Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa om5451 vụ hè thu năm 2012 tại xã vị thủy, huyện vị thủy, tỉnh hậu giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 52 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
 O 






PHAN THỊ THÙY TRANG




ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM5451 VỤ HÈ THU NĂM 2012 TẠI
XÃ VỊ THỦY, HUYỆN VỊ THỦY,
TỈNH HẬU GIANG





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NÔNG HỌC










Cần Thơ, 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH: NÔNG HỌC




Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM5451 VỤ HÈ THU NĂM 2012 TẠI
XÃ VỊ THỦY, HUYỆN VỊ THỦY,
TỈNH HẬU GIANG





Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:

Gs.Ts. Nguyễn Bảo Vệ Phan Thị Thùy Trang
Ths. Trần Thị Bích Vân MSSV: 3103532
Lớp: NH K36


Cần Thơ, 2013

i
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
 O 


Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Nông Học

ĐỀ TÀI:
“ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM5451 VỤ HÈ THU NĂM 2012
TẠI XÃ VỊ THỦY HUYỆN VỊ THỦY
TỈNH HẬU GIANG”


Sinh viên thực hiện: Phan Thị Thùy Trang
Kính trình lên hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xem xét.



Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2013
Cán bộ hướng dẫn



Gs.Ts. Nguyễn Bảo Vệ
Ths. Trần Thị Bích Vân

ii
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
 O 

Hội đồng khoa học chấm luận văn tốt nghiệp với đề tài:
“ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM5451 VỤ HÈ THU NĂM 2012
TẠI XÃ VỊ THỦY, HUYỆN VỊ THỦY,
TỈNH HẬU GIANG”

Do sinh viên Phan Thị Thùy Trang thực hiện và bảo vệ trước hội đồng.
Ý kiến hội đồng:
…………………………………………………………………………………………
…… …………………………………………………………………………………
………… ………………………………………………………………….…………
……………
Luận văn đã được hội đồng đánh giá ở mức: ……………
Cần Thơ, ngày……tháng… năm 2013
Thành viên Hội đồng




DUYỆT KHOA

Trưởng Khoa Nông Nghiệp & SHƯD



iii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả được trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình luận văn nào trước đây.




Tác giả luận văn



Phan Thị Thùy Trang















iv
CẢM TẠ

Kính dâng
Cha mẹ đã tận tụy nuôi dưỡng và tạo điều kiện cho tôi được học tập và rèn luyện.
Chân thành cảm tạ
Thầy Nguyễn Bảo Vệ và cô Trần Thị Bích Vân đã tận tình hướng dẫn và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành nghiên cứu.
Chân thành cảm ơn
Quý thầy cô của Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, Khoa Thủy Sản,
Trường Đại học Cần Thơ đã truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong quá
trình học tập và rèn luyện tại trường.
Các bạn sinh viên nghành Nông Học, Khóa 36 đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá
trình học tập và thực hiện đề tài.




















v
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP

LÝ LỊCH SƠ LƯỢC
Họ và tên: Phan Thị Thùy Trang
Ngày sinh: 04/ 10/ 1991
Nơi sinh: Vị Thanh, Cần Thơ
Dân tộc: Kinh
Chổ ở hiện nay: Ấp 6, xã Vị Thủy, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang
Điện thoại: 01678546132
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Năm 2002 tốt nghiệp tiểu học.
Năm 2006 tốt nghiệp trung học cơ sở.
Năm 2009 tốt nghiệp trung học phổ thông.
Năm 2010-2013 là sinh viên nghành Nông học khóa 36 Trường Đại học Cần Thơ.



















vi
PHAN THỊ THÙY TRANG, 2012 “ Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất
giống lúa OM5451 vụ Hè Thu năm 2012 tại xã Vị Thủy, huyện Vị Thủy, tỉnh
Hậu Giang”. Luận văn tốt nghiệp đại học, Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng
dụng, trường Đại học Cần Thơ. Cán bộ hướng dẫn: Gs. Ts. Nguyễn Bảo Vệ và Ths.
Trần Thị Bích Vân.

TÓM LƯỢC
Đề tài “Ảnh hưởng của mật độ gieo sạ đến năng suất giống lúa OM5451
trong vụ Hè Thu năm 2012 tại xã Vị Thủy, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang” được
thực hiện nhằm mục tiêu xác định mật độ gieo sạ thích hợp để làm tăng hiệu quả
kinh tế cho nông dân. Thí nghiệm được tiến hành trong vụ Hè Thu 2012 tại xã Vị
Thủy, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối
hoàn toàn ngẫu nhiên, ba lần lâp lại, bao gồm các nghiệm thức: sạ ở mật độ 100
kg/ha, sạ ở mật độ 150 kg/ha, sạ ở mật độ 200 kg/ha.
Kết quả thí nghiệm cho thấy trong vụ Hè Thu, Sạ thưa với mật độ 100 kg/ha có số
chồi tối đa thấp hơn sạ với mật độ 200 kg/ha. Nghiệm thức sạ ở mật độ 100 kg/ha
có số hạt trên bông, số hạt chắc/bông cao nhất. Trọng lượng 1000 hạt ít biến động.
Nghiệm thức sạ 150 kg/ha và nghiệm thức sạ 200 kg/ha tương đương nhau. Năng
suất thực tế ở mật độ sạ 100 kg/ha là 6,73 tấn/ha tương đương với sạ 150 kg/ha và
200 kg/ha. Sạ ở mật độ sạ 100 kg/ha có lợi nhuận tăng thêm 2.234.000 đồng/ha so

với nghiệm thức 200 kg/ha.














viii
MỤC LỤC

Trang phụ bìa i
Lời cam đoan iii
Cảm tạ iv
Quá trình học tập v
Tóm lược vi
Mục lục vii
Danh mục bảng x
Danh mục hình xi
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
1.1. THỜI KỲ SINH TRƯỞNG CỦA CÂY LÚA 2
1.1.1. Giai đoạn tăng trưởng 2

