Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.93 KB, 82 trang )

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
MỤC LỤC
1
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt Tên đầy đủ
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTM Ngân hàng thương mại
TCTD Tổ chức tín dụng
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
NQH Nợ quá hạn
RR Rủi ro
TG TCKT & TD Tiề gửi tổ chức kinh tế và tín dụng
TGKKH Tiền gửi không kì hạn
TGCKH Tiền gửi có kì hạn
NVHĐ Nguồn vốn huy động
CN Chi nhánh
2
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU SỐ
3
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
4
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:


TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa do Đảng ta lãnh đạo đang từng
bước đi vào đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên hiện nay tốc độ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đang bị chững lại bởi nhiều nguyên nhân khác nhau mà một trong
những nguyên nhân quan trọng nhất là vấn đề về vốn. Vốn là tiền đề, là cơ sở
đầu tiên để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ. Các doanh
nghiệp tạo vốn bằng nhiều cách khác nhau: tích lũy từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, huy động của công nhân viên chức, liên doanh liên kết, vay mượn hoặc
chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác,… nhưng nguồn vốn ổn định và có
lợi thế nhất giúp các doanh nghiệp tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới
công nghệ là vốn vay trung, dài hạn từ các ngân hàng thương mại (NHTM).
Hiện nay các doanh nghiệp đang rất thiếu vốn nhất là vốn trung và dài
hạn trong khi vốn tồn đọng trong các ngân hàng không phải là ít. Như vậy,
không phải là chúng ta thiếu vốn mà là chúng ta chưa có chuyển vốn huy động
được vào sản xuất kinh doanh. Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam
(chi nhánh Hà Tây) cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Hiện nay, nguồn vốn
trung và dài hạn của ngân hàng kém đa dạng về cơ cấu khách hàng, chỉ tập trung
vào các doanh nghiệp nhà nước, chưa quan tâm tới các đối tượng khách hàng
khác. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn hiện nay khá cao nhưng chỉ tập trung vào
một số khách hàng lớn như các Tổng công ty và chưa đáp ứng được nhu cầu của
các doanh nghiệp trên địa bàn.
Bên cạnh đó ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam (chi nhánh
Hà Tây) còn là một chi nhánh mới thành lập và nâng cấp, có thể nói trong giai
đoạn đầu còn gặp nhiều khó khăn, cùng với đó là sự cạnh tranh gay gắt của các
ngân hàng thương mại khác. Tất cả tạo nên tính cấp thiết của việc nâng cao chất
lượng tín dụng nói chung, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn nói riêng phải
được đặt lên hàng đầu như là một yếu tố cần thiết để nâng cao khả năng cạnh
tranh cho bản thân chi nhánh.

5
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
Vì lý do đó “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
tại Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam-chi nhánh Hà Tây”
được em chọn làm đề tài nghiên cứu nhằm đáp ứng đòi hỏi thiết thực của thực
tiễn, vừa mang tính thời sự trong kinh doanh tiền tệ trong NHTM hiện nay.
Từ những lý luận cơ bản về tín dụng trung và dài hạn của NHTM, khóa
luận phân tích và đánh giá thực trạng, tìm nguyên nhân dẫn đến các mặt hạn chế
hiện nay tại một chi nhánh ngân hàng, cụ thể là Ngân hàng TMCP đầu tư và
phát triển Việt Nam (chi nhánh Hà Tây). Trên cơ sở đó sẽ đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP đầu
tư và phát triển Việt Nam (chi nhánh Hà Tây).
6
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1.Khái niệm tín dụng ngân hàng
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian có vai trò quan
trọng đối với nền kinh tế. Với vai trò quan trọng như vậy, nhưng quan niệm như
thế nào về một Ngân hàng, và sự phân biệt nó với các tổ chức phi Ngân hàng
không phải là điều đơn giản. Tuỳ theo điều kiện của mỗi nước và sự phát triển
của hệ thống tài chính nước đó mà có những định nghĩa khác nhau về Ngân
hàng.
Theo luật các tổ chức tín dụng: “Ngân hàng thương mạilà loại hình tổ

chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại
hình Ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng
chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác” (trích trang 12
Luật các tổ chức tín dụng 2010). Như vậy có thể hiểu NHTM là một tổ chức có
các đặc trưng sau:
• NHTM là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm
hoàn trả
- NHTM là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay,
chiết khấu và thực hiện các hoạt động tài chính khác
Căn cứ vào tính đó thì ở nước ta các loại hình Ngân hàng thương mại được
hoạt phép hoạt động theo luật tổ chức tín dụng bao gồm: Ngân hàng thương mại,
Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp
tác và các loại hình Ngân hàng khác.
Tín dụng (credit), xuất phát từ tiếng Latinh là credo – là sự tin tưởng, tín
nhiệm và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau:
7
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang
người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi về một lượng giá trị hơn lượng giá
trị ban đầu.
- Tín dụng là quá trình tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ hay hiện vật trên
nguyên tắc có hoàn trả
- Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả
- Tín dụng là sự chuyển dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật của mộ tổ
chức, cá nhân này cho một tổ chức cá nhân khác sử dụng trong một thời gian
nhất định trên nguyên tắc hoàn trả
Như vậy có rất nhiều khái niệm khác nhau để nói về tín dụng, nhưng bản

