chuyển khoản. Cả hai khía cạnh đó đều tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá và lưu thông tiền tệ.
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện tập trung một nguồn vốn lớn của xã
hội vào ngân hàng để cấp tín dụng và để tái đầu tư vào nền kinh tế, phát huy vai trò điều
tiết, kiểm tra của Nhà nước vào hoạt động tài chính ở tầm vĩ mô và vi mô. Qua đó, kiểm
soát được lạm phát đồng thời tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động.
Thanh toán không dùng tiền mặt còn góp phần chống thất thu thuế có hiệu quả.
Ở nhiều nước trên thế giới thông qua khách hàng tham gia thanh toán qua ngân hàng,
mà tất cả các khoản thu nhập hay chi phí đều phát sinh trên tài khoản do đó việc tính
thuế và thu thuế sẽ dễ dàng và hạn chế tối đa việc trốn thuế.
1.2.3.2. Đối với các tổ chức tín dụng
Các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị

trường đều quan tâm đến vấn đề thanh toán là: an toàn - tiện lợi - quay vòng vốn
nhanh. Với những yêu cầu đa dạng của các mối quan hệ kinh tế - xã hội, ngân hàng trở
thành trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh toán trong nền kinh tế và thanh toán không
dùng tiền mặt góp phần không nhỏ vào thành công của ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho hoạt động huy động vốn của
ngân hàng: thanh toán không dùng tiền mặt không những làm giảm được chi phí lưu
thông mà còn bổ sung nguồn vốn cho ngân hàng thông qua hoạt động mở tài khoản
thanh toán của các tổ chức và cá nhân. Như vậy, ngân hàng sẽ luôn có một lượng tiền
nhất định tạm thời nhàn rỗi trên các tài khoản này với chi phí thấp. Nếu sử dụng nguồn
vốn này hữu hiện thì ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh của mình.
Thanh toán không dùng tiền mặt còn thúc đẩy quá trình cho vay: Nhờ có nguồn
vốn tiền gửi không kì hạn, ngân hàng còn có cơ hội để tăng lợi nhuận cho mình bằng
cách cấp tín dụng cho nền kinh tế. Do ngân hàng thu hút được nguồn vốn với chi phí
thấp nên trên cơ sở đó hạ lãi suất tiền vay, khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 20 SVTH: Lê Kim Dung

vay vốn ngân hàng để đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh có lãi. Từ đó, giúp ngân
hàng nâng cao được hiệu quả hoạt động đầu tư tín dụng và cũng thúc đẩy sản xuất kinh
doanh.
Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng thương mại thực hiện
chức năng tạo tiền: Trong thực tế nếu thanh toán bằng tiền mặt, thì sau khi lĩnh tiền
mặt ra khỏi ngân hàng, số tiền đó không còn nằm trong phạm vi kiểm soát của ngân
hàng. Song, nếu thanh toán không dùng tiền mặt thì ngân hàng thực hiện trích chuyển
tiền từ tài khoản tiền gửi của người phải trả sang cho người thụ hưởng hoặc bù trừ giữa
các tài khoản tiền gửi thông qua vai trò trung gian của ngân hàng. Như vậy, thực chất
của cơ chế tạo tiền của hệ thống ngân hàng là tổ chức thanh toán qua ngân hàng và cho
vay bằng chuyển khoản. Vì vậy, khi thanh toán không dùng tiền mặt càng phát triển thì
khả năng tạo tiền càng lớn, tạo cho ngân hàng lợi nhuận đáng kể.

Thanh toán không dùng tiền mặt góp phần mở rộng đối tượng thanh toán, tăng
doanh số thanh toán: Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện thanh toán tiền
hàng hoá, dịch vụ một cách an toàn, hiệu quả, chính xác, tin cậy và tiết kiệm được thời
gian, chi phí. Qua đó, tạo niềm tin của công chúng vào hoạt động của hệ thống ngân hàng
cũng như thu hút người dân và doanh nghiệp tham gia thanh toán qua ngân hàng. Như
vậy, thanh toán không dùng tiền mặt giúp ngân hàng có thể mở rộng đối tượng thanh
toán, phạm vi thanh toán (trong và ngoài nước) và tăng doanh số thanh toán. Và cũng
góp phần làm tăng lợi nhuận, tăng năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt thúc đẩy các dịch vụ khác: Để nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của mình, ngân hàng không ngừng cải tiến đưa ra các sản
phẩm dịch vụ khác nhau vì các sản phẩm dịch vụ này đảm bảo cho ngân hàng tối đa
hoá lợi nhuận. Các dịch vụ này muốn phát triển được cần có sự hỗ trợ đắc lực của hoạt
động thanh toán mới được thực hiện một cách hiệu quả vì thanh toán qua ngân hàng
được tổ chức tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện các dịch vụ trả tiền với khối
lượng lớn - đảm bảo cho khả năng chi trả, thanh toán của ngân hàng chính xác và
nhanh chóng qua đó thu hút được nhiều khách hàng. Từ đó, dễ dàng tiếp cận và sử
dụng các dịch vụ khác của ngân hàng.
1.2.3.3. Đối với Ngân hàng Trung ương
Thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện thông qua việc trích chuyển
vốn trên tài khoản tại ngân hàng, do đó nó hạn chế được khối lượng tiền mặt trong lưu
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 21 SVTH: Lê Kim Dung