1.1.2. Giai đoạn sinh sản. 2
1.1.3. Giai đoạn chín 3
1.1.2 Đặc điểm thực vật 4
1.1.2.1 Rể 4
1.1.2.2.Thân 4
1.1.1.3 Lá 5
1.2 YÊU CẦU CỦA CÂY LÚA 5
1.2.1 Yêu cầu về đất đai 5
1.2.2 Yêu cầu sử dụng phân bón 6
1.2.3 Mật độ sạ 6
1.3. PHƯƠNG PHÁP GIEO SẠ 7
1.3.1. Sạ lan 7
1.3.1.1 Sạ ướt 7
1.3.1.2 Sạ khô 7
1.3.1.3 Sạ ngầm 8
1.3.1.4 Sạ chay 8
1.3.1.5 Sạ gởi 8

ix
1.3.2 Sạ hàng 8
1.4 CÁC THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT 9
1.4.1. Số bông/m
2
10
1.4.2. Số hạt/bông 10
1.4.3. Tỷ lệ hạt chắc 11
1.4.4. Trọng lượng 1000 hạt 11
1.5 MỘT SỐ BỆNH HẠI CHÍNH CỦA CÂY LÚA 12
1.5.1 Bệnh hại 12
1.5.1.1 Bệnh đạo ôn 12

1.5.1.2 Bệnh đốm nâu 12
1.5.1.3 Bệnh cháy bìa lá 12
1.5.2 Sâu rầy 12
1.5.2.1 Rầy nâu 12
1.5.2.2. Sâu cuốn lá nhỏ 13
1.5.2.3 Nhện gié 13
1.6 ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG PHẢN ỨNG CỦA CÂY LÚA VỚI MỘT SỐ BỆNH
HẠI CHÍNH 13
1.6.1 Bênh đạo ôn 13
1.6.2 Rầy nâu 13
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP 14
2.1. PHƯƠNG TIỆN 14
2.1.1. Thời gian và địa điểm 14
2.1.2. Phương tiện 14
2.2. PHƯƠNG PHÁP 15
2.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 15
2.2.2. Biện pháp canh tác 15
2.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi 16
2.2.3.1 Các chỉ tiêu nông hoc 16
2.2.3.2 Năng suất và các thành phần năng suất 16
2.2.4. Phân tích số liệu 17
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN. 18

x
3.1. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN 18
3.2. ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ GIEO SẠ ĐẾN SỰ SINH TRƯỞNG CỦA
CÂY LÚA. 18
3.2.1. Chiều cao cây. 18
3.2.2. Số chồi/m
2

19
3.2.3. Chiều dài bông 20
3.3. ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ GIEO SẠ ĐẾN THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT
VÀ NĂNG SUẤT. 21
3.3.1 Các thành phần năng suất 21
3.3.1.1 Số bông/m
2
21
3.3.1.2 Số hạt trên bông 22
3.3.1.3 Số hạt chắc trên bông. 23
3.3.1.4 Tỷ lệ hạt chắc (%) 24
3.3.1.5 Trọng lượng 1000 hạt. 25
3.3.2 Năng suất 25
3.3.2.1 Năng suất lý thuyết 25
3.3.2.2 Năng suất thực tế. 26
3.4. HIỆU QUẢ KINH TẾ 26
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 28
4.1. KẾT LUẬN 28
4.2. ĐỀ NGHỊ 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
PHỤ CHƯƠNG


xi
DANH MỤC BẢNG


Bảng
Tựa bảng
Trang

3.1
Ảnh hưởng của mật độ gieo sạ đến chiều cao cây lúa qua các
giai đoạn sinh trưởng của giống lúa OM5451 tại xã Vị Thủy,
huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang vụ Hè Thu 2012
19
3.2
Ảnh hưởng của mật độ gieo sạ đến chiều số chồi/m
2
qua các
giai đoạn sinh trưởng của giống lúa OM5451 tại xã Vị Thủy,
huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang vụ Hè Thu 2012
20
3.3
Ảnh hưởng của mật độ gieo sạ đến chiều dai bông qua các
giai đoạn sinh trưởng của giống lúa OM5451 tại xã Vị Thủy,
huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang vụ Hè Thu 2012
21
3.4
Năng suất lý thuyết và năng suất thực tế của giống lúa
OM5451 tại xã Vị Thủy, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang vụ
Hè Thu 2012
26
3.5
Ảnh hưởng của mật độ sạ đến hiệu quả kinh tế của giống lúa
OM5451 vụ Hè Thu năm 2012 tại Huyện Vị Thủy, Tỉnh Hậu
Giang
27

xii
DANH MỤC HÌNH


Hình
Tựa hình
Trang
2.1
Bản đồ hành chính huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang
14
2.2
Sơ đồ bố trí thí nghiệm
15
3.1
Ảnh hưởng của mật độ gieo sạ đến số bông/m
2
của giống
lúa OM5451 tại vụ Hè Thu năm 2012 tại Huyện Vị Thủy,
tỉnh Hậu Giang
22
3.2
Ảnh hưởng của mật độ gieo sạ đến số hạt trên bông của
giống lúa OM5451 tại vụ Hè Thu năm 2012 tại Huyện Vị
Thủy, tỉnh Hậu Giang
22
3.3
Ảnh hưởng của mật độ gieo sạ đến số hạt chắc trên bông
của giống lúa OM5451 tại vụ Hè Thu năm 2012 tại Huyện
Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang
24
3.4
Ảnh hưởng của mật độ gieo sạ đến tỷ lệ hạt chắc của giống
lúa OM5451 tại vụ Hè Thu năm 2012 tại Huyện Vị Thủy,

tỉnh Hậu Giang
24
3.5
Ảnh hưởng của mật độ gieo sạ đến trọng lượng 1000 hạt
của giống lúa OM5451 tại vụ Hè Thu năm 2012 tại Huyện
Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang
25
















xiii

DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT

BVTV : Bảo vệ thực vật
ĐBSCL : Đồng Bằng Sông Cửu Long
ha : hecta

NSS : Ngày sau sạ
ctv. : Cộng tác viên
Rep : Replication (lần lặp lại)




