Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

đánh giá khả năng thay thế đạm bột cá bằng đạm bột rong mền (cladophoraceae) làm thức ăn cho cá kèo (pseudapocryptes elongatus)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.66 KB, 36 trang )



2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN




ĐỖ QUỐC TRUNG






ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THAY THẾ ĐẠM BỘT CÁ BẰNG
ĐẠM BỘT RONG MỀN (Cladophoraceae) LÀM THỨC ĂN
CHO CÁ KÈO (Pseudapocryptes elongatus)








LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH SINH HỌC BIỂN












2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN




ĐỖ QUỐC TRUNG




ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THAY THẾ ĐẠM BỘT CÁ BẰNG
ĐẠM BỘT RONG MỀN (Cladophoraceae) LÀM THỨC ĂN
CHO CÁ KÈO (Pseudapocryptes elongatus)









LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH SINH HỌC BIỂN






CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Ts. Nguyễn Thị Ngọc Anh


i

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập tại trường, với những điều kiện học tập, nghiên cứu thuận lợi
đã giúp em hoàn thành tốt chương trình học của mình. Em xin chân thành cảm ơn Ban
chủ nhiệm Khoa, Trường Đại Học Cần Thơ. Cảm ơn các thầy cô đã hướng dẫn và
truyền đạt nhiều kiến thức quý báu làm hành trang và là nền tảng vững chắc cho em
trong tương lai.
Em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Ngọc Anh đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo
giúp em hoàn thành bài luận văn này. Xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể các bạn lớp
Sinh Học Biển K36 giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Em xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên cho em vượt qua khó khăn
trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tuy vậy, do kiến thức còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót, em rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Quý thầy cô và các bạn để luận văn hoàn
thiện hơn.

Chân thành cảm ơn !




ii

TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá khả năng sử dụng rong mền
(Cladophoraceae) làm thức ăn cho cá kèo (Pseudapocryptes elongatus). Thí nghiệm
gồm có 6 nghiệm thức, nghiệm thức thức ăn đối chứng không chứa đạm rong mền, 5
nghiệm thức còn lại có đạm bột cá được thay thế bằng đạm bột rong mền với các tỉ lệ
khác nhau: 10%, 20%, 30%, 40% và 50% trong thức ăn cho kèo. Tất cả các loại thức
ăn thí nghiệm có cùng hàm lượng protein (30%) và lipid (7%). Mỗi nghiệm thức được
lặp lại 3 lần với khối lượng cá trung bình ban đầu là 2,18 g được nuôi trong bể nhựa
70-L với mật độ 20 cá thể/bể ở độ mặn 10‰. Cá được cho ăn thỏa mãn 2 lần/ngày
trong thời gian 45 ngày.
Khi kết thúc thí nghiệm, tỉ lệ sống của cá kèo không bị ảnh hưởng bởi nghiệm
thức thức ăn dao động từ 93,3 đến 100%. Mặc dù tốc độ tăng trưởng của cá kèo giảm
theo mức tăng đạm rong mền trong khẩu phần ăn, nhưng không có sự khác biệt thống
kê (P>0,05) ở mức thay thế đạm rong mền từ 10% đến 30% và thức ăn đối chứng.
Ngoài ra, hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) tăng cao và hiệu quả sử dụng protein (PER)
giảm thấp theo mức tăng protein rong bún trong thức ăn, có sự khác biệt giữa nghiệm
thức đối chứng và nghiệm thức 40%, 50%ĐRM.





iii


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i
TÓM TẮT ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG v
Phần 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Giới thiệu 1
1.2 Mục tiêu đề tài 2
1.3 Nội dung đề tài 2
1.4 Thời gian thực hiện 2
Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1 Giới thiệu chung về rong mền 3
2.1.1 Đặc điểm phân loại 3
2.1.2 Hình thái 3
2.1.3 Phân bố 3
2.1.4 Thành phần sinh hóa 4
2.2 Một số ứng dụng rong biển làm thức ăn cho nuôi trồng thủy sản 5
2.3 Giới thiệu chung về cá kèo 7
2.3.1 Đặc điểm phân loại 7
2.3.2 Đặc điểm hình thái 7
2.3.3 Phân bố 8
2.3.4 Môi trường sống 8
2.3.4 Đặc điểm dinh dưỡng 8
2.5 Một số nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng của cá kèo 9
2.4 Một số nghiên cứu tình hình nuôi cá kèo ở Việt Nam 9
2.6 Các nguyên liệu được dùng phối chế trong thức ăn thí nghiệm 10
Phần 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 12



iv

3.1 Vật liệu nghiên cứu 12
3.1.1 Vật liệu hóa chất bố trí thí nghiệm 12
3.1.2 Nguồn rong mền, cá kèo 12
3.2 Phương pháp nghiên cứu 12
3.2.1 Xây dựng công thức thức ăn 12
3.2.2 Phương pháp bố trí thí nghiệm 14
3.3 Thu thập số liệu 16
3.4 Phương pháp tính toán số liệu 16
3.5 Phương pháp xử lý số liệu 16
Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 17
4.1 Các yếu tố môi trường 17
4.2 Ảnh hưởng của thức ăn thay thế đạm bột cá bằng đạm bột rong mền đến tỉ lệ
sống của cá kèo. 19
4.3 Hiệu quả sử dụng thức ăn cá kèo 22
Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 25
5.1 Kết luận 25
5.2 Đề xuất 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26









v


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Thành phần sinh hóa (% vật chất khô) của Cladophoraceae trong thí
nghiệm ảnh hưởng kết hợp của cường độ ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn khác nhau 11
Bảng 2.2 Thành phần acid amin của rong mền thu ở Bạc Liêu 11
Bảng 3.1 Thành phần sinh hóa của nguyên liệu (% khối lượng khô) 19
Bảng 3.2 Thành phần nguyên liệu trong các nghiệm thức (% khối lượng khô 19
Bảng 3.3 Thành phần sinh hóa thức ăn thí nghiệm (% khối lượng khô) 20
Bảng 4.1 Nhiệt độ và pH trung bình trong thời gian thí nghiệm 23
Bảng 4.2 Hàm lượng NH4+/NH3 (TAN) và NO2
-
của thí nghiệm 24
Bảng 4.3 Tăng trưởng về khối lượng của cá kèo 26
Bảng 4.4 Tốc độ tăng trưởng về chiều dài của cá kèo 27
Bảng 4.5 Hiệu quả sử dụng thức ăn của cá kèo 29

DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1 Cá kèo (Pseudapocryptes elongatus) 13
Hình 3.1 Sơ đồ sản xuất thức ăn viên thí nghiệm 20
Hình 3.2 Mô hình thí nghiệm 21
Hình 4.1 Tỷ lệ sống cá kèo sau 45 ngày nuôi 25




1

Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ


1.1 Giới thiệu
Ở đồng bằng sông Cửu Long, tình hình nuôi thủy sản nước lợ mặn có xu hướng tăng
với sản lượng tăng từ 224.183 tấn lên 3.112.000 tấn trong giai đoạn 2001-2012, đạt
1.425.100 tấn trong 6 tháng đầu năm 2013 và đa dạng hóa các đối tượng nuôi. Bên cạnh
các đối tượng nuôi phổ biến thì cá kèo (Pseudapocryptes elongates) cũng đang được phát
triển mạnh, diện tích nuôi tăng từ năm 2006 từ 350 ha đã tăng lên 1200 ha vào năm 2011
(Duy Đoàn, 2012). Hiện nay, nhiều hình thức nuôi cá kèo được người dân ứng dụng tùy
vào điều kiện canh tác như quảng canh, thâm canh, nuôi luân canh với tôm, nuôi trong
ruộng muối… cùng với kỹ thuật nuôi đơn giản và ít dịch bệnh. Nghề nuôi cá kèo đã trở
thành hướng đi triển vọng đối với nghề nuôi, thay thế cho con tôm nhiều rủi ro (Duy Đoàn,
2012).
Đối với những mô hình nuôi cá kèo sử dụng thức ăn nhân tạo, chi phí thức ăn chiếm tỉ
lệ cao tới 57,8% với mô hình nuôi mật độ cao và 28,3% với mô hình nuôi mật độ thấp
(Trương Hoàng Minh và Nguyễn Thanh Phương, 2011). Một giải pháp nhằm giảm chi phí
thức ăn là tìm ra một số nguồn đạm thực vật rẽ tiền và sẵn có để thay thế nguồn đạm bột
cá. Nhiều nghiên cứu đã tìm các loại thức ăn có nguồn gốc thực vật (thực vật thủy sinh,
rong biển…) ở địa phương để bổ sung hoặc thay thế một phần thức ăn thương mại trong
nuôi các loài tôm, cá có tính ăn thiên về thực vật (Cruz-Suárez et al., 2008; FAO, 2009).
Rong mền (Cladophoraceae) là họ rong lục, hiện diện phổ biến ở vùng ĐBSCL, có hàm
lượng đạm khá cao (10,9 đến 25,4%) có thể làm thức ăn cho cá, tôm (Nguyễn Hoàng Duy,
2011). Tuy nhiên khi rong mền phát triển quá mức ảnh hưởng đến hoạt động sống của tôm,
cá, hấp thụ các chất dinh dưỡng trong nước làm cho tảo trong ao khó phát triển, gây biến
động các yếu tố môi trường nước như pH, ô-xy, sau khi rong chết và nổi lên mặt nước, xác
rong sẽ phân hủy sinh ra khí độc, gây ô nhiễm môi trường ao nuôi (Nguyễn Văn Tròn,
2011).
Nghiên cứu khác báo cáo rằng loài rong mền, Cladophora glomerata có thể làm nguồn
đạm thay thế một phần bột cá trong thức ăn viên cho cá rô phi, khi thay thế 50% bột cá
bằng bột rong mền tăng trưởng của cá rô phi không khác biệt so với nhóm đối chứng (thức
ăn chỉ chứa đạm bột cá) và khả năng tiêu hóa protein rong mền đạt 93,9% (Appler and

Jauncey, 1983).


2

Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy đạm rong mền có thể thay thế 30% đạm bột cá
trong khẩu phần ăn cho cá tai tượng (Osphronemus goramy) giống (Nguyễn Thị Ngọc Anh
và ctv., 2013). Từ những vấn đề trên, đề tài “Đánh giá khả năng thay thế đạm bột cá bằng
đạm bột rong mền (Chladophoracae) làm thức ăn cho cá kèo (Pseudapocryptes elongatus)”
được thực hiện.
1.2 Mục tiêu đề tài
Xác định mức thay thế đạm bột cá bằng đạm bột rong mền thích hợp trong phối chế
thức ăn cho cá kèo. Kết quả có thể khuyến khích các hộ dân tận dụng nguồn rong mền làm
thức ăn cho tôm, cá nâng cao thu nhập.
1.3 Nội dung đề tài
Ảnh hưởng của các mức thay thế đạm bột cá bằng đạm bột rong mền trong thức ăn lên
tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá kèo giống.
1.4 Thời gian thực hiện
Đề tài được thực hiện từ tháng 9/2013 đến 11/2013



3

Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1 Giới thiệu chung về rong mền
2.1.1 Đặc điểm phân loại
Rong mền thuộc họ rong lục có nhiều giống loài và được phân loại như sau: (Nguyễn

Văn Tiến, 2007).
Ngành: Chlorophyta
Lớp: Ulvophyceae
Bộ: Cladophorales
Họ: Cladophoraceae
Giống: Chaetomorpha
Aegagropila
Rhizoclonium
Wittrockiella
Spongiochrysis
Chladophora
Sự phân loại các giống Cladophora rất khó. Sự phân loại có thể được định danh rõ bằng
cách nuôi trồng đồng thời các loài được biết và nguồn giống thu từ tự nhiên ở cùng điều
kiện nuôi. Điều này có thể loại trừ sự khác nhau về kiểu sinh thái theo hình thái học.
2.1.2 Hình thái
Rong mền có dạng sợi, chia nhánh nhiều bậc theo kiểu mọc đối, chạc hai, chạc ba, hay
tạo thành hình lược, hình chùm và có màu xanh đậm. Bám bằng tế bào gốc hay bằng rễ giả
mọc từ gốc hay rải rác trên khắp sợi. Tế bào hình trụ, hay bầu dục, có nhiều hạt thể sắc tố
nhỏ dạng đĩa nhưng liên kết thành dạng lưới hay hình thấu kính; có 1 hạt tạo bột. Rong
mền có màu lục, kích thước tùy loài từ 4 – 20 cm (Nguyễn Văn Tiến, 2007).
2.1.3 Phân bố
Nghiên cứu sinh thái học rong mền Cladophora spp. của Dodds and Gudder (1992),
rong mền được tìm thấy ở các thủy vực nước mặn, lợ và ngọt. Cladophora spp. chủ yếu
sống ở đáy thủy vực và thường thấy ở những vùng có dòng chảy một hướng hoặc hoạt động