thông, tiết kiệm chi phí trong in ấn, bảo quản, cất trữ, vận chuyển, kiểm đếm tiền mặt
đồng thời thực hiện kế hoạch hoá và điều hoà lưu thông tiền tệ giúp cho Ngân hàng
Trung ương kiểm soát được khối lượng tiền mặt trong lưu thông tốt hơn.
Thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện thông qua việc khách hàng gửi tiền
vào tài khoản tại ngân hàng, làm tăng khả năng tạo tiền, tạo nguồn vốn trong thanh toán để
cho vay phát triển kinh tế xã hội, mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tạo điều kiện

cho Ngân hàng Nhà nước có thể quản lý và kiểm soát một cách tổng quát quá trình sản
xuất và lưu thông hàng hoá của nền kinh tế, đem lại lợi ích về kinh tế xã hội tốt hơn. Thanh
toán không dùng tiền mặt tăng cường hoạt động lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế,
tăng cường vòng quay của đồng tiền, khơi thông các nguồn vốn khác nhau, tạo điều
kiện quan trọng cho việc kiểm soát khối lượng giao dịch thanh toán của dân cư và cả
nền kinh tế. Qua đó, tạo tiền đề cho việc tính toán lượng tiền cung ứng và điều hành
thực thi chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả.
1.2.3.4. Đối với cơ quan tài chính
Tăng tỉ trọng thanh toán không dùng tiền mặt không chỉ có ý nghĩ tiết kiệm chi
phí lưu thông mà còn giúp cho công tác quản lý tài sản của doanh nghiệp được tốt hơn.
Nếu các giao dịch trong nền kinh tế được thực hiện chủ yếu bằng thanh toán không
dùng tiền mặt thì tiền chỉ chuyển từ tài khoản người này sang tài khoản người khác, từ
tài khoản của doanh nghiệp này sang tài khoản của doanh nghiệp khác, từ ngân hàng
này sang ngân hàng khác nên tiền tệ vẫn nằm trong hệ thống ngân hàng. Do đó, tổn
thất tài sản Nhà nước và tổn thất tài sản của người dân sẽ được hạn chế rất nhiều.
Như vậy, trên cơ sở tiền gửi và các tài khoản thanh toán được thực hiện qua
ngân hàng đã giúp cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý như bộ chủ quản, cơ quan
thuế… có điều kiện để kiểm tra, theo dõi doanh thu, chi phí, xác định kết quả kinh
doanh chính xác. Do đó, giảm thiểu các tác động tiêu cực của các hoạt động kinh tế
ngầm (như buôn bán hàng cấm (ma tuý), buôn lậu, cờ bạc, mại dâm; những hoạt động
hợp pháp nhưng không báo cáo với cơ quan thuế như: hành vi thông đồng, bớt xén tiền
của, tài sản của nhà nước, lập quỹ đen), tăng cường tính chủ đạo của Nhà nước trong
việc điều tiết nền kinh tế và điều hành các chính sách kinh tế tài chính quốc gia, góp
phần làm lành mạnh hoá kinh tế - xã hội.


Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 22 SVTH: Lê Kim Dung


1.3. Giới thiệu sơ lược về các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
1.3.1. Thanh toán bằng séc
1.3.1.1. Định nghĩa
Séc là giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân hàng
hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho người thụ hưởng
1
.
Như vậy, séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản, được lập theo quy định của pháp
luật, do chủ tài khoản phát hành giao trực tiếp cho người thụ hưởng, yêu cầu tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để
trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc trả cho người cầm séc để thanh toán
tiền mua hàng hoá, dịch vụ, trả nợ…
Căn cứ tính chất sử dụng, séc được chia làm hai loại:
Séc chuyển khoản (séc trả tiền vào tài khoản): là loại séc chỉ được dùng để thanh
toán theo lối chuyển khoản bằng cách ghi có vào tài khoản liên quan loại séc này, để chỉ
định số tiền trên tờ séc không được thanh toán bằng tiền mặt mà phải thanh toán bằng
chuyển khoản vào tài khoản của người thụ hưởng, người ký phát hoặc người chuyển
nhượng ghi hoặc đóng dấu thêm cụm từ "trả vào tài khoản" ở mặt trước của tờ séc
ngay dưới chữ "Séc". Cụm từ này có hiệu lực với bất kỳ người nào thụ hưởng tờ séc.
Trong trường hợp này, người bị ký phát chỉ được chuyển số tiền ghi trên séc đó vào tài
khoản của người thụ hưởng mà không được phép trả bằng tiền mặt.
Ngoài ra, trường hợp séc không ghi cụm từ "trả vào tài khoản" thì người bị ký
phát thanh toán séc cho người thụ hưởng bằng tiền mặt nếu người thụ hưởng yêu cầu.
Séc bảo chi: người ký phát có đủ tiền trên tài khoản để đảm bảo khả năng thanh
toán cho tờ séc khi yêu cầu bảo chi séc thì người bị ký phát có nghĩa vụ bảo chi séc
bằng cách ghi cụm từ ''bảo chi'' và ký tên trên séc. Người bị ký phát có nghĩa vụ giữ lại
số tiền đủ để thanh toán cho séc đã bảo chi khi séc đó được xuất trình trong thời hạn
xuất trình.



1
Khoản 4 Điều 4 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 23 SVTH: Lê Kim Dung

Vì vậy, người chịu trách nhiệm thanh toán tờ séc là ngân hàng bảo chi séc. Khi đã
bảo chi séc, người bị ký phát chỉ chịu trách nhiệm bảo đảm khả năng thanh toán số tiền
ghi trên séc đến hết thời hạn xuất trình của tờ séc.
Sau thời hạn xuất trình mà tờ séc đó vẫn chưa được xuất trình đòi thanh toán,
người ký phát có quyền yêu cầu người bị ký phát chấm dứt việc tạm giữ hoặc phong
toả số tiền dùng để bảo đảm khả năng thanh toán cho tờ séc đó.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chỉ ghi nhận hai loại séc có giá trị lưu hành là séc
chuyển khoản và séc bảo chi. Ngoài ra, séc còn phân loại theo người thụ hưởng để sử dụng
trong thanh toán.
Séc ký danh: là séc ghi rõ tên của người thụ hưởng, tức là dành cho một người xác
định. Séc này được chuyển nhượng bằng ký chuyển nhượng, các nội dung chuyển
nhượng séc được ghi vào mặt sau của séc. Trường hợp cho một người xác định và cho
phép chuyển nhượng séc bằng cách ghi rõ tên của người thụ hưởng và không có cụm
từ không cho phép chuyển nhượng. Khi cho một người xác định và không cho phép
chuyển nhượng séc bằng cách ghi rõ tên của người thụ hưởng và kèm theo một trong
các cụm từ "không chuyển nhượng", "không trả theo lệnh" hoặc cụm từ khác có ý
nghĩa tương tự.
Séc vô danh: là loại séc không ghi tên của người thụ hưởng séc. Séc vô danh được
trao cho người cầm giữ séc, bằng cách ghi cụm từ "trả cho người cầm giữ séc" hoặc
không ghi tên người thụ hưởng. Loại séc này được chuyển nhượng tự do tức là hình thức
chuyển nhượng bằng chuyển giao.
1.3.1.2. Đặc điểm của séc
Séc là giấy tờ có giá: séc không có giá trị tự thân mà là một loại giấy tờ mang giá trị

do người ký phát ghi nhận.
Tính chuyển nhượng của séc: séc có thể được chuyển nhượng một hay nhiều lần.
Việc chuyển nhượng có thể được thực hiện thông qua việc ký chuyển nhượng (áp dụng đối
với séc ký danh) hoặc chuyển giao (áp dụng đối với séc vô danh), trừ một số trường hợp
séc ghi rõ người thụ hưởng duy nhất và ghi rõ séc không thể chuyển nhượng (trên tờ séc có
ghi một trong các cụm từ “không chuyển nhượng”, “không trả theo lệnh”, “cấm chuyển
nhượng” hoặc cụm từ khác có ý nghĩa tương tự).
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 24 SVTH: Lê Kim Dung