1
MỞ ĐẦU
Cây Lúa (Oryza sativa L.) là một trong ba cây lương thực chủ yếu của thế
giới, khoảng 40% dân số thế giới xem lúa gạo là nguồn lương thực chính, 25% dân
số sử dụng trên 1/2 khẩu phần lương thực hàng ngày. Đối với nước ta, việc sản xuất
lúa gạo là một chiến lược có tầm quan trọng to lớn. Ngoài việc là nguồn lương thực
chính cho người dân hằng năm tiêu thụ khoảng 120 kg/người (Nguyễn Ngọc Đệ,
2009), lúa gạo còn là nguồn xuất khẩu mang lại ngoại tệ lớn cho nền kinh tế. Hiện
nay, diện tích gieo trồng lúa chiếm đến 61% diện tích đất trồng trọt cả nước và 80%
nông dân Việt Nam tham gia sản xuất lúa gạo. Việc sản xuất lúa gạo nước ta đang
có nhiều thách thức lớn. Bên cạnh đó, để đạt được năng suất và hiệu quả kinh tế
cao, thì mật độ gieo trồng cũng là một yếu tố hết sức quan trọng mà chúng ta cần
phải quan tâm.
Trong quá trình trồng lúa, người dân còn gặp nhiều khó khăn trong vấn đề kĩ
thuật, trong đó phải nhắc đến tập quán gieo sạ còn nhiều bất cập về mật độ. Nên
việc xác định mật độ thích hợp là vấn đề cần thiết, nó góp phần vào thực hiện chủ
trương “3 giảm” tức giảm phân bón, giảm giống và giảm chi phí thuốc trừ sâu.
Do người dân có tập quán truyền thống gieo sạ với mật độ cao khoảng 200
kg/ha, nhưng trong thực tế lúa là loại cây có khả năng tự điều chỉnh trong quần thể,
nếu sạ với mật độ quá cao cây lúa sẽ đẻ nhánh ít hoặc không đẻ nhánh, tỉ lệ chồi vô
hiệu cao, thậm chí cây bị chết do cạnh tranh sinh tồn, cùng với đó là việc bón nhiều
phân đạm dẫn đến sâu bệnh phát triển mạnh và làm giảm năng suất (Nguyễn
Trường Giang, 2010). Vì vậy việc chọn mật độ sạ thích hợp có ý nghĩa rất quan

trọng trong gia tăng năng suất, chất lượng, hạn chế được sâu hại. Do đó, đề tài
“Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa OM5451 vụ Hè Thu năm
2012 tại xã Vị Thủy, Huyện Vị Thủy, Tỉnh Hậu Giang” được thực hiện nhằm tìm
ra mật độ gieo sạ thích hợp làm tăng năng suất và hiệu quả kinh tế cho người dân.










2
CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 THỜI KỲ SINH TRƯỞNG CỦA CÂY LÚA
Về mặt nông học, người ta chia đời sống của cây lúa thành ba giai đoạn
chính (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.1.1 Giai đoạn tăng trưởng
Giai đoạn này của cây lúa được bắt đầu từ khi hạt nảy mầm cho đến khi bắt
đầu phân hóa đòng. Giai đoạn này cây phát triển về thân lá, chiều cao tăng dần và ra
nhiều chồi mới. Cây ra lá ngày càng nhiều và kích thước ngày càng lớn giúp cây lúa
nhận được nhiều ánh sáng mặt trời để quang hợp, hấp thụ dinh dưỡng, gia tăng
chiều cao, nở bụi và chuẩn bị cho các giai đoạn sau. Trong điều kiện đầy đủ chất
dinh dưỡng, ánh sáng và thời tiết thuận lợi, cây lúa có thể bắt đầu nở bụi khi có lá
thứ 5 - 6 (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009). Thời gian sinh trưởng của cây lúa kéo dài hay
ngắn khác nhau chủ yếu là do giai đoạn tăng trưởng này dài hay ngắn (Nguyễn
Thành Hối, 2010).

Nhờ sự phát triển của rễ và lá diễn ra cùng lúc nên thúc đẩy sự phát triển
mạnh của thân chính và quá trình đẻ nhánh diễn ra đều đặn làm tăng dần số nhánh
trên một bụi lúa. Quá trình đẻ nhánh của cây lúa chỉ diễn ra trong một thời gian nhất
định được gọi là thời gian đẻ nhánh và thời gian này kết thúc khi cây lúa đạt được
số chồi tối đa trên một đơn vị diện tích. Thông thường, số chồi hình thành bông
(chồi hữu hiệu hay còn gọi là chồi có ích) thấp hơn so với số chồi tối đa và ổn định
khoảng 10 ngày trước khi đạt được chồi tối đa. Các chồi ra sau đó, thường sẽ tự rụi
đi không cho bông được do chồi nhỏ, yếu không đủ khả năng cạnh tranh dinh
dưỡng, ánh sáng với các chồi khác, gọi là chồi vô hiệu. Trong canh tác, người ta hạn
chế đến mức thấp nhất việc sản sinh ra số chồi vô hiệu này bằng cách tạo điều kiện
cho lúa nở bụi càng sớm càng tốt và khống chế sự mọc thêm chồi từ khoảng 7 ngày
trước khi phân hóa đòng trở đi, để tập trung dinh dưỡng cho những chồi hữu hiệu
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2009). Mật độ gieo sạ thưa thì thời gian đẻ nhánh dài hơn so với
gieo sạ dày (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997). Sự khác biệt về giống, thời vụ và kỹ
thuật canh tác sẽ làm thay đổi thời gian đẻ nhánh của cây lúa.
1.1.2 Giai đoạn sinh sản
Giai đoạn này bắt đầu từ lúc phân hóa đòng đến khi lúa trổ bông, giai đoạn
này kéo dài khoảng 27 - 35 ngày, trung bình là 30 ngày, giống lúa dài ngày hay
ngắn ngày thường không khác nhau nhiều. Lúc này, số chồi vô hiệu giảm nhanh,
chiều cao tăng lên rõ rệt do sự vươn dài của 5 lóng trên cùng (Nguyễn Ngọc Đệ,
2009). Đòng lúa hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn, cuối cùng thoát ra


