TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
TRẦN QUỐC CƯỜNG
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA JASMINE 85 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM
2012 - 2013 TẠI XÃ THỚI TÂN, HUYỆN
THỚI LAI, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KỸ SƯ NÔNG HỌC
Cần Thơ, 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC
Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA JASMINE 85 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM
2012 - 2013 TẠI XÃ THỚI TÂN, HUYỆN
THỚI LAI, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
GS. TS. Nguyễn Bảo Vệ Trần Quốc Cường
ThS. Trần Thị Bích Vân MSSV: 3103453
Lớp: Nông Học k36
Cần Thơ, 2013
i
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
O
Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Nông Học
ĐỀ TÀI:
“ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT GIỐNG
LÚA JASMINE 85 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2012 - 2013
TẠI XÃ THỚI TÂN, HUYỆN THỚI LAI,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ”
Sinh viên thực hiện: TRẦN QUỐC CƯỜNG
Kính trình lên hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xem xét.
Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2013
Cán bộ hướng dẫn
ThS. Trần Thị Bích Vân
ii
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
O
Hội đồng khoa học chấm luận văn tốt nghiệp với đề tài:
“ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT GIỐNG
LÚA JASMINE 85 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2012 - 2013
TẠI XÃ THỚI TÂN, HUYỆN THỚI LAI,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ”
Do sinh viên TRẦN QUỐC CƯỜNG thực hiện và bảo vệ trước hội đồng.
Ý kiến hội đồng:
……………………………………………………………………………………………
… …………………………………………………………………………………………
… ………………………………………………………………….………………………
Luận văn đã được hội đồng đánh giá ở mức: ……………
Cần Thơ, ngày……tháng… năm 2013
Thành viên Hội đồng
DUYỆT KHOA
Trưởng Khoa Nông Nghiệp & SHƯD
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả được trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chưa từng được ai
công
bố trong bất kỳ công trình luận văn nào trước đây.
Tác giả luận văn
Trần Quốc Cường
iv
CẢM TẠ
Xin tỏ lòng biết ơn đến
Cha mẹ và người thân trong gia đình đã yêu thương, chăm sóc, tạo kiều kiện
cũng như đã động viên tôi trong suốt qua trình học tập tại trường cũng như trong cuộc
sống.
Thầy Nguyễn Bảo Vệ và cô Trần Thị Bích Vân đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp.
Cô Trần Thị Thanh Thủy cùng với quí thầy cô trong Khoa Nông nghiệp và Sinh
học Ứng dụng đã chỉ dạy tận tình và cung cấp nhưng kinh nghiệm quí báu trong suốt
nhưng năm học tại trường Đại học Cần Thơ.
Chân thành cảm ơn
Các bạn sinh viên nghành Nông học, Khóa 36 đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá
trình học tập và thực hiện đề tài, các bạn đã đồng hành cùng với tôi, chia sẽ nhiều kinh
nghiệm trong học tập cũng như những khó khăn trong cuộc sống.
Trần Quốc Cường
v
LÝ LỊCH CÁ NHÂN
1. LÝ LỊCH SƠ LƯỢC
Họ và tên: Trần Quốc Cường Giới tính: Nam
Ngày sinh: 06/01/1992
Nơi sinh: Ô môn – Cần Thơ
Dân tộc: Kinh
Tôn giáo: Không
Quê quán: Ấp Thới Phước B, Xã Thới Tân, Huyện Thới Lai, Tp.Cần Thơ.
2. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Năm 1998 – 2003: Học tại Trường Tiểu học Thới Lai 3.
Năm 2003 – 2007: Học tại Trường THCS Thị Trấn Thới Lai.
Năm 2007 – 2010: Học tại Trường THPT Thới Lai.
Năm 2010 – 2013: Học tại Trường Đại học Cần Thơ khóa 36, ngành Nông học, Khoa
Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng.
vi
TRẦN QUỐC CƯỜNG, 2013 “Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa
Jasmine 85 vụ Đông Xuân 2012 – 2013 tại xã Thới Tân, Huyện Thới Lai, thành phố
Cần Thơ” luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Nông học, Khoa Nông nghiệp và Sinh học
Ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ. Cán bộ hướng dẫn: GS.TS. Nguyễn Bảo Vệ và
ThS. Trần Thị Bích Vân.
TÓM LƯỢC
Do tập quán canh tác truyền thống của nông dân là sạ dày và việc sử dụng nhiều
phân thuốc. Do đó, đề tài: “Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa
Jasmine 85 vụ Đông Xuân 2012 – 2013 tại xã Thới Tân, Huyện Thới Lai, thành phố
Cần Thơ” được tiến hành thí nghiệm nhằm mục đích xác định mật độ gieo sạ thích
hợp cho năng suất tốt nhất và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất trong sản xuất lúa nước tại
địa điểm thí nghiệm. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên 1
nhân tố, 3 nghiệm thức với 3 lần lặp lại: Nghiệm thức 1 (đối chứng): sạ với mật độ 250
kg/ha; Nghiệm thức 2: sạ với mật độ 187,5 kg/ha; Nghiệm thức 3: sạ với mật độ 125
kg/ha.
