Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk (2).doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.93 KB, 77 trang )

Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Tình hình kinh tế, xã hội nước ta từ khi đổi mới đến nay đã đạt được những thành
tựu vô cùng quan trọng, tăng trưởng kinh tế khả quan, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khả năng hội nhập và cạnh tranh của nền kinh
tế tăng lên cùng với những cải thiện đáng kể trong các lĩnh vực xã hội. Cùng với sự phát
triển của xã hội, sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ, lưu thông hàng hóa
ngày càng được mở rộng cả về quy mô, phạm vi lẫn tính thường xuyên, liên tục. Do đó,
hoạt động thanh toán bằng tiền mặt cũng dần dần không đáp ứng được nhu cầu của việc
thanh toán nữa. Và cũng do đó, vai trò của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt
hiện nay đang ngày càng chiếm ưu thế với những lợi ích vượt trội, và đang có những
đóng góp to lớn đới với sự phát triển của nền kinh tế.
Người cung cấp dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu là các ngân
hàng thương mại, do đó, các ngân hàng thương mại đóng vai trò ngày càng quan trọng
đối với nền kinh tế và ngày nay, ngành ngân hàng được coi là xương sống, là huyết
mạch của nền kinh tế, có tầm quan trọng đặc biệt góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
đất nước. Vì vậy, đi đôi với việc đổi mới cơ chế tổ chức, về nghiệp vụ ngành ngân hàng
cũng đã tập trung cải tiến, trong đó có chế độ thanh toán không dùng tiền mặt. Nhận
thức được tầm quan trọng của việc thanh toán không dùng tiền mặt, trong những năm
gần đây, ngành ngân hàng nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam nói riêng đã có những bước phát triển vượt bậc trong công nghệ thanh
toán nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng và nhanh chóng hội nhập vào khu vực và
thế giới. Do đó, công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng thực sự đã đi
vào đời sống xã hội, đem lại những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát
triền của nền kinh tế thời kỳ đổi mới thì dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của các
ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn bất cập về nhiều mặt, đặc biệt là hiện đại hóa
công nghệ thanh toán và phổ cập thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư.
Điều này đặt ra cho ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng thương
mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam nói riêng cũng như các nhà khoa học kinh tế phải
1
tìm ra các giải pháp hữu hiệu để hoàn chỉnh dịch vụ này và tạo tiền đề để ngành ngân


hàng mau chóng hội nhập chung vào mạng lưới thanh toán quốc tế.
Xuất phát từ thực tiễn và tầm quan trọng của công tác thanh toán không dùng tiền
mặt đối với nền kinh tế, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
Nam chi nhánh ĐăkLăk”, nhằm tìm hiểu thực trạng của công tác thanh toán không
dung tiền mặt ở đây, và mong muốn có thể đóng góp những ý kiến của mình cho hoạt
động thanh toán không dùng tiền mặt của chi nhánh.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu về lý luận thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng.
- Đánh giá thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh toán
không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi
nhánh ĐăkLăk.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
- Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của
ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Không gian nghiên cứu
Công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam chi nhánh ĐăkLăk.
1.3.2.2 Thời gian nghiên cứu
Dựa vào số liệu của 3 năm 2007, 2008, 2009.
Phần thứ hai: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại

*Khái niệm
Theo Điều 1 của pháp lệnh số 38/LCT – HDDNH pháp lệnh ngân hàng, hợp tác
xã tín dụng và công ty tài chính, định nghĩa về ngân hàng thương mại như sau: “Ngân
hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ yếu thường xuyên của
ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua vào ngày 12 tháng 12
năm 1997, định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được
thưc hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”.
*Chức năng
- Ngân hàng là trung gian tín dụng: Ngân hàng đóng vai trò là “cầu nối” giữa
người dư thừa vốn và người cần vốn. Với nhiệm vụ của một ngân hàng thương mại là đi
vay để cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống xã hội, Ngân hàng
thương mại là nơi giao dịch giữa các đơn vị phát hành chứng khoán và đầu tư chứng
khoán.
- Trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán: ngân hàng thương
mại cung cấp cho khách hàng các phương tiện thanh toán trong và ngoài nước, tiết kiệm
lượng tiền trong lưu thông, tiết kiêm chi phí trong giao dịch, thanh toán nhanh chóng,
tiện lợi. Dịch vụ ngân quỹ cho khách hàng là nơi quản lý các tài khoản của khách hàng
và khi có các hoạt động kinh tế phát sinh thì các chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng
chuyển khoản. Việc các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh
toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế.
- Chức năng tạo tiền: Với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán,
ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây chính là một
bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch. Từ khoản dự trữ tăng lên ban
3
đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo
nên số tiền gửi lớn gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu.
- Chức năng làm nhiệm vụ tài chính và dịch vụ khác.

* Vai trò của ngân hàng thương mại
- Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cá nhân, tổ chức kinh tế cần có
vốn. Vốn được coi như nguồn “thức ăn” chính thức cho họat động sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại chính là chủ thể đứng ra huy động các
nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Nhờ có hoạt động tín dụng của ngân
hàng đã tạo điều kiện cho cho doanh nghiệp khả năng mở rộng sản xuất, cải tiến máy
móc, thiết bị, đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao năng suất lao động đem lại hiệu quả
kinh tế, cũng có nghĩa là đưa doanh nghiệp lên những nấc thang cạnh tranh cao hơn.
Cạnh tranh càng mạnh mẽ, kinh tế phát triển. Như vậy khả năng cung cấp vốn, ngân
hàng thương mại đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế
của quốc gia.
- Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường.
Thị trường ở đây được hiểu ở hai góc độ, thị trường đầu vào và thị trường đầu ra
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tiếp cận mạnh mẽ vào thị trường đầu ra, tìm kiếm lợi
nhuận. Quy trình đó được bắt đầu khi doanh nghiệp trang bị được đầy đủ vốn cần thiết.
Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng về tài chính. Do vậy, buộc họ
phải tìm kiếm nguồn vốn để phục vụ cho quá trình họat động kinh doanh. Nguồn vốn tín
dụng của ngân hàng thương mại sẽ giúp các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn đó,
tạo cho doanh nghiệp có đủ khả năng thõa mãn tối đa nhu cầu của thị trường trên mọi
phương diện: giá cả, chủng lọai, chất lượng, khối lượng, thời gian, địa điểm…ngân hàng
thương mại sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường giúp doanh nghiệp tìm kiếm
được đầu vào, bôi trơn họat động sản xuất kinh doanh làm cho nó phát huy hiệu quả một
cách tốt nhất trên thị trường, giúp doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn cả về không
gian và thời gian.
- Ngân hàng thương mại là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
4
Hệ thống ngân hàng thương mại họat động có hiệu quả sẽ thực sự là công cụ hữu
hiệu để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Họat động ngân hàng góp phần chống lạm phát. Khi xảy ra lạm phát, ngân hàng