3
khỏi bẹ của lá cờ lúa trổ bông. Trong suốt thời gian này, nếu đầy đủ dinh dưỡng,
mực nước thích hợp, ánh sáng nhiều, không sâu bệnh và thời tiết thuận lợi thì bông
lúa sẽ hình thành nhiều hơn và vỏ trấu sẽ đạt được kích thước lớn nhất của giống,
tạo điều kiện gia tăng trọng lượng hạt sau này. Như vậy, trong giai đoạn này đặc
trưng bởi sự phân hóa và hình thành đòng của cây lúa, quá trình này sẽ quyết định
đến số hoa được phân hóa trên bông lúa nên ảnh hưởng đến sự hình thành số

hạt/bông, số hạt chắc/bông và tỷ lệ hạt chắc của cây lúa (Nguyễn Trường Giang,
2010).
1.1.3 Giai đoạn chín
Giai đoạn chín bắt đầu từ lúc trổ bông đến lúc thu hoạch. Theo Nguyễn
Ngọc Đệ (2009) giai đoạn này trung bình khoảng 30 ngày đối với hầu hết các giống
lúa ở vùng nhiệt đới. Tuy nhiên, nếu đất ruộng có nhiều nước, thiếu lân, thừa đạm,
trời mưa ẩm, ít nắng trong thời gian này thì giai đoạn chín sẽ kéo dài hơn và ngược
lại. Giai đoạn này cây lúa trải qua các thời kỳ sau:
- Thời kỳ chín sữa (ngậm sữa): các chất dự trữ trong thân lá và sản phẩm
quang hợp đuợc chuyển vào trong hạt. Hơn 80% chất khô tích lũy trong hạt là do
quang hợp ở giai đoạn sau khi trổ. Do đó, các điều kiện dinh dưỡng, tình trạng sinh
trưởng, phát triển của cây lúa và thời tiết từ giai đoạn lúa trổ trở đi hết sức quan
trọng đối với quá trình hình thành năng suất lúa. Kích thước và trọng lượng hạt gạo
tăng dần làm dầy vỏ trấu. Bông lúa nặng cong xuống nên gọi là lúa “cong trái me”.
Hạt gạo chứa một dịch lỏng màu trắng đục như sữa, nên gọi là thời kỳ lúa ngậm
sữa.
- Thời kỳ chín sáp: hạt mất nước, từ từ cô đặc lại, lúc bấy giờ vỏ trấu vẫn còn
xanh.
- Thời kỳ chín vàng: hạt tiếp tục mất nước, gạo cứng dần, trấu chuyển sang
màu vàng đặc thù của giống lúa, bắt đầu từ những hạt cuối cùng ở chót bông lan dần
xuống các hạt ở phần cổ bông nên gọi là “lúa đỏ đuôi”, lá già rụi dần.
- Thời kỳ chín hoàn toàn: Hạt gạo khô cứng lại, ẩm độ hạt khoảng 20% hoặc
thấp hơn, tùy ẩm độ môi truờng, lá xanh chuyển vàng và rụi dần. Thời điểm thu
hoạch tốt nhất là khi 80% hạt lúa ngã sang màu trấu đặc trưng của giống
Trong đó, quan trọng nhất của giai đoạn này là thời kỳ chín sữa. Trong quá
trình chín sữa, các chất dự trữ trong thân lá và sản phẩm quang hợp được chuyển
vào trong hạt. Hơn 80% lượng vật chất khô tích lũy trong hạt là do quá trình quang
hợp sau trổ cung cấp. Do đó, các điều kiện dinh dưỡng, tình trạng sinh trưởng, phát
triển của cây lúa và thời tiết giai đoạn sau trổ trở đi hết sức quan trọng đối với quá
trình hình thành năng suất lúa, kích thước và trọng lượng hạt gạo tăng dần làm đầy



4
vỏ trấu (Nguyễn Bảo Vệ, 2003). Như vậy, trong giai đoạn này thời kỳ chín sữa là
quan trọng nhất, do sự tích lũy vật chất khô vào hạt tăng trong điều kiện đầy đủ ánh
sáng và dinh dưỡng. Đó là quá trình ảnh hưởng rất lớn đến trọng lượng hạt.
1.1.2 Đặc điểm thực vật
1.1.2.1 Rễ
Rễ lúa có nhiệm vụ hút nước và chất dinh dưỡng nuôi cây, giúp cây bám chặt
vào đất, cho nên bộ rễ có khỏe mạnh thì cây lúa mới tốt được. Cây lúa có hai loại
rễ: rễ mầm và rễ phụ.
+ Rễ mầm (radicle): là rễ mọc ra đầu tiên khi hạt lúa nảy mầm. Rễ mầm giữ
nhiệm vụ chủ yếu là hút nước cung cấp cho phôi phát triển và sẽ chết sau 10 - 15
ngày, lúc cây mạ được 3 - 4 lá.
+ Rễ phụ (rễ bất định): mọc ra từ các mắt trên thân lúa. Tại mỗi mắt có 2
vòng rễ: vòng trên to và khỏe, vòng dưới nhỏ và kém quan trọng hơn. Bên trong rễ
có nhiều khoảng trống ăn thông với thân và lá. Nhờ có cấu tạo đặc biệt này mà rễ
lúa có thể sống trong điều kiện thiếu oxy do ngập nước (Nguyễn Ngọc Ðệ, 2009).
1.1.2.2 Thân
Thân lúa gồm các mắt và lóng nối tiếp nhau. Lóng là phần thân rỗng ở giữa
hai mắt và thường được bẹ lá ôm chặt. Thông thường các lóng bên dưới ít phát triển
nên các mắt rất khít nhau, chỉ có khoảng 3 - 8 lóng trên cùng bắt đầu vươn dài khi
lúa có đòng (2 - 35 cm). Thiết diện của lóng có hình tròn hay bầu dục với thành
lóng dày hay mọng và lóng dài hay ngắn tùy từng loại giống và điều kiện môi
trường, đặc biệt là nước. Cây lúa nào có lóng ngắn, thành lóng dày, bẹ lá ôm sát
thân thì thân lúa sẽ cứng chắc, khó đổ ngã và ngược lại. Thân lúa có nhiệm vụ vận
chuyển và tích trữ các chất dinh dưỡng trong cây (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Trên thân lúa các mắt thường phình ra. Tại mỗi mắt lúa có mang một lá, một
mầm chồi và hai tầng rễ phụ. Trong điều kiện thuận lợi, cây lúa thường bắt đầu mọc
chồi đầu tiên ở mắt thứ hai, đồng thời với lá thứ năm trên thân chính (chồi ngạnh

trê). Sau đó cứ ra thêm một lá mới thì các chồi tương ứng sẽ xuất hiện.
Để xác định chồi vô hiệu (chồi không thành bông) và chồi hữu hiệu chồi cho
bông) khi cây lúa bắt đầu phân hóa đòng có thể dựa vào chiều cao hoặc số lá trên
chồi:
+ Chồi hữu hiệu: chiều cao cao hơn 2/3 so với thân chính, có trên 3 lá.
+ Chồi vô hiệu: chiều cao thấp hơn 2/3 so với thân chính, ít hơn 3 lá.