Kết quả thí nghiệm cho thấy sạ ở mật độ 250 kg/ha có chiều cao cây và số
chồi/m
2
cao nhất ở giai đoạn đầu đến 50 NSS nhưng chiều dài bông, số hạt trên bông,
số hạt chắc trên bông là thấp nhất. Sạ ở mật độ 187,5 kg/ha có chiều cao cây cao tương
đương với sạ 250 kg/ha từ giai đoạn 30 NSS đến 50 NSS, nhưng số chồi/m
2
thấp hơn
sạ 250 kg/ha. Chiều dài bông, số hạt trên bông, số hạt chắc trên bông tương đối cao
hơn so với sạ 250 kg/ha. Sạ mật độ 125 kg/ha có chiều dài bông, số hạt trên bông, số
hạt chắc trên bông cao nhất. Năng suất của nghiệm thức sạ 125 kg/ha cao tương đương
với sạ 250 kg/ha và 187,5 kg/ha nhưng có lợi nhận tăng thêm là 1.962.500 đồng.
vii
MỤC LỤC
Nội Dung
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan iii
Lời cảm tạ iv
Tiểu sử cá nhân v
Tóm lược vi
Mục lục vii
Danh sách bảng xi
Danh sách hình xii
Danh sách chữ viết tắt xiii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 Nguồn gốc và đặc tính thực vật cây lúa 2
1.1.1 Nguồn gốc cây lúa 2
1.1.2 Đặc tính thực vật cây lúa 2
1.1.2.1 Rễ 2
1.1.2.2 Thân 3
1.1.2.3 Lá 3
1.2 Thời kì sinh trưởng của cây lúa 3
1.2.1 Giai đoạn tăng trưởng 4
1.2.2 Giai đoạn sinh sản 5
1.2.3 Giai đoạn chín 6
1.3 Yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến năng suât cây lúa 6
1.3.1 Nhiệt độ 6
1.3.2 Ánh sáng 6
1.3.3 Lượng mưa 7
viii
1.3.4 Gió 7
1.3.5 Nước 7
1.3.6 Ảnh hưởng của đất 7
1.3.7 Ảnh hưởng của sâu bệnh, cỏ dại 8
1.4 Yêu cầu của cây lúa 8
1.4.1 Điều kiện đất đai 8
1.4.2 Dinh dưỡng cây lúa 8
1.4.2.1 Chất đạm (N) 8
1.4.2.2 Chất Lân (P) 8
1.4.2.3 Chất Kali (K) 9
1.4.2.4 Chất Silic (Si) 9
1.4.2.5 Chất Sắt (Fe) 9
1.5 Năng suất và thành phần năng suất 9
1.5.1 Số bông/m
2
10
1.5.2 Chiều dài bông 11
1.5.3 Số hạt chắc trên bông 11
1.5.4 Tỉ lệ hạt chắc 11
1.5.5 Trọng lượng 1000 hạt 12
1.6 Mật độ sạ và các phương pháp sạ 12
1.6.1 Mật độ sạ 12
1.6.2 Các Phương pháp sạ 13
1.6.2.1 Sạ ướt 14
1.6.2.2 Sạ khô 14
1.6.2.3 Sạ ngầm 14
1.6.2.4 Sạ chay 14
1.6.2.5 Sạ gởi 15
ix
CHƯƠNG 2 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 Phương tiện 16
2.1.1 Thời gian và địa điểm 16
2.1.2 Vật liệu thí nghiệm 1 6
2.2 Phương pháp 17
2.2.1 Bố trí thí nghiệm 17
2.2.2 Chỉ tiêu theo dõi 17
2.2.3 Đánh giá chỉ tiêu về các thành phần năng suất 18
2.2.4 Đánh giá khả năng phản ứng của cây lúa với một số sâu, bệnh hại 19
2.2.5 Kỹ thuật canh tác 20
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Đánh giá tổng quan 22
3.2 Ảnh hưởng của mật độ sạ đến sự sinh trưởng của cây lúa 22
3.2.1 Chiều cao cây 22
3.2.2 Số chồi/m
2
23
3.2.3 Chiều dài bông 25
3.3 Ảnh hưởng của mật độ sạ đến các thành phần năng suất 26
3.3.1 Số bông/m
2
26
3.3.2 Số hạt trên bông 26
3.3.3 Số hạt chắc trên bông 27
3.3.4 Tỷ lệ hạt chắc 27
3.3.5 Trọng lượng 1000 hạt 28
3.3.6 Năng suất lý thuyết 28
3.3.7 Năng suất thực tế 29
3.4 Hiệu quả kinh tế 30
CHƯƠNG 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1 Kết luận 31
x
4.2 Đề nghị 31
TÀI LIU THAM KHẢO 32
PH CHƯƠNG
xi
DANH SÁCH BẢNG
Bảng
Tựa bảng
Trang
3.1
Chiều cao (cm) của giống lúa JASMINE 85 vụ Đông Xuân 2012
- 2013 tại xã Thới Tân, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
23
3.2
Số chồi/m
2
của giống lúa JASMINE 85 vụ Đông Xuân 2012 –
2013 tại xã Thới Tân, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ.
24
3.3
Thành phần năng suất của giống lúa JASMINE 85 vụ Đông
Xuân 2012 - 2013 tại xã Thới Tân, huyện Thới Lai, thành phố
Cần Thơ vụ Đông Xuân 2013.
26
3.4
Năng suất (tấn/ha) của giống lúa JASMINE 85 vụ Đông Xuân
2012 - 2013 tại xã Thới Tân, huyện Thới Lai, thành phố Cần
Thơ.
29
3.5
Phân tích hiệu quả kinh tế
30
xii
DANH SÁCH HÌNH
Hình
Tựa hình
Trang
2.1
Sơ đồ bố trí thí nghiệm.