Trung ương sẽ tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị
trường mở để thông qua các ngân hàng thương mại thay đổi lại lượng tiên trong lưu
thông. Các ngân hàng thương mại sẽ kiểm soát lạm phát thông qua các họat động tín
dụng, bão lãnh. Từ đó ngân hàng xác định được hướng đầu tư vốn và đề ra các biện pháp
xử lý những tác động xấu ảnh hương đến nền kinh tế, góp phần điều hòa lưu thông tiền
tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
- Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa như hiện nay thì vai trò này ngày càng thể
hiện rõ rệt hơn, áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập
phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực về tài chính. Nhưng làm thế
nào để có thể hòa nhập nền tài chính của một quốc gia với phần còn lại của thế giới? Câu
hỏi đó sẽ được giải đáp nhờ vào hệ thống các ngân hàng thương mại vì hệ thống này có
khả năng cung cấp nhiều lọai hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc đầu tư nước ngoài
vào trong nước theo các hình thức: thanh toán quốc tế, nghiệp vụ hối đoái, cho vay ủy
thác đầu tư…giúp cho các luồng vốn ra, vào một cách hợp lý, đưa nền tài chính nước
nhà bắt kịp với nền tài chính quốc tế.
2.1.2 Lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường
2.1.2.1 Khái niệm thanh toán không dùng tiền mặt và các khái niệm khác liên quan
- Tiền mặt: Tiền mặt theo nghĩa hẹp, đó là tiền do ngân hàng Trung ương phát
hành ra và nằm trong tay công chúng hay ngoài hệ thống ngân hàng. Còn theo nghĩa
rộng nhất, tiền mặt có thể được hiểu là những thứ có thể sử dụng trực tiếp để thanh toán
các giao dịch và bao gồm cả tiền gửi ngân hàng. Như vậy, trong trường hợp này khái
niệm tiền mặt được dùng để chỉ dạng có khả năng thanh toán cao nhất của tài sản, bao
gồm các đồng tiền do ngân hàng Trung ương phát hành ra và được công chúng giữ để
chi tiêu, tiền gửi ở tài khoản vãng lai hay tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, có thể rút ra
bất cứ lúc nào bằng cách viết séc. Đối với các ngân hàng thương mại khái niệm tiền mặt
5
bao gồm các đồng tiền cất trong két sắt và số dư của họ tại ngân hàng Trung ương. Do
được dùng với nhiều nghĩa khác nhau như vậy, nên khi gặp khái niệm này, chúng ta phải
lưu ý xem nó được dùng theo nghĩa nào trong một khung cảnh nhất định (Theo từ điển

kinh tế học).
Tiền mặt trong trường hợp chúng ta đang tìm hiểu, là hình thức tiền tệ, theo đó,
trong thời gian giao dịch, chức năng lưu thông và cất trữ giá trị được thực hiện mà
không cần sự tham gia của các định chế tài chính trung gian đặc thù.
- Thanh toán: Thanh toán, trong các mối quan hệ kinh tế, được hiểu một cách khái
quát nhất là việc thực hiện chi trả bằng tiền giữa các bên trong những quan hệ kinh tế
nhất định. Tiền ở đây được hiểu là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh
toán để nhận hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc trong việc trả nợ [9].
- Thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) là cách thanh toán không có sự
xuất hiện của tiền mặt mà được tiến hành bằng cách trích từ tài khoản của người chi trả
để chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng mở tại ngân hàng, hoặc bằng cách bù trừ
lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng [9].
TTKDTM còn được định nghĩa là phương thức thanh toán không trực tiếp dùng
tiền mặt mà dựa vào các chứng từ hợp pháp như giấy uỷ nhiệm thu, giấy ủy nhiệm chi,
séc… để trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản của đơn vị này sang tài khoản của đơn vị
khác ở ngân hàng. TTKDTM gắn với sự ra đời của đồng tiền ghi sổ.
2.1.2.2 Đặc điểm của thanh toán không dùng tiền mặt
Trong TTKDTM, sự vận động của tiền tệ độc lập với sự vận động của hàng hóa
cả về thời gian lẫn không gian và thường không có sự ăn khớp nhau. Đây là đặc điểm
quan trọng và nổi bật nhất của hình thức TTKDTM.
Trong TTKDTM, vật trung gian trao đổi không xuất hiện như trong hình thức
thanh toán dùng tiền mặt theo kiểu hàng – tiền - hàng mà chỉ xuất hiện dưới dạng tiền kế
toán hay tiền ghi sổ và được ghi chép trên các chứng từ sổ sách kế toán. Đây là đặc điểm
riêng của TTKDTM.
Trong TTKDTM, ngân hàng vừa là người tổ chức vừa là người thực hiện các
khoản thanh toán. Chỉ có ngân hàng, người quản lý tài khoản tiền gửi của các khách
6
hàng mới được quyền trích chuyển những tài khoản này theo các nguyên tắc chuyên
môn đặc thù như là một nghiệp vụ riêng của mình. Với nghiệp vụ này, ngân hàng trở
thành trung tâm thanh toán đối với các khách hàng của mình.

Với những đặc điểm nêu trên, TTKDTM nếu được tổ chức và thực hiện tốt sẽ
phát huy được tác dụng tích cực của nó. Trong tương lai, theo đà phát triển của xã hội và
theo nhu cầu của thị trường, TTKDTM sẽ giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong việc lưu
chuyển tiền tệ và trong thanh toán giá trị của nền kinh tế.
2.1.2.3 Sự cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt
Thanh toán là khâu mở đầu và cũng là khâu kết thúc của quá trình sản xuất, lưu
thông hàng hoá. Chính vì vậy mà các phương tiện thanh toán luôn luôn được đổi mới
hiện đại để phù hợp với nhịp độ tăng trưởng không ngừng của sản xuất - lưu thông hàng
hoá.
Cùng với sự phát triển của xã hội, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển mạnh
mẽ, lưu thông hàng hoá ngày càng được mở rộng về cả qui mô, phạm vi lẫn tính thường
xuyên, liên tục thì thanh toán bằng tiền mặt cũng dần dần không đáp ứng được nhu cầu
của thanh toán nữa,vì thanh toán bằng tiền mặt có dộ an toàn không cao, với khối lượng
hàng hóa, dịch vụ giao dịch lớn thì việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt sẽ không an
toàn cho cả người trả tiền và người nhận tiền. Tiếp đó, khi quan hệ thanh toán mở rộng
ra phạm vi quốc tế thì chi phí về thủ tục chuyển đổi tiền để thanh toán, chi trả sẽ rất lớn
vì khoảng cách giữa người mua và người bán nhiều khi ở rất xa nhau trong khi thời gian
để người mua mang tiền đến trả bị khống chế. Điều này dẫn đến sự kìm hãm sản xuất-
lưu thông hàng hóa. Hơn nữa, thanh toán không dùng tiền mặt hạn chế khả năng tạo tiền
của ngân hàng thương mại, gây ra nạn làm tiền giả. Thanh toán bằng tiền mặt sẽ làm cho
khối lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên rất lớn, từ đó rất khó khăn cho quá trình
điều hoà lưu thông tiền mặt. Khối lượng tiền mặt tăng lên sẽ gây sức ép về mặt giá cả,
đó là một trong những nguyên nhân gây nên lạm phát cao. Mặt khác thanh toán bằng tiền
mặt phải chi phí rất lớn cho việc in ấn, vận chuyển, đóng gói, bảo quản, kiểm đếm, cất
trữ. Bên cạnh đó chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ lại cho phép tiền tệ vận
động tách rời với sự vận động của hàng hoá. Chính do chức năng này, cùng với sự phát
7
triển không ngừng của nền kinh tế một phương thức thanh toán tiến bộ hơn đã ra đời đó
là phương thức TTKDTM với hình thức tiền ghi sổ. Trong đó, ngân hàng đứng ra làm
trung gian thanh toán giữa các khách hàng.

Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì nhu cầu của con người ngày càng cao
và khối lượng hàng hoá, dịch vụ ngày càng đa dạng cả về khối lượng và chất lượng, các
quan hệ thương mại được mở rộng ra trên phạm vi quốc tế . Từ thực tế khách quan này,
và trong thời kỳ nền kinh tế chuyển sang một một giai đoạn phát triển mạnh mẽ tiền mặt
không thể đáp ứng nhu cầu thanh toán của toàn bộ nền kinh tế đòi hỏi phải có những
hình thức thanh toán mới ra đời tiên tiến hơn, hiện đại hơn phù hợp đáp ứng nhu cầu sản
xuất lưu thông hàng hoá. Hình thức TTKDTM ra đời đã khắc phục những hạn chế của
thanh toán dùng tiền mặt, đồng thời thúc đẩy sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng
hoá trong nền kinh tế.
2.1.2.4 Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, TTKDTM có một vai trò hết sức quan trọng đối
với từng cá nhân, từng đơn vị kinh tế và đối với toàn bộ nền kinh tế. Nó đáp ứng được
đòi hỏi của sản xuất và lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, làm cho ngân
hàng trở thành trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Vai trò của thanh toán không dùng
tiền mặt được thể hiện:
a) Đối với ngân hàng.
TTKDTM góp phần tăng nhanh nguồn vốn của ngân hàng, mở rộng nghiệp vụ
kinh doanh. Khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng, số dư trên các tài khoản tiền
gửi thanh toán sẽ tăng lên, tăng nguồn vốn tín dụng của ngân hàng, sẽ mang lại cho ngân
hàng một nguồn vốn lớn để cho vay, đầu tư, phát triển kinh tế. Từ đó, nó giúp cho ngân
hàng tập trung được nguồn vốn trong xã hội phục vụ cho quá trình phát triển công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. TTKDTM qua ngân hàng tạo điều kiện cho ngân
hàng có thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong thanh toán cho đầu tư, cho vay sản xuất
sau khi đã tính toán dự trữ một lượng vốn nhất định đảm bảo được tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
khoản dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán của mình. Khi TTKDTM qua ngân hàng
8
được nhanh chóng, thuận tiện sẽ tạo điều kiện thu hút các đơn vị, cá nhân đến mở tài
khoản thanh toán hoặc gửi tiền.
TTKDTM góp phần giải quyết được tình trạng thiếu tiền mặt trong ngân quỹ làm
cho hoạt động của ngân hàng được thực hiện trong suốt, hoàn thiện chức năng trung gian

thanh toán của ngân hàng thương mại.
TTKDTM tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại thực hiện chức năng “tạo
tiền”. TTKDTM sử dụng tiền ghi sổ, thực hiện thanh toán bằng cách trích chuyển từ tài
khoản người phải trả sang tài khoản người thụ hưởng hoặc bù trừ giữa các ngân hàng
thương mại với nhau. Do đó, TTKDTM luôn tạo ra một lượng tiền nhàn rỗi mà ngân
hàng có thể sử dụng cho vay. Đây chính là cơ sở để ngân hàng thực hiện chức năng tạo
tiền của mình.
TTKDTM giúp ngân ngân hàng nắm được tình hình biến động số dư tài khoản
của khách hàng, tình hình thu nhập, tình hình hoạt động kinh doanh, khả năng tài chính
để cung ứng các dịch vụ, cho vay, tư vấn. Đồng thời, thông qua các thông tin từ tài
khoản thanh toán của khách hàng, ngân hàng sẽ có được những quyết định cho vay đúng
đắn, đảm bảo thu gốc và lãi đúng hạn, giảm tỷ trọng nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ xấu;
tăng dư nợ tín dụng, mở rộng và phát triển nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, ngân hàng
cũng có thể mở rộng doanh số cho vay thông qua các nghiệp vụ như thấu chi, cấp hạn
mức tín dụng cho các chủ tài khoản. Việc này vừa mang lại thu nhập cho ngân hàng từ
những khoản lãi tín dụng, vừa tăng sự hấp dẫn của các dịch vụ ngân hàng đối với khách
hàng.
TTKDTM nâng cao năng lực cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại và thúc
đẩy các dịch vụ khác phát triển. Hiện nay, ngoài sự có mặt của các ngân hàng thương
mại quốc doanh còn có sự góp mặt của rất nhiều của các tổ chức ngân hàng nước ngoài,
các tổ chức phi ngân hàng như bảo hiểm, bưu diện cũng cung cấp một số dịch vụ ngân
hàng cho khách hàng. Khách hàng ngày càng có nhiều cơ hội lựa chọn dịch vụ ngân
hàng sao cho thoả mãn nhu cầu tốt nhất, chi phí thấp nhất, độ an toàn cao nhất, nhanh
chóng và thuận tiện…Do vậy, để thu hút khách hàng đến sử dụng dịch vụ của mình
9
(nhất là TTKDTM) các ngân hàng phải không ngừng cải tiến dịch vụ để thắng trong
cạnh tranh, tích cực áp dụng công nghệ hiện đại, đổi mới phong cách giao dịch.
b) Đối với chủ thể thanh toán.
Thanh toán qua ngân hàng mang lại lợi ích to lớn cho khách hàng, nhờ việc tăng
nhanh tốc độ chu chuyển vốn, tiết kiệm được các chi phí phát sinh (chi phí vận chuyển,