chất tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa một bên là người đi vay và một
bên là người cho vay trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi.
Tín dụng – với vai trò là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỉ lệ cao nhất
trong tổng tài sản của ngân hàng, tạo thu nhập từ lãi và cũng là hoạt động mang
lại rủi ro cao nhất. Tín dụng ngân hàng có thể được định nghĩa như sau:
“Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phản ánh một giao dịch về
tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức
tín dụng và bên vay là các cá nhân, doanh nghiệp, chủ thể sản xuất kinh doanh,
trong đó bên cho vay chuyển tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian
nhất định theo thỏa thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”.
1.1.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng
- Tín dụng có thể hiểu một cách đơn giản là việc ngân hàng cung cấp cho khách
hàng một lượng giá trị trên cơ sở tin tưởng khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả
trong một thời gian nhất định từ đó có đầy đủ khả năng hoàn trả món nợ đó. Để
giảm thiểu rủi ro không đáng có ngân hàng thương thẩm định khách hàng trước
khi cho vay và có thể chấm điểm khách hàng khi kết thúc để tiện cho những
khoản vay sau này.
- Nguồn cho vay chủ yếu lấy từ nguồn vốn huy động, vốn chủ sở hữu của ngân
hàng chỉ là biện pháp cuối cùng khi ngân hang xuất hiện rủi ro.
8
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời của một lượng giá trị trên cơ sở hoàn trả
cả gốc lẫn lãi
- Tín dụng là hoạt động chỉ thay đổi quyền sử dụng chứ không thay đổi quyền sở
hữu vốn
- Khoản tín dụng nào cũng có một thời hạn xác định
1.1.3. Vai trò tín dụng đối với hoạt động của ngân hàng

Tín dụng có một vai trò vô cùng quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của
bất kì ngân hàng thương mại nào. Trong số các hoạt động tài chính của ngân
hàng thương mại thì tín dụng luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trên tổng tài sản và là
hoạt động mang lại lợi ích nhiều nhất cho ngân hàng. Đi cùng với đó tín dụng
cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất, bao gồm cả rủi ro có thể dự đoán
được và rủi ro tiềm ẩn mà ngân hàng phải gánh chịu.
Hoạt động tín dụng có hiệu quả sẽ góp phần nâng cao vị thế và uy tín cho
ngân hàng đồng thời cũng mang lại cho ngân hàng những mối quan hệ có lợi
cho hoạt động kinh doanh.
Thông qua các chính sách tín dụng chúng ta cũng có thể thấy được cương
lĩnh của ngân hàng, từ đó thấy được cách thức lãnh đạo cũng như cách làm việc
của đội ngũ cán bộ nhân viên, thấy được điểm mạnh hay yếu của nó để có những
điều chỉnh phù hợp với tình hình kinh tế, góp phần hạn chế rủi ro và nâng cao
chất lượng tín dụng, tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng.
1.1.4. Phân loại tín dụng
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách
hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Tuy nhiên có thể phân loại tín dụng
theo một số cách sau đây:
9
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
1 Phân loại theo thời gian hay thời hạn tín dụng
Thời hạn tín dụng có thể được hiểu là thời hạn mà ngân hàng cam kết cấp
cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc
đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được cấp ra cho đến khi đồng vốn và lãi cuối
cùng phải thu về. Thời hạn này thường được xác định cụ thể (ngày/tháng/năm)
và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng. Một số trường hợp đặc biệt như cho vay luân
chuyển thì không xác định trước thời hạn cho vay do nếu xác định trước thời
hạn thu nợ có thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm.

Do thời hạn tín dụng liên quan chặt chẽ đến tính an toàn và sinh lợi của các
khoản tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng, nên việc phân chia
tín dụng theo tiêu chí này mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với ngân
hàng. Theo đó, tín dụng được phân chia thành ba loại, đó là:
- Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống.
- Tín dụng trung và dài hạn: từ trên 1 năm đến dưới 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: trên 5 năm.
Sở dĩ có sự phân chia như thế là dựa vào đặc điểm các tài sản của ngân
hàng. Như là các tài sản lưu động thường có vòng quay trên 1 vòng trong 1 năm.
Do vậy ngân hàng cấp tín dụng ngắn hạn với thời hạn từ 1 năm trở xuống. Với
các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang
thiết bị chóng hao mòn có yêu cầu được tài trợ từ 1 năm đến 5 năm, cong trình
xây dựng có giá trị lớn, sử dụng lâu dài lại có yêu cầu tài trợ trên 5 năm, thậm
chí có thể lên đến 10 hay 30 năm…
2 Phân loại theo hình thức tín dụng
Nếu xét theo hình thức tín dụng thì tín dụng gồm có bốn loại, bao gồm:
chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương
ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu
một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý thì ngân
hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu mà chỉ là hình thức trao
đổi trái quyền. Tuy nhiên xét về phía ngân hàng thì việc bỏ một khoản tiền ở
10
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
hiện tại để thu về 1 khoản thu nhập lớn hơn trong tương lai với một lãi suất xác
định trước cũng có thể coi là một hoạt động tín dụng. Thực chất của hoạt động
này là ngân hàng thay thế người mua trả tiền cho người bán
- Cho vay: là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng

hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách
hàng của mình. Mặc dù không xuất tiền ra nhưng ngân hàng đã cho khách hàng
sử dụng uy tín của mình để thu lợi
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc
và lãi cho ngân hàng.
3 Phân loại theo tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn
thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá
trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ
Tín dụng có thể phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính
khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản
mà mình đang sử dụng hoặc sở hữu, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để
trả nợ ngân hàng.
Tín dụng không cần có tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách
hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài
chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần, hoặc món vay tương đối nhỏ so
với vốn của người vay. Tuy nhiên cũng có một số khoản vay không cần tài sản
đảm bảo như các khoản vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu
không cần tài sản đảm bảo, hoặc các khoản vay của các tổ chức tài chính, công
ty lớn, hoặc các khoản vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có thể giám sát
được quá trình kinh doanh của doanh nghiệp cũng không cần tài sản đảm bảo.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải
kí hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng đảm
bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của
11
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
người thứ ba…), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản
tài sản đảm bảo.
4 Phân loại theo rủi ro
Ngân hàng sẽ nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để phân loại rủi ro. Một
ngân hàng lớn có thể chia thành 10 cấp độ rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp
đến cao cho các khoản mục tài sản bao gồm: tài sản nội bảng và ngoại bảng, cho
vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân loại này giúp cho ngân hàng thường
xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn
thất kịp thời.
Một số loại tín dụng chia theo cấp đọ rủi ro như:
- Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
- Tín dụng có vấn đề: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách
hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên
tai hay khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời gian ngắn và
khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế
chấo nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì không chịu trả nợ…
5 Một số tiêu chí phân loại khác
Ngoài một số cách phân loại thông dụng như trên thì tín dụng cũng có thể
được chia theo một số tiêu chí khác như:
- Theo ngành kinh tế
- Theo đối tượng tín dụng: tài sản lưu động, tài sản cố định
- Theo mục đích: sản xuất, tiêu dùng…
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hóa trong
cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng
phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế.
Các cách phân loại trên cũng giúp cho ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn
liền với lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính

sách mở rộng phù hợp.
2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ
DÀI HẠN CỦA NHTM
12
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
1.2.1. Khái niệm tín dụng trung và dài hạn
Như đã nói ở trên, khi phân chia tín dụng theo tiêu chí thời hạn tín dụng
chúng ta có 3 loại: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn.
Như vậy có thế nói “Tín dụng trung và dài hạn là hoạt động tài chính mà ngân
hàng cho khách hàng vay vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát
triển sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống”. Như vậy các khoản tín dụng trung
và dài hạn thường có thời hạn trên một năm. Với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học kỹ thuật thì nhu cầu vốn trung dài hạn sẽ ngày càng tăng.
Ngoài ra thì thời hạn tín dụng trung và dài hạn thường là khá lớn nên mức độ
rủi ro cũng cao do những thay đổi không thể đoán trước của môi trường kinh tế.
Nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn thường bao gồm: nguồn vốn huy
động có kỳ hạn trên 1 năm trở lên, nguồn vay trong nước thông qua phát hành
trái phiếu, vón vay trên thị trường liên ngân hàng, một phần vốn tự có của
NHTM, vốn ủy thác của Nhà nước và các tổ chức quốc tế, nguồn vốn ngắn hạn
được phép cho vay trung và dài hạn theo tỷ lệ quy định.
1.2.2. Phân loại
Hoạt động tín dụng trung và dài hạn có các hình thức sau:
1 Tín dụng theo dự án đầu tư
Người cho vay phải xây dựng một dự án thể hiện mục đích cho vay, kế
hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án. Khâu thẩm định dự án là cơ sở
quan trọng để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay cũng như khả năng hoàn
trả của doanh nghiệp.
Với bất kì dự án nào đều được xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị

trường, nguồn nhân lực, địa điểm, công nghệ, … trong đó phân tích tài chính là
mục tiêu quan trọng đối với ngân hàng. Ngoài ra các dự án trung và dài hạn có
thời gian khá dài thường từ 1 năm trở lên và được chia thành: thời gian đầu tư,
thời gian ân hạn, thời gian trả nợ. Ngân hàng sẽ cân nhắc kì hạn trả nợ và thời
hạn tín dụng chủ yếu theo yêu cầu của dự án cho vay và thời hạn của nguồn.
Nếu nhận thấy có khả năng chuyển hoán nguồn và huy động vốn thì ngân hàng
sẽ nghiêng về phía đáp ứng nhu cầu cho vay.
Cho vay trung và dài hạn theo dự án có một số loại sau:
13
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
• Cho vay đồng tài trợ (Syndicate loan): là quá trình cho vay của một nhóm tổ
chức tín dụng (từ 2 tổ chức tín dụng trở lên) cho một dự án, do một tổ chức là
đầumối, phối hợp với các bên đồng tài trợ để thực hiện, nhằm phân tán rủi ro
của các tổ chức tín dụng.
Hình thức này thường được áp dụng khi các dự án đầu tư đòi hỏi một
khoản vốn lớn mà các ngân hàng riêng lẻ thì không đáp ứng hết được. Thông
thường các ngân hàng chỉ được phép đầu tư vốn tới một mức độ nhất định so với
tổng nguồn vốn của mình và không được đầu tư quá nhiều vốn vào một công ty
để bảo đảm an toàn vốn. Thậm chí khi mà ngân hàng có đủ khả năng để đáp ứng
hết nhu cầu của dự án thì ngân hàng cũng không muốn đảm nhận hết do e ngại
rủi ro cao. Vì vậy hình thức đồng tài trợ là một biện pháp tích cực để phân tán
rủi ro cho các ngân hàng mà lại có thể sử dụng tối đa nguồn vốn đầu tư của họ
vào các dự án dài hạn.
• Cho vay trực tiếp theo dự án: ngân hàng tiến hành mọi hoạt động và tự chịu
trách nhiệm trước dự án mà mình đã lựa chọn. Đây là một hình thức khác phổ
biến trong nền kinh tế thị trường. Với hình thức này ngân hàng không chỉ đơn
thuần là cho vay mà còn phải đảm nhận rất nhiều các công việc khác như bảo
đảm tính thực thi của dự án: quy hoạch, thiết kế, quy trình công nghệ, giá cả thị