4

sóng theo chu kỳ, đáy các thủy vực nước tĩnh từ các ao hồ tự nhiên cho đến các ao đầm
quảng canh. Là loài phát triển nối tiếp giữa-sau trong thủy vực nước ngọt nơi chúng chịu

được các loài ăn thực vật. Ở Việt Nam, rong mền phân bố ở Quảng Ninh, Thanh Hóa, Hải
Phòng, Hà Tĩnh, Bà Rịa-Vũng Tàu (Nguyễn Văn Tiến, 2007) và các thủy vực nước lợ
Đồng bằng Sông Cửu Long (Nguyễn Hoàng Duy, 2011).
Kết quả khảo sát rong bún ở các thủy vực nước lợ của tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và Bến
Tre của Nguyễn Văn Luận (2011) cho thấy rằng rong mền thường xuất hiện đồng thời với
rong bún hoặc xen kẻ nối tiếp nhau, khi nhiệt độ và độ mặn cao rong mền chiếm ưu thế
hơn các loài rong khác cùng hiện diện trong thủy vực.
2.1.4 Thành phần sinh hóa
Nhiều báo cáo về giá trị dinh dưỡng của Cladophoraceae cho thấy rằng chúng có hàm
lượng protein và carotenoids cao đáng kể, rất cần thiết cho dinh dưỡng của động vật và cá,
tôm (Khuantrairong & Traichaiyaporn, 2009; Traichaiyaporn et al., 2010). Maddi et al.
(2011) báo cáo rằng rong Cladophora, thu thập từ hồ Erie (New York, Mỹ) có thành phần
sinh hóa gồm carbohydrates 24,8%, chất béo 5,8%, protein 24,6%, và 13,3% tro theo khối
lượng khô.
Trong thí nghiệm của Khuantrairong et al. (2011) về sinh trưởng của Clorophyta sp.
trong môi trường có bổ sung hàm lượng phospho khác nhau cho thấy Cladophoraceae có
hàm lượng protein từ 10,71-17,69%, lipid từ 2,04-2,56%, carbohydrate từ 52,54-60,98%.
Thành phần dinh dưỡng của rong mền Cladophoraceae chịu ảnh hưởng của các yếu tố
môi trường như độ mặn, nhiệt độ, hàm lượng chất dinh dưỡng trong nước (Dere et al.,
2003; Banerjee et al., 2009; Trương Tài Nhân, 2011).
Trương Tài Nhân (2011) nghiên cứu ảnh hưởng kết hợp của cường độ ánh sáng, nhiệt
độ và độ mặn đến thành phần sinh hóa của rong mền (Cladophoraceae). Kết quả cho thấy
hàm lượng protein của rong mền (được thu từ ao quảng canh Bạc Liêu) trước khi thí nghiệm
có hàm lượng protein 14,86%. Sau khi thí nghiệm, protein của rong mền ở tất cả các nghiệm
thức tăng cao (24,03-29,38%) do ở điều kiện thí nghiệm nguồn dinh dưỡng được cấp vào
trong bể nuôi rong là dung dịch walne có hàm lượng muối đạm cao.



5


Bảng 2.1: Thành phần sinh hóa (% vật chất khô) của Cladophoraceae trong thí nghiệm ảnh
hưởng kết hợp của cường độ ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn khác nhau

Tỉ lệ tươi/khô
Protein
Lipid

NFE
Tro
Trước thí nghiệm
33,11
14,86
1,76
15,97
34,29
50,26
Sau thí nghiệm






Rong mền nuôi ngoài trời
T
o
thường + 25ppt
23,70
29,24

2,95
7,55
36,56
44,10
32
o
C + 5ppt
26,62
27,57
2,06
9,07
34,69
43,76
32
o
C + 25ppt
25,89
28,47
1,61
8,15
35,87
44,02
Rong mền nuôi trong phòng
T
o
phòng + 5ppt
25,78
29,38
2,36
13,66

28,82
42,48
32
o
C + 15ppt
26,74
24,03
1,84
11,83
35,55
47,38
32
o
C + 25ppt
25,66
23,25
2,22
13,83
35,04
48,87
Theo Trương Tài Nhân (2011). *NFE (Dẫn xuất không đạm) gồm tinh bột, đường, pectine, carbohydrate
hòa tan.
Kết quả phân tích thành phần acid amin của rong mền thu Cladophoraceae được thu ở
ao quảng canh Bạc Liêu cho thấy một số acid amin thiết yếu như Phenylalanine, Leucine
và Lysine có hàm lượng khá cao (Bảng 2.2).
Bảng 2.2: Thành phần acid amin của rong mền thu ở Bạc Liêu
STT
Acid amin thiết
yếu
Hàm lượng

(mg/gDW)
Acid amin không
thiết yếu
Hàm lượng
(mg/gDW)
1
Arginine
1,00
Alanine
3,78
2
Histidine
2,66
Aspartic acid
6,67
3
Isoleucine
1,39
Cystine
0,34
4
Leucine
3,01
Glycine
3,25
5
Lysine
3,37
Glutamic acid
6,93

6
Methionine
1,39
Proline
2,57
7
Phenylalanine
5,25
Serine
1,97
8
Threonine
2,70
Taurine
0,08
9
Valine
3,88
Tyrosine
2,52
10
Tryptophan
0,76
Ornithine
0,57
Theo Nguyễn Hoàng Duy (2011)
2.2 Một số ứng dụng rong biển làm thức ăn cho nuôi trồng thủy sản
Nhiều nghiên cứu báo cáo rằng khả năng sử dụng rong biển làm thức ăn cho các loài
thủy sản nuôi tùy thuộc vào từng loài, tập tính ăn của loài, giai đoạn phát triển và tùy vào