chi phí kiểm đếm) từ đó, giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu
quả kinh doanh.
Sử dụng các hình thức TTKDTM bảo đảm tiện lợi, nhanh chóng, chính xác, an
toàn, và bảo mật cho khách hàng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mức độ ứng
dụng công nghệ thông tin của các ngân hàng thương mại trong hoạt động thanh toán
ngày càng cao. Cụ thể: Chỉ bằng một lệnh của chủ tài khoản, một giao dịch có thể được
thực hiện ngay không kể không gian và địa điểm giao dịch nhờ công nghệ mạng, công
nghệ chuyển tiền điện tử và công nghệ online. Đây là tiện ích dịch vụ thanh toán nói
chung và TTKDTM nói riêng trong ứng dụng công nghệ thông tin hiện nay.
Sự đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán (nhất
là các loại thẻ ngân hàng), tạo điều kiện cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn trong việc
sử dụng dịch vụ sao cho có lợi nhất: tiện ích và chi phí giao dịch thấp.
Đối với khách hàng là doanh nghiệp, thanh toán không dùng tiền mặt sẽ đẩy
nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ chu chuyển vốn và quá trình tái sản xuất trong hoạt động
kinh doanh, đảm bảo an toàn về vốn và tài sản, tránh được rủi ro.
c) Xét trên góc độ quản lý vĩ mô của nhà nước.
Mở rộng TTKDTM góp phần thực hiện tốt chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà
nước: việc mở rộng hình thức TTKDTM sẽ giảm được khối lượng lớn tiền mặt trong lưu
thông và làm tăng khối lượng tiền ghi sổ, điều đó giúp cho ngân hàng Trung ương có thể
sử dụng hữu hiệu các công cụ của chính sách tiền tệ.
TTKDTM góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, giảm chi phí lưu thông xã hội.
Công tác TTKDTM gắn liền với công tác kế hoạch hoá lưu thông tiền tệ. Thực hiện tốt
công tác TTKDTM tức là tăng nhanh tỷ trọng TTKDTM trong chu chuyển tiền tệ, sẽ
làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm được các chi phí cần thiết phục vụ cho
10
lưu thông tiền mặt, tác động trực tiếp đến thị trường giá cả, kiềm chế lạm phát tiến tới ổn
định tiền tệ.
Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tạo điều kiện để giảm chi phí lưu
thông tiền mặt, tiết kiệm lao động xã hội: việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt
sẽ làm tăng khối lượng tiền ghi sổ và giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, từ đó

sẽ tiết giảm được chi phí cho toàn xã hội.
Hoạt động TTKDTM được thực hiện thông qua việc mở tài khoản thanh toán tại ngân
hàng của các chủ thể kinh tế, do đó giúp cho việc quản lý của Nhà nước tốt hơn, giúp tăng
cường hiệu quả cho công tác thu thuế, kiểm soát tốt hơn các tệ nạn tham ô, tham nhũng, chống
nạn rửa tiền…
2.1.3.4 Nội dung của các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
a) Thanh toán bằng séc (Cheque)
* Khái niệm: Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản, được lập theo quy định của pháp luật, yêu
cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của
mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc trả cho người cầm séc [7].
* Các loại séc thông dụng
- Phân loại theo tính chất chuyển nhượng:
+ Séc vô danh hay séc người cầm (Cheque to Bearer):
Là loại séc không ghi tên người được hưởng lợi, mà chỉ ghi là “ trả cho người
cầm séc”. Do vậy bất cứ ai cầm séc này cũng có thể nhận được số tiền trên tờ séc ở ngân
hàng. Loại này được quyền tự do chuyển nhượng theo hình thức trao tay.
+ Séc đích danh (Norminal cheque): Là séc ghi rõ tên người được hưởng lợi, để chi trả
riêng cho người thụ hưởng, ngân hàng không chi trả cho ai khác ngoài người thụ hưởng.
- Phân loại theo đặc điểm sử dụng:
+ Séc tiền mặt: Là loại séc mà ngân hàng thanh toán sẽ trả tiền mặt, và người
phát hành séc phải chịu rủi ro khi mất séc hoặc bị đánh cắp
+ Séc chuyển khoản hay séc tài khoản người thụ hưởng: Là séc mà người ký phát
hoặc người cầm séc không muốn ngân hàng trả tiền mặt mà muốn trả vào tài khoản
11
người thụ hưởng bằng cách viết trên mặt tờ séc cụm từ “trả vào tài khoản” hoặc những
cụm từ có nội dung tương tự. Séc chuyển khoản không thể chuyển nhượng.
+ Séc bảo chi: Là loại séc được tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán xác nhận khả
năng thanh toán trước khi người chi trả trao séc cho người thụ hưởng để nhận hàng hóa,
dịch vụ. Người phát hành phải lưu trước số tiền ghi trên tờ séc vào một tài khoản riêng
để ngân hàng làm thủ tục bảo chi trước khi giao séc cho khách hàng.

+ Séc du lịch:
Là séc do một ngân hàng phát hành bán cho du khách mua khi ra nước ngoài
mang theo để chi dùng thay cho ngoại tệ.
* Quy trình thanh toán sec:
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ quy trình thanh toán séc
(1) Bên thụ hưởng giao hàng hoá, dịch vụ cho bên chi trả.
(2) Bên chi trả ký séc và giao cho bên thụ hưởng.
(3) Bên thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng.
(4a) Trường hợp khách hàng cùng mở tài khoản tại một ngân hàng thương mại,
ngân hàng hạch toán “Có” trên tài khoản bên thụ hưởng và báo “Có” cho họ.
(4b) Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai ngân hàng khác nhau:
(4b1) Ngân hàng bên thụ hưởng chuyển tờ séc cùng một liên bản kê nộp séc sang
ngân hàng phục vụ bên chi trả.
(4b2) Ngân hàng phục vụ bên chi trả hạch toán nợ vào tài khoản bên chi trả và
gửi một liên bản kê thanh toán bù trừ sang ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng.
12
Bên thụ hưởng séc
Bên chi trả
(ký phát séc)
Ngân hàng phục vụ
bên thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ
bên chi trả
(1)
(2)
(4a)
(4b1)
(3)
(4b2)
(4b3)

(4b3) Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng hạch toán có vào tài khoản bên thụ
hưởng và báo có cho họ.
Đối với séc bảo chi, ngân hàng phục vụ người thụ hưởng sẽ thanh toán tờ séc cho
khách hàng ngay khi nhận được tờ séc hợp lệ kèm yêu cầu thanh toán của khách hàng
(4b3), sau đó gửi séc bảo chi cùng yêu cầu thanh toán đến ngân hàng phục vụ bên chi trả
(4b1).
b) Thanh toán bằng ủy nhiệm chi
* Khái niệm: Uỷ nhiệm chi hoặc lệnh chi là phương tiện thanh toán mà người trả tiền lập lệnh
thanh toán theo mẫu do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định, gửi cho tổ chức cúng
ứng dịch vụ thanh toán nơi mình mở tài khoản yêu cầu tổ chức đó trích một số tiền nhất định
trên tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng [7].
* Quy trình thanh toán của uỷ nhiệm chi:
Sơ đồ 2.2: Sơ đồ quy trình thanh toán bẳng ủy nhiệm chi
(1) Bên bán giao hàng hoá, dịch vụ cho bên mua.
(2) Bên mua ủỷ nhiệm chi vào ngân hàng thương mại.
(3) Ngân hàng hạch toán “Nợ” trên tài khoản bên mua và báo “Nợ” cho họ.
(4a) Trường hợp khách hàng cơ tài khoản tại cùng một ngân hàng, ngân hàng hạch
toán “Có” trên tài khoản bên bán và báo “Có” cho họ. Quy trình thanh toán kết thúc.
(4b) Trường hợp khách hàng mở tài khoản tại 2 ngân hàng thương mại khác nhau:
(4b1) Ngân hàng phục vụ bên mua lập lệnh thanh toán và gửi cho ngân hàng phục
vụ bên bán
13
Bên mua Bên bán
Ngân hàng phục vụ
bên mua
NHTM phục vụ bên
bán
(1)
(3)
(4b1)