Tính chi trả vô điều kiện của séc (tính bắt buộc phải trả tiền): Nếu séc được ký phát
hợp pháp như đảm bảo về mặt hình thức, nội dung, không quá thời hạn thanh toán thì
người bị ký phát có nghĩa vụ phải thanh toán séc cho người thụ hưởng mà không có bất kỳ
điều kiện ràng buộc nào khác. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của các bên, pháp luật quy
định 4 trường hợp loại trừ nghĩa vụ chi trả séc của người bị ký phát gồm:
Người bị ký phát chứng minh được tính không chân thực của tờ séc: có sự giả mạo;
bị tẩy xóa, sửa chữa; hoặc nhận chuyển nhượng không hợp pháp
Số dư trên tài khoản của người ký phát không đủ để thanh toán số tiền ghi trên séc
nếu không có thỏa thuận về thấu chi.
Trường hợp khoản tiền mà người ký phát được sử dụng để ký phát séc không đủ để
thanh toán toàn bộ số tiền ghi trên séc nếu người thụ hưởng yêu cầu được thanh toán một
phần số tiền ghi trên séc thì người bị ký phát có nghĩa vụ thanh toán theo yêu cầu của người
thụ hưởng trong phạm vi khoản tiền mà người ký phát hiện có và được sử dụng để thanh
toán séc
2
.
Khi thanh toán một phần số tiền ghi trên séc, người bị ký phát phải ghi rõ số tiền đã
được thanh toán trên séc và trả lại séc cho người thụ hưởng hoặc người được người thụ
hưởng ủy quyền. Người thụ hưởng hoặc người được người thụ hưởng ủy quyền phải lập

văn bản biên nhận về việc thanh toán đó và giao cho người bị ký phát
3
.
Séc được nộp để thanh toán sau thời hạn xuất trình yêu cầu thanh toán: Theo quy
định tại Khoản 1 Điều 69, Khoản 4 Điều 71 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005:
“Séc được xuất trình sau thời hạn xuất trình để thanh toán (là ba mươi ngày, kể từ ngày
ký phát) nhưng chưa quá sáu tháng kể từ ngày ký phát thì người bị ký phát vẫn có thể
thanh toán nếu người bị ký phát không nhận được thông báo đình chỉ thanh toán đối
với séc đó và người ký phát có đủ tiền trên tài khoản để thanh toán”.
Bên cạnh đó theo Khoản 9 Điều 71 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005
cũng khẳng định: “việc thanh toán séc chấm dứt sau sáu tháng, kể từ ngày ký phát ghi trên
séc”. Các trường hợp người bị ký phát không được thanh toán tờ séc theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.


2
Khoản 5 Điều 71 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005
3
Khoản 6 Điều 71 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005
Pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng

GVHD: ThS. Nguyễn Minh Tâm 25 SVTH: Lê Kim Dung

Tính trừu tượng của séc: điểm đặc biệt của séc là quan hệ pháp luật phát hành và
chuyển nhượng séc độc lập với quan hệ hợp đồng (thường là cơ sở để hình thành quan hệ
pháp luật phát hành và chuyển nhượng séc). Nghĩa là nghĩa vụ thanh toán của người ký
phát hoặc người bị ký phát có thể liên quan hoặc không liên quan đến nghĩa vụ của một
hợp đồng cụ thể.
Tính đảm bảo khả năng thanh toán: Theo quy định Khoản 2 Điều 12 Quy chế
hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (Ban hành kèm theo

Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/3/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước): “Người ký phát hành séc (chủ tài khoản hoặc người được chủ tài khoản ủy
quyền) có nghĩa vụ đảm bảo khả năng thanh toán cho tờ séc mà mình ký phát. Tờ séc
được đảm bảo khả năng thanh toán là tờ séc khi xuất trình tại tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán phục vụ người trả tiền phải đáp ứng một trong hai điều kiện sau:
Số dư trên tài khoản của chủ tài khoản đủ để chi trả cho số tiền trên tờ séc đó;
hoặc
Số dư trên tài khoản cộng với hạn mức thấu chi đủ để chi trả cho số tiền trên tờ
séc đó”.
Tính hình thức của séc: là một loại giấy tờ có giá và có thể chuyển nhượng nên việc
đảm bảo về giá trị pháp lý của tờ séc có ý nghĩa quan trọng. Giá trị pháp lý của tờ séc
không chỉ được đảm bảo về nội dung mà còn về hình thức của tờ séc. Điều 58 và Điều 59
Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy định cụ thể về nội dung và hình thức của
tờ séc.
Kích thước séc và việc bố trí vị trí các nội dung trên séc do tổ chức cung ứng séc
thiết kế và thực hiện, trừ trường hợp séc được thanh toán thông qua Trung tâm thanh toán
bù trừ séc. Trung tâm thanh toán bù trừ séc quy định về kích thước séc, nội dung và vị
trí các nội dung trên séc đối với séc thanh toán qua Trung tâm thanh toán bù trừ séc.
1.3.2. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi (lệnh chi)
1.3.2.1. Định nghĩa
Ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi là phương tiện thanh toán mà người trả tiền lập lệnh
thanh toán theo mẫu do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định, gửi cho tổ chức

×