5
1.1.2.3 Lá
Lúa là cây đơn tự diệp (1 lá mầm). Lá lúa mọc đối ở hai bên thân lúa lá ra
sau nằm về phía đối diện với lá trước đó. Lá trên cùng (lá cuối cùng trước khi trổ
bông) gọi là lá cờ hay lá đòng. Lá lúa gồm có phiến lá, cổ lá và bẹ lá. Lá lúa thẳng
đứng sau khi tượng gié là hình tính quan trong nhất để đạt năng suất cao. Lá thẳng
đứng cho phép ánh sáng xâm nhập và phân bố đều trong ruộng lúa làm tăng khả
năng quang hợp cho cây. Lá ngắn thường đứng hơn lá dài và phân bố điều hơn
trong tán lá (Jenning và ctv., 1979).
Mỗi giống lúa có một tổng số lá nhất định, các giống lúa ngắn ngày thường
có tổng số lá biến thiên từ 12 - 16 lá. Ngoài ra, tốc độ ra lá, chiều dài và tuổi thọ của
từng lá phụ thuộc vào giống, điều kiện môi trường và giai đoạn sinh trưởng của cây.
Bẹ lá góp phần rất ít cho sự quang hợp nhưng nó cho thấy chức năng quan
trọng khác. Cây lúa bắt đầu vươn lóng khi tượng khối sơ khởi, thân vẫn còn nhỏ,
dài khoảng 1 cm, bẹ lá làm nhiệm vụ chống đỡ cho toàn cây. Cho tới khi lóng bắt
đầu vươn dài, bẹ lá chống đỡ giúp cây phát triển bình thường. Ngay sau khi sự phát
triển của lóng đã hoàn thành thì bẹ lá vẫn góp phần vào độ cứng của thân khoảng 30
- 60% (Yoshida, 1981). Như vậy, bẹ lá có chức năng chống đỡ cơ học cho toàn cây
lúa.
1.2 YÊU CẦU CỦA CÂY LÚA
1.2.1 Yêu cầu về đất đai

Lúa có thể được trồng trên nhiều loại đất khác nhau từ đất phù sa, đất phèn,
đất mặn cho đến đất bạc màu. Tuy nhiên, năng suất lúa trên các loại đất là tương đối
khác nhau, phụ thuộc vào các yếu tố hạn chế của từng loại đất .
Nói chung, đất trồng lúa cần nhiều dinh dưỡng, chất hữu cơ, tơi xốp, thoáng
khí, khả năng giữ nước, giữ phân tốt, tầng canh tác dầy để bộ rễ ăn sâu, bám chặt
vào đất và huy động nhiều dinh dưỡng nuôi cây. Loại đất thịt hay đất pha sét, ít
chua hoặc trung tính là thích hợp đối với cây lúa. Trong thực tế, có những giống lúa
có thể thích nghi được với những điều kiện đất đai khắc nghiệt (phèn, mặn, khô hạn
hay ngập úng) rất tốt.
Ðồng bằng sông Cửu Long với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ
cao và ít biến đổi trong năm, lượng bức xạ dồi dào là điều kiện thuận lợi cho việc
trồng lúa. Tuy nhiên, do lượng mưa nhiều nhưng phân bố không đều, đất đai, địa
hình phức tạp đã giới hạn năng suất lúa rất nhiều và hình thành những vùng trồng
lúa khác nhau với chế độ nước, cơ cấu giống, mùa vụ và tập quán canh tác rất đa
dạng.



6
1.2.2 Yêu cầu sử dụng phân bón
Theo Nguyễn Ngọc Ðệ (2009), để phát triển cây lúa cần nhiều loại dưỡng
chất như đạm, lân, kali, silic, canxi, magie, sắt, kẽm, đồng Trong đó ba loại
dưỡng chất chính lúa cần dùng nhiều để sinh trưởng và tạo năng suất là đạm, lân và
kali. Ngoài ra, theo Trịnh Quang Khương (2010), thì cho rằng bón phân cho cây
trồng nói chung và cho cây lúa nói riêng là một yếu tố hết sức quan trọng có ảnh
hưởng rất lớn đến năng suất. Bón đầy đủ phân đa lượng N, P, K có thể đóng góp 40
- 45% năng suất.
1.2.3 Mật độ sạ
Theo Bùi Huy Ðáp (1980) cho rằng việc bố trí mật độ cây trồng tùy thuộc
vào giống:

+ Ðối với giống dài ngày cao cây với mực nước ruộng thích hợp và điều kiện
nhiệt đới ở nước ta thì cấy với mật độ dày là hợp lý, mỗi bụi nên cấy ít tép, bụi lúa
cấy ít tép sẽ đẻ nhánh thuận xòe ra 4 phía, bụi lúa tròn khỏe. Nếu cấy với mật độ
quá dày với số tép cao trên bụi dễ đưa đến tình trạng lốp, đỗ non và có thể không
thu hoạch được năng suất quần thể giảm nhiều.
+ Ðối với giống lúa thấp cây, ngắn ngày có những đặc tính với giống cây cao
dài ngày nhất là kiểu lá, số lá trên cây (ít hơn), độ dày lá, kích thước lá, góc lá
hẹp….
Tất cả các ưu điểm trên cho phép cây lúa có thể chịu được những mật độ dày
hơn những giống cao cây. Ðối với giống này sạ với mật độ càng dày thì số chồi hữu
hiệu càng giảm thấp.
Theo Ðào Thế Tuấn (1984) để cải thiện một thành phần năng suất lại đưa
đến giảm thành phần năng suất khác, chẳng hạn như tăng số bông trên đơn vị diện
tích thì số hạt trên bông giảm. Theo tác giả, để cải thiện năng suất cây trồng thì dựa
vào mật độ cây trồng, diện tích lá, điều kiện đất đai để đạt năng suất cao nhất.
Ở ÐBSCL, những nghiên cứu về mật độ sạ, phương pháp sạ và đã khuyến
cáo sạ ở mật độ 100 kg giống/ha cho năng suất tương đương hoặc cao hơn sạ ở mật
độ 200 kg giống/ha, sạ thưa có số bông ít hơn sạ dày, nhưng bông dài và số hạt chắc
trên bông nhiều. Nếu sạ hàng thì mật độ sạ 50, 75, 125 kg giống/ha cho năng suất
lúa không khác biệt nhau (Trịnh Quang Khương, 2010).
Mật độ sạ thích hợp là tạo điều kiện cho cây lúa phát triển tốt, tận dụng có
hiệu quả các chất dinh dưỡng, nước và ánh sáng. Mật độ cây thích hợp còn tạo nên
sự tương tác hài hòa giữa các cá thể cây lúa và quần thể ruộng lúa để đạt mục đích
cuối cùng là cho năng suất cao (Hiraoka, 1999). Cây lúa có khả năng tự điều chỉnh