(2) (4b2)
(4a)
(4b2) Ngân hàng phục vụ bên bán hạch toán “Có” trên tài khoản bên bán và báo
“Có” cho họ.
Trường hợp Các khách hàng có tài khoản tại hai ngân hàng thương mại không
cùng hệ thống và không tham gia thanh toán bù trừ các ngân hàng thương mại có thể
thanh toán qua tài khoản gửi tại ngân hàng Nhà nước.
c) Thanh toán bằng ủy nhiệm thu
* Khái niệm: Uỷ nhiệm thu hoặc nhờ thu là phương tiện thanh toán mà người thụ hưởng
lập lệnh thanh toán theo mẫu do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định, gửi cho tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán ủy thác thu hộ mình một số tiền nhất định [7].
* Quy trình thanh toán:
Sơ đồ 2.3: Sơ đồ quy trình thanh toán bẳng ủy nhiệm thu
(1) Bên bán giao hàng hoá, dịch vụ cho bên mua.
(2) Bên bán lập uỷ nhiệm thu kèm hoá đơn vào ngân hàng phục vụ mình.
(3a) Trường hợp các khách hàng có tài khoản tại cùng một ngân hàng, ngân hàng
hạch toán “Nợ” trên tài khoản của bên mua và báo “Nợ” cho họ.
(3b) Trường hợp các khách hàng có tài khoản tại hai ngân hàng có tham gia thanh
toán bù trừ
(3b1) Ngân hàng phục vụ bên bán gửi uỷ nhiệm thu sang ngân hàng phục vụ bên mua.
(3b2) Ngân hàng phục vụ bên mua hạch toán “Nợ” trên tài khoản bên mua và báo
“Nợ” cho họ.
(3b3) Ngân hàng phục vụ bên mua gửi uỷ nhiệm thu sang ngân hàng phục vụ bên bán.
14
Bên bán Bên mua
NHTM phục vụ
bên bán
NHTM phục vụ
bên mua
(1)

(4)
(3b1
)
(2)
(3b2
)
(3b3
)
(3a)
(4) Ngân hàng phục vụ bên bán hạch toán “Có” trên tài khoản bên bán và báo
“Có” cho khách hàng.
Các khách hàng có tài khoản tại hai ngân hàng không cùng hệ thống và không
tham gia thanh toán bù trừ: thì quá trình thanh toán sẽ thực hiện thông qua tài khoản tiền
gửi tại ngân hàng Nhà nước.
d) Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C)
* Khái niệm: Thư tín dụng là một sự thỏa thuận trong thanh toán, trong đó một ngân
hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của người nhập khẩu tiến hành mở và
chuyển đến cho chi nhánh hay đại lý của ngân hàng này ở nước ngoài (ngân hàng thông
báo thư tín dụng) một thư tín dụng để trả cho người được hưởng (người xuất khẩu) một
số tiền nhất định, trong phạm vi và thời gian xác định, với điều kiện người được hưởng
phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với những nội dung đã ghi trong thư tín
dụng [6].
* Quy trình thanh toán:
Sơ đồ 2.4: Sơ đồ quy trình thanh toán bằng L/C
(1) Người nhập khẩu dựa vào hợp đồng thương mại đã ký với người xuất khẩu để
làm thủ tục xin mở thư tín dụng tại ngân hàng phục vụ mình (ngân hàng mở thư tín
dụng) cho người xuất khẩu hưởng.
(2) Theo yêu cầu của người nhập khẩu, ngân hàng phục vụ người nhập khẩu mở một
thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng. ngân hàng này chuyển bản chính thư tín dụng cho
người xuất khẩu thông báo qua ngân hàng nước xuất khẩu (ngân hàng thông báo).

(3) Ngân hàng xuất khẩu xác định nhận thư tín dụng bằng văn bản và gửi bản
chính thư tín dụng cho người xuất khẩu.
15
Ngân hàng thông
báo L/C
Ngân hàng mở
L/C
Người xuất khẩu Người nhập khẩu
(2)
(5)(3) (8) (1)(7)
(5)
(6)
(6)
(4) Căn cứ vào thư tín dụng nhận được, nếu thấy phù hợp thì người xuất khẩu
thực hiện hợp đồng thương mại cho người nhập khẩu; nếu không thì người xuất khẩu
yêu cầu người nhập khẩu sửa đổi hoặc bổ sung lại thư tín dụng.
(5) Ngay sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo
đúng yêu cầu của thư tín dụng xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng
mở thư tín dụng xin thanh toán.
(6) Sau khi nhận được bộ chứng từ, ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra kỹ các
chứng từ đó, nếu thấy phù hợp thì thanh toán tiền cho bộ chứng từ đó.
(7) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ
cho người nhập khẩu sau khi nhận được tiền hay chấp nhận thanh toán.
(8) Người nhập khẩu sau khi nhận được bộ chứng từ do ngân hàng người xuất
khẩu chuyển đến, kiểm tra kỹ các chứng từ, nếu thấy phù hợp thì chuyển tiền trả cho
ngân hàng mở thư tín dụng.
e) Thanh toán bằng thẻ thanh toán
*Khái niệm: Thẻ thanh toán là phương tiện thanh toán do tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán phát hành và cấp cho người sử dựng dịch vụ thanh toán để sử dụng theo
hợp đồng ký kết giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và người sử dụng dịch vụ

thanh toán.
Thẻ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình để thanh
toán tiền hàng hóa, dịch vụ, thanh toán công nợ và để lĩnh tiền mặt tại ngân hàng đại lý
thanh toán hay quầy trả tiền tự động.
* Phân loại: Tùy theo mục đích sử dụng khác nhau, thẻ ngân hàng được phân
chia thành những loại sau đây:
- Phân loại theo công nghệ sản xuất:
+ Thẻ khắc chữ nổi (Embossing card): dựa trên công nghệ khắc chữ nổi. Hiện nay
người ta không sử dụng công nghệ này nữa vì kỹ thuật quá thô sơ và dễ bị giả mạo.
+ Thẻ băng từ (Magnetic Strip): dựa trên kỹ thuật từ tính với một băng từ chứa
hai rãnh thông tin phía sau mặt thẻ
16
+ Thẻ thông minh (Smart Card): đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thẻ
thông minh dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học nhờ gắn vào thẻ một chip điện tử có cấu
trúc giống như một máy tính hoàn hảo.
- Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ
+ Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó
người chủ thẻ được ngân hàng phát hành cấp một hạn mức tín dụng theo quy định và
được sử dụng một hạn mức tín dụng đó mà không phải trả lãi (nếu chủ thẻ hoàn trả số trả
số tiền đã sử dụng đúng kỳ hạn) để mua sắm hàng hóa dịch vụ tại những cơ sở kinh
doanh, khách sạn, sân bay… chấp nhận loại thẻ này. Là phương tiện thanh toán toán tiện
lợi, an toàn đối với những người thường xuyên đi nước ngoài.
+ Thẻ ghi nợ (Derbit Card): Thẻ ghi nợ được sử dụng để rút tiền tại các máy rút
tiền tự động, thanh toán hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở số tiền có trong tài khoản của chủ
thẻ tại ngân hàng.
+ Thẻ rút tiền mặt (Cash Card): là một hình thức thẻ ghi nợ song loại thẻ này chỉ
có một chức năng là rút tiền tại các máy rút tiền tự động (ATM) hoặc ở ngân hàng.
* Phân loại theo phạm vi lãnh thổ
+ Thẻ nội địa: là thẻ được giới hạn sử dụng trong phạm vi của một quốc gia, do
vậy đồng tiền giao dịch là đồng bản tệ của quốc gia đó.