6

loại rong sử dụng trong thức. Những loài cá có tính ăn thiên về thực vật có khả năng sử
dụng hiệu quả thức ăn rong tảo hơn những loài cá ăn động vật ăn (FAO, 2003; El-Tawil,
2010).
Nghiên cứu của Appler and Jauncey (1983) báo cáo rằng loài rong mền, Cladophora
glomerata có thể thay thế 50% bột cá bằng bột rong mền trong thức ăn cho cá rô phi, tăng
trưởng của cá không khác biệt so với nhóm đối chứng (thức ăn chỉ chứa đạm bột cá) và
khả năng tiêu hóa protein rong mền đạt 93,9%.
Wassef et al. (2001), đánh giá ảnh hưởng các mức bổ sung bột rong lục (Ulva sp.) khác
nhau (10, 15, 20 và 25%) vào khẩu phần ăn đến tăng trưởng, tỉ lệ sống của cá cá đối (Mulgil
cephalus). Tác giả báo cáo rằng bổ sung bột rong Ulva không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống.
Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá đối tốt nhất ở nghiệm thức 20% bột
rong Ulva.
Nghiên cứu của Asino et al. (2010) sử dụng rong bún Enteromorpha prolifera bổ sung
ở các mức từ 0, 5, 10, 15% trong thức ăn cho cá đù vàng Pseudosciaena crocea cho thấy
tốc độ tăng trưởng đặc biệt (SGR) tăng theo mức tăng Enteromorpha trong thức ăn. Tác
giả nhận thấy có thể bổ sung ở mức 15% E. prolifera vào khẩu phần ăn không ảnh hưởng
đến tăng trưởng của cá.
Nghiên cứu khác thực hiện trên cá rô phi Oreochromis sp. với các mức bổ sung rong
Ulva sp. từ 0, 5, 10, 15, 20, 25% khẩu phần ăn cho thấy tốc độ tăng trưởng của cá tăng ở
thức ăn bổ sung từ 0-15% Ulva trong khẩu phần. Tuy hiệu quả sử dụng protein của cá ở
nghiệm thức 10 đến 20% Ulva đạt từ 2,51 đến 2,58 cao hơn có ý nghĩa so với đối chứng
(PER=2,4) nhưng tăng trưởng của cá ở nghiệm thức 20% Ulva có xu hướng giảm. Do đó,
tác giả khẳng định 15% Ulva là khẩu phần ăn tối ưu không ảnh hưởng đến tăng trưởng, hệ
số thức ăn, tỷ lệ sống và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá (El-Tawil, 2010).
So sánh hiệu quả sử dụng 4 loại rong: E. intestnalis, Grateloupia filicina, Gracilaria
verrucosa, Polysiphonia sertularioides với tỷ lệ 30% trong thức ăn cá Rohu (Labeo rohita)
và cá Mrigal (Cirrihinus mrigala) giai đoạn giống, Swain và Padhi (2011) nhận thấy cá ăn

thức ăn có bổ sung rong đều cho tăng trưởng tốt hơn đối chứng.
Nguyễn Thị Tý Nị (2012) nghiên cứu đánh giá khả năng thay thế đạm bột cá bằng đạm
bột rong bún (Enteromorpha intestinalis) với các mức 10%, 20%, 30%, 40%, 50% trong
thức ăn cho cá nâu (Scatophagus argus) giống, tác giả cho rằng có thể thay thế đến 40%
đạm bột cá bằng đạm rong bún cho tăng trọng khác biệt không có ý nghĩa so với đối chứng.


7

Theo Costa et al. (2013) nghiên cứu sử dụng rong nâu (Ascophyllum nodosum) trong
ương cá rô phi giống cho rằng bột rong nâu là một bổ sung có tiềm năng sử dụng cho cá rô
phi trong giai đoạn giống ở mức 20g/kg thức ăn sẽ cải thiện được hệ số chuyển đổi thức ăn
và sản lượng thịt.
Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy đạm rong bún hoặc mền thay đạm bột cá ở các tỉ
lệ 15, 30 và 45% trong khẩu phần ăn cho cá tai tượng (Osphronemus goramy) giống. Kết
quả sau 8 tuần nuôi, tỉ lệ sống không bị ảnh hưởng bởi nghiệm thức thức ăn và tăng trưởng
của cá ở nghiệm thức thay thế 45% đạm rong bún và 30% đạm rong mền khác biệt không
có ý nghĩa so với nhóm đối chứng (Nguyễn Thị Ngọc Anh và ctv., 2013).
2.3 Giới thiệu chung về cá kèo
2.3.1 Đặc điểm phân loại
Theo Murdy and Larson (2001) cá kèo là loài cá nước lợ, thuộc họ cá Bống.
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Gobiidae
Giống: Pseudapocryptes (Bleeker, 1874)
Loài: Pseudapocryptes elongatus (Cuvier, 1816)




(Nguồn:
Hình 2.1: Cá kèo (Pseudapocryptes elongatus)
2.3.2 Đặc điểm hình thái
Cá kèo đầu nhỏ, hình chóp, mõm tù hướng xuốn phía dưới. Miệng hẹp có nhiều răng,
không có râu. Dưới mõm có hai mép râu nhỏ phủ lên môi trên. Mắt nhỏ và tròn nằm gần
phía đỉnh của đầu. Hai vây lưng rời nhau. Hai vây bụng dính với nhau. Vây đuôi dài và
nhọn.Thân cá hình trụ dài, dẹp dần về phía đuôi, có màu ửng vàng, nửa trên của thân có
chừng 7-8 sọc đen hướng hơi xéo về phía trước, các sọc này rõ dần về phía đuôi (Jenkins
et al., 2009)