17
3.1
Chiều dài bông (cm) của giống lúa JASMINE 85 vụ Đông Xuân
2012 – 2013 tại xã Thới Tân, huyện Thới Lai, thành phố Cần
Thơ.
25
xiii
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
NSS: Ngày sau sạ
ha : Hecta
NSLT: Năng suất lý thuyết
NSTT: Năng suất thực tế
1
MỞ ĐẦU
Cây lúa (Oryza sativa L.) là một cây lương thực chủ yếu của thế giới, khoảng
40% dân số sử dụng lúa gạo là nguồn lương thực chính và 25% trong số đó sử dụng
trên ½ khẩu phần lương thực trong ngày. Ở nước ta, sản xuất lúa gạo có vai trò rất
qua trọng. Diện tích sản xuất lúa chiếm 61% diện tích trồng trọt cả nước và 80%
nông dân nước ta tham gia sản xuất lúa gạo.
Trong những yếu tố kỹ thuật để tăng năng suất cây trồng, ngoài phân bón và
cách bón phân, thì mật độ gieo sạ cũng ảnh hưởng đến năng suất cũng như sự sinh
trưởng của cây trồng. Sự cạnh tranh quần thể ảnh hưởng đến sự phát triển của cây
lúa, khi cây lúa phải sống trong điều kiện chật hẹp, thiếu ánh sáng làm cây lúa trở
nên yếu ớt sâu bệnh dễ tấn công và dịch bênh phát triển mạnh (Nguyễn Kim Chung
và Nguyễn Ngọc Đệ, 2005).
Ngày nay, do sự phát triển của kỹ thuật, các phương pháp lai tạo, nuôi cấy
mô và chọn lọc giống lúa của các viện, trường, trung tâm và các cá nhân trong
nước, qua thời gian dài đã lai tạo nhiều được nhiều giống lúa có năng suất cao phù
hợp với điều khí hậu, đất đai của từng địa phương. Tuy nhiên đa số nông dân có tập
quán sạ khá dày với mật độ khoảng 200 – 250kg/ha, do tập quán canh tác của nông
dân đảm bảo mật độ vào cuối vụ không bị hao hụt do các tác nhân từ bên ngoài như
chuột, ốc, sâu bệnh,…khi đó sẽ tốn lượng phân đạm khá lớn sẽ tạo điều kiện cho
sâu bệnh tấn công làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng nông sản, giá thành sản
phẩm cũng như tốn nhiều chi phí cho giống. Cho nên biện pháp gieo sạ với mật độ
vừa phải sẽ có ý nghĩa trong việc tăng năng suất cũng như giảm chi phí cho phân
bón và thuốc hóa học.
Do đó, đề tài “Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa Jasmine
85 vụ Đông Xuân 2012 – 2013 tại xã Thới Tân, Huyện Thới Lai, thành phố Cần
Thơ” được thực hiện nhằm mục tiêu xác định mật độ gieo sạ thích hợp đến năng
suất lúa để làm cơ sở khuyến cáo cho nông dân trong canh tác lúa.
2
Chương 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 NGUỒN GỐC VÀ ĐẶC TÍNH THỰC VẬT CÂY LÚA
1.1.1 Nguồn gốc cây lúa
Cây lúa trồng hiện nay đã trải qua một lịch sử tiến hóa rất lâu dài và khá
phức tạp, với nhiều thay đổi rất lớn về đặc điểm hình thái, nông học, sinh lý và sinh
thái để thích nghi với điều kiện khác nhau của môi trường thay đổi theo không gian
và thời gian. Về nguồn gốc cây lúa, đã có nhiều tác giả đề cập tới nhưng cho tới nay
vẫn chưa có những dữ liệu chắc chắn và thống nhất. Có một điều là lịch sử cây lúa
đã có từ lâu và gắn liền với lịch sử phát triển của nhân dân các nước Châu Á
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2009)
Datta (1981) lại cho rằng ngành trồng lúa ở nhiều khu vực ẩm của Châu Á
nhiệt đới và Á nhiệt đới có lẽ là bắt đầu khoảng 10.000 năm trước. Trong đó, Ấn Độ
có lẽ có lịch sử trồng lúa cổ xưa nhất vì đã có sự hiện diện của rất nhiều loài lúa
hoang ở đó. Tuy nhiên, ông cho rằng tiến trình thuần hóa lúa trồng đầu tiên xảy ra ở
Trung Quốc.
Một số nhà nghiên cứu Việt Nam lại cho rằng nguồn gốc cây lúa ở miền
Nam Việt Nam và Campuchia. Ở Việt Nam, Đinh Văn Lữ (1978) cũng đã cho rằng
khoảng 4000 – 3000 trước Công nguyên, người ta đã tìm thấy những di tích như
ban nghiền hạt lúa, cối và chày đá giã gạo. Từ các di chỉ Đồng Đậu và trống đồng
Đông Sơn có in hình người giã gạo, cùng với các vỏ trấu cháy thành than đã chứng
tỏ ngành trồng lúa đã có cách đây từ 3330 – 4100 năm (Võ Tòng Xuân, 1984).