+ Thẻ quốc tế: là loại thẻ được chấp nhận trên toàn thế giới, sử dụng các ngoại tệ
mạnh để thanh toán.
* Phân loại theo hạn mức tín dụng
+ Thẻ vàng (gold card): là loại thẻ được phát hành cho những đối tượng “cao
cấp”, những khách hàng có mức sống, thu nhập và nhu cầu tài chính cao.
+ Thẻ thường (standard card): là loại thẻ căn bản nhất, mang tính phổ biến đại
chúng. Hạn mức tối thiểu tùy theo ngân hàng phát hành quy định.
* Quy trình thanh toán thẻ:
Trường hợp cơ sở chấp nhận thẻ có tài khoản tại ngân hàng phát hành thẻ:
17
Sơ đồ 2.5: Sơ đồ quy trình thanh toán bằng thẻ trường hợp cơ sở chấp
nhận thẻ có tài khoản tại ngân hàng phát hành thẻ
(1) Chủ sở hữu thẻ giao thẻ cho cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ.
(2) Cở sở chấp nhập thẻ truyền thông tin về ngân hàng phát hành thẻ.
(3) Sau khi hạch toán “Nợ” vào tài khoản thích hợp của chủ sở hữu thẻ và ghi
“Có” vào tài khoản Cơ sở chấp nhận thẻ, rồi phản hồi thông tin lại cơ sở chấp nhận thẻ.
(4) Cơ sở chấp nhận thẻ giao lại thẻ và biên lai cho chủ sở hữu thẻ.
Trường hợp cơ sở chấp nhận thẻ không có tài khoản tại ngân hàng phát hành thẻ,
quy trình thanh toán thẻ phức tạp hơn do phải có sự tương tác giữa ngân hàng phát hành
và cơ sở chấp nhận thẻ.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Sơ lược về quá trình phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt
Nam
a) TTKDTM trong thời kỳ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, ngân hàng luôn là trung
tâm thanh toán của nền kinh tế, TTKDTM chỉ được mở rộng trong lĩnh vực kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể nhằm tập trung nguồn vốn phục vụ sản xuất, hướng theo kế
hoạch của nhà nước đã đề ra.
Trong thời kỳ này mặc dù chưa hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp nhưng vẫn
có nhiều cải tiến về công tác TTKDTM nhằm nâng cao hiệu quả, đáp ứng cho nhu cầu

thanh toán vốn, chuyển vốn cho nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập
chung và đáp ứng chuyển tiền phục vụ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
18
Chủ sở hữu
thẻ
Cơ sở chấp nhận
thẻ
NHTM phát hành
thẻ
(1)
(2) (3)
(4)
Tuy vậy TTKDTM ở thời kì này còn bộc lộ một số nhược điểm làm hạn chế kết
quả của hoạt động TTKDTM:
- TTKDTM chủ yếu tập trung phục vụ cho khu vực kinh tế quốc doanh, tập thể,
các cơ quan đoàn thể. TTKDTM chưa được sử dụng trong dân cư, từ đó làm cho việc
thanh toán trong dân cư diễn ra hoàn toàn dưới hình thức tiền mặt.
- Cơ chế thanh toán cứng nhắc với việc quy định các doanh nghiệp, tổ chức kinh
tế chỉ được mở tài khoản tại Ngân hàng nơi doanh nghiệp đóng trụ sở. Các hình thức
thanh toán mới chỉ tập chung vào một số hình thức truyền thống như: Séc, uỷ nhiệm thu,
uỷ nhiệm chi, thanh toán liên hàng.
-Kỹ thuật thanh toán lạc hậu, chủ yếu làm bằng tay nên thanh toán chậm trễ, sai
sót nhiều gây mất lòng tin đối với những người tham gia sử dụng tiện ích thanh toán.
b) TTKDTM trong thời kỳ ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường
Có thể nói TTKDTM ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã có sự chuyển biến tích
cực.
Trước hết về xây dựng cơ chế chính sách và cơ chế nghiệp vụ: Về phía Chính
phủ đã ban hành nghị định 91/1990/NĐ-CP (1990) và tiếp đến là nghị định 64/2001/NĐ-
CP (2001) để thay thế nghị định 91/1990/NĐ-CP về tổ chức hoạt động thanh toán trong
nền kinh tế. Riêng về séc chính phủ đã ban hành nghị định 30/CP để điều chỉnh công cụ

thanh toán séc ở Việt Nam sang năm 2003 chính phủ đã ban hành nghị định 159/CP để
thay nghị định 30/CP. Về phía ngân hàng Nhà nước thì thống đốc đã ban hành quyết
định 22(1990) và sau đó là quyết định 226 (2002) để thay thế quyết định 22 về cơ chế
TTKDTM ở Việt Nam. Ngày 29/12/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 291/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-
2010 và định hướng đến năm 2020 (Quyết định 291). Đồng thời, Chính phủ cũng đã ban
hành Nghị định số 161/NĐ-CP ngày 28/12/2006 quy định về thanh toán bằng tiền mặt
(Nghị định 161). Đây là các cơ sở pháp lý quan trọng để thúc đẩy hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt.
Về công nghệ thanh toán thì đã có bước nhảy vọt là chuyển từ kỹ thuật thanh toán
thủ công sang kỹ thuật thanh toán điện tử đặc biệt là khâu chuyển tiền.
19
Về tổ chức bộ máy và cán bộ: Các ngân hàng thương mại là các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán được sắp xếp lại theo từng hệ thống để xây dựng hệ thống thanh toán
của từng hệ thống, về tổ chức thanh toán liên ngân hàng (thanh toán bù trừ liên Ngân
hàng và chuyển tiền điện tử liên ngân hàng). Về đội ngũ cán bộ được bố trí đủ về số
lượng và nâng cao trình độ nghiệp vụ thông qua các khoá đào tạo lại đặc biệt là các lớp
học chuyên đề về thanh toán, về tin học.
Về các hình thức thanh toán thì ngoài việc hoàn thiện các hình thức truyền thống
còn ban hành thêm thẻ thanh toán.
Với những cố gắng của các ngân hàng thương mại trong thời kỳ đổi mới đã làm
cho hoạt động của các ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động thanh toán nói
riêng có sự chuyển biến đáng khích lệ. Đã đảm bảo được khâu thanh toán nhanh, chính
xác, an toàn tài sản nên khách hàng không còn phàn nàn về thanh toán chậm trễ, thiếu
chính xác như thời kỳ bao cấp. Riêng khâu thanh toán trong dân cư đang được triển khai
mạnh mẽ và thu được những kết quả bước đầu.
2.2.2 Tình hình chung về việc thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay
* Những thành tựu đạt được trong công tác TTKDTM
Để thúc đẩy TTKDTM, ngành ngân hàng đã tăng cường đầu tư phát triển mạnh
cơ cở hạ tầng về công nghệ thông tin: Với nguồn vốn vay 106 triệu USD của ngân hàng