trường, hiệu quả đầu tư… Do đó ngân hàng cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng tính
khả thi của dự án và tính toán mức độ rủi ro có thể xảy ra.
2 Tín dụng thuê mua
Trước hết cần hiểu thuê mua là hình thức cho vay tài sản thông qua một
hợp đồng tín dụng, người cho thuê chuyển giao quyền sử dụng của mình cho
người đi thuê và người thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời
gian thuê và có thể được quyền sở hữu tài sản thuê, được quyền mua tài sản thuê
hay được quyền thuê tiếp theo các điều kiện đã thỏa thuận
Tài sản thuê bao gồm cả động sản và bất động sản. Động sản chủ yếu bao
gồm máy móc thiết bị, ôtô, dây chuyền sản xuất… Bất động sản chủ yếu là các
cửa hàng, văn phòng làm việc, cơ sở sản xuất…
14
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
Về mặt pháp lý thì tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của người cho thuê, còn
người thuê chỉ được quyền sử dụng, ngoài ra người đi thuê cũng có một số
quyền lợi khác từ việc sử dụng tài sản thuê cũng như chịu trách nhiệm về phần
vốn rủi ro liên quan đến tài sản. Thuê mua có thể là thuê mua có sự tham gia của
bên thứ ba, tái thuê mua, thuê mua theo hợp tác…
Về mặt lợi ích thì tín dụng thuê mua đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và
khách hàng. Với ngân hàng: đây là hình thức tài trợ bổ sung cho các hình thức
tài trợ khác, nó giúp cho ngân hàng mở rộng dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh
tranh, giảm thiểu rủi ro, bảo đảm nguyên tắc vốn vay được sử dụng đúng mục
địch. Với khách hàng: giúp khách hàng có thể sử dụng vốn vay dưới dạng tài sản
cố định: máy móc, thiết bị… mà không phải bỏ vốn lớn. Việc cấp tín dụng thuê
mua thường là rất nhanh chóng, cho phép doanh nghiệp có thể đáp ứng được
ngay nhu cầu sản xuất. Ngoài ra phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt,
thích ứng với hoàn cảnh và điều kiện sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp.

3 Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn
- Tín dụng trung và dài được cấp cho khách hàng với mục đích giúp khách hàng
mua sắm trang thiết bị, tài sản cố định. Vì vậy, đối tượng cho vay chủ yếu của
ngân hàng là các khoản vốn thiếu hụt tạm thời của khách hàng.
- Vì gắn liền với các tài sản cố định và vốn cố định của khách hàng nên loại hình
tín dụng này thường gắn liền với các dự án đầu tư. Tuy nhiên các khoản tín dụng
trung hạn thường đầu tư theo chiều sâu, trong khi đó tín dụng dài hạn lại tập
trung hơn vào các dự án mở rộng.
- Thời gian hoàn vốn của các khoản tín dụng trung và dài hạn thường chậm do
nguồn trả tiền cho vay của khách hàng chủ yếu lấy từ quỹ khấu hao và một phần
từ lợi nhuận của chính dự án mang lại. Vì thế, khách chỉ có thể hoàn trả các
khoản vay có quy mô lớn thành nhiều lần khác nhau – do đó thời hạn cho vay
thường kéo dài nhiều năm.
15
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
- Quy mô của các khoản tín dụng trung và dài hạn thường là lớn nên nguy cơ rủi
ro là rất cao do trong thời gian dài tình hình kinh tế quốc gia chắc chắn sẽ có
nhiều biến động. Ngoài ra thì lãi suất các khoản vay trung dài thường lớn hơn lãi
suất các khoản cho vay ngắn hạn.
4 Vai trò của tín dụng trung và dài hạn
1 Đối với nền kinh tế.
Tín dụng nói chung và tín dụng trung – dài hạn nói riêng có một vai trò
quan trọng đối với nền kinh tế. Phần lớn các khoản tín dụng trung dài là cho vay
để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, phục vụ tăng trưởng
kinh tế, đồng thời góp phần giảm bớt thâm hụt ngân sách Nhà nước, cũng như
các khoản bao cấp của ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển.
Tín dụng trung và dài hạn còn góp phần chuyển dịch lại cơ cấu, thu hút
được các nguồn vồn dư thừa trong xã hội để đưa vào sản xuất kinh doanh, đáp

ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp.
Thông qua quá trình huy động vốn, cho vay hay thanh toán ngân hàng có
thể đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá
trình cho vay ngân hàng sẽ tiến hành giám sát hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp, tác động kịp thời nếu cần thiết, hướng cho hoạt động của doanh nghiệp
đi đúng hướng, từng bước tạo tiền đề vật chất cho xã hội.
Các khoản tín dụng trung dài hạn của ngân hàng cũng được cấp theo trọng
điểm của ngành và nội bộ ngành góp phần hình thành cơ cấu hợp lý. Hoạt động
tín dụng theo chiều sâu, xây dựng mới … đã tạo ra cở sở vật chất vững chắc cho
nền kinh tế, góp phần tăng cường kim ngạch xuất khẩu, tăng tính cạnh tranh trên
thị trường cho các doanh nghiệp. Nhờ có nguồn vốn trung dài mà các doanh
nghiệp có thể sắm thêm máy móc thiết bị sản xuất ra các sản phẩm thay thế nhập
khẩu , tất cả các kết quả đó góp phần tiết kiệm chi ngoại tệ, tăng thu ngoại tệ, tạo
cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh.
Ngoài ra, khi đầu tư tín dụng trung dài hạn vào những lĩnh vực mới sẽ
cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất nên tạo ra nhiều công ăn việc làm cho
16
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
người dân đồng thời ổn định trật tự xã hội cũng như đời sống của chính cán
bộ trong xí nghiệp
Như vậy có thể nói tín dụng trung và dài hạn cũng là một nhân tố thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư cũng như hợp lý hóa cơ cấu nền kinh tế, góp
phần ổn định trật tự và an toàn xã hội
2 Đối với ngân hàng
Đối với bản thân các ngân hàng thì tín dụng trung và dài hạn cũng có một
vai trò đáng kể trong việc góp phần đem lại lợi nhuận cho ngân hàng vì món vay
trung dài thường có quy mô lớn và lãi suất cao. Bên cạnh khoản lợi nhuận hấp
dẫn, tín dụng trung – dài còn là vũ khí cạnh tranh rất có hiệu quả giữa các ngân

hàng. Khi các ngân hàng mở rộng cho vay trung – dài hạn, các ngân hàng sẽ
không chỉ nhìn vào lợi ích trước mắt của mình mà còn chú tâm vào lợi ích lâu
dài: đó là mở rộng cho vay trung – dài để cho vay ngắn hạn.
Hơn nữa, các khoản cho vay trung dài cũng góp phần giúp cho ngân hàng
tạo dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng của mình, từ đó mở rộng cho vay
ngắn hạn dựa trên sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau. Bởi vì các doanh nghiệp
khi đã có nguồn vốn do ngân hàng hỗ trợ sẽ mở rộng sản xuất kinh doanh, năng
lực sản xuất tăng lên, doanh nghiệp lại cần nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng. Khi đó với mối quan hệ lâu dài trên cơ sở đã hiểu rõ
nhau, doanh nghiệp lại tìm đến ngân hàng để vay vốn… vì thông qua quá trình
hợp tác với nhau, ngân hàng đã hiểu rõ doanh nghiệp, nắm được tình hình tài
chính, các khoản thu chi … nên việc cho vay sẽ dễ dàng hơn.
3 Đối với doanh nghiệp
Đối với bản thân doanh nghiệp thì tín dụng trung dài là một phương án khá
tốt để mở rộng sản xuất kinh doanh bởi vì trong môi trường cạnh tranh khốc liệt
như hiện nay để có thể tồn tại và phát triển được thì các doanh nghiệp phải
không ngừng đầu tư vào tài sản cố định. Bởi lẽ tài sản cố định là tư liệu chủ yếu,
chiếm bộ phận lớn trong tổng giá thành, là yếu tố quan trọng quyết định lợi thế
cạnh tranh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên thực thế giá trị của tài sản cố định
17
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
thường là khá cao, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tự có và tích lũy của doanh
nghiệp thì sẽ rất khó có thể bắt kịp được với nhu cầu thị trường, và cũng sẽ mất
một khoảng thời gian dài mới có thể trang bị được. Chính vì thế mà khoản tín
dụng trung dài hạn là biện pháp khả quan nhất cho doanh nghiệp so với việc tìm
kiếm các nguồn vốn cho vay bên ngoài hay dựa vào phát hành cổ phiếu (nếu
phát hành cổ phiếu doanh nghiệp có thể mất thêm khoản chi phí cho tổ chức
phát hành cổ phiếu).

Với các khoản tín dụng trung – dài hạn mà ngân hàng cung cấp doanh
nghiệp có thể chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình, tiến hành các dư
án lớn mà không phải phân chia quyền lực hay các cổ đông với cổ phiếu ưu đãi
khi phát hành cổ phiếu.
Ngoài ra thì việc trả các khoản nợ này là định kì theo từng thời hạn cụ thể
đã được thông báo trước nên doanh nghiệp có thể chủ động trong việc thanh
toán món nợ của mình.
Như vậy, tín dụng trung – dài hạn là một trợ thủ vô cùng đắc lực cho các
doanh nghiệp, nhờ có nó mà các doanh nghiệp vừa có thể sắm thêm tài sản cố định,
vừa nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tính cạnh tranh trên thị trường đồng
thời mở rộng thị trường của mình… mà không phải bỏ một khoản vốn quá lớn.
3 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM
1 Khái niệm chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Chất lượng của một khoản vay là một khái niệm mang tính chất tương đối
bởi vì với từng đối tượng khác nhau sẽ có một yêu cầu khác nhau về chất lượng
món vay đó.
Đối với ngân hàng thương mại thì chất lượng một khoản vay chính là mức
độ an toàn vốn, việc sử dụng đúng mục đích, phù hợp với chính sách, thực lực
ngân hàng và đem lại thu nhập cho ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp. Một
món vay có chất lượng tốt phải được thanh toán đầy đủ lãi và hoàn trả gốc đúng
hạn và tăng khả năng cạnh tranh cho ngân hàng.
Đối với khách hàng thì khoản vay có chất lượng là mục đích phù hợp với
mục đích sử dụng của khách hàng với mức lãi suất và thời hạn hợp lý, phù hợp
18
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra khoản vay chất
lượng còn có thủ tục nhanh gọn, đơn giản, thu hút được nhiều khách hàng mà
vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng. Tóm lại đó là sự đáp ứng tốt nhất của ngân