8

2.3.3 Phân bố
Cá kèo (P. elongatus) là loài phân bố ở vùng cửa sông, bãi bồi và vùng triều ở các nước
Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
(Rainboth, 1996; trích dẫn bởi Trương Hoàng Minh và Nguyễn Thanh Phương, 2011) và
là 1 trong 34 loài thuộc họ cá Bống (Gobiidae) phân bố ở Đông và Tây Phi, các đảo Nam
Thái Bình Dương và miền nam nước Úc (Murdy, 1989; trích dẫn bởi Trương Hoàng Minh
và Nguyễn Thanh Phương, 2011).
Ở Việt Nam chúng sinh sống ở những bãi bùn ven biển, cửa sông và vùng triều ở
và phổ biến ở ĐBSCL (Trương Hoàng Minh và ctv., 2011).
2.3.4 Môi trường sống
Nghiên cứu của Takita et al. (1999) cho rằng: các loài cá thuộc họ cá bống có khả năng
chịu đựng độ mặn cao. Điều này được Bucholtz et al. (2009) khẳng định rằng cá kèo là loài
rộng muối, có thể sống từ 0 - 50‰. Võ Văn Dự (2007) nhận định cá thích hợp với độ mặn
5 - 10‰, tương tự như kết luận của Trần Trường Giang (2009) về cá kèo khi sống ở độ
mặn 10‰ thì tăng trưởng chiều dài, khối lượng cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê
(P < 0,05) với các độ mặn 0, 20, 30‰. Là loài cá vùng nhiệt đới nên nhiệt độ thích hợp
với cá kèo khoảng 23-28

o
C (Baensch et al., 1995), thực tế cá sống tốt ở 27-33
o
C. Môi
trường sống của cá thường có pH 6,5-8; DO 2-4mg/l. Cá có tập tính chui rúc trong bùn tìm
thức ăn nên thích hợp với nền đáy bùn, bùn cát.
2.3.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá kèo có ruột ngắn và là loài ăn tạp. Thức ăn trong tự nhiên là tảo, mùn bã hữu cơ,
ấu trùng muỗi lắc, côn trùng thủy sinh, luân trùng, các loại giáp xác và động vật đáy khác.
Kết quả nghiên cứu của Trần Đắc Định và ctv. (2002) thì cá kèo có tính ăn thiên về thực
vật vì tỉ lệ giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Lc) là 3,27. Thành phần thức ăn của
chúng khá phong phú, khi phân tích thành phần thức ăn trong dạ dày cá cho thấy tảo khuê,
tảo lam và mùn bã hữu cơ là 3 loại thức ăn có tần số xuất hiện cao nhất trong đó tảo khuê
(Bacillariophyta) chiếm tỉ lệ cao nhất (83,1%), kế đến là mùn bã hữu cơ (14,9%) và tảo
lam (2,03%). Động vật phiêu sinh cũng được phát hiện trong ống tiêu hóa nhưng với tỉ lệ
rất thấp như: Copepoda (0,06%), Cladocera (0,03%). Nghiên cứu gần đây cho thấy, cá kèo
là loài ăn thực vật và thức ăn chính là tảo sống đáy, với 93% trong khẩu phần ăn của cá
trong mùa khô (Bucholtz et al., 2009).


9

2.5 Một số nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng của cá kèo
Thí nghiệm xác định nhu cầu protein cá kèo ở 2 mức năng lượng khác nhau là 18kJ/g
và 20kJ/g của Dương Kim Loan (2010) cho thấy tốc độ tăng trưởng của cá tăng theo mức
protein ở 18kJ/g và ở mức năng lượng 20kJ/g tốc độ này tăng đến mức protein là 35% sau
đó giảm ở 40 và 45% protein. Tác giả cũng nhận định rằng nhu cầu protein và mức năng
lượng thích hợp cho cá kèo giống cỡ 3-4 g sinh trưởng tối đa là 37,7% protein với mức
năng lượng 20kJ/g, khoảng thích hợp cho cá sinh trưởng tốt nhất là 35% đến 37% protein
ở mức năng lượng tương tự. Hiệu quả sử dụng protein (PER) của cá cao nhất ở nghiệm

thức thức ăn 30% đạm, 18kJ/g và 35% đạm, 20kJ/g.
Theo Nình Thành Đức (2006) nhận định cá kèo giai đoạn 1 (chiều dài trung bình
3,5 cm, khối lượng trung bình 0,4g) ăn thức ăn có mức năng lượng 4,2Kcal/g thì tỷ lệ
protein trong thức ăn từ 37% - 49% (protein động vật chiếm 69% protein tổng số) là khoảng
protein đảm bảo cho sự tăng trưởng tối đa của cá, sự tăng trưởng tối ưu nhất xác định ở
mức protein 42,42%.
Nghiên cứu về nhu cầu duy trì và hiệu quả sử dụng protein, năng lượng của cá kèo
cho thấy cá có độ tiêu hóa protein và năng lượng lần lượt là 87% và 74,1%. Tốc độ tăng
trưởng tương đối (SGR) của cá có khối lượng 6,67 g đạt cao nhất 1,76 %/ngày ở mức cho
ăn 3,68% khối lượng cá/ngày (Phan Thị Thúy An, 2012)
2.4 Một số nghiên cứu tình hình nuôi cá kèo ở Việt Nam
Mô hình thực nghiệm nuôi cá kèo của Dương Nhựt Long và ctv. (2005). Với hai
nghiệm thức mật độ: 10 và 20 con/m
2
(nghiệm thức I và II) được thực hiện trong 6 ao tại
tỉnh Bến Tre từ 8/2004 – 8/2005. Tăng trọng của cá ở nghiệm thức II sau 15 ngày (0,17 –
0,22 g/ngày) cao hơn so với cá ở nghiệm thức I ( 0,09 – 0,18 g/ngày). Tuy nhiên 30 - 60
ngày thì sự tăng trọng của cá ở nghiệm thức I tăng cao hơn so với cá nuôi ở nghiệm thức
II. Nghiệm thức I tỉ lệ sống bình quân là 18,6% và năng suất đạt được là 363 kg/ha, ngược
lại ở nghiệm thức II, tỉ lệ sống là 23,4% và năng suất cá là 951 kg/ha. Lợi nhuận bình quân
từ mô hình nuôi cá kèo ở nghiệm thức I là 1.742.000 đ/ha, nghiệm thức II là 9.875.000
đ/ha.
Khảo sát về các mô hình nuôi cá kèo ở Sóc Trăng và Bạc Liêu của Trương Hoàng
Minh và Nguyễn Thanh Phương (2011) cho thấy cá kèo thường được thả với 2 nhóm mật
độ 15-20 con/m
2
và 95-100 con/m
2
, năng suất cá nuôi ở mật độ cao đạt (6,4±1 tấn/ha/vụ)
cao hơn so với hộ nuôi cá ở mật độ thấp (0,77±0,3 tấn/ha/vụ). Nuôi cá kèo mang lại lợi

nhuận cao cho nông hộ với 210 triệu đồng/ha/vụ ở nhóm mật độ cao và 17 triệu đồng/ha/vụ