Tuy có nhiều ý kiến nhưng chưa thống nhất, nhưng căn cứ vào các tài liệu
lịch sử, di tích khảo cổ, đặc điểm sinh thái học của cây lúa trồng và sự hiện diện
rộng rãi của các loài lúa hoang dại trong khu vực, nhiều người đồng ý rằng nguồn
gốc cây lúa là ở vùng đầm lầy Đông Nam Á, rồi từ đó lan dần đi các nơi. Thêm vào
đó, sự kiện thực tế là cây lúa và nghề trồng lúa đã có từ rất lâu ở vùng này, lịch sử
và đời sống của các dân tộc Đông Nam Á lại gắn liền với lúa gạo đã minh chứng
nguồn gốc của lúa trồng (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.1.2 Đặc tính thực vật cây lúa
1.1.2.1 Rễ
Rễ lúa có nhiệm vụ hút nước và chất dinh dưỡng nuôi cây, giúp cây bám chặt
vào đất, cho nên bộ rễ có khỏe mạnh thì cây lúa mới tốt được. Cây lúa có hai loại
rễ: rễ mầm và rễ phụ.
3
+ Rễ mầm (radicle): là rễ mọc ra đầu tiên khi hạt lúa nảy mầm. Rễ mầm giữ
nhiệm vụ chủ yếu là hút nước cung cấp cho phôi phát triển và sẽ chết sau 10 – 15
ngày, lúc cây mạ được 3 – 4 lá.
+ Rễ phụ (rễ bất định): mọc ra từ các mắt trên thân lúa. Tại mỗi mắt có 2
vòng rễ: vòng trên to và khỏe, vòng dưới nhỏ và kém quan trọng hơn. Bên trong rễ
có nhiều khoảng trống ăn thông với thân và lá. Nhờ có cấu tạo đặc biệt này mà rễ
lúa có thể sống trong điều kiện thiếu oxy do ngập nước (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.1.2.2 Thân
Thân lúa (stem) gồm những mắt và lóng nối tiếp nhau. Cây lúa nào có lóng
ngắn thành lóng dầy và bẹ lá ôm sát thì thân lúa sẽ cứng chắc và khó đỗ ngã và
ngược lại. Trên thân lúa các mắt thường phình ra, tại mỗi mắt có một lá, một mầm
chồi và hai tầng rễ phụ. Thân lúa có nhiệm vụ vận chuyển và tích lũy các chất trong
cây. Trong điều kiện đầy đủ chất dinh dưỡng và ánh sáng, mầm chồi sẽ phát triển
thành một chồi thật sự, thoát ra khỏi bẹ lá. Sự ra lá, ra chồi và ra rễ của cây lúa tuân
theo một quy luật nhất định. Quy luật này gọi là quy luật đồng hạng của Katayama
về ra lá, ra chồi và ra rễ “Khi lá thứ n trên thân chính xuất hiện thì tại mắt lá thứ n –
3 chồi sẽ xuất hiện và rễ phụ cũng ra”. Các chồi mọc quá trễ khi cây lúa sắp phân
hóa đồng thường nhỏ yếu và sau đó chết đi gọi là chồi vô hiệu.
1.1.2.3 Lá
Lúa là cây đơn tử diệp (một lá mầm). Lá mọc đối ở hai bên thân lúa, lá ra sau
nằm về phía đối diện lá ra trước đó. Lá trên cùng gọi là lá cờ hay lá đòng. Lá lúa
gồm phiến lá, cổ lá và bẹ lá. Tại cổ lá có hai bộ phận đặc biệt là tai lá và thìa lá. Đây
là điểm đặc thù để phân biệt cây lúa với các cây họ hòa thảo khác (Nguyễn Thành
Hối, 2011).
1.2 THỜI KÌ SINH TRƯỞNG CỦA CÂY LÚA
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009) đời sống cây lúa bắt đầu từ khi hạt nẩy mầm
cho đến khi lúa chín có thể chia làm ba giai đoạn chính: giai đoạn tăng trưởng (sinh
trưởng dinh dưỡng), giai đoạn sinh sản (sinh dục) và giai đoạn chín.
Với giống có thời gian sinh trưởng 120 ngày, trong điều kiện nhiệt đới thời
gian sinh trưởng là 60 ngày, làm đòng 30 ngày và chín 30 ngày. Thời kỳ sinh
trưởng dinh dưỡng thường biến động mạnh nhất, thời kỳ làm đòng thường biến
động trong khoảng 30 – 40 ngày tuỳ theo giống ngắn ngày hay dài ngày. Thời kỳ
chín thường biến động theo nhiệt độ. Sự khác nhau và biến động về thời lượng
trong các thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng phụ thuộc vào giống và điều kiện ngoại
cảnh. Những giống chín sớm có thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng ngắn, chúng có thể
4
làm đòng trước khi đạt số nhánh tối đa. Ngược lại ở giống dài ngày thường đạt số
nhánh tối đa và làm đốt trước làm đòng (Nguyễn Đình Giao và ctv, 1997).
1.2.1 Giai đoạn tăng trưởng
Giai đoạn này của cây lúa được bắt đầu từ khi hạt nảy mầm cho đến khi bắt
đầu phân hóa đòng. Thời gian dành cho giai đoạn này khác nhau tùy theo thời gian
sinh trưởng của từng giống lúa. Đối với những giống có thời gian sinh trưởng 120
ngày được trồng ở các nước có khí hậu nhiệt đới, giai đoạn này chiếm 60 ngày
(Yosida, 1981). Đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long, các giống lúa có thời gian
sinh trưởng là 90 ngày thì giai đoạn này chiếm khoảng 30 ngày.