hàng đối với khách hàng trên các khía cạnh của một “dịch vụ”. Đặc biệt trong
hoàn cảnh các ngân hàng ngày càng mở rộng thêm chi nhánh và cạnh tranh gay
gắt thì chất lượng tín dụng càng được quan tâm về giá cả cũng như thủ tục quy
trình nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng.
Đối với nền kinh tế, khoản tín dụng có chất lượng phải hỗ trợ cho hoạt động
kinh doanh, góp phần phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa, giải quyết được công
ăn việc làm cho người lao động, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, giải
quyết được mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Như vậy có thể nói không có một khái niệm chính xác về chất lượng của
một khoản vay, cũng như chất lượng tín dụng trung – dài hạn. Tuy nhiên có thể
hiểu một cách khái quát chất lượng tín dụng trung và dài hạn là vốn cho vay
trung – dài hạn của ngân hàng được khách hàng sử dụng đúng mục đích, đem lại
lợi nhuận cho ngân hàng mà vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
2 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của
NHTM.
1 Nâng cao chất lượng trung – dài hạn là nhu cầu cấp thiết
đối với sự phát triển kinh tế của đất nước
Như đã trình bày ở phần trên, chúng ta đã biết chất lượng tín dụng trung –
dài hạn là gì? Đó là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng phù hợp với sự phát
triển kinh tế mà vẫn đảm bảo cho ngân hàng tồn tại và phát triển, là khi ngân
hàng thu đủ gốc và lãi đúng thời hạn, bù đắp được chi phí mà vẫn có lợi nhuận
và doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả. Như vậy trong quá trình luân chuyển
vốn ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế vừa tạo ra hiệu quả xã hội.
Hiệu quả kinh tế là các doanh nghiệp có nguồn vốn hỗ trợ để trang bị thêm
tài sản cố định, nâng cao sản xuất, đóng góp thêm vào tăng trưởng cho xã hội
cũng như sản phẩm quốc dân, thúc đẩy sản xuất hàng nội địa thay thế cho hàng
19
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang

nhập khẩu. Chất lượng tín dụng được nâng cao còn góp phần kiềm chế lạm
phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế và nâng cao uy tín quốc gia.
Mặt khác, tín dụng trung – dài hạn giúp ngân hàng hoàn thành vai trò là
một trung gian tài chính: khi chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ đảm bảo tăng
vòng quay vốn tín dụng, với khối lượng tiền như cũ, có thể thực hiện được số
lần giao dịch lớn hơn, tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng
tiền. Tín dụng trung – dài hạn còn là một cách để đưa tiền vào lưu thông nhằm
làm cho khối lượng tiền trong nền kinh tế phù hợp với khối lượng hàng hóa.
Hiệu quả xã hội thể hiện ở chỗ: tín dụng trung – dài hạn là một công cụ để
Đảng và Nhà nước thực hiện phát triển kinh tế theo từng ngành, từng lĩnh vực.
Thông qua sự phân tích đánh giá khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư
để có những quyết định đầu tư đúng đắn nhằm khai thác khả năng tiềm tàng về
tài nguyên, lao động, tiền vốn… để tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp ngày
càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động… Như vậy, chất lượng tín dụng trung - dài hạn được nâng cao sẽ
góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các
vùng, các ngành trong cả nước, ổn định và phát triển kinh tế.
Chất lượng tín dụng trung – dài hạn được nâng cao sẽ góp phần làm lành
mạnh quan hệ tín dụng, thủ tục được đơn giản hóa thuận tiện, đi dần đến xóa bỏ
hình thức cho vay nặng lãi xuất hiện ở nhiều địa phương.
Tín dụng nói chung và tín dụng trung - dài hạn nói riêng có mối quan hệ
mật thiết với nền kinh tế - xã hội, thiết lập một mối cơ chế chính sách đồng bộ,
có hiệu quả sẽ có tác động tích cực với mọi mặt của nền kinh tế - xã hội, điều đó
cũng có thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
1.3.2.2. Nâng cao chất lượng tín dụng cũng là nâng cao hiệu quả hoạt động
cho ngân hàng, góp phần vào sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng.
Một ngân hàng khi chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng sẽ có thêm
nguồn vốn cho kinh doanh do tăng vòng quay vốn tín dụng, thu hút được nhiều
20
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:

TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
khách hàng qua cách hình thức của sản phẩm, dịch vụ tạo ra một hình ảnh tốt
cho mình.
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn được nâng cao sẽ làm tăng khả năng
sinh lợi dịch vụ ngân hàng do thủ tục nhanh gọn, đáp ứng được nhu cầu khách
hàng, đồng thời giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do
không thu hồi được vốn vay đã cho vay. Ngoài ra nó còn đảm bảo khả năng
thanh toán và lợi nhuận của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh
tranh, tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng vì chất lượng tín dụng
tốt sẽ giúp cho ngân hàng có được sự tin tưởng của khách hàng, thêm nhiều mối
quan hệ lâu dài cũng những khoản lợi nhuận để bổ xung vốn đầu tư. Bên cạnh
đó, chất lượng tín dụng tốt giúp ngân hàng củng cố các mối quan hệ xã hội bằng
những điều kiện tốt nhất.
Như vậy, với những ưu thế trên, có thể khẳng định việc củng cố và tăng
cường chất lượng tín dụng trung - dài hạn của các ngân hàng thương mại là sự
cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của các ngân hàng
thương mại.
3 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn
1 Nhóm chỉ tiêu định tính:
- Đối với bất kì khoản vay nào đều phải đảm bảo ba yếu tố. Đó là: khoản vay phải
được đảm bảo bằng tài sản đảm bảo, khách hàng phải hoàn trả gốc, lãi đúng thời
hạn theo cam kết tại hợp đồng
- Cho vay cần tuân thủ các quy định về lập hồ sơ cho vay, phương án kinh doanh,
báo cáo tài chính thường niên, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tài sản thế chấp
hợp pháp…
2 Nhóm chỉ tiêu định lượng:
• Chỉ tiêu tổng dư nợ và kết cấu dư nợ:
- Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng cũng như
sự uy tín của ngân hàng đó đối với khách hàng. Chỉ tiêu này bao gồm: cho vay