10

ở mật độ thấp. Tuy nhiên nghiên cứu cũng đề cập đến vấn đề bất lợi về kỹ thuật nuôi, tỷ lệ
sống thấp 31% và 21% lần lượt với mật độ cao và thấp, nguồn thức ăn cho cá.
2.6 Các nguyên liệu được dùng phối chế trong thức ăn thí nghiệm
Mặc dù bột cá và bột rong mền được dùng làm nguồn đạm chính trong phối chế
thức ăn. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng đơn thuần một hoặc hai nguyên liệu này thì thức ăn sẽ
không cân bằng về giá trị dinh dưỡng và năng lượng. Do đó, một số nguyên liệu khác phải
được dùng để bổ sung dưỡng chất trong thức ăn.
Bột đậu nành
Bột đậu nành được xem là nguồn đạm thực vật có thể thay thế bột cá trong các khẩu
phần thức ăn cho đông vật thủy sản. Nhiều nghiên cứu cũng cho rằng bột đậu nành có khả
năng thay thế 60-80% bột cá trong các công thức thức ăn. Thành phần của nguyên liệu này
trong các công thức thức ăn là khoảng 25%. Hiện nay, bột đậu nành thường được sử dụng
là bột đậu nành ly trích dầu có hàm lượng đạm 47-50%, lipid không quá 2% (Trần Thị
Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).
Bột mì
Theo Nguyễn Văn Thoa và Bạch Thị Quỳnh Mai (1996) thì bột mì được xem là
nguồn cung cấp chất bột đường và còn chất kích dính tốt trong thức ăn viên, có khoảng 10-
14% hàm lượng protein trong nguyên liệu này. Bột mì được xem là nguồn tinh bột tốt nhất
thường được dung phối chế thức ăn cho tôm cá, và thành phần của nguyên liệu này không
được quá 20% (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).
Dầu
Dầu động và thực vật được xem là nguồn cung cấp năng lượng quan trọng trong
thức ăn cho động vật thủy sản. Ngoài ra nó còn cung cấp các loại acid béo không no cho
tôm cá. Trong thức ăn được bổ sung dầu sẽ có tác dụng tạo mùi kích thích tôm bắt mồi,
chiếm từ 2-3% trong thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Ngoài

ra, Lecithin cũng được bổ sung vào thức ăn thông qua nguồn dầu mực, dầu đậu nành góp
phần làm tăng hàm lượng dinh dưỡng trong thức ăn.
Vitamin
Trong thức ăn cho tôm, cá vitamin chỉ chiếm một lượng nhỏ (1-2%) nhưng có vai
trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất của cơ thể. Vitamin còn có vai trò như là một
co-enzyme hay các tác nhân hổ trợ các enzyme thực hiện các phản ứng sinh hoá trong cơ
thể sinh vật. Trong đó, vitamin C được xác định là rất quan trọng giúp tăng cường sức đề


11

kháng và tạo thành collagen tham gia vào quá trình sinh trưởng và phát triển của động vật
thủy sản. Nếu thức ăn không được bổ sung đủ lượng vitamin dẫn đến tôm, cá sẽ sinh trưởng
chậm, tỉ lệ sống thấp, khả năng chịu đựng với sự biến động của môi trường kém và dễ bị
nhiễm bệnh.
Chất khoáng
Chất khoáng là thành phần cấu tạo của cơ thể của tôm cá, có vai trò là chất xúc tác
trong phản ứng sinh hoá và tham gia cấu tạo máu. Nhu cầu khoáng cho cá là Ca, P, Mn, K,
Cu, Zn…
Chất kết dính
Ngoài tinh bột, chất kết dính được dùng trong thức ăn viên có tác dụng tăng độ kết
dính, làm giảm sự hòa tan các chất dinh dưỡng, tăng độ bền của thức ăn trong môi trường
nước. Một số chất kết dính thường được sử dụng trong thức ăn thủy sản như Gelatin , CMC
(Carboxymethyl cellulose)


12

Phần 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


3.1 Vật liệu nghiên cứu
3.1.1 Vật liệu hóa chất bố trí thí nghiệm
- Bể nhựa 70L
- Các hóa chất: Chlorine, formol thương mại
- Hệ thống máy bơm và sục khí
- Bể composite 1-2 m
3

- Máy đo độ mặn, máy đo nhiệt độ và pH
- Cân đồng hồ, cân điện tử
- Hóa chất phân tích các chỉ tiêu thủy hóa sử dụng bộ Test SERA của Đức
- Máy ép thức ăn viên thủ công
3.1.2 Nguồn rong mền, cá kèo
Rong mền (Cladophoraceae) được thu ở Bạc Liêu, sau đó đem về khoa Thủy Sản Đại
học Cần Thơ xử lý. Quá trình phơi gồm rửa sạch sinh khối bằng nước ngọt và làm ráo
nước, trải thành lớp mỏng (4 - 5 mm) trên giấy báo, phơi trong mát tránh ánh nắng mặt
trời. Sau đó, rong mền khô được xay nhuyễn thành bột, đem phân tích thành phần sinh hóa
để phối chế thức ăn.
Cá kèo (Pseudapocryptes elongatus) từ nguồn giống tại Bạc Liêu được thuần dưỡng
để thích nghi với điều kiện nuôi trong bể và thức ăn thí nghiệm khoảng 1 tuần trước khi bố
trí.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Xây dựng công thức thức ăn
Thức ăn thí nghiệm được phối chế tính theo hàm lượng đạm bột cá đối với hàm lượng
đạm bột rong mền (không tính hàm lượng đạm từ các nguyên liệu khác) trong công thức
thức ăn. Nguyên liệu sử dụng phối chế thức ăn gồm bột cá, bột đậu nành, bột mì, bột rong
mền, cám gạo, dầu mực, Lecithin, Premix-Vitamin, Gelatin làm chất kết dính.