Thế giới, trong tiểu dự án ngân hàng Nhà nước đã khai trương Hệ thống thanh toán điện
tử liên ngân hàng giai đoạn 2 vào ngày 28/2/2009, đáp ứng nhu cầu thanh, quyết toán tức
thời và dung lượng ngày càng cao. Các ngân hàng thương mại đã hoàn thành dự án thanh
toán điện tử nội bộ kết nối giao dịch thanh toán trong hệ thống giữa các chi nhánh, đẩy
mạnh triển khai hệ thống Core Banking (hệ thống các phân hệ nghiệp vụ cơ bản của
ngân hàng như tiền gửi, tiền vay, khách hàng) để hiện đại hóa hệ thống thanh toán nội
bộ, mở rộng mạng lưới, không ngừng đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động
thanh toán. Nhiều phương tiện TTKDTM mới, hiện đại, tiện ích ứng dụng công nghệ
cao như thẻ ngân hàng, thanh toán qua Internet, điện thoại di động, ví điện tử… được
các ngân hàng thương mại cung ứng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Ngân hàng Nhà
nước đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án xây dựng Trung tâm
20
chuyển mạch thẻ thống nhất”, qua đó thực hiện kết nối các hệ thống ATM của các liên
minh thẻ hiện hành thành một hệ thống thống nhất trên toàn quốc nhằm tăng tính thuận
tiện cho người sử dụng dịch vụ thẻ ngân hàng, thúc đẩy thanh toán bằng thẻ ngân hàng,
góp phần thực hiện chủ trương của Chính phủ phát triển TTKDTM. Theo ngân hàng
Nhà nước, việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ Ngân sách
Nhà nước đã hoàn thành giai đoạn 1 với kết quả khả quan, từ cuối năm 2007 đến cuối
năm 2008, số đơn vị trả lương qua tài khoản đã tăng hơn 4 lần, từ 5.181 lên 21.562 đơn
vị, số người nhận lương qua tài khoản đã tăng 3,7 lần, từ 298.920 lên đến 1.132.442
người. Nhiều ngân hàng thương mại đã đầu tư nhiều tỷ đồng để lắp đặt hệ thống máy
ATM, máy POS và phát hành nhiều loại thẻ ATM với nhiều tiện ích khác nhau, đến cuối
tháng 6/2009, toàn thị trường đã có 8.800 ATM và 28.300 POS, khoảng 17.032.000 thẻ
đang lưu hành. Theo chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hệ thống kết nối
Smartlink – Banknetvn đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 23/5/2008, lần đầu tiên
tạo ra một mạng lưới liên minh thẻ ATM thống nhất trên toàn quốc, đã kết nối thanh
toán thẻ gồm 42 ngân hàng thành viên của 2 liên minh thẻ, tổng số máy ATM của 2 hệ
thống này chiếm khoảng 80% tổng số máy ATM và số lượng thẻ thanh toán phát hành
chiếm 86% thị phần trong cả nước. Việc chi trả lương qua tài khoản đã tạo điều kiện cho
các ngân hàng thương mại mở rộng và phát triển giá trị gia tăng dịch vụ ngân hàng bán

lẻ.
* Một số hạn chế:
Từ năm 2001 đến nay, tỷ trọng tiền mặt được sử dụng trong thanh toán so với
tổng phương tiện thanh toán năm 2001 là 23,7%; năm 2004 là 20,3%; năm 2005 là 19%;
năm 2006 là 17,21%, năm 2007 là 16,36%, năm 2008 là 14,6%; tuy tỷ trọng hàng năm
đã giảm nhưng còn ở mức cao hơn so với thế giới; tỷ trọng này ở các nước tiên tiến như
Thụy Điển là 0,7%, Na Uy là 1%, còn Trung Quốc là nước phát triển trung bình nhưng
cũng chỉ ở mức là 10%.
Một trong các phương tiện thanh toán khá phổ biến hiện nay là thẻ thanh toán
giao dịch qua máy ATM, máy POS; tuy số lượng thẻ, máy ATM, máy POS do các ngân
hàng thương mại phát hành, lắp đặt ngày càng tăng nhưng tác dụng giảm khối lượng tiền
21
mặt vào lưu thông còn rất khiêm tốn. Trong buổi giao lưu trực tuyến do Thời báo Kinh
tế Sài Gòn tổ chức ngày 8/6/2009, TS.Dương Hồng Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Thanh
toán thuộc Ngân hàng Nhà nước cho biết, theo thống kê, khoảng 80% giao dịch qua
ATM là để rút tiền mặt. Hệ thống POS lắp đặt tại các cửa hàng, siêu thị của các ngân
hàng hiện nay chưa được kết nối với các hệ thống của ngân hàng khác, dẫn đến ít tiện
ích cho các thẻ ATM nội địa của các ngân hàng Việt Nam.
Séc là một trong những phương tiện thanh toán đã có lâu đời ở các nước phát
triển. Các nước đều có Trung tâm xử lý thanh toán bù trừ séc ngoài hệ thống và khác địa
phương do Ngân hàng Trung ương hoặc Hiệp hội Ngân hàng quản lý, nhờ vậy, phương
tiện thanh toán bằng séc được sử dụng phổ biến ở nhiều nước phát triển. Thanh toán
bằng séc ở Bồ Đào Nha còn chiếm tới 81% trong tổng lượng giao dịch, ở Ireland là 70%,
ở Pháp là 56%, ở Anh là 51%. Còn ở nước ta, thanh toán bằng séc đã ra đời từ những
năm 1960 nhưng đến nay, phương tiện thanh toán này ngày càng giảm, và hiện nay tỷ lệ
thanh toán bằng séc mới chiếm khoảng 2% trong tổng thanh toán phi tiền mặt.
Thương mại điện tử còn nhiều rào cản: theo đánh giá của lãnh đạo Bộ Công
thương, trong những năm gần đây, thương mại điện tử đã được ứng dụng rộng rãi trong
các doanh nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp có website tăng từ 31% năm 2005 lên 45% năm
2008, tỷ lệ doanh nghiệp đã xây dựng mạng nội bộ năm 2008 đạt trên 88% so với 84%