21
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tổng dư nợ của một ngân hàng thấp hay cao sẽ
phản ánh hoạt động của ngân hàng đó là hiệu quả hay không. Nếu tổng dư nợ
thấp chứng tỏ ngân hàng hoạt động kém, tuy nhiên không có nghĩa là chỉ tiêu
này càng cao thì chứng tỏ chất lượng tín dụng càng cao bởi vì đằng sau những
khoản tín dụng đó còn có những rủi ro tiềm ẩn mà ngân hàng phải gánh chịu.
Tổng dư nợ cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá dư nợ của ngân hàng là
cao hay thấp khi so sánh với thị phần tín dụng trên địa bàn hoạt động. Tuy nhiên
tùy vào từng giai đoạn mà chỉ tiêu này sẽ phản ánh những thực trạng khác nhau.
Do đó không thể chỉ dựa vào chỉ tiêu này mà đánh giá chất lượng tín dụng của
một ngân hàng.
- Nếu tổng dư nợ phản ánh quy mô thì kết cấu dư nợ lại phản ánh tỷ trọng của các
loại dư nợ trong tổng dư nợ.
Chỉ tiêu dư nợ trung dài hạn = 100%
Qua chỉ tiêu này ta có thể so sánh được quy mô của tín dụng trung dài so
với tín dụng ngắn hạn của ngân hàng. Tỷ lệ dư nợ này càng cao chứng tỏ ngân
hàng có quy mô tín dụng trung dài đáp ứng được nhu cầu của khách hàng cũng
như nền kinh tế. Tùy từng ngân hàng cụ thể và tùy thời điểm khác nhau mà các
ngân hàng sẽ mong muốn một tỷ trọng dư nợ trung dài hạn nhất định.
Việc nghiên cứu kết cấu dư nợ cũng sẽ giúp cho ngân hàng biết được tỷ
trọng của các loại tín dụng từ đó có thể đánh giá được mức độ rủi ro tương ứng
và có chiến lược tăng giảm dư nợ phù hợp hơn.
• Doanh số cho vay và doanh số thu nợ trung dài hạn: doanh số cho vay phản
ánh quy mô cấp tín dụng trung và dài hạn đối với nền kinh tế còn doanh số thu
nợ trung dài hạn phản ánh quy mô tín dụng thu được từ việc cho vay nền kinh tế.
Khi kết hợp hai yếu tố này có thể thấy được xu hướng của hoạt động tín dụng
trung và dài hạn của ngân hàng.

• Chỉ tiêu tỉ lệ nợ quá hạn trung - dài hạn và dự phòng rủi ro: là chỉ tiêu cơ bản
để đánh giá chất lượng của một khoản vay
Tỷ lệ nợ quá hạn trung - dài hạn = x 100 %
22
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
Trong một số trường hợp đến kì trả nợ mà khách hàng không thể trả được
nợ thì ngân hàng có thể gia hạn nợ, nếu quá thời gian gia hạn nợ, ngân hàng sẽ
chuyển toàn bộ gốc và lãi của khoản nợ đó sang nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn của tín dụng trung – dài là phần trăm nợ quá hạn của
khoản tín dụng đó trên tổng dư nợ trung – dài tại một thời điểm xác đinh. Tỷ lệ
nợ quá hạn càng cao thì khả năng mất vốn của ngân hàng càng cao, do đó trên
thực tế các ngân hàng luôn cố gắng hạn chế tỉ lệ nợ quá hạn đến mức tối thiểu.
• Chỉ tiêu nợ xấu trung – dài hạn:
Tỷ lệ nợ xấu trung – dài hạn = x 100%
Chỉ tiêu này phản ánh rằng món vay của ngân hàng có chất lượng rất thấp,
chứng tỏ ngân hàng hoạt động kém hiệu quả và các chỉ tiêu khác đánh giá chất
lượng tín dụng trung dài hạn trở nên không có giá trị. Do đó chỉ tiêu này không
có hoặc càng thấp càng tốt
• Chỉ tiêu mất vốn trung và dài hạn:
Tỷ lệ mất vốn = x 100%
Có thể thấy tỷ lệ này càng cao thì chất lượng tín dụng càng thấp. Khi xóa
một khoản tín dụng sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng do đó các ngân
hàng thường giảm đến mức tối đa các khoản nợ khó đòi.
• Chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng trung – dài hạn
Tỷ lệ lợi nhuận = x 100%
Trong đó:
Lợi nhuận từ tín dụng trung dài hạn = các khoản thu từ tín dụng trung dài –
các khoản chi từ tín dụng trung dài