13

Bảng 3.1: Thành phần sinh hóa của nguyên liệu (% khối lượng khô)

Bột cá
Bột rong
mền
Bột đậu nành
Cám gạo
Bột mì
Protein
60,10
22,48
47,33
10,62
6,27
Lipid
7,56
2,47
2,21
10,17
1,64
NFE
11,36
47,37
42,62
57,73
88,54
Tro
20,86

22,41
7,25
18,12
2,41

0,12
5,26
0,58
3,35
1,13
Hàm lượng đạm của thức ăn là 30% dựa trên thí nghiệm của Võ Văn Dự (2007), tác
giả sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm tương đương để nuôi thâm canh cá kèo
(Pseudapocryptes elongatus) trong thí nghiệm về độ mặn và mật độ thích hợp.
Công thức phối chế thức ăn thí nghiệm được tính toán dựa trên chương trình Solver
trong chương trình Excel (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).
Bảng 3.2: Thành phần nguyên liệu trong các nghiệm thức (% khối lượng khô)
Nghiệm thức
0%RM
10%RM
20%RM
30%RM
40%RM
50%RM
Bột cá
25,0
22,5
20,0
17,5
15,0
12,5

Bột rong mền
-
6,69
13,41
20,05
26,73
33,41
Bôt đậu nành
25
25
25
25
25
25
Cám gạo
13,43
15,65
21,02
15,02
12,86
12,37
Bột mì
29,41
23,56
14,34
16,45
14,15
11,15
Dầu mực
2,66

2,10
1,73
1,48
1,75
1,07
Lecithin
0,50
0,50
0,50
0,50
0,50
0,50
Premix-vitamin
2
2
2
2
2
2
Gelatin
2
2
2
2
2
2
Tổng
100
100
100

100
100
100







14












Bảng 3.3: Thành phần sinh hóa thức ăn thí nghiệm (% khối lượng khô)
Nghiệm thức
0%RM
10%RM
20%RM
30%RM
40%RM

50%RM
Độ ẩm
10,93
11,51
12,02
11,49
11,88
11,97
Protein thô
30,87
30,17
30,04
30,21
29,74
29,82
Lipid thô
6,98
6,88
7,01
6,98
7,04
7,23
Tro
21,66
20,81
21,65
20,91
20,18
20,81


2,26
2,72
3,02
3,37
3,68
4,05
NFE
38,22
39,42
38,28
38,53
39,35
38,09
Năng lượng thô
(kcal/g)*
4,01
4,01
3,97
3,98
4,00
3,97
(*): Năng lượng được tính dựa theo: Protein (5,65), lipid (9,45), NFE (4,20)

3.2.2 Phương pháp bố trí thí nghiệm
Hệ thống thí nghiệm
- Thí nghiệm gồm 6 nghiệm thức, mỗi thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên với 3 lần lặp
lại. Thí nghiệm được bố trí trong bể nhựa thể tích 70L/bể. Bể được bố trí trong nhà
có mái che và sục khí liên tục.
Thiết lập công thức
thức ăn

Cân và trộn
đều hỗn hợp
nguyên liệu
khô
Trộn với các nguyên liệu
thể lỏng, sau đó đun
Gelatin với nước sôi trộn
vào hổn hợp
Phơi nắng
3-4 giờ, sàn
tạo viên
Gia ẩm (hàm
lượng nước chiếm
khoảng 30% trong
hỗn hợp thức ăn).
Tạo viên thức
ăn bằng máy
ép thủ công
Bảo quản tủ
đông -15
o
C
Hình 3.1: Sơ đồ sản xuất viên thức ăn thí nghiệm


15

- Cá kèo thí nghiệm có khối lượng ban đầu trung bình là 2,18g, chiều dài 7,47 cm, chọn
cá khỏe, đồng cỡ và không dị tật. Mật độ thả 20 con/bể, ở độ mặn 10‰.


Hình 3.2 Mô hình thí nghiệm
Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm gồm 6 nghiệm thức thức ăn có cùng hàm lượng protein (30%) và lipid
(7%). Protein bột cá được thay bằng protein bột rong bún từ 0-50% trong khẩu phần ăn cá
nâu và được bố trí ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại.
- Nghiệm thức 1 (0%ĐRM): 0% protein rong bún (đối chứng)
- Nghiệm thức 2 (10%ĐRM): đạm rong mền thay thế 10% đạm bột cá
- Nghiệm thức 3 (20%ĐRM): đạm rong mền thay thế 20% đạm bột cá
- Nghiệm thức 4 (30%ĐRM): đạm rong mền thay thế 30% đạm bột cá
- Nghiệm thức 5 (40%ĐRM): đạm rong mền thay thế 40% đạm bột cá
- Nghiệm thức 6 (50%ĐRM): đạm rong mền thay thế 50% đạm bột cá
Chăm sóc quản lý
- Cá kèo thí nghiệm được cho ăn 2 lần/ngày vào 7:00 và 17:00 giờ với mức ban đầu
8 -10% trọng lượng cá/ngày và sau đó có sự điều chỉnh để đảm bảo cá ăn thoả mãn.
Lượng thức ăn cho ăn và lượng thức ăn thừa được ghi nhận hàng ngày. –


16

- Thu thức ăn thừa sau 1,5 giờ cho ăn và sấy khô đến trọng lượng không đổi để xác
định hệ số thức ăn.
- Chế độ thay nước: 7 ngày/lần mỗi lần thay 30-50% và siphon đáy bể 3 ngày/lần.
- Thời gian thí nghiệm được tiến hành trong 45 ngày.
3.3 Thu thập số liệu
- Nhiệt độ và pH được xác định bằng máy đo pH và nhiệt độ 2 lần/ngày vào lúc 7h
và 14h.
- Hàm lượng NO
2
và N-NH
4

+
/NH
3
được xác định 7 ngày/lần bằng bộ test SERA, Đức.
* Các chỉ tiêu đánh giá cá kèo :
- Chiều dài và khối lượng cá ban đầu được xác định bằng cách bắt ngẫu nhiên 30 con cân
và đo từng cá thể để tính giá trị trung bình.
- Khi kết thúc thí nghiệm, cân đo khối lượng cá từng bề.
- 3.4 Phương pháp tính toán số liệu
- Tỷ lệ sống (%) = 100 x (số cá thu hoạch/ số cá thả)
- Tăng trọng (g) = Khối lượng cuối (Wc) – Khối lượng đầu (Wđ)
- Tăng trưởng tuyệt đối (g/ngày) (DWG) = (Wc-Wđ)/ thời gian nuôi
- Tăng trưởng tương đối (%/ngày) (SGR) = 100 x (LnWc – LnWđ)/ thời gian nuôi
- Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) = Tổng lượng thức ăn sử dụng/tăng trọng
- Hiệu quả sử dụng protein (PER) = Tăng trọng/ protein được ăn vào
3.5 Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu về tỉ lệ sống, sinh trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn được tính giá trị trung
bình và độ lệch chuẩn bằng chương trình Excel.
Phân tích thống kê bằng phương pháp One way- ANOVA tìm sự khác biệt giữa các
trung bình nghiệm thức bằng phép thử TURKEY ở mức ý nghĩa (p<0,05) sử dụng phần
mềm SPSS 16.0.