7
mật độ, khả năng này nằm trong phạm vi nhất định phụ thuộc vào bản chất di truyền
của giống, khả năng đẻ nhánh, chiều cao và góc độ lá, độ màu mỡ của đất, điều kiện
nước trong ruộng lúa và những điều kiện sinh thái khí hậu khác, nhất là nhiệt độ và

phân bón (Trịnh Quang Khương, 2010). Viện nghiên cứu lúa ÐBSCL đã thực hiện
nhiều thí nghiệm về điều chỉnh mật độ sạ, các kết quả cho thấy nếu ruộng lúa bằng
phẳng, quản lý nước tốt, khi gieo sạ với mật độ 75 - 125 kg giống/ha cho năng suất
tương đương hoặc cao hơn sạ với mật độ 200 - 250 kg giống/ha (Trịnh Quang
Khương, 2010).
1.3 PHƯƠNG THỨC GIEO SẠ
Trong sản xuất hiện nay có rất nhiều hình thức sạ khác nhau, điều này là do
điều kiện đất đai và nước tưới của từng vùng, vụ khác nhau mà chọn lựa phương
pháp sạ thích hợp. Những vùng chủ động được nước tưới và đất tương đối bằng
phẳng thường áp dụng phương pháp sạ ướt. Hiện nay, hầu hết diện tích trồng lúa ở
Ðồng bằng sông Cửu Long là lúa cao sản và phương pháp sạ ướt được sử dụng
nhiều nhất (Nguyễn Thành Hối, 2010). Ðối với phương pháp sạ ướt cũng có hai
phương pháp được áp dụng là sạ lan theo tập quán và sạ theo hàng đang được
khuyến cáo áp dụng.
1.3.1 Sạ lan
1.3.1.1 Sạ ướt
Đất được chuẩn bị trong điều kiện ướt, xong rút cạn nước và gieo hạt giống
đã ngâm ủ cho nảy mầm trên đất đã đánh bùn nhuyễn. Đây là hình thức sạ phổ biến
ở những nơi có đủ nước để làm đất và chủ động nước. Sạ ướt có thể áp dụng cho tất
cả các vụ hè thu, thu đông hay đông xuân.
Đây là phương thức sạ phổ biến, vì phần lớn diện tích lúa đã trồng bằng các
giống lúa cao sản ngắn ngày, cần cho lúa mọc tốt ngay từ giai đoạn mạ, để có cơ sở
ban đầu cho sinh trưởng phát triển đạt năng suất cao, và cây lúa không có thời gian
để hồi phục như đối với lúa mùa dài ngày (Nguyễn Văn Luật, 2001).
1.3.1.2 Sạ khô
Kiểu sạ khô đã thực hiện từ lâu ở vùng lúa nổi với các giống lúa địa phương.
Tuy nhiên, sạ khô lúa cao sản có yêu cầu cao hơn. Sạ khô nhằm làm tăng thêm một
vụ lúa ngắn ngày tại những vùng đất bị nhiễm mặn hoặc canh tác nhờ nước trời,
bằng cách tận dụng lượng nước mưa đầu mùa để cho lúa phát triển, tranh thủ thời
vụ, đảm bảo năng suất vụ sau. Đất được chuẩn bị trong điều kiện khô và hạt giống

khô, không ngâm ủ. Sạ khô chỉ được thực hiện trong vụ hè thu sớm (Nguyễn Ngọc
Đệ, 2009).


8
Theo Nguyễn Văn Luật (2001) gieo thẳng khô thường phải gieo với số lượng
hạt giống rất cao để phòng hờ và cạnh trạnh với cỏ dại, độ 250 - 300 kg/ha. Tốn
công, thuốc trừ sâu và công dậm nên lúa chết mất khoản.
1.3.1.3 Sạ ngầm
Sạ hạt giống đã nảy mầm trong ruộng ngập nước. Kỹ thuật này thường được
áp dụng trong vụ Thu Đông hoặc Đông Xuân ở những chân ruộng trũng nước ngập
sâu và không có điều kiện thoát nước hoặc để tranh thủ mùa vụ xuống giống sớm
hơn, giảm được công bơm tưới về sau. Sạ ngầm có điều kiện tiên quyết là nước phải
trong nhanh sau khi sạ (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.3.1.4 Sạ chay
Là biện pháp sạ lúa không làm đất, sử dụng hạt giống không hoặc đã ngâm
24 giờ, sạ vào ruộng đã được phơi khô và đốt đồng, sau đó bơm nước vào hoặc bơm
nước vào ruộng rồi mới sạ. Nước được giữ lại trong ruộng 1 ngày để ngâm đất và
cho hạt lúa hút nước đầy đủ. Sau đó rút nước ra chỉ giữ ẩm để hạt lúa mọc mầm như
đối với trường hợp sạ ướt (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.3.1.5 Sạ gởi
Hạt giống của cây lúa ngắn ngày được trộn lẫn với hạt lúa mùa dài ngày theo
một tỷ lệ nhất định tùy yếu tố đất đai và đặc tính giống. Sạ cùng một lúc 2 loại
giống bằng phương pháp sạ ướt hoặc khô tùy điều kiện từng nơi. Sau khi thu hoạch
vụ lúa ngắn ngày người ta tiếp tục chăm sóc cho trà lúa mùa phát triển tốt để thu
hoạch vào cuối mùa mưa, khi nguồn nước ngọt đã cạn và ruộng khô. Phương pháp
này thường được áp dụng ở những vùng lúa nước trời nhiễm mặn, phèn, nơi mà thời
gian có thể trồng được rất ngắn (5 - 6 tháng) trong mùa mưa, hoặc ở những trũng,
nước ngập sâu không có thủy lợi tốt để có thể trồng 2 vụ lúa thuận lợi. Đây là
những vùng đất khó khăn, trước đây chỉ trồng được 1 vụ lúa mùa. Tăng thêm 1 vụ