Giai đoạn này cây phát triển về thân lá, chiều cao tăng dần và ra nhiều chồi
mới. Cây ra lá ngày càng nhiều và kích thước ngày càng lớn giúp cây lúa nhận được
nhiều ánh sáng mặt trời để quang hợp, hấp thụ dinh dưỡng, gia tăng chiều cao, nở
bụi và chuẩn bị cho các giai đoạn sau. Trong điều kiện đầy đủ chất dinh dưỡng, ánh
sáng và thời tiết thuận lợi, cây lúa có thể bắt đầu nở bụi khi có lá thứ 5 – 6 (Nguyễn
Ngọc Đệ, 2009). Thời gian sinh trưởng của cây lúa kéo dài hay ngắn khác nhau chủ
yếu là do giai đoạn tăng trưởng này dài hay ngắn (Nguyễn Thành Hối, 2010).
Nhờ sự phát triển của rễ và lá diễn ra cùng lúc nên thúc đẩy sự phát triển
mạnh của thân chính và quá trình đẻ nhánh diễn ra đều đặn làm tăng dần số nhánh
trên một bụi lúa. Quá trình đẻ nhánh của cây lúa chỉ diễn ra trong một thời gian nhất
định được gọi là thời gian đẻ nhánh và thời gian này kết thúc khi cây lúa đạt được
số chồi tối đa trên một đơn vị diện tích. Mật độ gieo sạ thưa thì thời gian đẻ nhánh
dài hơn so với gieo sạ dày (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997). Sự khác biệt về giống,
thời vụ và kỹ thuật canh tác sẽ làm thay đổi thời gian đẻ nhánh của cây lúa.
Trong giai đoạn này những nhánh được hình thành chỉ có hai khả năng, (1) là
hình thành nhánh hữu hiệu (nhánh sẽ hình thành bông) và (2) là hình thành nhánh
vô hiệu (nhánh không hình thành bông). Thường thì các nhánh đẻ sớm thì cho bông,
còn các nhánh đẻ muộn thì có thể cho bông và không (Yosida, 1981).
Thời gian sinh trưởng của các giống lúa kéo dài hay ngắn khác nhau chủ yếu
là do giai đoạn tăng trưởng này dài hay ngắn. Thường các giống lúa rất ngắn ngày
và ngắn ngày có giai đoạn tăng trưởng ngắn và thời điểm phân hóa đòng có thể xảy
ra trước hoặc ngay khi cây lúa đạt được số chồi tối đa. Ngược lại các giống lúa dài
ngày (trên 4 tháng) thường đạt được số chồi tối đa trước khi phân hóa đòng. Thông
thường, số chồi hình thành bông (chồi hữu hiệu hay là chồi có ích) thấp hơn so với
số chồi tối đa và ổn định khoảng 10 ngày trước khi đạt được số chồi tối đa. Các chồi
ra sau đó, thường sẽ tự rụi đi không cho bông được, do chồi nhỏ, yếu không đủ khả
năng cạnh tranh dinh dưỡng, ánh sáng với các chồi khác, gọi là chồi vô hiệu, trong
5
canh tác người ta hạn chế đến mức thấp nhất việc sản sinh ra số chồi vô hiệu này
bằng cách tạo điều kiện cho lúa nở bụi càng sớm càng tốt và khống chế sự mọc
thêm chồi từ khoảng 7 ngày trước khi phân hóa đòng trở đi, để tập trung dinh dưỡng
cho những chồi hữu hiệu (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.2.2 Giai đoạn sinh sản
Giai đoạn sinh sản bắt đầu từ lúc cây lúa phân hóa đòng đến lúc trổ bông.
Giai đoạn này kéo dài khoảng 27 – 35 ngày, trung bình 30 ngày và giống lúa dài
ngày hay ngắn ngày thường không khác nhau nhiều. Lúc này số chồi vô hiệu giảm
nhanh, chiều cao tăng lên rõ rệt do sự vươn dài của 5 lóng trên cùng (Nguyễn Ngọc
Đệ, 2009). Đòng lúa phát triển qua nhiều giai đoạn, cuối cùng thoát ra khỏi bẹ của
lá cờ: lúa trổ bông. Trong thời gian này nếu đầy đủ chất dinh dưỡng, mực nước
thích hợp, ánh sáng nhiều, không sâu bệnh và thời tiết thuận lợi thì bông lúa sẽ hình
thành nhiều hơn và vỏ trấu sẽ đạt kích thước lớn nhất của giống, tạo điều kiện gia
tăng trọng lượng hạt sau này.
Trong đời sống của cây lúa, giai đoạn này được đặc trưng bởi hiện tượng
thân chính của lúa vươn cao nhanh làm tăng chiều cao cây, giảm nhanh chóng số
nhánh vô hiệu, xuất hiện lá đòng, kéo dài tốt và cuối cùng là trổ bông (Nguyễn
Thành Hối, 2003). Trong giai đoạn này, điều quan tâm nhất chính là sự hình thành
và phát triển của đòng lúa, sự phân hóa đòng thường diễn ra sau khi cây lúa đạt
được số chồi tối đa. Đây chính là thời kỳ báo hiệu cây lúa chuyển từ pha sinh
trưởng sang pha sinh sản. Dấu hiệu đầu tiên là sự vươn lóng diễn ra ở lóng đầu tiên
và kế đến là quá trình hình thành đòng lúa. Sự phát triển của đòng lúa trải qua nhiều
quá trình phân chia tế bào và giảm nhiễm. Quá trình này trải qua chín bước, sau khi
đòng lúc hình thành hoàn chỉnh thì nhờ sự vươn dài của hai lóng trên cùng mà đòng
lúa thoát ra khỏi bẹ lá cờ (Nguyễn Xuân Trường, 2004).