17

Phần 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1 Các yếu tố môi trường

Nhiệt độ
Nhiệt độ của các bể nuôi trong suốt thí nghiệm nhiệt độ biến động không nhiều giữa
buổi sáng và chiều, và không có sự chênh lệch đáng kể giữa các nghiệm thức, dao động
trong khoảng 27 -28,97
o
C (Bảng 4.1). Theo Boyd (1998), nhiệt độ thích hợp cho sự tăng
trưởng của cá, tôm vùng nhiệt đới nằm trong khoảng 25-32
o
C. Như vậy, trong suốt quá
trình thí nghiệm nhiệt độ luôn được duy trì trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của
cá kèo.
Bảng 4.1. Nhiệt độ và pH trung bình trong thời gian thí nghiệm
Nghiệm thức
Nhiệt độ
pH
Sáng
Chiều
Sáng
Chiều
0% RM
27,00 ± 0,54
28,97 ± 0,91
7,38 ± 0,19
8,43 ± 0,39
10% RM
27,00 ± 0,54
28,97 ± 0,92
7,38 ± 0,19
8,43 ± 0,39
20% RM

27,00 ± 0,54
28,97 ± 0,92
7,38 ± 0,19
8,43 ± 0,39
30% RM
27,00 ± 0,54
28,97 ± 0,92
7,38 ± 0,19
8,43 ± 0,39
40% RM
27,00 ± 0,54
28,97 ± 0,92
7,38 ± 0,19
8,43 ± 0,39
50% RM
27,02 ± 0,54
28,97 ± 0,92
7,38 ± 0,19
8,44 ± 0,44
Các giá trị thể hiện trên bảng là giá trị trung bình và độ lệch chuẩn.
pH
pH có sự chênh lệch trong ngày, dao động từ 7,38 – 8,43, pH trong môi trường
không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cá mà còn đến độc tính của NH
3
trong nước. pH môi
trường quá cao hay qua thấp đều ảnh hưởng bất lợi đến sinh trưởng của thủy sinh vật. pH
trong nước phụ thuộc nhiều vào lượng sinh vật phù du, thủy vực có thực vật phù du phát
triển mạnh, sáng sớm pH của nước khoảng 6,5 và buổi trưa có thể đạt 9 – 10 (Trương Quốc
Phú, 2000). Nghiên cứu về ngưỡng chịu đựng pH của cá kèo được thực hiện bởi Phạm Thái
Nguyên (2005) cho thấy ngưỡng pH trên của cá là 11,8 ± 0,3, ngưỡng pH dưới là 2,03 ±

0,11 và khoảng pH 3,0 – 9,5 cá vẫn hoạt động bình thường. Do đó, pH thí nghiệm này là
thích hợp cho cá kèo sinh trưởng.



18

NH
4
+
/NH
3
(TAN)
Amonia được hình thành trong thủy vực từ quá trình phân hủy các mùn bã hữu cơ,
sản phẩm bài tiết của thủy sinh vật, là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ
lệ sống của thủy sinh vật. NH
3
là chất độc đối với cá khi hàm lượng từ 0,6 – 2 mg/L; NH
4
+

tuy không độc nhưng ảnh hưởng đến sinh trưởng thực vật phù du. Độ độc của N-NH
3
còn
phụ thuộc vào hàm lượng Oxy hòa tan và pH (Trương Quốc Phú, 2000).
Bảng 4.2 Hàm lượng NH
4
+
/NH
3

(TAN) và NO
2

của thí nghiệm
Nghiệm thức
NH
4
+
/NH
3
(TAN) (mg/L)
NO
2

(mg/L)
0% RM
1,03±0,44
1,96±0,94
10% RM
0,95±0,54
1,92±0,79
20% RM
1,03±0,72
1,89±0,92
30% RM
0,98±0,64
2,04±1,01
40% RM
0,95±0,54
2,13±1,03

50% RM
0,93±0,54
2,25±1,18
Các giá trị thể hiện trên bảng là giá trị trung bình và độ lệch chuẩn.
NH
4
+
/NH
3
trong thí nghiệm này dao động từ 0,93 đến 1,03 mg/l, đây là hàm lượng
khá cao trong nước , tuy nhiên chỉ tồn tại trong thời gian ngắn do siphon và thay nước định
kỳ nên không ảnh hưởng đến cá. Có thể lý giải do vị trí bố trí thí nghiệm trong nhà có mái
che nên thực vật phù du không phát triển để hấp thu amonia, bên cạnh đó không sử dụng
lọc nước và thức ăn tự chế không đảm bảo được thời gian phân rã trong môi trường.
NO
2

Nitrite trong thủy vực là sản phẩm trung gian của phản ứng nitrite hóa hay phản
nitrate, đây là dạng đạm độc với hầu hết thủy sinh vật. NO
2
khi kết hợp với Hemoglobine
của máu hình thành Methemoglobine ngăn cản kết hợp với oxy làm cá chết ngạt ngay cả
khi trong môi trường có đủ oxy (Trương Quốc Phú, 2000). Độ độc của nitrite phụ thuộc
vào nhiệt độ, oxy hòa tan trong nước và độ mặn. Ở các thủy vực lợ mặn, ion Ca
2+
và Cl
-

khuynh hướng làm giảm tính độc của NO
2

. Theo nghiên cứu của Boyd (1998) hàm lượng
nitrite thích hợp nhất cho cá là dưới 0,5 mg/l (cho phép đến 1,7 mg/l).
Hàm lượng NO
2
trong các bể nuôi dao động trung bình 1,89 – 2,25 mg/L. Trong đó
nghiệm thức 40%RM và 50%RM khá cao hơn các nghiệm thức khác. Tuy nhiên, hàm

×