lúa ngắn ngày tại đây là một vấn đề không đơn giản (Nguyễn Ngọc Đệ,2009).
1.3.2 Sạ hàng
Nguyên lý hoạt động của máy sạ hàng là rắc hạt bằng trống đựng hạt tròn.
Các loại máy thông dụng hiện nay có 6 trống, gieo được 12 hàng với khoảng cách
16 cm x 2 - 3 cm (nguồn:www.vaas.org.vn).
Theo Nguyễn Văn Luật (2001) quy trình kỹ thuật sạ lúa theo hàng bằng máy
hạt lúa ngâm ủ cho vừa lúc nứt nanh nhú mầm, hong cho ráo nước, đổ vào trống, tối
đa 2/3 trống. Khi kéo trên mặt ruộng, bánh xe lăn làm cho trống chứa hạt lúa lăn
theo, hạt lúa trong trống xáo trộn và rơi xuống ruộng thành hàng.


9
Sạ lúa theo hàng ở Đồng bằng sông Cửu Long bằng máy theo phương pháp
sạ ướt, đã thể hiện nhiều ưu điểm so với sạ lan tập quán:
+ Về tiết kiệm vật tư: mật độ sạ thích hợp là từ 70 - 100kg hạt giống 1 ha,
trong khi sạ lan hiện tốn 200 - 250 kg/ha, như vậy mỗi ha tiết kiệm được khoảng
100 - 150 kg hạt giống.
+ Tạo điều kiện thuận lợi để thâm canh: đi lại chăm bón phòng trừ sâu bệnh,
trừ cỏ và lọc giống dễ dàng giữa các hàng lúa.
+ Giảm thiệt hại do sâu bệnh, chuột phá, do điều kiện tiểu khí hậu ruộng lúa
được cải thiện, ánh sáng mặt trời lọt xuống tầng dưới được nhiều hơn, nên sâu bệnh
giảm, yêu cầu lượng thuốc sát trùng giảm hẳn.
+ Tăng năng suất lúa: Cây lúa sử dụng năng lượng mặt trời để quang hợp tạo
năng suất cao thuận lợi hơn.
Lê Trường Giang (2005) cho rằng, áp dụng phương pháp sạ hàng có thể tiết
kiệm lượng giống đáng kể (50%), giảm phân bón và thuốc trừ sâu, tăng năng suất,
dẫn đến sự giảm tác hại đến môi trường. Khó khăn chính đối với lúa sạ hàng là sự
gây hại của ốc bươu vàng, theo sau đó là đất không bằng phẳng, thiếu đê bao khép
kín, diện tích đất canh tác nhỏ, kỹ thuật ngâm ủ giống, rủi ro về thời tiết, chất lượng
máy sạ hàng, giá sản phẩm không ổn định và giá cả vật tư cao.

Về mặt gieo sạ thì gieo theo hàng có ưu thế hơn sạ vãi vì gieo theo hàng ít
hao giống, ít sâu bệnh và chi năng suất tương đối với sạ vãi mật độ 200kg/ha
(Nguyễn Kim Chung và Nguyễn Ngọc Đệ, 2005). Công cụ sạ lúa theo hàng có chi
phí đầu tư ban đầu thấp, đã được chứng minh là tốt như giảm chi phí hạt giống,
giảm lượng phân bón, dễ chăm sóc lúa, năng suất lúa tăng (Nguyễn Bồng, 2003).
Nguyễn Văn Huỳnh (2003) cho rằng, gieo sạ thưa như sạ bằng máy sạ hàng vừa hạn
chế bệnh nám bẹ và một số loài dịch hại khác, đồng thời cũng vừa tiết kiệm lượng
hạt giống, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu để hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng thu
nhập cho người nông dân.
1.4 CÁC THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT
Năng suất lúa yếu tố phản ánh hiện trạng canh tác trong mùa vụ. Theo
Nguyễn Ngọc Ðệ (2009), năng suất lúa do bốn yếu tố cấu thành là: số bông trên đơn
vị diện tích, số hạt trên bông, tỉ lệ hạt chắc và trọng lượng 1000 hạt. Mỗi thành phần
năng suất được quyết định ở một giai đoạn nhất định của cây lúa.
Có thể tính năng suất theo công thức sau:




10
Năng suất lý thuyết (tấn/ha) = số bông trên đơn vị diện tích x số hạt trên bông x
tỉ lệ hạt chắc (%) x trọng lượng 1000 hạt (g) x 10
-5
(Yoshida, 1981 và Nguyễn
Ngọc Ðệ, 2009).
1.4.1 Số bông/m
2