Ở giai đoạn này, cây lúa được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, mực nước thích
hợp, ánh sáng nhiều, không sâu bệnh và thời tiết thuận lợi thì bông lúa sẽ hình thành
nhiều hơn và vỏ trấu sẽ đạt kích thước lớn nhất của giống (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Như vậy, trong giai đoạn này đặc trưng bởi sự phân hóa và hình thành đòng của cây
lúa, quá trình này sẽ quyết định đến số hoa được phân hóa trên bông lúa nên ảnh
hưởng đến sự hình thành số hạt/bông, số hạt chắc/bông và tỷ lệ hạt chắc của cây lúa
(Nguyễn Trường Giang, 2010).
6
1.2.3 Giai đoạn chín
Giai đoạn này bắt đầu từ lúc lúa trổ bông đến lúc thu hoạch. Giai đoạn chín
được đặc trưng bởi sự sinh trưởng hạt, tăng trưởng kích thước và trọng lượng, sự
đổi màu của hạt và sự già hóa của lá. Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009) giai đoạn này
trung bình khoảng 30 ngày đối với hầu hết các giống lúa ở vùng nhiệt đới. Trong
giai đoạn này cây lúa trải qua các thời kỳ sau:
Thời kỳ chín sữa (ngậm sữa): các chất dự trữ trong thân lá và các sản
phẩm quang hợp được chuyển vào trong hạt. Kích thước hạt gạo tăng
dần làm đầy vỏ trấu. Hạt gạo chứa một dịch lỏng màu trắng đục như sữa
nên gọi là thời kỳ ngậm sữa.
Thời kỳ chín sáp: hạt lúa mất nước, từ từ cô đặc lại, nhưng vỏ trấu vẫn
còn xanh.
Thời kỳ chín vàng: hạt tiếp tục mất nước, gạo cứng dần, vỏ trấu bắt đầu
chuyển sang màu vàng đặc thù của giống lúa.
Thời kỳ chín hoàn toàn: hạt gạo khô cứng lại. Thời điểm thu hoạch tốt
nhất là khi 80% hạt lúa ngã sang màu vỏ trấu đặc trưng của giống.
1.3 Yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến năng suất cây lúa
1.3.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ có tác dụng quyết định đến tốc độ sinh trưởng của cây lúa nhanh
hay chậm, tốt hay xấu. Trong phạm vi giới hạn (20 – 30
o
C), nhiệt độ càng tăng cây
lúa phát triển càng mạnh. Nhiệt độ trên 40
o
C hoặc dưới 17
o
C cây lúa tăng trưởng
chậm lại. Dưới 13
o
C cây lúa ngừng sinh trưởng, nếu kéo dài quá một tuần cây lúa sẽ
chết (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Nhiệt độ cao tăng vận tốc ra lá và sinh nhiều mầm chồi hơn. Nhiệt độ cao sẽ
rút ngắn giai đoạn vào chắc, thời tiết có mây thường xuyên gây hại cho sự chắc hạt.
Nhiệt độ cao hơn 35
o
C khi trổ gié hoa có thể làm phần trăm bất thụ cao (Đinh Thế
Lộc, 2006).
1.3.2 Ánh sáng
Ánh sáng có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng, phát triển và phát dục của
cây lúa trên phương diện cường độ ánh sáng và độ dài chiếu sáng trong ngày.
Cường độ ánh sáng ảnh hưởng trực tiếp đến sự quang hợp của cây lúa thể hiện chủ
yếu bằng năng lượng ánh sáng mặt trời chiếu tới ruộng lúa (Nguyễn Ngọc Đệ,
2009). Bức xạ mặt trời có ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất hạt ở giai đoạn sinh
dục, ảnh hưởng kế tiếp giai đoạn chín và ảnh hưởng cực nhỏ giai đoạn dinh dưỡng
(Yoshida, 1981).
7
1.3.3 Lượng mưa
Trong điều kiện thủy lợi chưa hoàn chỉnh thì lượng mưa là một trong những
yếu tố khí hậu có tính chất quyết định đến việc hình thành các vùng trồng lúa và các
vụ lúa trong năm. Trong mùa mưa lượng mưa cần thiết cho cây lúa trung bình
khoảng 6 – 7mm/ngày và 8 – 9mm/ngày trong mùa khô nếu không có nguồn nước
khác bổ sung (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.3.4 Gió
Ở giai đoạn làm đòng và trổ, gió mạnh ảnh hưởng xấu đến quá trình hình
thành và phát triển của đòng lúa, sự trổ bông, thụ phấn, thụ tinh và sự tích lũy chất
khô trong hạt bị trở ngại làm tăng tỷ lệ hạt lép, hạt lửng. Gió nhẹ giúp quá trình trao
đổi không khí trong quần thể ruộng lúa tốt hơn, tạo điều kiện cho quá trình quang
hợp và hô hấp của ruộng lúa góp phần tăng năng suất (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.3.5 Nước
Cây lúa thiếu nước ở bất kỳ giai đoạn nào cũng gây giảm năng suất. Do đó,
để có thể gieo trồng một năm hai, ba vụ lúa người ta đã xây dựng các công trình
thủy lợi để chủ động nước tưới hiệu quả cho cây lúa (Yoshida, 1981).
Trong thời kỳ phát triển bông hạt nhất là khi làm đòng cho đến khi phơi màu
cây lúa thoát hơi nước mạnh nhất cho nên giai đoạn này cây lúa cần nhiều nước.