của năm trước. Hiện có tới 99% số doanh nghiệp đã kết nối internet. Tuy nhiên, do thói
quen mua sắm của người tiêu dùng và khâu thanh toán khiến thương mại điện tử Việt
Nam chậm phát triển; người mua và người bán vẫn thực hiện theo phương thức “tiền
trao cháo múc”, vì người tiêu dùng lo ngại mua phải sản phẩm không dùng được hoặc
chất lượng không đạt như mong muốn. Hệ thống pháp lý bảo vệ thông tin cá nhân vẫn
còn thiếu những quy định, chế tài cụ thể về bảo vệ đối tượng sử dụng thương mại điện
tử. Các website thương mại điện tử chưa thực sự được marketing tốt và phát triển tốt để
mang lại lợi nhuận kinh tế đáng kể.
Nhìn chung lại, tuy các hình thức TTKDTM đã và đang phát huy được những ưu
điểm hết sức tích cực, nhưng nó vẫn chưa thực sự phát triển ở Việt Nam. Điều này đòi
hỏi cần có những hành động tích cực từ phía Nhà nước, các ngân hàng cũng như các
22
doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, để hoạt động TTKDTM có thể phát huy những
hiệu quả tích cực của nó, đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
* Những định hướng trong việc thanh toán không dùng tiền mặt của chính phủ:
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg (ngày 29-12-2006)
phê duyệt Đề án TTKDTM giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020 tại Việt
Nam. Đề án là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động thanh toán đáp ứng nhu cầu phát
triển của nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam
hiện nay. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, toàn ngành ngân hàng đang tập
trung nhiều nguồn lực đẩy nhanh tiến độ triển khai Đề án TTKDTM. Đây là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của Ngành trong năm 2010:
- Trước mắt cần khai thác tốt hạ tầng công nghệ hiện có, đẩy nhanh việc ứng dụng
một số thành tựu công nghệ thông tin – thanh toán mới và khai thác có hiệu quả hệ thống
thanh toán điện tử liên ngân hàng quốc gia, tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức được
hưởng dịch vụ thanh toán gần như tức thời trên toàn lãnh thổ Việt Nam với dịch vụ
thuận tiện và chi phí rẻ
- Các tổ chức tín dụng sẽ tập trung phát triển hạ tầng công nghệ thông tin ngân
hàng, phát triển các kênh dịch vụ ngân hàng hiện đại như: Mobile-banking, Internet-
banking, thẻ ATM, nâng cao chất lượng dịch vụ. Tăng cường bảo đảm an ninh, quản lý

rủi ro công nghệ, bảo đảm an toàn hệ thống, an toàn tài sản của khách hàng và của ngân
hàng.
- Về mặt nhà nước, sẽ từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động triển khai
ứng dụng công nghệ mới. Ngân hàng Nhà nước sẽ sớm ban hành bộ tiêu chuẩn kỹ thuật,
dịch vụ để chuẩn hoá dịch vụ, hỗ trợ kết nối các thiết bị đầu cuối như ATM, POS và các
thiết bị thông tin di động thông qua trung tâm chuyển mạch.
- Nhà nước ưu tiên mở rộng mạng lưới các máy POS online và offline để mở rộng
dịch vụ, mạng lưới chấp nhận thẻ và giảm giá thành. Phát triển các loại hình dịch vụ
thanh toán mới dựa trên công nghệ truyền thông thế hệ mới 3G.
- Mặt khác, ngân hàng Nhà nước sẽ tăng cường tuyên truyền, giới thiệu về tiện ích
của sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại đến đông đảo công chúng trong toàn xã hội,
23
kết hợp với các đòn bẩy kinh tế, hành chính để từng bước thu hút và hình thành thói
quen mới thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư...
Theo Đề án, đến cuối năm 2010, mức phát hành thẻ trong thanh toán phấn đấu
đạt 15 triệu thẻ; 70% các trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng… lắp đặt các thiết bị
chấp nhận thanh toán bằng thẻ. Con số này đến năm 2020 phấn đấu đạt lần lượt là 30
triệu thẻ và 95%. Tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán đến năm 2010 không
quá 18%; đến năm 2020 khoảng 15%. Số lượng tài khoản cá nhân vào cuối năm 2010
đạt mức 20 triệu; 70% cán bộ hưởng lương ngân sách và 50% công nhân lao động trong
khu vực doanh nghiệp, tư nhân thực hiện trả lương qua tài khoản. Đến năm 2020 đưa
những con số này lên lần lượt là 45 triệu tài khoản cá nhân (bình quân mỗi người có 0,5
tài khoản); 95% cán bộ hưởng lương ngân sách và 80% lao động được trả lương qua tài
khoản. Các khoản thanh toán giữa các doanh nghiệp thực hiện qua ngân hàng đạt mức
80% vào năm 2010 và đạt 95% vào năm 2020.
Phần thứ ba: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHUƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm địa bàn
3.1.1 Vài nét về ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB)
24

Ngày 01 tháng 04 năm 1963, VCB chính thức được thành lập theo Quyết định số
115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 30 tháng 10 năm 1962 trên cơ sở tách ra
từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Trung ương (nay là ngân hàng Nhà
nước).
Ngày 26/9/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1289/QĐ-TTg phê
duyệt phương án cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và chính thức đổi tên thành
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam
VCB là ngân hàng thương mại đầu tiên tại Việt Nam quản lý vốn tập trung. Vốn điều
lệ 2.445 tỷ đồng, là ngân hàng thương mại đầu tiên ở Việt Nam hoạt động kinh doanh ngoại
tệ, và luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng.
VCB là thành viên của: Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, hiệp hội Ngân hàng Châu
Á, tổ chức thanh toán toàn cầu Swift; Là ngân hàng thương mại đầu tiên phát hành và
thanh toán thẻ quốc tế Visa, MasterCard và là đại lý thanh toán thẻ lớn nhất tại Việt Nam:
Visa, American Express, MasterCard, JCB...; Là ngân hàng thương mại hàng đầu Việt
Nam trong lĩnh vực tài trợ thương mại, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, ứng
dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng; Là “Ngân hàng quản lý tiền mặt tốt nhất tại
Việt Nam năm 2008”, do tạp chí Asiamoney tổ chức bình chọn. Trước đó, VCB cũng đã
được nhận giải thưởng “Ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán thương mại tốt nhất
Việt Nam năm 2008” do độc giả tạp chí Trade Finance bình chọn. VCB luôn giữ vững vị
thế là ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài chính hàng đầu trong lĩnh vực thương mại
quốc tế cũng như trong các lĩnh vực truyền thống: kinh doanh vốn, huy động vốn, tín
dụng, tài trợ dự án…; lĩnh vực dịch vụ ngân hàng hiện đại: kinh doanh ngoại tệ và các
công cụ phái sinh, dịch vụ thẻ, Internet – B@nking, SMS – B@nking…
Hiện Vietcombank đang chiếm lĩnh thị phần đáng kể (tại Việt Nam) trong nhiều
lĩnh vực kinh doanh khác nhau: cho vay 10%, tiền gửi 12%, thanh toán quốc tế 23%,
thanh toán thẻ 55%,... gần 1300 máy ATM và trên 7800 POS; ngân hàng có quy mô lợi
nhuận cao nhất tại Việt Nam.
3.1.2 Giới thiệu về NHCPTM Vietcombank Chi nhánh ĐăkLăk
25

×