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung - dài hạn. Bất kỳ
một khoản tín dụng nào cho dù đó là khoản ngắn hạn hay trung - dài hạn không
thể xem là có chất lượng cao nếu nó không đem lại lợi nhuận thực tế cho ngân
hàng. Tuy nhiên đối với ngân hàng quốc doanh thì lợi nhuận nhiều khi không
phải là cái đích hướng tới mà điều quan trọng là thực hiện được chủ trương,
chính sách của Đảng và nhà nước. Đặc biệt đối với NHNo & PTNT, với chức
năng cho vay trung - dài hạn với mức lãi suất kể cả lãi suất ưu đãi tín dụng để
thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì trong nhiều
23
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
trường hợp lợi nhuận không phải là mục tiêu cuối cùng ngân hàng. Nói như vậy
không có nghĩa là ngân hàng không quan tâm tới lợi nhuận. Vì sự tồn tại và
phát triển của bản thân ngân hàng mà ngân hàng không thể cho vay các món vay
không có tính khả thi hay lợi nhuận xấp xỉ bằng không. Nhìn chung nếu như các
chỉ tiêu khác giữa các dự án cho vay là như nhau thì dự án cho vay nào đem lại
lợi nhuận cao hơn vẫn thường được các ngân hàng ưu ái hơn. Thường thì chỉ
tiêu này càng cao càng tốt.
• Chỉ tiêu vòng quay của vốn tín dụng:
Vòng quay của vốn = x 100%
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong
hợp đồng tín dụng được bao nhiêu để có thể lại cho vay dự án mới. Vòng
quay của vốn càng lớn thì càng tốt vì điều đó khẳng định ngân hàng thu được
nhiều nợ và chứng tỏ nguồn vốn trung - dài hạn ngân hàng đã đầu tư hoạt
động có hiệu quả. Ngược lại, nếu vòng quay của vốn càng nhỏ thì việc thu nợ
của ngân hàng là kém và nguồn vốn trung - dài hạn mà ngân hàng đã đầu tư
hoạt động kém hiệu quả.
Như vậy khi đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn, chúng ta không
thể chỉ căn cứ vào một chỉ tiêu nào cụ thể mà phải sử dụng tổng hợp một hệ

thống các chỉ tiêu để có thể đưa ra kết luận chính xác. Giữa chất lượng tốt và
chất lượng chưa tốt không phải lúc nào cũng rạch ròi. Ngay cả khi ta sử dụng
mọi chỉ tiêu thì ta cũng chưa thể đánh giá chính xác được chất lượng cho vay vì
chất lượng tín dụng vừa mang tính cụ thể vừa mang tính trìu tượng. Sự trìu
tượng, mơ hồ ở các dự án nhiều khi là rất lớn, đặc biệt thể hiện trong các dự án
cho vay vì mục tiêu xã hội hay theo định hướng phát triển kinh tế của đất nước.
Tóm lại, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng phải luôn được xem xét
phân tích thường xuyên cả hai mặt định tính và định lượng, cả về lợi nhuận
thuần tuý và lợi ích xã hội, cả trên quan điểm ngân hàng và khách hàng. Thực
hiện được điều này sẽ giúp cho bản thân các ngân hàng cũng như khách hàng
24
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: TS. Lê Thị Thu Trang
đánh giá được chất lượng tín dụng một cách chính xác đầy đủ nhất. Qua đó có
thể giải quyết được những hạn chế, vướng mắc cũng như phát huy được những
ưu điểm để nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế đất nước.
4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung – dài hạn
Có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến chất lượng của một khoản tín
dụng, có thể là yếu tố khách quan mà cũng có thể là yếu tố chủ quan. Trong
phần này chúng ta sẽ nghiên cứu trên ba góc độ sau:
1 Các yếu tố xuất phát từ phía khách hàng
Để một khoản vay đạt chất lượng tốt thì ngoài việc ngân hàng tạo điều kiện
thuận lợi cho khách hàng thì bản thân khách hàng đi vay cũng phải đảm bảo
được các yếu tố như năng lực, sự trung thực hay lường trước được rủi ro trong
quá trình kinh doanh… của mình. Chỉ cần một yếu tố không được đảm bảo cũng
sẽ làm tăng nguy cơ rủi ro cho khoản vay đó.
Trước hết chúng ta sẽ xem xét yếu tố năng lực của khách hàng: khi đi vay
khách hàng luôn muốn món vay đem lại hiệu quả nhưng nhiều khi do năng lực

có hạn nên họ không thể thực hiện được ý đồ của mình. Có thể là do hạn chế về
khả năng, họ không dự đoán đúng những biến động lên xuống của nhu cầu thị
trường hoặc do yếu kém trong quản lý, giới thiệu, quảng cáo sản phẩm mà hoạt
động của doanh nghiệp không thể phát triển hoặc do thiếu kinh nghiệm trên
thương trường mà doanh nghiệp dễ dàng bị gục ngã trong cạnh tranh… Tất cả
những điều đó đều tác động không tốt đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Tiếp theo là yếu tố sự trung thực của khách hàng khi đi vay. Nếu khách
hàng trung thực, sử dụng vốn vay đúng mục đích và có thiện chí trả nợ thì xác
suất xảy ra rủi ro là rất ít vì tính khả thi của dự án cũng đã được ngân hàng thẩm
định một cách kỹ càng trước khi ra quyết định cho vay. Nhưng việc sử dụng vốn
vay sai mục đích của khách hàng đã góp phần không nhỏ vào việc đổ bể của các
tổ chức tín dụng. Chẳng hạn như sử dụng vốn vay đầu tư vào tài sản cố định,
vào bất động sản, sau đó các tài sản này bị sụt giá dẫn đến việc doanh nghiệp
25
SVTH: Đỗ Thùy Dương Lớp:
TN5N2

×