Trong thời kỳ đẻ nhánh nếu thiếu nước thì số bông giảm bớt nhưng sau đó nếu nước
đầy đủ thì hạt chắc sẽ tăng lên nên tác hại cũng ít. Sau khi phân hóa đòng nếu thiếu
nước trong thời kỳ phân chia giảm nhiễm và khi trổ sẽ có tác hại rất lớn, sau đó đến
thời kỳ chín sữa. Khi lúa chín thiếu nước tác hại cũng giảm nhẹ, sau khi lúa chín
không cần giữ nước lâu trong ruộng, nhưng nếu tháo nước quá sớm, cây bị hạn sẽ
chín sớm, không thuận lợi cho việc tích lũy tinh bột và protein, hạt lép nhiều và có
thể bị bệnh đạo ôn, nhưng nếu tháo nước muộn thì thời gian chín sẽ kéo dài, hạt
xanh nhiều tỷ lệ chất khô kém (Đinh Thế Lộc, 2006).
1.3.6 Ảnh hưởng của đất
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008), đất trồng lúa cần giàu dinh dưỡng, nhiều hữu
cơ, tơi xốp, khả năng giữ nước, giữ phân tốt, tầng canh tác dày để bộ rễ ăn sâu, bám
chặt vào đất và huy động chất dinh dưỡng nuôi cây. Loại đất thịt hay đất thịt pha
sét, ít chua hoặc trung tính (pH từ 5,5 – 7,5) là thích hợp đối với cây lúa, đất ruộng
cần bằng phẳng và cần chủ động được nước để lúa đạt được năng suất cao.
8
1.3.7 Ảnh hưởng của sâu bệnh, cỏ dại
Sâu bệnh phá hại, theo ước tính ở nước ta làm thiệt hại khoảng 20% sản
lượng cây trồng. Nếu tính cả thiệt hại sau thu hoạch và trong kho thì con số này còn
cao hơn nhiều (Nguyễn Công Thuật, 1996). Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009) thì
lượng phân bón không cân đối và không đúng yêu cầu sinh trưởng của cây lúa. Sự
hiểu biết về sâu bệnh và biện pháp phòng trừ của nông dân bị giới hạn. Đó là điều
kiện tốt cho sâu bệnh bộc phát, lưu tồn và phát triển gia tăng thiệt hại cho ruộng lúa,
làm giảm năng suất và có khi mất trắng .
Tác hại của sâu bệnh và cỏ dại, một mặt làm giảm năng suất hoặc có thể gây
ra mất mùa, mặt khác làm chất lượng nông phẩm giảm sút, nhiều khi không tiêu thụ
được, phải đổ đi hàng loạt (Nguyễn Công Thuật, 1996). Bởi vậy, trong canh tác lúa
muốn năng suất lúa cao, phẩm chất hạt tốt thì người trồng lúa cần quan tâm đặc biệt
vấn đề sâu bệnh, cỏ dại.
1.4 YÊU CẦU CỦA CÂY LÚA
1.4.1 Điều kiện đất đai
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009), đất trồng lúa cần giàu dinh dưỡng, nhiều hữu
cơ, tơi xốp, khả năng giữ nước, giữ phân tốt, tầng canh tác dày để bộ rễ ăn sâu, bám
chặt vào đất và huy động chất dinh dưỡng nuôi cây. Loại đất thịt hay đất thịt pha
sét, ít chua hoặc trung tính (pH từ 5,5 – 7,5) là thích hợp đối với cây lúa, đất ruộng
cần bằng phẳng và cần chủ động được nước để lúa đạt được năng suất cao.
1.4.2 Dinh dưỡng cây lúa
1.4.2.1 Chất đạm (N)
Đạm là chất tạo hình cây lúa, là thành phần chủ yếu của protein và chất diệp
lục làm cho lá xanh tốt, gia tăng chiều cao cây, số chồi và kích thước lá thân. Do đó,
dựa vào màu sắc và kích thước lá, chiều cao và khả năng nở bụi của cây lúa, người
ta có thể chẩn đoán tình trạng dinh dưỡng đạm trong cây. Việc nghiên cứu ứng dụng
bảng so màu lá để bón phân đạm hợp lý cho lúa đã được thực hiện ở Nhật Bản,
Viện Nghiện cứu Lúa quốc tế (IRRI) và Việt Nam (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009). Hiện
nay kỹ thuật nầy đã được phổ biến rất rộng rãi trong sản xuất lúa ở ĐBSCL góp
phần làm giảm chi phí sản xuất, giảm thiệt hại của sâu bệnh, tăng năng suất và hạn
chế lưu tồn nitrat trong đất và trong nước do bón dư thừa đạm.
1.4.2.2 Chất Lân (P)
Lân là chất sinh năng (tạo năng lượng), là thành phần của ATP, NADP….