Số bông/m
2

là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến năng suất lúa. Với mật
độ gieo sạ khác nhau thì số bông/m
2
là khác nhau. Số bông trên đơn vị diện tích
được quyết định vào giai đoạn sinh trưởng ban đầu của cây lúa (giai đoạn tăng
trưởng), nhưng chủ yếu là giai đoạn từ khi cấy đến khoảng 10 ngày trước khi có
chồi tối đa, số bông trên đơn vị diện tích tùy thuộc vào mật độ sạ cấy và khả năng
nở bụi của lúa. Mật độ sạ cấy và khả năng nở bụi của lúa thay đổi tùy theo giống
lúa, điều kiện đất đai, thời tiết, lượng phân bón nhất là phân đạm và chế độ nước.
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009) số bông trên đơn vị diện tích có ảnh hưởng thuận với
năng suất lúa, các giống lúa cải thiện thấp cây có số bông/m
2
trung bình phải đạt
500 - 600 bông đối với lúa sạ hoặc 350 - 450 bông đối với lúa cấy mới có được
năng suất cao.
Số bông/m
2


biểu hiện tăng khi tăng mật độ sạ, điều này chứng tỏ rằng số
bông trên một đơn vị diện tích chịu sự ảnh hưởng của mật độ gieo sạ, do khi sạ với
mật độ càng dày thì càng có nhiều cây lúa trên ruộng, từ đó số bông cũng nhiều hơn
tuy nhiên nếu sạ quá dày, thì số bông/m
2
có tăng nhưng tăng không đáng kể, khả
năng đẻ nhánh của cây lúa bị hạn chế do thiếu dinh dưỡng và ánh sáng khi mật độ
cao.
1.4.2 Số hạt/bông
Số hạt trên bông là yếu tố quan trọng thứ hai trong các yếu tố cấu thành năng
suất lúa. Số hạt trên bông được quyết định từ lúc tượng cổ bông đến 5 ngày trước

khi trổ, nhưng quan trọng nhất là thời kỳ phân hóa hoa và giảm nhiễm tích cực
(Nguyễn Ngọc Ðệ, 2009). Số hạt trên bông tùy thuộc vào hai yếu tố quan trọng là số
hoa bị thoái hóa và số hoa được phân hóa. Trong thời kỳ phân hóa này, số hạt trên
bông có ảnh hưởng thuận với năng suất lúa do ảnh hưởng đến số hoa được phân
hóa. Sau giai đoạn này số hạt trên bông đã hình thành có thể bị thoái hóa và có ảnh
hưởng âm. Số hoa được phân hóa và số hoa bị thoái hóa chịu ảnh hưởng bởi giống
lúa, kỹ thuật canh tác và điều kiện thời tiết. Theo Nguyễn Ngọc Ðệ (2009), số hạt
trên bông ở các giống lúa cải thiện ở ÐBSCL phải đạt từ 80 - 100 hạt đối với lúa sạ
và 100 - 120 hạt đối với lúa cấy.
Số hạt trên bông nhiều hay ít tùy thuộc vào số gié, hoa phân hóa cũng như số
gié, hoa thoái hóa. Các quá trình này nằm trong thời kỳ sinh trưởng sinh dục từ lúc
làm đòng đến trổ bông (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).


11
1.4.3 Tỷ lệ hạt chắc
Tỷ lệ hạt chắc được quyết định từ đầu thời kỳ phân hóa đòng đến khi lúa vào
chắc nhưng quan trọng nhất là các thời kỳ phân bào giảm nhiễm, trổ bông, phơi
màu, thụ phấn, thụ tinh và vào chắc. Tỷ lệ hạt chắc tùy thuộc vào số hoa trên bông,
đặc tính sinh lý của cây lúa và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện ngoại cảnh, thường
số hoa trên bông quá nhiều sẽ dẫn đến tỷ lệ hạt chắc thấp. Các giống lúa có khả
năng quang hợp, tích lũy và chuyển vị các chất mạnh, cộng với cấu tạo mô cơ giới
vững chắc không đỗ ngã sớm, lại trổ và tạo hạt trong điều kiện thời tiết tốt, dinh
dưỡng đầy đủ thì tỷ lệ hạt chắc sẽ cao và ngược lại. Muốn có năng suất cao tỷ lệ hạt
chắc phải trên 80% (Nguyễn Xuân Trường, 2004).
Khi xét mối quan hệ nguồn và sức chứa, số hạt chắc trên bông ảnh hưởng
đến năng suất thực tế (Phạm Văn Chương, 2002). Kết quả phân tích hệ số tương
quan Path năng suất và thành phần năng suất cho thấy khi gia tăng mật độ gieo sạ
thì số hạt chắc/bông giảm và làm giảm tỷ lệ hạt chắc (Trần Thị Ngọc Huân và ctv.,
1999). Nguyễn Ngọc Đệ (2009) cho rằng: “tỷ lệ hạt chắc tùy thuộc vào đặc tính sinh

lý của cây lúa và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện ngoại cảnh”.
Tỷ lệ hạt chắc ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: phân bón, nhiệt độ, mưa gió
và hạn hán. Đối với mỗi giống có yêu cầu về lượng phân bón nhất định. Nhiệt độ
trên 20
0
C nếu duy trì liên tục từ lúc lúa làm đòng đến trổ bông hoặc nhiệt độ cao
trên 35
0
C sau khi lúa trổ xong đều làm giảm tỷ lệ hạt chắc. Gió, mưa và bão làm
ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn, thụ tinh và gây đỗ ngã làm ảnh hưởng đến tỷ lệ
hạt chắc. Ngoài ra, hạn hán làm thiếu nước tưới của một số vùng cũng làm giảm tỷ
lệ hạt chắc nhất là khi cây lúa vừa trổ xong và bắt đầu ngậm sữa (Lê Hữu Toàn,
2009). Tỷ lệ hạt chắc là kết quả của quá trình thụ phấn và thụ tinh trong môi trường.
Và thành phần này chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố môi trường vào khoảng thời
gian trước, trong và sau trổ.
1.4.4 Trọng lượng 1000 hạt
Trọng lượng hạt được quyết định ngay từ thời kỳ phân hóa hoa đến khi lúa
chín, nhưng quan trọng nhất là các thời kỳ giảm nhiễm tích cực và vào chắc rộ.
Trọng lượng hạt tùy thuộc vào cỡ hạt và độ mẩy (no đầy) của hạt lúa. Đối với lúa,
người ta thường biểu thị trọng lượng hạt bằng trọng lượng của 1000 hạt với đơn vị
là gram. Ở phần lớn các giống lúa, trọng lượng 1000 hạt thường biến thiên tập trung
trong khoảng 20 – 30 gram (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Trọng lượng 1000 hạt ít chịu tác động của môi trường và có hệ số di truyền
cao. Nó phụ thuộc hoàn toàn vào giống. Trọng lượng 1000 hạt của một giống giữ ổn
định không có nghĩa là từng hạt có khối lượng như nhau, chúng thay đổi trong một
giới hạn nhất định nhưng có giá trị trung bình luôn ổn định. Trọng lượng 1000 hạt

×