Thúc đẩy việc sử dụng và tổng hợp chất đạm trong cây, kích thích rễ phát triển,
giúp cây lúa mau lại sức sau khi cấy, nở bụi mạnh, kết nhiều hạt chắc, tăng phẩm
9
chất gạo, giúp lúa chín sớm và tập trung hơn. Lân còn là thành phần cấu tạo acid
nhân (acid nucleic), thường tập trung nhiều trong hạt. Cây lúa cần lân nhất là trong
giai đoạn đầu, nên cần bón lót trước khi sạ cấy. Khi lúa trổ, khoảng 37 – 83% chất
lân được chuyển lên bông (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.4.2.3 Chất Kali (K)
Kali còn gọi là bồ tạt (potassium), kali giúp cho quá trình vận chuyển và tổng
hợp các chất trong cây, duy trì sức trương của tế bào, giúp cây cứng cáp, tăng khả
năng chống sâu bệnh, chống ngã đổ, chịu hạn và lạnh khỏe hơn, tăng số hạt chắc
trên bông và làm hạt no đầy hơn. Kali giữ vai trò quan trọng trong điều hòa nước,
pH của tế bào, thúc đẩy hoạt động của enzym. Kali cần cho việc hình thành glucid,
đuờng, tổng hợp protein, dầu, phân chia tế bào. Kali giúp chống rét, chống đổ ngã,
tăng cường màu sắc của hạt, nhiều hạt chắc trên bông và trọng lượng 1000 hạt cao
(Đỗ Ánh, 2003). Kali giúp cho quá trình quang hợp tốt hơn đặc biệt là trong điều
kiện thiếu ánh sáng, nhiệt độ thấp, thời tiết âm u (Nguyễn Xuân Trường và ctv.,
2000). Kali tập trung chủ yếu trong rơm rạ, chỉ khoảng 6 – 20% ở trên bông
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.4.2.4 Chất Silic (Si)
Cây lúa hấp thụ Silic nhiều hơn bất kỳ chất dinh dưỡng nào (từ 890 đến –
1.018 kg/ha/vụ). Trong cây, Silic tập trung chủ yếu trong thân lá (khoảng 60%), 1
phần trên bông (khoảng 20%).
Silic có vai trò quan trọng trong cây. Người ta nhận thấy rằng Silic làm tăng
bề dày của vách tế bào, giúp cây lúa cứng cáp, chống đổ ngã kháng sự xâm nhập
của mầm bệnh và sự tấn công của côn trùng, làm lá thẳng đứng, nhiều bông, giảm
thoát hơi nước giúp cây chịu hạn khỏe hơn. Silic cũng làm tăng lực oxid hoá của rễ
và ngăn cản sự hấp thu Fe và Mn quá mức (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.4.2.5 Chất Sắt (Fe)
Sắt là thành phần cấu tạo của Chlorophyll (diệp lục tố) và một số phân hóa tố
trong cây. Cây lúa cũng cần sắt nhưng với lượng nhỏ. Nồng độ Fe
2+
trong lá dưới 70
ppm cây lúa có triệu chứng thiếu sắt. Sự thiếu sắt xảy ra ở đất trung tính, đất kiềm
và thường xảy ra ở đất cao, đất rẫy hơn là đất ngập nước. Tuy nhiên, ở nồng độ Fe
2+
cao (trên 300 ppm) cây lúa lại bị độc (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.5 NĂNG SUẤT VÀ THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT
Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) cho rằng, năng suất lúa được
quyết định bởi các yếu tố: số bông trên mét vuông (N), số hạt trên bông (n), tỷ lệ
10
w
1000
1
10
6
hạc chắc và khối lượng 1000 hạt (w). Mối quan hệ phụ thuộc có thể biểu diễn bằng
công thức sau:
Y = N x x x F x 10
4
Trong đó:
Y: Năng suất (tấn/ha)
N: số hạt/m
2
F: tỷ lệ hạt chắc
w: trọng lượng 1000 hạt (g)
1000
w
: là khối lượng của một hạt
6
10
1
: là hệ số quy đổi từ gram sang tấn
10
4
: là hệ số quy đổi từ mét vuông sang hecta
Các yếu tố năng suất có liên quan với nhau. Số bông trên mét vuông phụ
thuộc vào tỉ lệ đẻ nhánh, phụ thuộc vào mật độ gieo sạ. Khi cây đẻ nhánh mạnh thì
số bông trên mét vuông tăng. Khi số bông trên mét vuông tăng quá cao thì bông lúa
sẽ bé đi, số hạt trên bông giảm, tỉ lệ hạt chắc trên bông cũng giảm. Tỷ lệ hạt chắc và
khối lượng hạt phụ thuộc vào số hạt trên bông (Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan,
1999).
1.5.1 Số bông/m
2
Theo Nguyễn Đình Giao và ctv. (1997), trong bốn yếu tố tạo thành năng suất
thì số bông/m
2
là yếu tố có tính quyết định nhất và sớm nhất. Nó có thể đóng góp
74% năng suất, trong khi số hạt và trọng lượng hạt đóng góp 26% năng suất. Tuy
nhiên, nó còn chịu ảnh hưởng lớn của kỹ thuật canh tác và điều kiện ngoại cảnh
(chế độ phân bón, nước tưới, mật độ sạ hoặc cấy, nhiệt độ, ánh sáng,…).
Hiện nay, một số giống lúa cải tiến có khả năng đẻ nhánh mạnh (20 – 25
nhánh/bụi) trong điều kiện đầy đủ dinh dưỡng, nhưng chỉ có khoảng một số (14 –
15 nhánh) cho bông hữu hiệu. Nguyễn Đình Giao và ctv. (1997) đã khẳng định, số
bông có quan hệ nghịch với số hạt trên bông và trọng lượng hạt. Nên khi tăng mật
độ, số bông trên một đơn vị diện tích sẽ tăng nhưng số hạt trên bông và trọng lượng
hạt sẽ giảm. Nếu mật độ quá dày, đầu tư phân bón sẽ cao nhưng dễ dẫn đến gia tăng
sâu bệnh trên ruộng lúa. Vì vậy để cho năng suất cao cây lúa cần có số bông/m
2
vừa
phải, gia tăng số hạt chắc/bông trên một đơn vị diện tích là biện pháp gia tăng năng